Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lượng tinh dầu hồi (illicium verum hook.f.) tại lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 109 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM










NGUYỄN MẠNH TƢỜNG





NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT NHẰM NÂNG
CAO NĂNG SUẤT, CHẤT LƢỢNG TINH DẦU HỒI (Illicium
verum Hook.f.) TẠI LẠNG SƠN









LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP











THÁI NGUYÊN, NĂM 2010


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM











NGUYỄN MẠNH TƢỜNG



NGHIÊN CỨU MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT NHẰM NÂNG
CAO NÂNG SUẤT CHẤT LƢỢNG TINH DẦU HỒI (Illicium verum
Hook.f.) TẠI LẠNG SƠN


Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60


LUẬN VĂN
THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. Nguyễn Huy Sơn








Thái Nguyên, năm 2010



Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chƣơng trình đào tạo Cao học Lâm nghiệp khóa học
2008-2010, đồng thời gắn liền giữa cơ sở lý luận và thực tiễn sản xuất,
đƣợc sự đồng ý của Khoa Đào tạo sau đại học - trƣờng Đại học Nông Lâm
Thái Nguyên, tôi thực hiện đề tài tốt nghiệp: “Nghiên cứu một số biện pháp
kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lƣợng tinh dầu hồi (Illicium verum
Hook.f.) tại Lạng Sơn”.
Đề tài luận văn tôt nghiệp này là một trong những nội dung của đề
tài trọng điểm cấp Bộ: “Nghiên cứu chọn lọc, nhân giống sinh dƣỡng cây
Hồi” do TS Hoàng Thanh Lộc làm chủ nhiệm từ 2005 đến 2010 mà tác giả
là cộng tác viên chính của đề tài. Đƣợc sự đồng ý của chủ nhiệm đề tài. Tác
giả đã kế thừa các mô hình cũng nhƣ một số kết quả phân tích để làm cơ sở
hoàn thiện đề tài luận văn này.
Góp phần hoàn thành luận văn tốt nghiệp, tác giả đã nhận đƣợc sự
quan tâm và giúp đỡ tận tình của cán bộ, giáo viên Trƣờng Đại học Nông
Lâm Thái Nguyên, đặc biệt là Khoa Đào tạo sau Đại Học. Nhân dịp này
cho phép tôi đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Ban giám hiệu, Khoa
Đào tạo sau đại học, khoa Lâm nghiệp, các thầy cô giáo Trƣờng Đại học
Nông Lâm Thái Nguyên đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Huy Sơn,
ngƣời đã trực tiếp hƣớng dẫn, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề
tài. Đồng thời, tôi xin cảm ơn sự giúp đỡ và những ý kiến quý báu của TS
Hoàng Thanh Lộc đã chỉ bảo và đóng góp để luận văn đƣợc hoàn thiện
hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của Viện Hoá học các hợp
chất thiên nhiên, Viện Quy hoạch và Thiết Kế Nông nghiệp giúp đỡ tôi
trong quá trình phân tích các chỉ tiêu nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn bạn bè đồng nghiệp và gia đình đã ủng hộ động viên
tôi trong thời gian thực hiện đề tài.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song Luận văn không tránh khỏi những
thiếu sót, rất mong nhận đƣợc các ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo, các
nhà khoa học và các đồng nghiệp để công trình nghiên cứu này đƣợc hoàn
thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn !
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2010
Tác giả
Nguyễn Mạnh Tường


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

ii



ii
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ 1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 3
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƢỚC NGOÀI 4
1.1.1. Những nghiên cứu về phân loại và phân bố 4
1.1.2. Những nghiên cứu về cải thiện giống 6
1.1.3. Những nghiên cứu về nhân giống 6
1.1.4. Những nghiên cứu về kỹ thuật gây trồng 6

1.1.5. Những nghiên cứu về hàm lƣợng, chất lƣợng tinh dầu 7
1.1.6. Những nghiên cứu về giá trị, thị trƣờng 8
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM 10
1.2.1. Nghiên cứu về nguồn gốc, phân loại 10
1.2.2. Những nghiên cứu về hình thái, sinh thái 10
1.2.3. Những nghiên cứu về sinh trƣởng và phát triển 13
1.2.4. Những nghiên cứu về kỹ thuật gây trồng 15
1.2.5. Những nghiên cứu về giống 15
1.2.6. Những nghiên cứu về đặc điểm của tinh dầu Hồi 17
1.2.7. Thực trạng sản xuất và thị trƣờng tiêu thụ 20
Chƣơng II . MỤC TIÊU, NỘI DUNG, ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 25
2.1. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU 25
2.1.1 Mục tiêu chung 25
2.1.2. Mục tiêu cụ thể 25
2.2. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 25
2.2.1. Địa điểm nghiên cứu 25
2.2.2. Đối tƣợng nghiên cứu 26
2.2.3. Giới hạn nội dung nghiên cứu 26
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 27
2.3.1. Nghiên cứu ảnh hƣởng thời điểm thu hái quả và tuổi cây đến hàm lƣợng và chất
lƣợng tinh dầu trong quả 27

iii
2.3.2. Nghiên cứu chọn giống Hồi theo sản lƣợng quả và chất lƣợng tinh dầu 27
2.3.3. Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật ghép Hồi 27
2.3.4. Đánh giá mô hình rừng trồng bằng cây ghép 27
2.3.5. Đề xuất một số biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất và chất lƣợng tinh
dầu hồi. 27
2.4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 29

2.4.1. Phƣơng pháp luận tổng quát 29
2.4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể 29
Chƣơng III . ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, KINH TẾ, XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN
CỨU 36
3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN 36
3.1.1. Vị trí địa lý 36
3.1.2. Điều kiện khí hậu 36
3.1.3. Điều kiện thủy văn 37
3.2. ĐIỀU KIỆN DÂN SINH, KINH TẾ - XÃ HỘI 42
3. 2.1. Điều kiện dân sinh 42
3.2.2. Điều kiện kinh tế 43
3.2.3. Lĩnh vực văn hóa- xã hội 46
3.3. Nhận xét chung 47
Chƣơng IV. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 50
4.1. ẢNH HƢỞNG CỦA THỜI ĐIỂM THU HÁI QUẢ VÀ TUỔI CÂY ĐẾN HÀM
LƢỢNG VÀ CHẤT LƢỢNG TINH DẦU TRONG QUẢ 50
4.1.1. Ảnh hƣởng của thời điểm thu hái quả đến hàm lƣợng và chất
lƣợng tinh dầu 50
4.1.2. Ảnh hƣởng của tuổi cây đến hàm lƣợng tinh và chất lƣợng tinh
dầu 54
4.2. NGHIÊN CỨU CHỌN GIỐNG HỒI THEO SẢN LƢỢNG VÀ CHẤT LƢỢNG
TINH DẦU 57
4.2.1. Xác định lâm phần chọn giống 58
4.2.1.1. Sản lƣợng quả, chỉ tiêu sinh trƣởng tại hai lâm phần dự tuyển . 58
4.2.1.2. Hàm lƣợng tinh dầu của hai lâm phần dự tuyển 61

iv
4.2.1.3. Chất lƣợng tinh dầu tại hai lâm phần dự tuyển 63
4.2.2. Nghiên cứu xác định tƣơng quan giữa một số chỉ tiêu sinh trƣởng
với hàm lƣợng và chất lƣợng tinh dầu. 65

4.2.3. Tuyển chọn cây trội theo sản lƣợng quả, hàm lƣợng tinh dầu và
chất lƣợng tinh dầu 66
4.3. NGHIÊN CỨU BIỆN PHÁP KỸ THUẬT GHÉP HỒI 73
4.3.1. Nghiên cứu ảnh hƣởng của đƣờng kính gốc ghép đến tỷ lệ sống
và sinh trƣởng của chồi ghép 73
4.3.2 Ảnh hƣởng của phƣơng pháp ghép đến tỷ lệ sống và sinh trƣởng
của chồi ghép. 76
4.4. ĐÁNH GIÁ MÔ HÌNH RỪNG TRỒNG BẰNG CÂY GHÉP 78
4.5. ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP KỸ THUẬT 80
Chƣơng V . KẾT LUẬN - TỒN TẠI - KIẾN NGHỊ 84
5.1. KẾT LUẬN 84
5.2. TỒN TẠI 85
5.3. KIẾN NGHỊ 85
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
Tài liệu tiếng Việt 87
Tài liệu nƣớc ngoài 89


















v
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

D
1.3
:
Đƣờng kính đo ở vị trí 1,3m của thân cây
H
vn
:
Chiều cao vút ngọn
Dt:
Đƣờng kính tán
Hdc:
Chiều cao dƣới cành
Dcc:
Đƣờng kính chồi ghép
Hcc:
Chiều cao chồi ghép
r:
Hệ số tƣơng quan
R:
Phạm vi biến động
S
X:

Sai tiêu chuẩn

V%:
Hệ số biến động
X
:
Trung bình mẫu
Min:
Giá trị nhỏ nhất
Max:
Giá trị lớn nhất
L
D
:

Lƣợng tinh dầu/ cây
T
D
:

Hàm lƣợng tinh dầu theo % mẫu khô tuyệt đối
Mtd:
Khối lƣợng tinh dầu thu đƣợc
Mk:
Khối lƣợng mẫu tính theo độ khô tuyệt đối
Q
T
, Q
K
:
Sản lƣợng quả tƣơi, quả khô / cây
CT:

Cây trội
Hl:
Hàm lƣợng
Đđông:
Độ đông
Slƣợng:
Sản lƣợng
Sig:
Xác suất
Mean Rank:
Số hạng trung bình
HTX:
Hợp tác xã
THCS:
Trung học cơ sở





vi
DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng

Trang
1.1
Thống kê giá bình quân Hồi và dầu hồi xuất khẩu từ năm
1996-2007 tại Trung Quốc
9

1.2
Bảng đánh giá chất lƣợng tinh dầu Hồi theo điểm đông
19
1.3
Tƣơng quan giữa độ đông và hàm lƣợng trans- anethol trong
tinh dầu Hồi.
19
1.4
Diện tích, sản lƣợng và trữ lƣợng quả Hồi hàng năm ở các
tỉnh Đông Bắc Bộ
21
1.5
Tiêu chuẩn quả Hồi khô xuất khẩu vào thị trƣờng Châu Âu
22
3.1
Bảng 3.1. Tình hình sử dụng đất tại Văn Quan
39
4.1
Sinh trƣởng của các cây 30 tuổi để thu hái quả điểm thu hái
quả
51
4.2
Đặc trƣng mẫu số liệu theo dõi sinh trƣởng của các cây theo
dõi thời điểm thu hái quả
51
4.3
Hàm lƣợng, chất lƣợng tinh dầu các cây theo dõi thời điểm
thu hái
52
4.4

Biến động hàm lƣợng tinh dầu theo thời điểm thu hái
53
4.5
Biến động hàm lƣợng trans-anethol, độ đông và chỉ số chiết
quang theo thời điểm thu hái
53
4.6
Sinh trƣởng, hàm lƣợng, chất lƣợng tinh dầu ở các độ tuổi
khác nhau
55
4.7
Các đặc trƣng thống kê của hàm lƣợng và chất lƣợng tinh dầu
ở các độ tuổi khác nhau
56
4.8
Sản lƣợng quả, chỉ tiêu sinh trƣởng của lâm phần Hồi xã Tân
Đoàn,Văn Quan, Lạng Sơn
58
4.9
Sản lƣợng quả, chỉ tiêu sinh trƣởng sinh trƣởng của lâm phần
Hồi tại xã Đồng Giáp, Văn Quan, Lạng Sơn
59
4.10
Biến động sản lƣợng và các chỉ tiêu sinh trƣởng hai lâm phần
60
4.11
Biến động hàm lƣợng tinh dầu trong quả Hồi khô ở 2 lâm phần
nghiên cứu
61


4.12
Hàm lƣợng và chất lƣợng tinh dầu của 2 lâm phần dự tuyển
63
4.13
Mối liên hệ giữa một số chỉ tiêu sinh trƣởng với hàm lƣợng và
chất lƣợng tinh dầu
65
4.14
Sản lƣợng quả và các chỉ tiêu sinh trƣởng của 46 cây dự tuyển
67
4.15
Đặc tƣng mẫu sản lƣợng quả và các chỉ tiêu sinh trƣởng của
46 cây cây trội dự tuyển
68

vii
4.16
Hàm lƣợng và chất lƣợng tinh dầu của 46 cây dự tuyển
68
4.17
Chỉ tiêu sinh trƣởng, sản lƣợng quả, hàm lƣợng và chất lƣợng
tinh dầu 20 cây trội
70
4.18
Đặc trƣng mẫu chỉ tiêu sinh trƣởng, sản lƣợng quả, hàm lƣợng
và chất lƣợng tinh dầu của 20 cây trội
71
4.19
Độ vƣợt 20 cây trội đƣợc chọn theo 3 chỉ tiêu: sản lƣợng quả,
hàm lƣợng và chất lƣợng tinh dầu

72
4.20
Kết quả ghép nêm nối ngọn tháng 1 năm 2007
75
4.21
Kết quả ghép nêm nối ngọn và ghép áp tháng 2 năm 2009
76
4.22
Đặc trƣng mẫu kết quả ghép nêm nối ngọn và ghép áp tháng 2
năm 2009
77
4.23
Kết quả trồng 1ha vƣờn vô tính
78
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hồi (Illicium verum Hook.F) là cây đặc sản có giá trị kinh tế cao. Tinh dầu
Hồi là sản phẩm đƣợc chƣng cất từ lá, quả và hạt, nhƣng chủ yếu từ quả, là nguyên
liệu quý trong công nghiệp dƣợc phẩm và thực phẩm. Trong công nghiệp dƣợc
phẩm Hồi đƣợc sử dụng để chế biến các loại thuốc xoa bóp, nội tiết, tiêu hóa,
chống nôn mửa, ức chế sự lên men ruột, long đờm, là thành phần các thuốc trị ho,
trị bệnh nấm da và ghẻ, làm giảm đau, giảm co thắt ruột, hoặc chữa trị các bệnh lý
đau dạ dày, ruột… Trong công nghiệp thực phẩm quả hồi đƣợc dùng làm gia vị
chế biến thức ăn. Ngoài ra, tinh dầu Hồi còn đƣợc làm hƣơng liệu để chế biến các
đồ mỹ phẩm cao cấp. Sau khi ép lấy tinh dầu, bã còn lại dùng đế chế biến thuốc trừ
sâu, làm men, than hoạt tính [1], [2]. Hồi đƣợc dùng rộng rãi trong công nghiệp
nhẹ nhƣ quấn thuốc lá, sản xuất xà phòng thơm, kem đánh răng, thuốc sát trùng,
hƣơng liệu, dùng bảo quản lƣơng thực chống côn trùng gây hại, thuốc đông y…

Dùng làm thuốc bảo quản lƣơng thực nhƣ thóc, ngô, đỗ… hiệu quả trên 95% trong
thời gian trên 8 tháng [25].
Trong những năm gần đây, do nhu cầu sử dụng tinh dầu Hồi trên thế giới
ngày càng tăng, đặc biệt khi phát hiện ra trong quả Hồi có chứa axit shikimic là
nguyên liệu chính để sản xuất thuốc taminflu chữa bệnh dịch cúm gia cầm, nhất là
đại dịch A/H5N1 ở ngƣời. Trong thời gian gần đây, Việt Nam cũng đã chuẩn bị
cho việc sản xuất Tamiflu với nguyên liệu chủ yếu từ hoa Hồi [2].
Hơn nữa, Hồi là cây đặc hữu chỉ có ở một số vùng sinh thái nhất định,
đang đƣợc trồng nhiều ở các tỉnh miền nam Trung Quốc và phía bắc Việt Nam,
nên tinh dầu Hồi còn là mặt hàng xuất khẩu có giá trị. Trong những năm gần đây,
do giá trị cao từ cây hồi nên một số nƣớc nhƣ Philippin, Indonexia cũng trồng thử
nghiệm nhƣng chƣa thành công, chƣa có các thông báo về sản lƣợng và chất lƣợng
các sản phẩm Hồi tại các nƣớc này. Do vậy, tới nay Trung Quốc và Việt Nam vẫn
là hai quốc gia sản xuất Hồi chủ yếu trên thế giới.
Diện tích Hồi tại Việt Nam hiện nay khoảng 45.625 ha, sản lƣợng trung
bình hàng năm thu đƣợc trên 7.000 tấn quả tƣơi, trong đó diện tích Hồi tại Lạng
Sơn là 32.060 ha, sản lƣợng quả hàng năm đạt 4.468 tấn quả.
Ngoài ra, Hồi còn là cây đa mục đích, vừa mang lại hiệu quả kinh tế cao
cho ngƣời dân vừa có tác dụng che phủ bảo vệ đất cũng nhƣ bảo vệ môi trƣờng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
sinh thái lâu dài và bền vững. Trong chƣơng trình trồng mới 5 triệu ha rừng giai
đoạn 2001-2010 của chính phủ, Hồi là một trong những cây trồng chính của tỉnh
Lạng Sơn. Đặc biệt, Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Lạng Sơn đã hoàn thiện việc
đăng bạ xuất xứ hoa Hồi xứ Lạng thì việc nâng cao năng suất, chất lƣợng sản
phẩm Hồi để giữ gìn thƣơng hiệu hoa Hồi xứ Lạng là hết sức quan trọng.
Tuy nhiên, hầu hết rừng Hồi tại Lạng Sơn cũng nhƣ các tỉnh lân cận đều là
rừng trồng, phần lớn đƣợc trồng bằng những giống chƣa đƣợc cải thiện,và chủ yếu
bằng những biện pháp kỹ thuật truyền thống và bằng kinh nghiệm của ngƣời dân,

chƣa áp dụng những tiến bộ kỹ thuật để nâng cao năng suất chất lƣợng. Phần lớn
diện tích Hồi hiện nay đã già cỗi, cho năng suất thấp.
Xuất phát từ thực tế nêu trên, để góp phần nhằm nâng cao năng suất,
chất lƣợng rừng Hồi ở Lạng Sơn thì việc thực hiện đề tài: “Nghiên cứu một số
biện pháp kỹ thuật nhằm nâng cao năng suất, chất lƣợng tinh dầu hồi (Illicium
verum Hook.f.) tại Lạng Sơn” là cần thiết, có ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn.




















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Chƣơng I

TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

Sản phẩm thu hoạch từ cây Hồi chủ yếu là quả Hồi, quả Hồi đã đƣợc sử
dụng rộng rãi làm gia vị trong chế biến thực phẩm, đặc biệt là các nƣớc Đông Nam
Á và Đông Á. Hồi là thành phần quan trọng trong bột “húng lìu” đƣợc dùng để
ƣớp thịt, nhất là với thịt bò, thịt lợn, thịt vịt Hồi cũng là gia vị thơm, hấp dẫn
không thể thiếu đƣợc trong nƣớc phở Hồi đƣợc sử dụng trong các ngành công
nghiệp chế biến rƣợu khai vị, rƣợu mùi, nƣớc ngọt, bánh kẹo Mặc dù chỉ với
lƣợng rất nhỏ nhƣng hƣơng vị hấp dẫn của Hồi vừa có tác dụng kích thích tiêu hoá,
vừa gây cảm hứng ngon miệng. Không chỉ ở Châu Á mà ở các nƣớc Châu Âu
(Pháp, Đức, Ý,…) và Châu Mỹ (Hoa Kỳ, Cu Ba vv…) cũng coi Hồi là loại gia vị
đƣợc ƣa thích trong chế biến thực phẩm cũng nhƣ công nghiệp. Trong danh mục
các sản phẩm thƣơng mại an toàn đƣợc sử dụng trong sản xuất thuốc và chế biến
thực phẩm của Hoa Kỳ quả hồi đƣợc xếp vào tiêu chuẩn: “GRAS 2095” và tinh
dầu hồi có kí hiệu “GRAS 2096” [16], [8].
Trong y học dân tộc cổ truyền của nƣớc ta cũng nhƣ ở Trung Quốc, Nhật
Bản, Ấn Độ… Hồi đƣợc coi là vị thuốc có vị cay, tính ấm, hƣơng thơm vào 4 kinh
can, thận, tỳ, vị, có tác dụng trừ hàn, kiện tỳ, khai vị, tiêu thực, sát trùng; dùng
chữa bệnh đau bụng, kích thích tiêu hóa, giảm đau, giảm co bóp trong dạ dày, đau
ruột, lợi sữa, nôn mửa, đau nhức, thấp khớp, đau lƣng, bong gân, ngộ độc thịt cá và
rắn độc cắn vv…
Theo Tây y, tinh dầu hồi có tính kích thích, tăng cƣờng nhu động ruột,
dùng chữa đau bụng, tăng tiết dịch đƣờng hô hấp, gây trung tiện, giúp tiêu hóa
giảm đau, khử đờm. Tinh dầu hồi còn có tác dụng kháng khuẩn, ức chế sự phát
triển của vi khuẩn lao và các vi khuẩn khác nhƣ Candia albian, Salmonella typhi,
Shigella flexneri và Baccilus mycoides, vv… Nên dùng làm thuốc trị khuẩn, trị
nấm ngoài da và ghẻ lở. Hồi cũng đƣợc dùng trong sản xuất thuốc trừ sâu thảo
mộc, diệt chấy, rận, rệp và một số loài ký sinh ở gia súc.
Cho tới nay, chất lƣợng tinh dầu của Việt Nam và Trung Quốc vẫn đƣợc thị
trƣờng đánh giá là loại tinh dầu có chất lƣợng cao và thuộc hàng đầu thế giới. Từ

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
năm 2004, Cục Quản lý thuốc và thực phẩm của Mỹ phát hiện thấy tinh dầu Hồi
thu từ Nhật Bản có độc tính cao (do hàm lƣợng cis- anethole vƣợt quá mức cho
phép) nên đã cấm sử dụng trong các lĩnh vực chế biến thực phẩm, đặc biệt là cấm
sử dụng quả hồi Nhật Bản trong quy trình chế biến “Trà hồi”.
Ngoài giá trị lấy tinh dầu, gỗ Hồi có mùi thơm, thớ đều và mịn có thể dùng
làm cột nhà, đóng đồ gia dụng thông thƣờng. Về giá trị môi trƣờng, cây Hồi có thể
kết hợp trồng rừng phòng hộ đầu nguồn, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, là cây đa
mục đích.
Do cây Hồi là cây đặc hữu chỉ có ở một số nƣớc trên thế giới nên các công
trình nghiên cứu loài cây này cũng rất hạn chế. Tuy nhiên, cũng có thể điểm qua
một số công trình nghiên cứu ở cả trong và ngoài nƣớc nhƣ sau:
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở NƢỚC NGOÀI
Do Illicium verum Hook.f là loài cây có phân bố hẹp, nên ở các nƣớc trên
thế giới việc nghiên cứu về cây Hồi chỉ có chủ yếu ở Trung Quốc. Trung Quốc đã
có nhiều nghiên cứu về phân loại thực vật, chọn giống, nhân giống vô tính, kỹ
thuật trồng rừng, kỹ thuật sấy khô, kỹ thuật chƣng cất v.v Từ 20 năm trở lại đây,
Quảng Tây đã giành đƣợc nhiều thành tựu to lớn và ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào công tác trồng Hồi. Trong đó, bao gồm việc điều tra, nghiên cứu cải
thiện giống, nghiên cứu kỹ thuật gây trồng nhằm tăng sản lƣợng Hồi, trồng rừng
Hồi sản lƣợng cao, kỹ thuật cải tạo rừng Hồi sản lƣợng thấp, nghiên cứu kỹ thuật
chƣng cất và tinh chế tinh dầu Hồi v.v Ngoài ra, ngƣời ta còn nghiên cứu kỹ
thuật thâm canh nhƣ: bón phân, phòng chống sâu bệnh. Những năm gần đây kỹ
thuật chọn giống, gây giống, cấy ghép, trồng Hồi v.v ngày càng đƣợc quan tâm
và có nhiều tiến bộ kỹ thuật. Sau đây có thể điểm ra một số thành tựu cụ thể:
1.1.1. Những nghiên cứu về phân loại và phân bố
Cây hồi đƣợc ngƣời Nhật gọi là quả “Shikimmi” hoặc quả “Skimmi”. Gần
đây, ngƣời ta đã phát hiện đƣợc loài hồi Illicium religiosum Sieb, et Zuce, đƣợc

trồng nhiều trƣớc các cổng đền chùa giành cho phật giáo ở Nhật Bản. Chúng là
loài Hồi có độc, có các đại nhỏ, không có mùi thơm của trans-anethole nhƣng lại
có mùi Sassafras [18].
Ngay từ năm 1890, ngƣời Mỹ đã phát hiện ra 7 loài hồi, trong đó 2 loài
đƣợc tìm thấy trên bờ biển Bắc Mỹ thuộc Đại Tây Dƣơng, 2 loài ở Hindostan và 3
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
loài còn lại đƣợc tìm thấy ở Trung Quốc và Nhật bản. Hầu hết các loài này đều có
mùi thơm và hƣơng vị đặc trƣng [18].
Ngày nay ngƣời ta đã phát hiện ra chi hồi (Illicium) gồm có khoảng trên 40
loài, phân bố chủ yếu ở các nƣớc Đông Nam Á, Đông Á và Bắc Mỹ. Riêng ở các
tỉnh phía Nam và tây Nam của Trung Quốc đã xác định đƣợc 21 loài, trong đó có
một số loài điển hình nhƣ: Loài hồi Illicium floridanum Ell đƣợc trồng phổ biến
rất nhiều ở phía Tây của Châu Mỹ dọc theo bờ biển từ Florida đến vịnh Mêhicô.
Loài hồi Illicium parviflorum Vent (I.anisatum Bartr) là loài cây bụi thấp đƣợc tìm
thấy trên những vùng đất dốc tại ở Georgia và Carolina, tinh dầu có mùi gần giống
mùi cây long não. Loài hồi Illcium griffithii var Hook.f.et Thoms (hay gọi là hồi
núi, Đại Hồi núi) là loại cây thuộc vùng Viễn Đông phân bố ở vùng Đông Dƣơng,
Mã Lai. Quả hồi chứa chất độc, tinh dầu có vị chát, thơm và có pha mùi của ớt và
hồ tiêu. Loài hồi Illcium henryi Diels chỉ phân bố ở Quý Châu, Tứ Xuyên, Giang
Tây, Hồ Bắc, Hồ Nam, Thiềm Tây (Trung Quốc), đây là loài cây gỗ nhỏ, quả
thƣờng có 8 đại nhƣng nhỏ hơn so với cây Đại hồi (Illicium verum). Loài Hồi
Illicium verum Hook.f thuộc họ hồi (Illciaceae), còn đƣợc gọi các tên khác nhƣ hồi
sao, hồi 8 cánh, đại hồi hƣơng, bát giác hƣơng, mắc trác Cây Hồi (Illicium verum
Hook.f.), là loài cây nguyên sản ở miền Bắc Việt Nam và miền Nam Trung Quốc.
Tại Trung Quốc, Hồi có phân bố chủ yếu ở Quảng Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến
và Vân Nam [13], [36].
Đầu những năm 80 của thế kỷ trƣớc, những ngƣời làm công tác khoa học
kỹ thuật Lâm nghiệp của Quảng Tây - Trung Quốc đã đi sâu điều tra nguồn tài

nguyên Hồi, và lấy kết quả điều tra tài nguyên làm căn cứ phân loại chủ yếu, kết
hợp với đặc trƣng hình thái của hoa, quả, cành và dáng cây, chia Hồi thành bốn
nhóm, 17 loại nhƣ sau:
(1) Nhóm hồi hoa đỏ (hồng hoa), có 9 loại, gồm: Hồi hoa đỏ cành mềm,
Hồi hoa đỏ phổ thông, Hồi hoa đỏ nhiều cánh, Hồi hoa đỏ quả to, Hồi hoa đỏ mỏ
chim ƣng, Hồi hoa đỏ lá dầy, Hồi hoa đỏ quả nhỏ, Hồi hoa đỏ nhụy đỏ, Hồi hoa đỏ
cây lùn.
(2) Nhóm Hồi hoa phớt hồng có 4 loại, gồm: Hồi hoa phớt hồng cành mềm,
Hồi hoa phớt hồng phổ thông, Hồi hoa phớt hồng nhiều cánh và Hồi hoa phớt hồng
lá dầy.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
(3) Nhóm Hồi hoa trắng có 3 loại, gồm: Hồi hoa trắng cành mềm, Hồi hoa
trắng phổ thông và Hồi hoa trắng nhiều cánh.
(4) Nhóm Hồi hoa vàng có 1 loại là Hồi hoa vàng.
Trong đó có 4 loại Hồi hoa đỏ cánh mềm, Hồi hoa phớt hồng cánh mềm,
Hồi hoa đỏ phổ thông và Hồi hoa phớt hồng phổ thông là những loại giống Hồi tốt
có thể trồng rộng rãi [36].
1.1.2. Những nghiên cứu về cải thiện giống
Hiện nay, tại một số huyện của Quảng Tây - Trung Quốc nhƣ Phòng
Thành, huyện Đằng và lâm trƣờng quốc doanh Phái Dƣơng Sơn là nơi có nhiều
giống Hồi chất lƣợng cao. Viện khoa học lâm nghiệp Quảng Tây đã tuyển chọn
đƣợc 33ha gồm các cây mẹ ở lâm trƣờng thanh niên cộng sản huyện Đằng. Từ
nguồn giống này, những năm gần đây đã cung cấp số lƣợng lớn cây giống để phát
triển Hồi tại Trung Quốc. Trong thời gian qua, Trung Quốc đã xây dựng đƣợc 200
vƣờn giống vô tính sản lƣợng và chất lƣợng cao, trong đó có 3 giống Hồi đƣợc chú
ý, gồm: "Quế giác 45 (Hồi số 45 Quảng Tây), "Quế giác 77" (Hồi số 77 Quảng
Tây) và "Quế giác 78" (Hồi số 78 Quảng Tây). Năm 2006, các giống này đã đƣợc
ngành lâm nghiệp khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây cho phép và đã cung cấp

khối lƣợng lớn giống cây vô tính để đƣa vào kinh doanh [32].
1.1.3. Những nghiên cứu về nhân giống
Theo Lý Khai Tƣờng (2009) [33] việc nghiên cứu nhân giống bằng phƣơng
pháp ghép tại Trung Quốc đã có nhiều thành công. Tác giả đã kết luận, nhân giống
Hồi bằng phƣơng pháp ghép có đặc điểm cây nhanh ra quả, sản lƣợng cao và ổn
định. Trồng cây ghép là con đƣờng nhanh nhất để mở rộng diện tích rừng Hồi với
giống đã đƣợc cải thiện. Căn cứ vào tính chất mềm và giòn của cành, ngọn cây Hồi
tác giả cho rằng phƣơng pháp ghép đỉnh đƣợc ứng dụng rộng rãi nhất. Cây gốc
ghép 1 năm tuổi, thì ghép và sau khi ghép đƣợc 2 - 3 năm mới đem trồng, nếu cây
gốc ghép 2 năm tuổi thì sau khi ghép 1- 2 năm tuổi có thể đem trồng. Thời gian
ghép thích hợp từ giữa tháng giêng đến cuối tháng 3 cho tỷ lệ sống cao nhất.
1.1.4. Những nghiên cứu về kỹ thuật gây trồng
Kỹ thuật gây trồng là yếu tố quan trọng sau công tác cải thiện giống, có
giống tốt mà không đƣợc áp dụng những tiến bộ kỹ thuật gây trồng thì chƣa chắc
đã cho năng suất chất lƣợng nhƣ mong muốn. Chính vì vậy, các nhà khoa học trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
thế giới, nhất là các nhà khoa học Trung Quốc tại Viện nghiên cứu Khoa học Lâm
nghiệp Quảng Tây đã quan tâm đến vấn đề trồng rừng thâm canh, có thể kể đến
công trình nổi bật của Tăng Tƣờng Diễm - Lý Kiến Lâm (2009)[31] các tác giả đã
chỉ ra cách phán đoán tình trạng thiếu dinh dƣỡng của 11 nguyên tố N, P, K, Ca,
Mg, S, Fe, Zn, Cu, B của cây Hồi thông qua miêu tả để chuẩn đoán tình trạng
cây. Đồng thời tiến hành giải thích và phân tích các loại bệnh đã từng xuất hiện,
để những ngƣời kinh doanh trồng trọt có thể hiểu sơ bộ và nắm vững tình hình
thiếu hay thừa dinh dƣỡng ở bộ phận nào đó của cây trong chăm sóc và trồng
Hồi, từ đó điều chỉnh phƣơng pháp bón phân, lƣợng phân bón phù hợp với từng
chủng loại và từng giai đoạn, để hàm lƣợng nguyên tố dinh dƣỡng của cây đƣợc
duy trì một cách tốt nhất, nâng cao khả năng quản lý dinh dƣỡng, thúc đẩy Hồi
phát triển nhanh và sản lƣợng nhiều.

1.1.5. Những nghiên cứu về hàm lƣợng, chất lƣợng tinh dầu
Hiện nay các nghiên cứu về thành phần và công nghệ chế biến tinh dầu
Hồi đã có một số nhà nhà khoa học ở Trung Quốc quan tâm, nổi bật là một số
công trình sau:
Khi phân tích các mẫu tinh dầu hồi thu đƣợc tại tỉnh Vân Nam (Trung
Quốc) ở hai thời điểm khác nhau; Cu Q và cộng sự (1988,1990) đã cho biết
thành phần các tinh dầu rất phức tạp, có tới 30 hợp chất khác nhau. Tác giả
cũng chỉ ra rằng, giữa chúng không chỉ có sự biến động về hàm lƣợng của các
hợp chất chính (trans-anethol từ 71,98-85,6%; cis-anethol có hàm lƣợng rất nhỏ
(0,1%) và của một số thành phần thƣờng gặp nhƣ: limonen, linalool,
anisaldehyd, methylchavicol, anis keton…) mà còn khác nhau cả về thành phần
chất. Ở một số cá thể khác, trong tinh dầu chứa α-pinen, trans-α-bergamoten,
α-terpineol, β- bisabolen. Song ở các cá thể khác thì các hợp chất trên không
tìm thấy, trong khi đó lại xuất hiện các hợp chất mới nhƣ: α-gurjunen,
longifolen, isolongifolen và anisyl isobutyrat.
Nghiên cứu thành phần hóa học của tinh dầu hồi trồng tại Shangyou
(Trung Quốc), Sun, L.F (1990) đã xác định đƣợc 39 hợp chất, trong đó nhiều
nhất là trans-anethol (87,9%); sau đó là: limonen (2,83%); foeniculin (0,89%);
linalool (0,73%); methylchavicol (0,57%); trans- β- farnesen (0,42%); α-pinen
(0,49%); δ-3-caren (0,58%); methyl issoeugenol (0,32%); cis-anethol (0,2%);
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
1,8-cineol (0,2%); γ-terpinen (0,3%); α-terpineol (0,28%); β-caryophyllen
(0,35%); isocaryophyllen (0,31%); safrol (0,14%) và α-copaen (0,1%);… những
hợp chất còn lại thƣờng ở dạng vết hoặc dƣới 0,1%. Ngoài ra, hạt hồi còn chứa
khoảng 50-58% dầu béo với thành phần chính là các axit oleic, linoleic, stearic
và myristic.
Nghiên cứu về công nghệ chiết xuất tinh dầu điển hình có công trình của
Lục Thuận Trung, Lý Thu Đình, Lê Quý Liễu, Quan Đoạn Hoa, Công Hoa, Lý

Na (2007) [34] (Viện nghiên cứu khoa học lâm nghiệp Quảng Tây, Nam Ninh,
Trƣờng cao đẳng chế biến thực phẩm và công nghiệp nhẹ thuộc Đại học Quảng
Tây, Nam Ninh), với kỹ thuật tách anethole và dầu hồi bằng công nghệ kết tinh
đông lạnh và tách ly tâm tạo ra sản phẩm anethole có độ thuần khiết cao, chất
lƣợng tốt và ổn định. Qua nghiên cứu các tác giả đã kết luận rằng: Công nghệ
tốt nhất của việc tách anethole từ dầu hồi bằng phƣơng pháp kết tinh đông lạnh
và tách li tâm với nhiệt độ kết tinh là 5
0
C, thời gian kết tinh là 20 giờ, độ vỡ nát
của tinh thể là 20, với điều kiện này độ thuần khiết của anethole đạt từ 96,4%
đến 96,8%. Qua nghiên cứu các tác giả còn chỉ rõ điều kiện công nghệ tốt nhất
của việc tinh cất anethole từ hoa và lá bằng phƣơng pháp kết tinh đông lạnh có
tỉ lệ hồi lƣu 10:7, nhiệt độ ở nồi tinh cất là 140
0
C, độ chân không là 5mmHg thì
độ thuần khiết của anethole đạt đến tới 99,8%, trung bình là 97,3%.
1.1.6. Những nghiên cứu về giá trị, thị trƣờng
Trung Quốc đã tận dụng triệt để các giá trị của sản phẩm Hồi trong nhiều
lĩnh vực. Trong ngành chế biến thực phẩm, Hồi đã trở thành hƣơng liệu không
thể thiếu và không có gì thay thế đƣợc, Hồi dùng làm gia vị để chế thức ăn nhƣ
hầm, xào, nấu, ngũ hƣơng Trong dƣợc phẩm dùng làm thuốc chữa bệnh, hạ
khí, bổ nhiệt, làm thuốc trừ sâu, tăng sữa, chữa ho, thuốc chữa ung thƣ Trong
công nghiệp hóa chất, dầu Hồi và các chất tinh cất nhƣ Oleum Anisi Stellati,
Anethole và Anisic aldehyde, Anisonitrile v.v dùng làm hƣơng liệu cao cấp, là
thành phần quan trọng để làm nƣớc hoa, thuốc lá, xà phòng, kem đánh răng
v.v
Ngoài ra, Hồi còn sử dụng nhiều trong các lĩnh vực khác nhƣ: trong chế
biến thức ăn gia súc, thuốc lá, sản xuất rƣợu thơm Đặc biệt, hiện nay tại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


9
Trung Quốc đang triển khai sản xuất theo bản quyền với số lƣợng lớn thuốc
Tamiflu là loại thuốc chữa dịch cúm gia cầm hiệu nghiệm nhất trên thế giới.
Chính vì vậy, Hồi của Quảng Tây tiêu thụ khắp nơi trên toàn quốc của Trung
Quốc, tại Nam Ninh đã hình thành khu thƣơng mại trung chuyển Hồi lớn, hàng năm
Hồi từ Nam Ninh chuyển đi khu vực miền Bắc và các tỉnh khác. Chợ bán buôn hàng
khô ở thôn Hạnh Hoa, thành phố Đằng Châu tỉnh Sơn Đông là chợ bán buôn Hồi lớn
nhất trong toàn quốc, có hơn 300 thƣơng nhân kinh doanh Hồi tại dây, hơn 70% số
lƣợng Hồi của Quảng Tây từ nơi đây chuyển đi khắp nơi trên toàn quốc.
Theo số liệu thống kê đã đƣợc công bố của Hiệp hội hƣơng liệu tinh dầu
Quảng Tây, năm 2007, Hồi của Quảng Tây chủ yếu xuất đi các nƣớc Anh, Mỹ,
Đức, Pháp, Australia, Nhật, Hồng Công, Đài Loan và Nam Mỹ, Đông Nam á, Nam
á và Trung Đông. Đặc biệt, tiêu thụ nhiều ở các nƣớc: Pháp, Mỹ, Đức, Hồng Công,
Tây Ban Nha, Anh, Ấn Độ, Australia, In-đô-nê-xia, Singapore giá dầu hồi bình
quân không thấp hơn 5.500 USD/tấn [32].

Bảng 1.1: Thống kê giá bình quân Hồi và dầu hồi xuất khẩu từ năm 1996-2007 tại
Quảng Tây - Trung Quốc
(USD/T)
Năm
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005

2006
2007
Quả
Hồi
2451
1892
1533
1981
4290
4455
2242
1301
1156
1036
1106
1274
Dầu
Hồi
7960
7354
7431
7108
6740
6944
5762
5550
5702
6154
7108
6646

(Nguồn tài lệu: Sở Thương mại Quảng Tây)
Thống kê giá bình quân Hồi và dầu hồi xuất khẩu từ năm 1996-2007 cho
thấy giá Hồi không dƣới 1.000 USD/tấn và giá dầu Hồi bình quân không thấp hơn
5.500 USD/tấn. Điều đó có thể chứng minh rằng giá Hồi xuất khẩu ở Quảng Tây
tƣơng đối cao và ổn định.
Tóm lại: Điểm qua các công trình nghiên cứu trên thế giới có liên quan đến
vấn đề nghiên cứu cho thấy các công trình nghiên cứu về Hồi chỉ có ở Trung
Quốc, các nghiên cứu khá công phu, đã giải quyết khá đầy đủ các vấn đề liên
quan, nhƣng các công trình nghiên cứu trong hoàn cảnh sinh thái và các điều kiện
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
kinh tế kỹ thuật hết sức khác nhau nên khó có thể áp dụng cụ thể vào điều kiện
của nƣớc ta.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở VIỆT NAM
1.2.1. Nghiên cứu về nguồn gốc, phân loại
Theo Đỗ Tất Lợi (1999) cây Hồi nói chung chỉ mọc trong khu vực nhỏ
chiếm khoảng 5.000km2 ở tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn và một số ở Quảng Tây,
Quảng Đông - Trung Quốc. Một số nơi khác cũng trồng nhƣ Hà Giang, Tuyên
Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên nhƣng không nhiều. Đặc biệt, loài Đại Hồi Illicium
verum đã đƣợc gây trồng thành những quần thể lớn tại các tỉnh miền núi phía Đông
Bắc nƣớc ta nhƣ Lạng Sơn, Quảng Ninh, Cao Bằng v.v… Loài Hồi này (Ilicium
verum Hook.f.) còn có tên gọi khác nhƣ Đại hồi, Đại hồi hƣơng, Hồi 8 cánh, Hồi
Sao thuộc họ Hồi (Illiciacaea) [13].
1.2.2. Những nghiên cứu về hình thái, sinh thái
Đặc điểm hình thái và sinh thái là yếu tố quan trọng trong nghiên cứu
phân loại thực vật, cũng nhƣ nghiên cứu gây trồng. Vì thế, các vấn đề này
cũng đã đƣợc một số nhà khoa học trong nƣớc nghiên cứu với các kết quả nổi
bật sau đây:
1.2.2.1. Đặc điểm hình thái

Nghiên cứu về đặc điểm hình thái cây Hồi có một số công trình điển hình
nhƣ: Thu Linh (2006) [14], Nông Văn Thế (2002), Công ty giống và phục vụ trồng
rừng (1995). Hầu hết các tác giả đều cho rằng Hồi là cây gỗ nhỡ, thƣờng cao 10 -
15m, có khi cao tới 18-22m, thân thẳng tròn, vỏ màu xám không nhẵn, hoa lƣỡng
tính, quả phức hình ngôi sao 5- 13 cánh, ra hoa 2 lần một năm, không có ranh giới
rõ ràng, tán lá rậm, cành rất giòn, tƣơng đối thẳng. Lá mọc cách, ở phía cuối cành
mọc thành chùm. Phiến lá nguyên, dày, đầu và gốc lá thuôn nhỏ, mặt trên lục bóng
hơn mặt dƣới. Quả Hồi có thể thu hoạch sau khi trồng 5- 6 năm, tới năm thứ 15 thì
cho sản lƣợng cao và ổn định. Quả Hồi lúc tƣơi màu xanh nhạt, khi chín khô cứng
màu nâu. Quả thƣờng có từ 5-8 cánh, mỗi cánh là một tâm bì với một hạt. Hạt màu
đỏ hoặc nâu sẫm trong hạt có dầu nhờn. [22].
Theo Lƣu Đàm Cƣ và Ninh Khắc Bản (2006) khi nghiên cứu về hình thái
cây Hồi đã mô tả một số đặc điểm đa dạng về hình thái lá, hoa, quả nhƣ sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Về hình thái lá: Theo tác giả thì hình thái lá Hồi rất đa dạng, có sự biến
động rất lớn về kích thƣớc và hình dạng, các tác giả chia thành 3 nhóm hình dạng
lá khác nhau:
Nhóm 1. Các cây có lá rộng, nhóm này đƣợc đặc trƣng bởi chiều dài lá gấp
hai lần hoặc nhỏ hơn hai lần chiều rộng lá, tỷ lệ này nhỏ nhất là 1,35.
Nhóm 2. Các cây có lá trung bình, nhóm này đặc trƣng bởi tỷ lệ chiều
dài/rộng dao động từ 2,0 đến 3,5 lần.
Nhóm 3. Các cây có lá hẹp - dài : Nhóm này có hình dạng lá dài/rộng của lá
lớn hơn 3,5 lần, tỷ lệ lớn nhất đến 4,1 lần.
Theo nghiên cứu của các tác giả, các cây có lá rộng thƣờng không có quả,
hoặc rất ít quả nên năng suất thấp, những cây có lá hẹp-dài cũng cho năng suất
thấp. Vì vậy, bằng hình thái lá, ngƣời ta có thể nhận biết đƣợc cây nào có năng
suất quả cao. Đây là cơ sở bƣớc đầu và cũng là nhân tố dễ nhận biết để chọn giống
trong thực tế sản xuất.

Về hình thái Hoa:
Khi nghiên cứu về hình dạng và cấu tạo hoa, các tác giả đã chỉ ra rằng, chi
Hồi (Illicium) là một chi thực vật tiến hóa ở bậc tƣơng đối thấp trong hệ thống phát
sinh thực vật. Mức độ tiến hóa thấp của chi này thể hiện ở các đặc điểm chính sau:
Bao hoa chƣa phân hóa thành đài và cánh hoa, mà chỉ tồn tại ở dạng các mảnh bao
hoa hình bản. Số lƣợng các mảnh bao hoa khá lớn và dao động trong khoảng 7-16
mảnh bao hoa. Ở một vài cây vẫn còn nhận thấy sự biến đổi trung gian giữa mảnh
bao hoa và nhị. Chỉ thị nhị hình phiến, số lƣợng khá lớn, dao động trong khoảng 9
- 23. Lá noãn rời, quả hình thành với nhiều nang (tƣơng ứng với số lá noãn). Trong
thực tế, quả Hồi có số lá noãn ít nhất là 5 và nhiều nhất là 13.






Ảnh1: Hồi hoa trắng Ảnh 2 Hồi hoa đỏ Ảnh 3: Hồi hoa hồng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
Ngoài đặc điểm chung thể hiện mức độ tiến hóa ở các thể khác nhau, sắc
màu hoa cũng rất đa dạng thay đổi từ màu đỏ thẫm tới màu trắng. Trong khoảng
biên độ này có nhiều dạng trung gian nhƣ màu hồng, màu đỏ nhạt, màu trắng chấm
hồng. Đây là hiện tƣợng hiếm gặp trong hệ thực vật ở Việt Nam [6].
Về hình thái quả:
Nghiên cứu về hình thái quả Hồi (thƣờng gọi là hoa Hồi) Lƣu Đàm Cƣ và
Ninh Khắc Bản (2006) đã dựa vào số lƣợng lá noãn để chia quả Hồi thành 3 nhóm
chính sau:
+ Nhóm quả 8 cánh (lá noãn): Số lƣợng ít nhất là 7 và cao nhất là 10

cánh, trong đó số lƣợng có 8 lá noãn chiếm ƣu thế 75-90% và có tỷ lệ cây lớn
trong quần thể.
+ Nhóm quả trung gian: Số lƣợng lá noãn trên mỗi quả dao động từ 7-13,
trong đó số quả 8 lá noãn không vƣợt quá 60,9%. Trong nhóm này, trên mỗi cây có
thể gặp các quả có số lá noãn từ ít nhất (7) đến nhiều nhất (13).
+ Nhóm quả có nhiều cánh (lá noãn): lá noãn trên mỗi quả ít nhất là 8 và
cao nhất là 13. Số lƣợng có từ 9-13 lá noãn chiếm từ 60,9% đến 95,6%, số quả có
8 lá noãn không có tỷ lệ ƣu thế, chỉ dao động trong khoảng 10 đến 24,4%.
1.2.2.2. Đặc điểm sinh thái
Theo sổ tay kỹ thuật hạt giống và gieo ƣơm một số loài cây rừng của Công
ty giống và phục vụ trồng rừng (1995) [3], Hồi là cây ƣa sáng nhƣng trong 2 năm
đầu, khi mới trồng Hồi cần phải che bóng, độ che bóng thích hợp từ 50 - 75% ánh
sáng, sau đó hoàn toàn ƣa sáng, khả năng chịu rét cao, không bị chết vì sƣơng
muối, là loài cây chịu nhiệt kém, thoát hơi nƣớc mạnh. Hồi thích hợp ở những nơi
có lƣợng mƣa trung bình năm 1.500 - 2.400mm/năm. Rễ Hồi ăn nông, Hồi mọc tốt
trên đất feralitic vàng đỏ phát triển trên đá phiến thạch sét, phiến thạch mica, tầng
đất dày từ 1,5m trở lên, đất màu mỡ, còn tính chất đất rừng
Theo Nguyễn Ngọc Tân (1984) thì cây Hồi ƣa lớp đất mặt dày, độ phì cao,
thoát nƣớc tốt, có độ pHkcl từ 5-8 đặc biệt là đất feralit màu đỏ, màu nâu đến màu
vàng nhạt. Thƣờng mọc tốt ở các vùng núi thấp, độ cao 300-600m ở sƣờn và chân
đồi, đất sâu (1,5m trở lên), tốt, màu mỡ, còn tính chất đất rừng, lƣợng mùn cao.
Trên đất phiến thạch sét philit, phiến thạch limông Hồi sinh trƣởng trung bình,
không thích hợp với các loại đất đá vôi hoặc nơi đất ngập úng [21].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
Theo Lƣu Đàm Cƣ, Ninh Khắc Bản (2006), Hồi trồng trên đất vàng đỏ phát
triển trên đá macma axit, có năng suất từ 71,12 đến 73,17 kg tƣơi/cây/vụ; hàm
lƣợng tinh dầu từ 10,95 đến 13,38% (theo trọng lƣợng khô tuyệt đối); hàm lƣợng
trans athenole từ 94,24 đến 96,43% cao hơn Hồi trồng trên loại đất đỏ vàng trên đá

phiến sét năng suất đạt từ 68,44 đến 70,56 kg quả tƣơi/cây/vụ; hàm lƣợng tinh dầu
từ 8,84 đến 11,52%; hàm lƣợng trans anethole từ 86,15 đến 87,62%.
Theo Trần Anh Châu (1975) thì Hồi sinh trƣởng tốt trên đất Ryolit và phiến
thạch sét, độ dốc từ 5
0
- 30
0
, ở độ cao tuyệt đối khoảng 600m so với mặt nƣớc biển
vẫn cho sản lƣợng quả cao, nhƣng không sống đƣợc ở những nơi ngập úng. Theo
Nguyễn Ngọc Bình và Lê Văn Hán (1981) thì tiêu chuẩn đất trồng Hồi phải có tính
vật lý tốt, có khả năng thấm và giữ nƣớc, thành phần cơ giới nặng và giàu sét,
không có hoặc rất ít đá lẫn, tầng đất dày, hoặc rất dày. Đặc biệt, Hồi sinh trƣởng và
sai quả trên đất giàu kali dễ tiêu (K≥ 13mg/100 g đất). Trong một nghiên cứu khác
thông qua hàm lƣợng các chất trong lá, Lê Đức Diên và các cộng sự (1976) đã
nhận thấy rằng cây càng tốt và càng sai quả thì hàm lƣợng kali trong lá càng cao.
Hàm lƣợng đạm và kali trong lá cao chứng tỏ có liên quan đến hàm lƣợng đạm và
kali trong đất. Khi nghiên cứu phục tráng rừng Hồi già, Phí Quang Điện (1981)
cũng nhận định rằng hàm lƣợng mùn và đạm trong đất có liên quan chặt chẽ với
khả năng sinh trƣởng và phát triển của cây Hồi, những cây Hồi già 60 - 70 tuổi nếu
đƣợc bón đạm sẽ nâng cao sản lƣợng quả và hạn chế quả rụng non.
Trên cơ sở nhu cầu sinh thái của cây Hồi, Dƣ Đức Hƣớng (2004) chia độ
cao thành 4 cấp: rất thích nghi có độ cao từ 300 - 600m, thích nghi trung bình có
độ cao 600 - 700 m, ít thích nghi có độ cao 700 - 800m, và không thích nghi có độ
cao trên 800m [9].
1.2.3. Những nghiên cứu về sinh trƣởng và phát triển
Theo Nguyễn Ngọc Bình, Lê Văn Hán (1981), thời gian đầu, Hồi tăng
trƣởng nhanh về chiều cao, trung bình có thể đạt 1,5-2,0m/năm. Tuy vậy, ở giai
đoạn đầu trong vƣờn ƣơm hoặc Hồi mới trồng cũng cần che bóng. Cây trồng từ hạt
có thể ra hoa và bói quả ở giai đoạn 5 - 6 tuổi. Thông thƣờng, mỗi năm, có thể tiến
hành thu hoạch 2 vụ: vụ chính vào tháng 8-9 cho sản lƣợng quả cao, nhiều tinh dầu

và vụ chiêm thu từ tháng 12 năm trƣớc đến tháng 2 năm sau, vụ này cho sản lƣợng
thấp và ít tinh dầu hơn [1].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
Khi nghiên cứu về nâng cao năng suất và chất lƣợng các sản phẩm từ cây
Hồi Lạng sơn, Lƣu Đàm Cƣ và Ninh Khắc Bản (2006) đã xác định thời gian ra hoa
có 2 lần kế tiếp nhau. Đợt hoa đầu tiên từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 7 hàng năm
gọi là vụ hoa tứ quý (chiêm). Đợt hoa thứ 2 nở tiếp ngay sau lứa đầu kéo dài từ
tháng 7 tới tháng 10 hàng năm gọi là vụ hoa mùa. Thực tế vào thời điểm giao thời
rất khó phân biệt hoa của hai vụ. Ngay sau khi nở hoa, vụ hoa đầu tiên tiếp tục
phát triển và hình thành lứa quả thu vào tháng 12 năm trƣớc đến tháng 2 năm sau.
Lứa hoa thứ 2 mặc dù hình thành ngay sau lứa hoa thứ nhất, nhƣng sau khi nở các
bao hoa khô đen và bọc lấy quả non và hầu nhƣ ngừng sinh trƣởng. Lứa quả này
chỉ thực sự lớn nhanh vào cuối tháng 3, đầu tháng 4 năm sau (khi nhiệt độ không
khí cao) và thu hoạch quả vào tháng 8-9 gọi là vụ Hồi mùa. Thời gian từ khi ra hoa
cho đến khi chín kéo dài khoảng 6-7 tháng. Ngoài ra, các tác giả còn cho thấy năng
suất, chất lƣợng của vụ hồi chiêm thấp. Kích thƣớc và trọng lƣợng quả vụ Hồi tứ
quý (chiêm) chỉ bằng 30-40% so với quả vụ mùa và năng suất chỉ đạt 20-30% so
với quả vụ mùa. Thông thƣờng sau mỗi chu kỳ 2-3 năm cây hồi lại sai quả một lần
[6]. Theo Đỗ tất Lợi (1999) [13] cho rằng cây Hồi 20 năm tuổi thì bắt đầu cho
năng suất ổn định, năng suất quả tƣơi có thể đạt từ 20-30kg/cây/năm. Thời kỳ cho
năng suất cao và ổn định có thể kéo dài trong giai đoạn từ 20-80 tuổi, năng suất tối
đa có thể đạt tới 45-50kg/cây/năm. Chu kỳ canh tác cây hồi từ 90-100 năm [12],
[8]. Khi nghiên cứu về năng suất quả, Lƣu Đàm Cƣ đã xác định Hồi của Việt Nam
đƣợc gây trồng ở nhiều địa phƣơng với các điều kiện khí hậu, thổ nhƣỡng rất khác
nhau. Ngoài ra, do tính đa dạng cao và chƣa đƣợc chọn giống nên năng suất và
chất lƣợng tinh dầu Hồi ở các khu vực rất khác nhau và khó tìm đƣợc nguyên nhân
thuyết phục. Ngay trong một khu vực, hiện tƣợng khác biệt về năng suất và chất
lƣợng cũng thƣờng xảy ra [6]. Theo Lã Đình Mỡi, giai đoạn 5-6 tuổi Hồi bắt đầu ra

quả nhƣng năng suất rất thấp, thƣờng chỉ đạt 0,5-1 kg/cây. Giai đoạn từ 10-12 tuổi,
năng suất quả trung bình có thể đạt 7-20 kg/cây. Từ 20 năm tuổi trở đi, cây bắt đầu
cho năng suất quả ổn định nhƣng thƣờng chỉ đạt 20-30 kg/cây, năm đƣợc mùa có
thể lên tới 35-40 kg/cây. Cây Hồi có thể cho quả tới 100 năm tuổi [12].
Nhìn chung, hầu hết các nghiên cứu đều thống nhất Hồi sinh trƣởng tốt trên
đất feralitic vàng đỏ phát triển trên đá phiến thạch sét, phiến thạch mica, tầng đất
dày từ 1,5m trở lên, đất màu mỡ, còn tính chất đất rừng. Mỗi năm Hồi ra hoa 2 đợt,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
đợt hoa đầu tiên từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 7, đợt hoa thứ 2 nở tiếp ngay sau
lứa đầu kéo dài từ tháng 7 tới tháng 10 hàng năm. Tƣơng ứng hai vụ hoa, quả Hồi
đƣợc thu hoạch hai lần/năm, vụ thứ nhất (Hồi chiêm) thu hoạch vào tháng 12 hàng
năm, vụ này năng suất quả thấp, vụ thứ hai (Hồi mùa) thu hoạch vào tháng 8-9
hàng năm. Cây trồng từ hạt có thể ra hoa và bói quả ở giai đoạn 5-6 tuổi. Từ năm
20 năm tuổi trở đi, cây bắt đầu cho năng suất quả ổn định, năm bội thu có thể lên
tới 35-40 kg/cây. Năng suất Hồi của nƣớc ta không cao và không ổn định qua các
năm, chu kỳ sai quả cũng khá rõ rệt thƣờng là 2-3 năm là một chu kỳ sai quả.
1.2.4. Những nghiên cứu về kỹ thuật gây trồng
Lĩnh vực nghiên cứu gây trồng đã đƣợc nhiều tác giả đề cập rất sớm, hầu
hết các tác giả đều thống nhất thời vụ trồng Hồi vào vụ xuân hè và vụ thu; mật độ
trồng từ 400-500 cây/ha, cây cách cây 5m, hàng cách hàng 5m hoặc 4 x 5m; Xử lý
thực bì: thực bì cao trên 1m phát băng rộng 1m, chừa 4m theo đƣờng đồng mức;
Thực bì cao dƣới 1m phát băng rộng 2m, sau đó tiến hành gieo 3 hàng cốt khí. Hố
trồng cần chuẩn bị trƣớc khi trồng 3 tháng, kích thƣớc hố 40x40x40cm; Bón phân:
mỗi hố 0,5kg phân chuồng + 0,5 kg phân xanh ủ hoai. Trong quá trình chăm sóc
cần phát cây bụi xung quanh gốc theo diện tích tán cây, xới đất và nhặt sạch cỏ
trong phạm vi đã cuốc xung quanh gốc.
Tuy nhiên đến nay chƣa có nghiên cứu đầy đủ về thâm canh rừng Hồi.
Nghiên cứu phục tráng rừng Hồi của Bùi Ngạnh và Phí Quang Điện trong các năm

1978-1980 tại Lạng Sơn đều cho thấy bón phân và chăm sóc xới xáo đất để làm
tăng lƣợng hoa và quả của cây trong rừng Hồi. Tuy vậy thời gian các nghiên cứu
còn quá ngắn nên chƣa kịp có kết quả cụ thể [18].
1.2.5. Những nghiên cứu về giống
Giống cây trồng nói chung là một trong những tiến bộ kỹ thuật mang
tính đột phá nhằm nâng cao năng suất và chất lƣợng các sản phẩm. Nhận thức
đƣợc vấn đề này các nhà khoa học trong nƣớc cũng đã quan tâm đến lĩnh vực
giống từ khá nhiều năm trƣớc đây. Tuy đã có nhiều cố gắng trong lĩnh vực
giống nhất là cải thiện giống Hồi có năng suất, chất lƣợng cao, nhƣng do hạn
chế về kinh phí cũng nhƣ thời gian nghiên cứu, các nghiên cứu về cải thiện
giống Hồi trong thời gian gần đây cũng đã đạt đƣợc một số kết quả nhất định có
thể điểm qua 1 số kết quả sau đây:

×