Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
VŨ PHẠM THÁI
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DịCH TỄ BỆNH
TỤ HUYẾT TRÙNG, ĐẶC ĐIỂM SINH VẬT HỌC
CỦA VI KHUẨN PASTEURELLA MULTOCIDA GÂY
BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG Ổ LỢN TẠII TỈNH PHÚ
THỌ VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN, NĂM 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM
VŨ PHẠM THÁI
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM DịCH TỄ
BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG, ĐẶC ĐIỂM SINHVẬT
HỌC CỦA VI KHUẨN PASTEURELLA MULTOCIDA
GÂY BỆNH TỤ HUYẾT TRÙNG Ổ LỢN TẠII TỈNH
PHÚ THỌ VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỊ
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP
THÁI NGUYÊN, NĂM 2009
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan các số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này
là hoàn toàn trung thực và chưa hề sử dụng cho bảo vệ một học vị nào. Mọi
sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đã được cảm ơn và các thông tin tài
liệu trích dẫn trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Vũ Phạm Thái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
ii
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện và hoàn thành luận văn, cùng với sự nỗ lực
của bản thân, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình và trực tiếp của các
Thày hướng dẫn, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới:
- PGS.TS. Nguyễn Quang Tuyên
- PGS.TS. Cù Hữu Phú
Đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn tôi hoàn thành nội dung nghiên cứu đề
tài và mang lại kết quả ngày hôm nay.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự tạo điều kiện giúp đỡ của Lãnh đạo
Trường Đại học Nông lâm Thái Nguyên, Khoa sau đại học Trường Đại học
Nông lâm Thái Nguyên, Lãnh đạo và tập thể cán bộ Bộ môn Vi trùng, các
phòng ban chức năng của Viện Thú y Quốc gia, Lãnh đạo, phòng đào tạo và
khoa chăn nuôi thú y Trường Trung học Nông lâm nghiệp Phú Thọ.
Xin chân thành cảm ơn giúp đỡ quý báu của tập thể Lãnh đạo và cán bộ
Chi cục Thú y tỉnh Phú Thọ, tập thể Lãnh đạo và cán bộ Trạm Thú y các
huyện: huyện Lâm Thao, huyện Phù Ninh, Thị xã Phú Thọ và các anh, chị thú
y viên cơ sở, các hộ chăn nuôi thuộc các xã Tứ Xã, Sơn Vi, Hợp Hải, Phú
Nham, Gia Thanh, Hạ Giáp, Hà Thạch, Văn Lung và Hà Lộc.
Nhân dịp này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới gia đình, bạn bè đồng
nghiệp đã giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Xin trân trọng cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 10 năm 2009
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Vũ Phạm Thái
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iii
KÝ HIỆU CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
n
:
Số lượng
%
:
Tỷ lệ phần trăm
cs
:
Cộng sự
P. multocida
:
Pasteurella multocida
YPC
:
Yeast extract Peptone L - Cytine
TSA
:
Trytone soy agar
THT
:
Tụ huyết trùng
PCR
:
Polymerase Chain Reaction
HS
:
Haemorrhagic Septicaemia
ml
:
mililit
TT
:
Thể trọng
+ Chú thích:
LT1
:
Mẫu nghiên cứu sô 1 tại Lâm Thao
PN4
:
Mẫu nghiên cứu sô 4 tại Phù Ninh
TX10
:
Mẫu nghiên cứu sô 10 tại T.X Phú Thọ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
iv
DANH MỤC ẢNH CỦA LUẬN VĂN
TT ẢNH
NỘI DUNG ẢNH
TRANG
Ảnh 1
Triệu chứng lâm sàng lợn mắc bệnh tụ huyết trùng
94
Ảnh 2
Bệnh tích phổi lợn xung huyết và tụ huyết
94
Ảnh 3
Bệnh tích phổi lợn xung huyết và tụ huyết
95
Ảnh 4
Khuẩn lạc tụ huyết trùng sau khi nuôi cấy 24h ở 37
0
C
95
Ảnh 5
Hình thái vi khuẩn tụ huyết trùng trên kính hiển vi
96
Ảnh 6
Kết quả thử phản ứng lên men đường
96
Ảnh 7
Khả năng mẫn cảm hoặc kháng kháng sinh của các
chủng vi khuẩn phân lập được
97
Ảnh 8
Các sản phẩm của phản ứng PCR
97
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
v
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ i
1. Tính cấp thiết của đề tài 1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài 2
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài 2
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3
1.1. Tình hình bệnh tụ huyết trùng gia súc 3
1.1.1. Trên thế giới 3
1.1.2. Ở Việt Nam 5
1.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh tụ huyết trùng lợn 6
1.2.1. Nguồn bệnh, đường xâm nhiễm của mầm bệnh và cơ chế gây
bệnh tụ huyết trùng 6
1.2.2. Chất chứa và độc tố của vi khuẩn P. multocida 8
1.2.3. Tuổi mắc bệnh của gia súc 8
1.2.4. Mùa vụ phát bệnh 9
1.2.5. Vùng phát dịch 10
1.2.6. Hiện tượng mang vi khuẩn P. multocida ở đường hô hấp trên của
động vật khỏe. Nguồn lây lan bệnh tạo các ổ dịch tụ huyết trùng 11
1.2.7. Đặc tính sinh học của vi khuẩn Pasteurella multocida gây bệnh
tụ huyết trùng 13
1.2.8. Đặc điểm nuôi cấy 16
1.2.9. Đặc tính sinh hoá của vi khuẩn P. multocida 22
1.2.10. Cấu trúc kháng nguyên P. multocida và type huyết thanh 23
1.2.11. Sức đề kháng của vi khuẩn P. multocida 27
1.3.Tính gây bệnh của vi khuẩn P. multocida 28
1.4. Chẩn đoán bệnh tụ huyết trùng lợn 33
1.5. Biện pháp phòng và trị bệnh tụ huyết trùng 36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vi
CHƢƠNG 2: NỘI DUNG, ĐỐI TƢỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU 43
2.1. Nội dung nghiên cứu 43
2.2. Đối tượng, địa điểm 43
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu 43
2.2.2. Địa điểm 43
2.3. Vật liệu 43
2.3.1. Mẫu bệnh phẩm dùng phân lập vi khuẩn 43
2.3.2. Động vật thí nghiệm: Chuột bạch có trọng lượng từ 18 - 20gam/con. 44
2.3.3. Giống vi khuẩn: Các chủng P. multocida phân lập được để xác
định các đặc tính sinh vật, hóa học được đông khô giữ giống. 44
2.3.4. Các hệ mồi (Primer): Dùng để xác định serotype vi khuẩn
P.multocida bằng phương pháp PCR. 44
2.3.5. Các loại đường dùng cho phản ứng lên men đường 44
2.3.6. Máy móc, thiết bị, dụng cụ phòng thí nghiệm 44
2.3.7. Các loại hóa chất dùng cho nghiên cứu 44
2.3.8. Môi trường sử dụng và nuôi cấy vi khuẩn 44
2.4. Phương pháp nghiên cứu 44
2.4.1. Phương pháp điều tra dịch tễ bệnh THT lợn 44
2.4.2. Phương pháp lấy mẫu 44
2.4.3. Phương pháp nuôi cấy, phân lập vi khuẩn 45
2.4.4. Phương pháp xác định một số đặc tính sinh vật, hoá học của vi
khuẩn P. multocida 47
2.4.5. Phương pháp kiểm tra độc lực của vi khuẩn P. multocida phân
lập được 47
2.4.6. Phương pháp xác định type kháng nguyên của P. multocida 50
2.4.7. Phương pháp xử lý số liệu 51
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
vii
CHƢƠNG 3: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 52
3.1. Kết quả điều tra tình hình dịch bệnh tụ huyết trùng lợn tại các
huyện nghiên cứu ở tỉnh Phú Thọ 52
3.1.1. Kết quả điều tra bệnh tụ huyết trùng ở lợn tại tỉnh Phú Thọ qua
các năm 2006 - 2008 52
3.1.2. Kết quả điều tra số lượng lợn mắc và chết do bệnh tụ huyết trùng
tại tỉnh Phú Thọ ở các mùa vụ 56
3.1.3. Kết quả điều tra tỷ lệ lợn mắc bệnh tụ huyết trùng ở các lứa tuổi 59
3.1.4. Kết quả điều tra tỷ lệ lợn mắc và chết do bệnh tụ huyết trùng ở
tỉnh Phú Thọ theo phương thức chăn nuôi 61
3.1.5. Kết quả điều tra tỷ lệ lợn mắc bệnh và chết do bệnh tụ huyết
trùng tại tỉnh Phú Thọ theo giống lợn 64
3.1.6. Kết quả theo dõi các triệu chứng ở lợn bệnh nghi mắc tụ huyết trùng 66
3.1.7. Kết quả kiểm tra bệnh tích của lợn ốm nghi mắc bệnh tụ huyết trùng 68
3.2. Kết quả phân lập vi khuẩn Pasteurella từ bệnh phẩm của lợn chết
nghi mắc bệnh tụ huyết trùng 69
3.3. Kết quả phân lập Pasteurella từ dịch ngoáy mũi của lợn khoẻ 70
3.4. Kết quả xác định đặc tính sinh hoá của vi khuẩn Pasteurella phân
lập được 72
3.5. Kết quả thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh tụ huyết trùng lợn 80
CHƢƠNG 4: KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 82
4.1. Kết luận 82
4.2. Đề nghị 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO 84
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 3.1: Kết quả điều tra bệnh tụ huyết trùng ở lợn tại tỉnh Phú Thọ 53
Bảng 3.2: Kết quả điều tra bệnh tụ huyết trùng ở lợn tại tỉnh Phú Thọ
qua các năm 55
Bảng 3.3: Kết quả điều tra tỷ lệ lợn mắc và chết do bệnh tụ huyết trùng
ở các thời vụ 57
Bảng 3.4: Kết quả điều tra tỷ lệ lợn mắc và chết bệnh tụ huyết trùng ở
các lứa tuổi 60
Bảng 3.5: Kết quả điều tra tỷ lệ lợn mắc và chết bệnh tụ huyết trùng ở
tỉnh Phú Thọ theo phương thức chăn nuôi 62
Bảng 3.6: Kết quả điều tra tỷ lệ lợn mắc và chết bệnh tụ huyết trùng
theo giống lợn 65
Bảng 3.7: Kết quả theo dõi các triệu chứng ở lợn bệnh nghi mắc tụ
huyết trùng 67
Bảng 3.8: Kết quả kiểm tra bệnh tích của lợn ốm nghi mắc bệnh tụ huyết
trùng 68
Bảng 3.9: Kết quả phân lập vi khuẩn Pasteurella từ bệnh phẩm của lợn
chết nghi mắc bệnh tụ huyết trùng 69
Bảng 3.10: Kết quả phân lập Pasturella từ dịch ngoáy mũi của lợn khoẻ 71
Bảng 3.11: Kết quả kiểm tra đặc tính sinh vật hoá học của vi khuẩn
Pasteurella phân lập được 73
Bảng 3.12: Kết quả kiểm tra khả năng lên men một số loại đường của
các chủng Pasteurella phân lập được 74
Bảng 3.13. Kết quả định type vi khuẩn P. multocida bằng phản ứng
PCR 76
Bảng 3.14: Kết quả xác định độc lực của các chủng P. multocida phân
lập được 77
Bảng 3.15: Kết quả kiểm tra khả năng mẫn cảm với một số kháng sinh
của các chủng P. multocida phân lập được 79
Bảng 3.16: Kết quả thử nghiệm một số phác đồ điều trị bệnh tụ huyết trùng lợn 80
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chăn nuôi của tỉnh Phú Thọ đang có bước phát triển, hiện nay đã hình
thành nhiều trang trại chăn nuôi lợn theo hướng hàng hóa bên cạnh những hộ
chăn nuôi trước đây. Tổng đàn lợn của tỉnh theo ước tính có trên 55 vạn con,
tốc độ tăng trung bình 5 - 6% năm. Đến nay, cả tỉnh có trên 300 trang trại
nuôi lợn nái giống ngoại. Đồng thời, tỉnh có nhiều chính sách khuyến khích,
hỗ trợ phát triển chăn nuôi và chăn nuôi lợn đang trở thành ngành chính trong
sản xuất nông nghiệp.
Tuy vậy, để chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng phát triển
cho hiệu quả cao, ngoài công tác giống, thức ăn, quản lý, chăm sóc…thì công
tác phòng, chống dịch bệnh cần được đặc biệt coi trọng. Trong những năm
qua ngành thú y trong cả nước hoạt động mạnh mẽ nên đã hạn chế được nhiều
bệnh truyền nhiễm cho vật nuôi và đảm bảo cho chăn nuôi phát triển. Với đặc
điểm của từng vùng, khu vực, địa phương và nhiều nguyên nhân khác nhau
nên vẫn còn một số bệnh truyền nhiễm thường xảy ra ở gia súc, trong đó có
bệnh tụ huyết trùng lợn. Đây là bệnh gây nguy hiểm không chỉ đối với lợn mà
còn đối với nhiều loài gia súc, gia cầm khác, bệnh này xảy ra ở hầu hết các
vùng chăn nuôi lợn trên thế giới.
Những năm qua, bệnh tụ huyết trùng xảy ra ở đàn lợn nuôi tại tỉnh Phú
Thọ theo ước tính hàng năm có tới 25 - 30% tổng đàn lợn nuôi. Việc chẩn
đoán, phòng chống bệnh này tại tỉnh Phú Thọ còn gặp nhiều khó khăn do có
những đặc thù riêng về địa lý, kinh tế xã hội, tập quán chăn nuôi lạc hậu,
trình độ dân trí chưa cao. Đặc biệt ở những nơi dân tộc ít người sinh sống,
việc áp dụng khoa học kỹ thuật và phòng chống dịch bệnh trong chăn nuôi
còn hạn chế. Chính những nhân tố đó đã tạo nên sự tồn tại, phát sinh nhiều ổ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2
dịch tụ huyết trùng lợn lẻ tẻ ở vật nuôi, gây thiệt hại đáng kể về kinh tế cho
người chăn nuôi.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của thực tiễn sản xuất, chúng tôi đã tiến
hành đề tài: “Nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ bệnh tụ huyết trùng lợn,
đặc điểm sinh vật học của vi khuẩn Pasteurella multocida gây bệnh tụ
huyết trùng ở lợn nuôi tại tỉnh Phú Thọ và biện pháp phòng trị”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
+ Điều tra tình hình bệnh tụ huyết trùng ở lợn nuôi tại tỉnh Phú Thọ: Xác
định tỷ lệ lợn khoẻ mang vi khuẩn THT và tỷ lệ lợn ốm chết do bệnh tụ huyết trùng.
+ Phân lập, xác định một số đặc điểm sinh học và type của vi khuẩn
Pasteurella phân lập được.
+ Thử nghiệm phác đồ phòng và trị bệnh tụ huyết trùng lợn cho tỉnh
Phú Thọ đạt hiệu quả cao.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Đây là đề tài đầu tiên nghiên cứu về bệnh tụ huyết trùng lợn tại huyện
Lâm Thao, huyện Phù Ninh và Thị xã Phú Thọ tỉnh Phú Thọ thử nghiệm phác
đồ phòng và trị bệnh tụ huyết trùng lợn cho tỉnh Phú Thọ đạt hiệu quả cao.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình bệnh tụ huyết trùng gia súc
1.1.1. Trên thế giới
Bệnh tụ huyết trùng đã được Bollinger phát hiện đầu tiên năm 1878,
những năm tiếp theo nhiều nhà nghiên cứu cũng đã phát hiện ra bệnh ở các
loài vật khác nhau. Mầm bệnh được tìm thấy ở bò tại Munic (Đức) năm 1878;
ở thỏ năm 1881; ở lợn do Loeffer phát hiện năm 1886; ở trâu năm 1887 và
sau đó đã phát hiện vi khuẩn còn gây bệnh cho nhiều loài động vật khác
(Cater, 1959)[51]. Pavri và Apte (1976)[79] đã ghi nhận vi khuẩn tụ huyết
trùng gây bệnh cho hươu, nai, chó, mèo, ngựa, chồn, khỉ…
Năm 1880, Louis Passteur lần đầu tiên phân lập được vi khuẩn gây
bệnh từ xác gà chết. Sau đó nhiều nhà khoa học cũng phân lập được vi khuẩn
gây bệnh tương tự từ các loài động vật khác nhau như: Gaffky (1881) phân
lập được vi khuẩn trên thỏ và Kitt (1885) phân lập được vi khuẩn trên bò…
Năm 1887, Trevisan đề nghị đặt tên vi khuẩn là Pasteurella để ghi nhớ
công lao của Louis Pasteur - người đầu tiên xác định vi khuẩn là nguyên nhân
gây bệnh tụ huyết trùng.
Sau này, người ta đặt tên vi khuẩn gây bệnh tụ huyết trùng cho động
vật theo tên vật chủ mà chúng thích nghi gây bệnh.
Pasteurella suiseptica gây bệnh cho lợn
Pasteurella boviseptica gây bệnh ở trâu, bò
Pasteurella aviseptica gây bệnh ở gà
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
4
Rosenbush và Merchant (1939) [87] đã đề nghị đặt tên cho vi khuẩn
này là Pasteurella multocida (P. multocida) để chỉ khả năng gây bệnh cho
nhiều loài vật của chúng, tên vi khuẩn này đã được công nhận chính thức trên
thế giới và được sử dụng cho đến ngày nay. Bệnh do P. multocida gây ra
thường ở hai thể chủ yếu là nhiễm trùng máu, xuất huyết Haemorrhagic
Septicaemia (HS) và viêm phổi ở bò (Bovine Pneumonia). Thể viêm phổi ở
bò thấy tại các nước châu Âu và Bắc Mỹ (Frank, 1989)[62]. Bệnh tụ huyết
trùng lợn gặp ở khắp các châu lục, xảy ra lẻ tẻ, ít khi thành dịch (Lê Minh Trí
và cs, 1999)[37]. Thể nhiễm trùng máu, xuất huyết (HS) thấy ở trâu, bò các
nước châu Á và châu Phi (Phan Thanh Phượng, 2000)[29].
Từ năm 1887 đến nay, bệnh THT đã được phát hiện ở nhiều nước
trên thế giới, bệnh gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế cho nhiều nước,
nhất là ở các nước nhiệt đới nóng ẩm thuộc châu Á, bệnh xảy ra tại các
nước Đông Dương, Ấn Độ, Indonesia, Malaysia. Ở Nhật Bản, bệnh được
phát hiện vào năm 1923, song không thấy gây thành dịch và không thể hiện
dịch tễ. Bệnh cũng được phát hiện ở bò rừng Vườn thú quốc gia Mỹ vào
các năm 1912, 1922, 1967 và chỉ thấy có một báo cáo cho biết bệnh có ở
bò sữa vào năm 1969 (Cater, 1982)[53]. Năm 1984, Tổ chức dịch tễ thế
giới OIE (Office International Epizooties) chính thức công bố bệnh THT
trâu, bò trên thế giới (FAO, 1991)[61], OIE cũng phân loại bệnh (HS) vào
bảng B trong danh mục các bệnh truyền nhiễm nguy hiểm ở gia súc. Theo
(De Alwis, 1992a De Alwis, 1992a[57]) bệnh cũng đã sảy ra ở châu Phi và
gây thiệt hại nghiêm trọng cho đàn gia súc.
Kể từ khi phát hiện đến nay, vi khuẩn P. multocida vẫn là nguyên nhân
gây bệnh tụ huyết trùng cho nhiều loài gia súc và gia cầm. Tuy có tính thích
nghi gây bệnh trên các loài vật khác nhau, nhưng P. multocida đều có đặc tính
cơ bản giống nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
1.1.2. Ở Việt Nam
Có nhiều nghiên cứu về bệnh tụ huyết trùng, theo Phan Đình Đỗ và Trịnh
Văn Thịnh (1958)[2] bệnh tụ huyết trùng trâu, bò được phát hiện đầu tiên vào
năm 1868 bởi Condamin ở Bà Rịa, Long Thành, sau đó Gemain (1869) phát
hiện bệnh ở Gò Công; Shein (1901) xác định có bệnh này ở Tây Ninh. Những
năm sau này Nguyễn Vĩnh Phước (1978a)[24], Hoàng Đạo Phấn (1986)[19] đã
nghiên cứu về đặc tính của P. multocida và type huyết thanh của chúng.
Một số tác giả trong nước đã nghiên cứu bệnh tụ huyết trùng ở gia súc
như: Dương Thế Long (1995)[14] nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ và vi
khuẩn học của bệnh THT trâu, bò ở Sơn La để xác định biện pháp phòng trị
thích hợp. Võ Văn Hùng (1997)[10] nghiên cứu về đặc điểm dịch tễ học bệnh
THT lợn ở Đắk Lắk và biện pháp phòng trị.
Trước đây bệnh tụ huyết trùng lợn xảy ra mạnh ở các tỉnh phía Nam và
xảy ra lẻ tẻ ở các tỉnh phía Bắc. Trong những năm 1970, có 80% số ổ dịch và
84% số gia súc thiệt hại do bệnh tụ huyết trùng thuộc về các tỉnh ở Phía Nam.
Đến những năm 1990 phân bố địa lý của bệnh nghiêng về các tỉnh phía Bắc,
số địa phương có dịch tụ huyết trùng cũng tăng lên nhiều, hàng năm có 20-25
tỉnh thông báo có bệnh lưu hành (Bùi Quý Huy, 1998)[11].
Ở Việt Nam, đã có một số nghiên cứu về bệnh tụ huyết trùng ở vật nuôi
như: Bùi Văn Dũng (2000)[4] nghiên cứu tình hình bệnh THT và vi khuẩn P.
multocida phân lập từ dịch ngoáy mũi trâu, bò khỏe ở tỉnh Lai Châu; Phan
Thanh Phượng (2000)[26] nghiên cứu về bệnh tụ huyết trùng ở gia súc, gia
cầm và biện pháp phòng chống; Cao Văn Hồng (2002)[9] nghiên cứu đặc
điểm dịch tễ học bệnh tụ huyết trùng trâu, bò, lợn tại Đắk Lắk; Hoàng Đăng
Huyến (2004)[12] nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, các yếu tố ảnh hưởng đến
bệnh THT ở Bắc Giang; Nguyễn Văn Minh (2005)[15] nghiên cứu một số đặc
điểm dịch tễ bệnh THT và xác định tỷ lệ mang trùng Pasteurella ở đàn trâu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
bò tỉnh Hà Tây; Trần Xuân Hạnh và Tô Thị Phấn (2007)[8] nghiên cứu một
số đặc tính của vi khuẩn P. multocida phân lập từ trâu, bò, lợn; Đỗ Ngọc
Thúy và cs (2007)[36] đã ứng dụng kỹ thuật PCR để định type các chủng vi
khuẩn P. multocida phân lập từ vật nuôi. Tuy nhiên việc nghiên cứu vi khuẩn
P. multocida gây bệnh ở lợn một cách hệ thống thì vẫn còn chưa đầy đủ.
1.2. Đặc điểm dịch tễ bệnh tụ huyết trùng lợn
Bệnh tụ huyết trùng lợn là bệnh truyền nhiễm do vi khuẩn P. multocida
gây ra thường ở thể nhiễm trùng máu, xuất huyết (Haemorrhagic Septicaemia).
Bệnh thường phát sinh rải rác, nhưng có khi tạo thành dịch lây lan rộng tại địa
phương. Hiện nay, bệnh tụ huyết trùng lợn xuất hiện ở hầu hết các địa phương
trong cả nước và gây tổn thất đáng kể về kinh tế cho người chăn nuôi.
1.2.1. Nguồn bệnh, đƣờng xâm nhiễm của mầm bệnh và cơ chế gây bệnh
tụ huyết trùng
Trong tự nhiên các giống lợn đều mắc bệnh, trong đó lợn sau cai sữa,
lợn từ 3 - 6 tháng tuổi hay mắc bệnh nhất. Nguồn lây lan bệnh tụ huyết trùng
chủ yếu là lợn bị bệnh, mang trùng và thải ra môi trường, do việc giết mổ thịt
đem phân tán làm cho dịch lây lan rộng, đặc biệt là quá trình vận chuyển lợn
từ nơi này sang nơi khác. Theo Nguyễn Vĩnh Phước (1970)[23] lợn mắc bệnh
cấp tính thì trong máu, dịch bài tiết, các phủ tạng đều có vi khuẩn và bài thải
vi khuẩn ra môi trường ngoài trong thời kỳ nung bệnh. Ngoài ra, vi khuẩn
P.multocida còn gặp thường xuyên trong cơ thể lợn khỏe, chúng cư trú ở
niêm mạc đường hô hấp trên, ở hầu bệnh súc, khi gia súc gặp điều kiện không
thuận lợi như stress, thời tiết thay đổi, mật độ nuôi nhốt đông, chăm sóc nuôi
dưỡng kém làm sức đề kháng con vật giảm thì vi khuẩn P. multocida sẽ tăng
độc lực và gây bệnh. Bệnh tụ huyết trùng lan truyền theo hai phương thức
trực tiếp và gián tiếp. Truyền bệnh trực tiếp do tiếp xúc giữa lợn ốm với lợn
khỏe hoặc qua không khí thở ra từ lợn ốm rồi lợn khỏe hít vào, đây là cách
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
truyền bệnh phổ biến trong đàn khi có lợn mắc bệnh tụ huyết trùng. Truyền
bệnh gián tiếp khi vi khuẩn vào đường tiêu hóa qua thức ăn, nước uống bị
nhiễm khuẩn hoặc qua các vết xước ở da, niêm mạc. Phương thức truyền
bệnh ngang và truyền bệnh dọc đều có thể xảy ra nhưng chưa được chứng
minh rõ ràng về cơ chế gây bệnh, nhiều tác giả cho rằng bệnh đường hô hấp
ở lợn là kết quả tác động của nhiều yếu tố gây nên, chứ không phải duy nhất
do cảm nhiễm vi khuẩn. Vì vậy, bệnh tụ huyết trùng lợn không phải chỉ là
kết quả của cảm nhiễm xảy ra đột ngột, mà phải có một quá trình vi khuẩn
có sẵn cư trú ở đường hô hấp sản sinh một lượng lớn, gây tổn thương phổi.
Kết quả này chỉ xảy ra khi sức đề kháng của vật chủ yếu đi. Mặc dù cơ chế
sinh bệnh tụ huyết trùng lợn chưa được nghiên cứu đầy đủ, nhưng những
dẫn chứng hiện có đã chỉ ra rằng vi khuẩn P. multocida gây bệnh tụ huyết
trùng lợn bằng các yếu tố có sẵn.
Theo Nguyễn Vĩnh Phước (1978b)[25] vi khuẩn P. multocida phân
lập từ bệnh phẩm lợn bị tụ huyết trùng thường có giáp mô mỏng thể hiện
dung quang rõ. Nhưng khi cấy chuyển nhiều lần trên môi trường nhân tạo
giáp mô biến mất, dung quang không rõ thì độc lực cũng giảm. Vì vậy,
nhiều tác giả cho rằng giáp mô là yếu tố gây bệnh thông qua việc giúp cho vi
khuẩn tránh được hiện tượng thực bào và các yếu tố phòng vệ không đặc
hiệu của vật chủ. Mặt khác, hiện tượng bám dính, cơ chế gây bệnh của vi
khuẩn này cũng đã được một số tác giả nghiên cứu như Trigo (1989)[92] đã
xác định được yếu tố bám dính của P. multocida type D và A phân lập từ lợn
bị bệnh tụ huyết trùng và chứng minh chúng bám dính trên tế bào nuôi cấy,
nhưng gây bệnh trong tự nhiên thì P. multocida type A chỉ bám dính trên tế
bào biểu mô không có nhung mao. Vì vậy, mỗi type đều có vị trí bám trên
các tổ chức có tế bào biểu mô khác nhau dẫn đến đường xâm nhập, thể bệnh
gây ra cũng khác nhau.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
1.2.2. Chất chứa và độc tố của vi khuẩn P. multocida
Vi khuẩn P. multocida thường tồn tại trong cơ thể gia súc khỏe mạnh và
cư trú ở niêm mạc đường hô hấp trên, trong niêm mạc mũi, nước mũi và có khi
trong ruột. Vì thế, có thể phân lập vi khuẩn này từ vòm khẩu cái và hạch nhân
của gia súc khỏe. Ở những gia súc này có hiện tượng mang trùng và liên tục
thải vi khuẩn ra ngoại cảnh qua đường hô hấp, nguồn vi khuẩn phân lập được
bằng cách nuôi cấy các hạch lympho lấy từ lò mổ hay từ các dịch tiết ở mũi,
hầu (Omar và cs, 1982)[78]. Trong cơ thể con vật bị bệnh ở thể quá cấp tính và
cấp tính vi khuẩn P. multocida có nhiều trong máu, tủy xương, gan, lách, phổi,
tim và các chất bài tiết đều có chứa vi khuẩn. Mầm bệnh còn có trong các dịch
rỉ, dịch trào ra ở hầu hết các mô và cơ quan do kết quả của nhiễm trùng máu
giai đoạn cuối (Carter, 1989 )[55]. Trong xác chết, vi khuẩn có thể tồn tại lâu
trong tủy xương, do vậy khi gia súc đã chết lâu ngày mà nghi bệnh tụ huyết
trùng thì bệnh phẩm tốt nhất là xương ống. Con vật mắc bệnh ở thể mãn tính,
vi khuẩn có trong khớp bị viêm, ở gan và lách. Ackemann và cs, (1994)[42]
cho rằng hạch nhân là nơi P. multocida thường tập trung nhiều nhất, có vai trò
gây bệnh viêm khí quản, viêm phổi, viêm màng phổi
1.2.3. Tuổi mắc bệnh của gia súc
Bệnh tụ huyết trùng xảy ra ở mọi lứa tuổi của gia súc, theo các tác giả thì
gia súc non đang bú mẹ ít mắc hơn những con trưởng thành, gia súc sau cai sữa
dễ mắc bệnh hơn gia súc già. Các giống lợn đều mắc bệnh THT, bệnh thường
xảy ra ở lợn 3 - 6 tháng tuổi. Võ Văn Hùng (1997)[10] khi nghiên cứu bệnh tụ
huyết trùng ở Đắk Lắk cho biết lợn ở lứa tuổi 3 - 4 tháng mẫn cảm nhất với
bệnh. Theo Bùi Quý Huy (1998)[11] lợn dưới 2 tháng tuổi ít mắc bệnh hơn.
Ở một số nước châu Á những con vật non dễ cảm nhiễm hơn những
con vật trưởng thành (De Alwis, 1999)[58]. Cao Văn Hồng (2002)[9] khi
nghiên cứu về bệnh THT gia súc ở Đắk Lắk cho biết ở lợn từ 3 -10 tháng tuổi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
có tỷ lệ mắc bệnh cao nhất 4,62%, còn lợn trên 10 tháng tuổi có tỷ lệ mắc
bệnh thấp, chiếm 2,08%.
1.2.4. Mùa vụ phát bệnh
Bệnh tụ huyết trùng ở gia súc phụ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết, khí
hậu. Mustafa và cs (1978)[74] khi nghiên cứu về ảnh hưởng của mùa vụ tới bệnh tụ
huyết trùng đã nhận xét, bệnh thường liên quan đến điều kiện khí hậu ẩm ướt.
Ở Việt Nam, bệnh xảy ra quanh năm nhưng thường xảy ra vào các
tháng mưa nhiều. Nguyễn Vĩnh Phước (1978a)[24], (1978b)[25] cho rằng khi
bắt đầu mùa mưa, khí hậu nóng ẩm thì bệnh lây lan và phát thành dịch. Đặc
biệt là sau những trận mưa đầu mùa mang đến, những thay đổi về sức khỏe do
gia súc bị lạnh.
Theo Yeo và Mukhtar (1992)[95] khi nghiên cứu dịch tễ học bệnh THT
phải quan tâm đến điều kiện thời tiết, khí hậu và địa lý của từng vùng vì
những yếu tố này ảnh hưởng đến sự tồn tại và phát triển của mầm bệnh trong
môi trường sinh sống của động vật cảm nhiễm.
Carter và De Alwis (1989)[55] nhận xét bệnh THT xảy ra quanh năm
song tập trung vào các tháng mưa, ẩm. Ở Lào bệnh phát ra từ tháng 5 đến
tháng 8; ở Pakistan bệnh xảy ra rải rác quanh năm song thường ở tháng 4 đến
tháng 6 hàng năm (FAO, 1991[61]). Ở đảo Java (Indonesia) bệnh xuất hiện vào
cuối mùa khô, đầu mùa mưa (Natalia và cs, 1992)[77], bệnh xảy ra các tháng 8, 9
ở Malaysia (Yeo và Mukhtar, 1992)[95]. Ở Campuchia, bệnh xảy ra vào cuối mùa
nóng (Kral và cs, 1992)[70].
Ở những vùng ngập lụt sau khi nước rút đi, cỏ bị dính bùn và thối, nên
bệnh thường phát sinh vào các tháng có mưa nhiều và chuyển mùa (Đoàn Thị
Băng Tâm, 1987)[31], Dương Thế Long (1995)[14], Nguyễn Xuân Bình
(1996)[1], Nguyễn Thiên Thu (1996)[35], Võ Văn Hùng (1997)[10], đều cho
rằng vào thời gian mưa, bệnh xảy ra nhiều. Bùi Quý Huy (1998)[11] cho biết
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
ở miền Bắc bệnh có quanh năm nhưng tập trung vào các tháng mưa nhiều từ
tháng 7 đến tháng 9. Ở miền Nam bệnh xảy ra mạnh sau khi mưa và nắng từ
tháng 4 đến tháng 10. Từ tháng 7 đến tháng 9 số ở dịch chiếm tới 78% trong
tổng số các ổ dịch sảy ra trong năm. Đỗ Văn Được (1999)[5] cho biết ở Lạng
Sơn bệnh xảy ra mạnh từ tháng 4 đến tháng 8, tháng 9, bệnh xảy ra nhiều đối
với gia súc chưa được tiêm phòng vac-xin. Bùi Xuân Đồng (2000)[3] nghiên
cứu bệnh THT trâu, bò ở Hải Phòng cho thấy bệnh bắt đầu vào tháng 4, đỉnh
cao là tháng 6 và tháng 7. Theo Bùi Văn Dũng (2000)[4] cho biết ở Lai Châu
bệnh THT xảy ra quanh năm nhưng tập trung vào tháng 3, tháng 4, tháng 7,
tháng 8 và vào cuối mùa khô, đầu mùa mưa. Cao Văn Hồng (2002)[9] cho
biết mùa dịch THT ở Đắk Lắk từ tháng 5 đến tháng 9, đây là những tháng
mưa nhiều. Theo Hoàng Đăng Huyến (2004)[12] bệnh THT xảy ra ở Bắc
Giang từ tháng 4 đến tháng 9 háng năm, thời gian này đang là mùa mưa. Cũng
theo Nguyễn Văn Minh (2005)[15] bệnh THT xảy ra rải rác quanh năm
nhưng tập trung từ tháng 3 đến tháng 8, vào các tháng đầu mùa mưa đến cuối
mùa mưa của vụ hè thu, cao nhất là tháng 5 và tháng 6, đây là những tháng
nắng, nhiệt độ, ẩm độ cao và mưa nhiều.
1.2.5. Vùng phát dịch
Theo Phan Đình Đỗ và Trịnh Văn Thịnh (1958)[2] bệnh thường xảy ra ở
những vùng ẩm thấp, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều, đặc biệt là vào đầu mùa mưa.
Điều kiện tự nhiên, khí hậu và phương thức chăn nuôi cũng ảnh hưởng đến quá
trình phát sinh và lây lan bệnh. Đặc biệt là ở những vùng đất trũng, ẩm thấp, lầy
lội, bị ngập lụt, có nhiều ruộng nước, nhiều kênh rạch, bệnh thường xảy ra và lây
lan mạnh, làm chết nhiều gia súc.
Đoàn Thị Băng Tâm (1987)[31], Nguyễn Ngã (1996)[17] cho biết bệnh
này phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Theo Võ Văn
Hùng (1997)[10] bệnh xảy ra ở vùng có địa hình phức tạp như núi cao, đầm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
lầy, trình độ dân trí thấp, tập quán chăn nuôi lạc hậu. Năm 1990, riêng 3 tỉnh
Sơn La, Hoàng Liên Sơn, Bắc Thái số ổ dịch THT gia súc chiếm 60% và
trong đó có tới 70% số gia súc chết so với toàn miến Bắc (Bùi Quý Huy,
1998)[11]. Đỗ Văn Được (2003)[5] cho biết ở Lạng Sơn vùng núi đất có độ
dốc lớn, nhiệt độ thấp, độ ẩm cao, tập quán chăn nuôi còn lạc hậu, chăn thả tự
do thì tỷ lệ bị nhiễm bệnh và chết cao. Theo Hoàng Đăng Huyến (2004)[12] ở
Bắc Giang những vùng đồi núi thấp, tỷ lệ mắc bệnh THT và chết cao. Nguyễn
Văn Minh (2005)[15] thông báo ở Hà Tây tỷ lệ trâu, bò ốm chết vì bệnh THT ở
vùng đồi, bán sơn địa cao hơn so với vùng chiêm trũng và vùng đồng bằng.
Ở những vùng phương thức chăn nuôi còn chăn thả rông, không có
người chăm sóc, không làm chuồng nuôi nhốt, để gia súc ở những nơi bùn
lầy, ngập nước không dọn phân thường xuyên, công tác vệ sinh thú y, chăm
sóc nuôi dưỡng gia súc kém thì khả năng xảy ra bệnh cao. Ngoài ra trình độ
nhận thức của người dân về công tác phòng chống bệnh chưa cao, việc áp
dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào việc phòng chống dịch bệnh còn nhiều
khó khăn thì cũng không tránh khỏi việc dịch bệnh thường xuyên sảy ra.
1.2.6. Hiện tƣợng mang vi khuẩn P. multocida ở đƣờng hô hấp trên của
động vật khỏe. Nguồn lây lan bệnh tạo các ổ dịch tụ huyết trùng
Từ khi phát bệnh tụ huyết trùng do P. multocida gây ra đến nay đã hơn
100 năm, có khá nhiều công trình nghiên cứu về vi khuẩn P. multocida, về
bệnh học Pasteurellosis và vac-xin tiêm phòng bệnh nhưng vẫn không loại trừ
và thanh toán được bệnh, đặc biệt là những nước nhiệt đới, bệnh tụ huyết
trùng vẫn là mối đe dọa cho người chăn nuôi.
Hiện tượng mang vi khuẩn P. multocida ở động vật sống đã được nhiều
nhà khoa học nghiên cứu. Gupta (1962)[63] đã phân lập được P. multocida
type Robert F ở đường hô hấp của lợn khỏe.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
Theo Nguyễn Vĩnh Phước (1970)[23] trong đàn gà thường xuyên có
mầm bệnh tụ huyết trùng, tỷ lệ gà khỏe mang trùng lên tới 20 - 30%, còn đàn
gà không bị bệnh thì không có gà khỏe mang trùng. Ảnh hưởng của đàn
gà khỏe mang trùng đến đàn gà nuôi có xảy ra dịch hay không vẫn chưa được
làm rõ và tác giả có nhận xét rằng khi gia súc mang vi trùng P. multocida đây
cũng chính là nguồn reo rắc mầm bệnh ra môi trường, vi khuẩn Pasteurella
xâm nhập vào các con khỏe gây nên các ổ dịch.
Mustafa (1978)[74] đã tiến hành lấy dịch ngoáy mũi trâu, bò để phân
lập P. multocida và có nhận xét thường ở nơi không có dịch tụ huyết trùng
trâu bò, thì tỷ lệ trâu bò khỏe mạnh mang trùng là 3%, còn ở nơi có dịch tụ
huyết trùng trâu bò tỷ lệ mang trùng là 44,4%.
Gupta (1980)[64] nghiên cứu bệnh THT ở Ấn Độ thấy tỷ lệ mang trùng ở
trâu bò khỏe trong vùng không có dịch là 0%, ở vùng ít xảy ra dịch là 1,9%, còn
ở vùng dịch hay xảy ra 5 - 6%. Ngay ở các vùng có dịch thì tỷ lệ mang trùng ở
đàn trâu bò khỏe mạnh cũng giảm dần theo thời gian sau khi dịch chấm dứt.
Theo Hiramune (1982)[67] tỷ lệ trâu bò khỏe mang trùng giảm nhanh
từ 22% ở tuần lễ đầu, sau 6 tuần của vụ dịch giảm xuống còn 1,9% và vi
khuẩn này có thể tồn tại đến 8 tháng.
Nguyễn Vĩnh Phước (1986a)[26] cho biết tỷ lệ mang trùng ở đường
hô hấp trên của trâu bò khỏe ở các tỉnh phía Nam là 5,61%. Ở miền Trung
Tây Nguyên là 1,0 - 9,4%. Tương tự như ở trâu bò, thì có 4,1% tỷ lệ lợn
khỏe mang vi khuẩn Pasteurella. Theo Wijewardana (1992)[94] trong các
đàn động vật khoẻ mạnh luôn có một tỷ lệ cá thể mang vi khuẩn
Pasteurella ở đường hô hấp trên.
Theo Phan Thanh Phượng (1994)[27] khi gia súc mang vi khuẩn
Pasteurella hoặc nó sẽ gây bệnh cho vật chủ khi vật chủ chịu tác động của các
yếu tố strees làm cho sức đề kháng của cơ thể giảm.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Cao Văn Hồng (2002)[9] cho thấy tỷ lệ trâu bò và lợn mang
P.multocida ở đường hô hấp khi điều tra ở Đắk Lắk là 14,79% và 11, 61% và
sau 6 tháng có dịch thì tỷ lệ này lên tới 21,43%.
1.2.7. Đặc tính sinh học của vi khuẩn Pasteurella multocida gây bệnh tụ
huyết trùng
1.2.7.1. Đặc tính chung
Pasteurella multocida gây bệnh bại huyết, xuất huyết cho gia súc,
gia cầm nên thường gọi là bệnh tụ huyết trùng. Trước đây, người ta chia
Pasteurella thành nhiều loại, nhiều chủng theo khả năng thích nghi cho các
loài vật, như Pasteurella aviseptica gây bệnh tụ huyết trùng gà, Pasteurella
boviseptica gây bệnh tụ huyết trùng trâu bò, Pasteurella suiseptica gây bệnh tụ
huyết trùng lợn, Pasteurella equiseptica gây bệnh bại huyết cho ngựa…
Các loại Pasteurella gây bệnh cho động vật có những đặc tính chung
căn bản giống nhau về mặt hình thái và nuôi cấy, nhưng tác động gây bệnh
thay đổi tuỳ theo loài vật, đó là điểm chủ yếu để phân biệt các loại
Pasteurella với nhau.
Vấn đề đặt ra là các loại Pasteurella có phải thuộc một giống duy nhất
hay không, những vi khuẩn tụ huyết trùng phân lập từ trâu, bò, lợn, gà có một
số đặc điểm chung của giống Pasteurella và chỉ khác nhau ở chỗ thích nghi
đối với một loài vật. Pasteurella của gà thì độc đối với gà, nhưng không độc
đối với lợn. Pasteurella của lợn rất giống loại của gà nhưng chỉ độc đối với
lợn. Trong thực tế, có thể coi tất cả các chủng Pasteurella đều thuộc một
giống gốc duy nhất, tồn tại và gây bệnh cho các loài vật trong tự nhiên, khác
nhau nhiều hay ít tuỳ cơ thể mang nó. Trong thiên nhiên cũng có trùng hợp
nhiều loài vật cảm nhiễm đối với một loại Pasteurella không phân biệt nguồn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
gốc như: Pasteurella của bò có thể gây cho ngựa, lợn. Pasteurella của thỏ độc
với thỏ, bồ câu
1.2.7.2. Phân loại vi khuẩn P. multocida
Theo Bergey (1974)[47] vi khuẩn P. multocida thuộc bộ Eubacteriales, họ
Pavrobacteriacea, tộc Pasteurellaceae, giống Pasteurella, loài multocida.
Vi khuẩn P. multocida thuộc chi Pasteurella, trong P. multocida có
nhiều loài và chủng vi khuẩn khác nhau. Trước kia trong chi Pasteurella còn
có P. haemolytica nhưng loài này được xếp vào chi Mannheimia với tên gọi
Mannheimia haemolytica. Trong chi Pasteurella thì các vi khuẩn thuộc
P.multocida gây nhiều bệnh nguy hiểm cho gia súc, gia cầm và làm thiệt hại
kinh tế chung cho nghành chăn nuôi.
1.2.7.3. Đặc điểm hình thái của P. multocida
Theo Smith (1959)[89] vi khuẩn P. multocida có sự thay đổi phụ thuộc
vào nguồn gốc của chúng, vi khuẩn phân lập từ bò có kích thước đồng nhất từ
0,5 - 1,2 µ, trong khi đó vi khuẩn phân lập từ lợn có dạng tròn hơn, kích thước
0,8 - 1,0 µ.
Vi khuẩn P. multocida có dạng cầu trực khuẩn nhỏ, ngắn, hình trứng,
hình cầu hay bầu dục, có kích thước 0,6 - 2,5 x 0,2 - 0,4µ. Vi khuẩn có thể
đứng riêng lẻ, thành đôi hoặc chuỗi, có giáp mô, không sinh nha bào, không
có lông, không di động và bắt màu lưỡng cực. Ở các tiêu bản động vật mới
chết. P. multocida là vi khuẩn Gram âm, dễ bắt màu với thuốc nhuộm Fucxin
hoặc xanh Methylen. Tính chất bắt màu lưỡng cực của P. multocida có thể
thấy khi nhuộm bằng xanh Methylen và chỉ thấy ở những tiêu bản làm từ máu
động vật hay vi khuẩn phân lập từ những bệnh phẩm từ con vật mới chết. Vi
khuẩn nuôi cấy trong môi trường nhân tạo ít thấy tính chất này, nguyên nhân
này là do trong quá trình phân bào, nguyên sinh chất bắt màu lưỡng cực dồn
về hai đầu.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
Theo Carter (1952)[49] trong môi trường nước thịt P. multocida mọc
tốt làm đục môi trường có mùi tanh đặc trưng. Mùi tanh đặc trưng này thể
hiện rõ nhất ở pha phát triển nhanh, khi nuôi cấy vi khuẩn lâu ngày mùi tanh
này sẽ mất dần. Cater (1955)[50] cho biết khuẩn lạc của vi khuẩn P.multocida
tập trung ở hai dạng chính là khuẩn lạc có dung quang sắc cầu vồng và khuẩn
lạc có dung quang màu xanh. Những khuẩn lạc có dung quang màu xanh
thường ít hoặc không có giáp mô, độc lực thấp hoặc không có độc lực thuộc
dạng R (Rough).
Trong môi trường nuôi cấy, không phát sinh ra quá trình dung giải nguyên
sinh chất ở giữa tế bào vi khuẩn nên không thấy vi khuẩn bắt màu xẫm ở hai đầu
(Nguyễn Như Thanh và cs, 2001[33] và Nguyễn Quang Tuyên, 2008[40]).
Trong mô bào và máu động vật mắc bệnh, các tế bào vi khuẩn thường
đồng nhất. Trong môi trường nhân tạo, các tế bào vi khuẩn thường đa dạng có
thể hình trứng, hình cầu hoặc hình que.
P. multocida không di động, không tạo nha bào nhưng có giáp mô. Vi
khuẩn có giáp mô nuôi lâu ngày trong môi trường nhân tạo thì giáp mô sẽ
mất, nếu được cấy chuyển nhiều lần trong môi trường có bổ sung máu thì giáp
mô của nó sẽ được tái tạo. Vi khuẩn có giáp mô thường có kích thước lớn hơn
vi khuẩn không có giáp mô.
Vi khuẩn bắt màu với 2 loại thuốc nhuộm aniline hòa tan thông thường.
Tính chất bắt màu lưỡng cực (Bipolar-straining) có thể thấy khi nhuộm bằng
xanh Methylen với những tiêu bản làm từ máu, tế bào động vật hay vi khuẩn
mới phân lập. Vi khuẩn nuôi cấy trong môi trường nhân tạo ít thấy tính chất
này. Sở dĩ có tính chất lưỡng cực là do tế bào vi khuẩn đang phân chia,
nguyên sinh chất của vi khuẩn dung giải về hai đầu.