Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

vấn đề con người trong mo mường ở tỉnh hòa bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 119 trang )


1
MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Dân tộc Mường, cũng như nhiều dân tộc anh em khác, có một nền
văn hóa đặc sắc và lâu đời. Trong kho tàng văn hóa dân gian phong phú, Mo
Mường là một hiện tượng văn hóa đặc sắc của người Mường đã được bồi
đắp, gìn giữ từ lâu đời. Mo Mường được truyền dạy từ thế hệ này qua thế hệ
khác, đồng thời được sáng tạo không ngừng cùng với tiến trình phát triển
của dân tộc. Đến nay, Mo Mường được coi là di sản văn hóa phi vật thể
“đang sống” và là biểu đạt sống do tổ tiên ông cha truyền lại cho con cháu.
Mo Mường là một chỉnh thể nguyên hợp bao gồm nhiều thành tố văn hóa:
Phong tục tập quán, tín ngưỡng, nghệ thuật âm nhạc, nghệ thuật tạo hình, lối
sống, ngôn ngữ, văn chương, diễn xướng phản ánh đặc trưng riêng mang
bản sắc văn hóa của người Mường. Mo Mường, trong quá trình diễn xướng
được xem như là một phương tiện giao tiếp và bày tỏ lòng tôn kính đến các
lực lượng siêu nhiên; mặt khác, Mo Mường phục vụ như một phương tiện
để truyền đạt tư tưởng triết lý về thiên nhiên và vũ trụ của người Mường, về
tri thức và tập quán xã hội.
Toàn bộ phần Mo Sử thi là một pho thần thoại phản ánh một cách kỳ
diệu nhận thức về vũ trụ, về cuộc đấu tranh với thiên nhiên, sinh hoạt xã hội
và tư duy xã hội của thời cổ sơ. Phần mo nghi lễ thể hiện khát vọng chinh
phục thiên nhiên gắn với các chuyến đi vào các thế giới trên trời, dưới đất và
mường Chiềng Chạ.
Đọc và nghiên cứu về Mo Mường, chúng ta thấy lại được giá trị dấu ấn
giai thoại sớm nhất của xã hội loài người, những chứng tích, những tư liệu
giúp chúng ta khai thác, phục hồi lại diện mạo sinh hoạt, diện mạo xã hội và
tư duy xã hội xa xưa. Thông qua sử thi huyền thoại Mo Mường, cho chúng ta
thấy được phương thức cảm nhận thế giới rất đặc trưng; hình thái biểu hiện


2
một cách rất tập trung và khái quát thế giới quan của người xưa. Các yếu tố
tri thức và xúc cảm, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng hòa
quyện vào nhau, diễn tả thế giới quan của dân tộc Mường thời xa xưa.
Với Mo Mường ở Hòa Bình, các áng mo đã phản ánh khá cô đọng, khúc
triết và lôgic những tư tưởng nhận thức về thế giới quan, nhân sinh quan và vũ
trụ quan của người Mường. Người Mường xưa, quan sát thế giới tự nhiên và
xã hội theo trục dọc, đó là cái nhìn từ dưới lên, từ trên xuống so với không
gian và cái nhìn trước, sau so với trục thời gian. Với cách nhìn thế giới xung
quanh theo tư duy Mường ấy, các áng mo đã giải thích nguồn gốc của sự vật,
hiện tượng một cách tài tình, thú vị và rất đáng khâm phục. Từ những mảnh
vụn của thần thoại sơ khai, mo Mường đã kể cho chúng ta nghe câu chuyện
thời vũ trụ khởi nguyên, sự hình thành trời đất, sự sinh sôi nảy nở của muôn
loài mà con người là trung tâm, đến các cuộc đấu tranh vật lộn với thiên nhiên
và các cuộc đấu tranh xã hội gay gắt trong buổi đầu của xã hội loài người.
Hòa Bình cũng là quê hương của nền văn hóa, văn minh Việt Cổ (hay
còn gọi là Việt Mường chung) và kế tục đến ngày nay là văn hóa dân tộc
Mường đậm nét. Văn hóa của cộng đồng dân tộc ở Hòa Bình phong phú và
đa dạng, mỗi dân tộc có sắc thái văn hóa riêng, đặc sắc. Đặc biệt là văn hóa
dân tộc Mường mà trong đó, nổi bật nhất là Mo Mường - sử thi Đẻ đất đẻ
nước, một bộ phận quan trọng trong tang ca Mường. Trong thời kỳ hội nhập
sâu rộng và phát triển toàn diện như ngày nay, vấn đề bảo tồn và phát huy giá
trị di sản văn hóa dân tộc là việc làm rất có ý nghĩa, là cầu nối giữa quá khứ
và hiện tại, có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh
tế - văn hóa - xã hội.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 (Khóa VIII) đã chỉ rõ: “Di sản văn
hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng với dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân
tộc, là cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi
trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, văn hóa


3
cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể. Nghiên cứu và giáo
dục sâu rộng những đạo lý dân tộc tốt đẹp do cha ông để lại” [10; 03]
Tháng 9/2004, Tỉnh ủy Hòa Bình đã xây dựng Chương trình hành động
số 341-CTr/TU thực hiện Kết luận Hội nghị Trung ương 10 (Khóa IX) về tiếp
tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (Khóa VIII) “về xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Chương trình đã
khẳng định nhiệm vụ: “Đầu tư thực hiện các đề tài nghiên cứu, sưu tầm, văn
hóa dân gian và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, di
tích, danh lam, thắng cảnh” [10; 01]. Trong những năm qua, cấc cấp các ngành
đã tích cực thực hiện và đạt được nhiều kết quả đáng kể, góp phần xây dựng
đời sống văn hóa, vui tươi, lành mạnh, không ngừng nâng cao đời sống văn
hóa tinh thần, nâng cao hưởng thụ văn hóa cho mọi người xung quanh.
Năm 2010, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình đã xuất bản cuốn
sách Mo Mường Hòa Bình. Trong kho tàng văn hóa dân gian Mường, Mo
Mường có một vị trí quan trọng, thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan của
người Mường, chứa đựng trong đó các giá trị nhân văn sâu sắc.
Có thể thấy, việc sưu tầm, nghiên cứu Mo Mường ở tỉnh Hòa Bình là
một việc làm có ý nghĩa thiết thực, góp phần vào công cuộc bảo tồn và làm
giàu các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Tuy nhiên, để khai
thác được những giá trị mang tính triết học (nhân sinh quan, thế giới quan) -
điều mà ít học giả nhìn thấy ở Mo Mường, thì hiện nay vẫn chưa có công
trình nào nghiên cứu dưới góc độ đó.
Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu vấn đề Vấn đề con
người trong Mo Mường ở tỉnh Hòa Bình làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên
ngành Triết học.
2. Lịch sử nghiên cứu
Việc nghiên cứu Mo Mường đã bắt đầu từ thời thuộc Pháp, cho đến
ngày nay, Mo Mường vẫn là hiện tượng văn hóa hấp dẫn trong giới nghiên


4
cứu Khoa học xã hội, những người ái mộ văn chương, văn hóa dân tộc. Đến
nay, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về Mo Mường, ở nhiều góc độ
khác nhau, cụ thể:
Đầu thế kỷ XX thời Pháp thuộc, hai học giả người Pháp là Pier Grossin
và Jeanne Cuisinier đã có những ghi chép ban đầu về Mo Mường và nhân vật
Ông Mo. Trong cuốn sách Tỉnh Mường Hòa Bình của Pier Grossin đã có một
chương đầu tiên ghi tóm lược nội dung toàn bộ phần mo sử thi: Từ chuyện đẻ
đất, đẻ trứng điếng đến hết chuyện săn muông…
Cuốn sách Người Mường - địa lý, nhân văn và Xã hội học của Jeanne
Cuisinier đã nghiên cứu các loại nghi lễ như: việc thờ cúng tổ tiên, việc thờ cúng
chung của bản làng và việc thờ cúng trong nhà; nghi lễ gia tộc, nghi lễ ma
chay… Và để tìm hiểu rõ những nghi thức, nghi lễ đó, tác giả eanne Cuisinier
coi “Mo” là đối tượng và là công cụ phục vụ hữu ích trong quá trình nghiên cứu.
Năm 1972, Ty Văn hóa Thông tin tỉnh Hòa Bình xuất bản cuốn Góp
phần tìm hiểu tỉnh Hòa Bình do tác giả Bùi Văn Kín chủ biên. Đây là cuốn sách
đầu tiên giới thiệu được một cách tương đối có hệ thống các vấn đề về lịch sử,
địa lý, kinh tế, văn hóa, xã hội
Năm 1975, Ty Văn hóa Thanh Hóa xuất bản cuốn Đẻ đất đẻ nước song
ngữ Mường - Việt của nhóm sưu tầm Vương Anh, Hoàng Anh Nhân.
Năm 1976, Nhà xuất bản Văn học cũng cho ra mắt bạn đọc cuốn Đẻ
đất đẻ nước (bản Hòa Bình) do ông Bùi Thiện, ông Thương Diễm và ông
Quách Giao sưu tầm, dịch và biên soạn. Sau những công bố đó, Đẻ đất đẻ
nước được giới nghiên cứu văn học xác định là sử thi và là tiểu loại sử thi
sáng thế (còn gọi là sử thi thần thoại), đây là tác phẩm sử thi đầu tiên được
sưu tầm và công bố ở miền Bắc Việt Nam.
Năm 1986, Nhà xuất bản Văn hóa phát hành cuốn Đang Vần Va do
ông Đinh Ân, người Mường, huyện Phù Yên (Sơn La), một cán bộ ngành văn
hóa tỉnh Sơn La sưu tầm và dịch truyện Vườn hoa núi Cối trong Mo Mường.


5
Năm 1988, Sở Văn hóa - Thông tin tỉnh Hà Sơn Bình ấn hành cuốn
sách Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường Bi. Đây là cuốn sách ghi
chép dân tộc học về người Mường trong phạm vi vùng mường Bi, huyện Tân
Lạc (Hòa Bình). Trong cuốn sách này có phần nghiên cứu về mo, về tín
ngưỡng và tang lễ của người Mường của cố nhà nghiên cứu văn hóa, Thạc sĩ
văn hóa Hứa Đông Hải.
Năm 1994, Nhà Xuất bản Văn học phát hành cuốn Mo lên trời, với bản
song ngữ Mường - Việt do Hoàng Anh Nhân sưu tầm, phiên âm, dịch thơ và
chú thích. Trần Lê Văn giới thiệu.
Năm 1995, Nhà Xuất bản Văn hóa - Thông tin xuất bản cuốn Vốn cổ
văn hóa Việt Nam của tác giả Trương Sĩ Hùng, Bùi Thiện. Đây cũng là một
cuốn sách nghiên cứu về Mo Mường đã được các tác giả chỉnh sửa, bổ xung
từ cuốn Đẻ đất đẻ nước xuất bản năm 1976 do Bùi Thiện, Thương Diễm,
Quách Giao sưu tầm, biên dịch.
Năm 2004, Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã xuất bản cuốn sách Nghi
lễ mo trong đời sống tinh thần của người Mường của tác giả Bùi Kim Phúc.
Đây là cuốn sách nghiên cứu về hệ thống nghi lễ mo, đồng thời tác giả cũng
đã miêu tả về đời sống, thân thế của một số người làm Mo truyền thống, để
nêu lên vai trò của nghi lễ mo và nhân vật Ông Mo trong đời sống văn hóa
của người Mường.
Năm 2008, Nhà xuất bản Văn học đã xuất bản cuốn Sử thi Việt Nam -
con cháu Mon Mân của tác giả Tiến sĩ Bùi Việt Hoa. Đây là tác phẩm thuộc
loại hình sử thi sáng tác có tác giả. Trong cuốn sách này, một lần nữa Mo
Mường lại là đối tượng nghiên cứu của tác giả, đồng thời là chất liệu để Bùi
Việt Hoa sáng tạo thành một tác phẩm văn học mang màu sắc dân gian.
Ngoài những tác phẩm đã cuất bản thành sách, cũng có không ít đề tái
nghiên cứu khoa học nghiên cứu về Mo Mường. Trong đó, Luận văn Thạc sĩ
của Nguyễn Thu Hằng - Cán bộ nghiên cứu của Bảo tàng Dân tộc học Việt


6
Nam cũng đã nghiên cứu về tang ma cổ truyền người Mường, trong đó Mo
Mường là công cụ để tìm hiểu bản chất vấn đề. Đề tài này, năm 2003 đã được
nâng cấp thành đề tài nghiên cứu khoa học của Bảo tàng Dân tộc học Việt
Nam, sau đó được đem trưng bày tại Bảo tàng Khoa học tự nhiên của Mỹ với
chuyên đề: Việt Nam - hành trình con người - tinh thần và linh hồn.
Có thể thấy, những tác phẩm, những công trình nghiên cứu về Mo
Mường còn chưa đầy đủ, song, Mo Mường đã được nghiên cứu khoảng một
thế kỷ nay. Theo đó, đã lí giải được nhiều vấn đề, khai sáng được giá trị nhân
văn của Mo Mường như: những vấn đề về dân tộc học, tộc người; những giá
trị về văn học, những vấn đề về nhân học, văn hóa… Tuy nhiên, có thể thấy
chưa có tác phẩm nào, công trình nào nghiên cứu Mo Mường ở góc độ triết
học, hay bàn về vấn đề con người thể hiện trong các áng Mo Mường. Chính
vì vậy, việc nghiên cứu Vấn đề con người trong Mo Mường ở tỉnh Hòa Bình
sẽ là một công trình nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng.
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những thành quả của các thế hệ đi
trước, kết hợp với sự nghiên cứu, tìm tòi, khai thác mới của bản thân, tôi quyết
định nghiên cứu, tìm hiểu về triết lý con người trong mo Mường ở tỉnh Hòa Bình.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1 Mục đích:
- Tìm hiểu triết lý con người trong Mo Mường ở tỉnh Hòa Bình và đưa
ra các giải pháp để phát huy triết lý về con người trong Mo Mường.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu triết lý về con người trong Mo Mường ở tỉnh
Hòa Bình.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài được giới hạn ở việc khái quát các quan
niệm về nguồn gốc con người, về bản chất con người, mối quan hệ giữa con

7

người với con người, con người với tự nhiên, con người với xã hội được thể
hiện trong Mo Mường ở tỉnh Hòa Bình.
4. Những luận điểm cơ bản và đóng góp khoa học của luận văn
- Luận văn luận giải có hệ thống những vấn đề lý luận về con người.
- Luận văn góp phần làm rõ những quan niệm về nguồn gốc con
người, về bản chất con người, mối quan hệ giữa con người với con người,
con người với tự nhiên, con người với xã hội được thể hiện trong Mo
Mường ở tỉnh Hòa Bình.
- Đưa ra các giải pháp nhằm phát huy những giá trị triết lý về con người
trong Mo Mường ở tỉnh Hòa Bình.
- Đây là công trình tham khảo về vấn đề bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc trong giai đoạn hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
5.1. Cơ sở lý luận:
- Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa
Mác - Lênin về con người: về nguồn gốc, bản chất của con người, về mối quan hệ
giữa con người với con người, con người với tự nhiên, con người với xã hội.
- Những tư tưởng, quan điểm về con người của triết học phương Đông,
phương Tây và trong tư tưởng triết học Việt Nam.
- Những quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền văn hóa tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc.
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
- Lịch sử và lôgíc: nghiên cứu quá trình hình thành tỉnh Mường Hòa
Bình, sự ra đời, phát triển của loài người thông qua các áng Mo Mường.
- Phương pháp so sánh: so sánh quan niệm về nguồn gốc, bản chất con
người của triết học trước Mác và triết học Mác - Lênin.
- Phương pháp phân tích và tổng hợp, khái quát hoá, trừu tượng hoá.

8
6. Kết cấu của luận văn

Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo,
nội dung luận văn gồm 2 chương, 5 tiết

9
NỘI DUNG
Chương 1
MO MƢỜNG VÀ MO MƢỜNG TỈNH HÒA BÌNH

1.1. Mo Mƣờng và vai trò của Mo Mƣờng đối với đời sống văn hóa
tinh thần của dân tộc Mƣờng
1.1.1. Mo Mường
Trước tiên cần hiểu Mo là gì?
Đối với người Mường, “mo” theo nghĩa của động từ có nghĩa là xướng
lên theo những làn điệu nhất định những bài cúng, những khúc mo nhòm,
những cát mo kết trong các nghi lễ phục vụ đời sống của từng gia đình và
cộng đồng. Mo Mường, hay chính là những bài diễn sướng sử thi Đẻ đất, đẻ
nƣớc của dân tộc Mường được sử dụng trong các nghi lễ của người Mường:
tang ma, lễ Tết, cầu may, mừng lúa mới [29; 31].
Mo Mường - Trường ca Đẻ đất đẻ nước được xem là tài sản vô giá của
người Mường với hàng vạn câu thơ được diễn xướng bằng nhiều khúc đoạn.
Toàn bộ Trường ca phản ánh quan niệm của người Mường về vũ trụ, con
người; phản ánh lịch sử đấu tranh lâu dài gian khổ của con người trước thiên
nhiên để tồn tại và phát triển.
Về lịch sử ra đời của Mo Mường: hiện nay, chưa có công trình nghiên
cứu nào chỉ rõ được Mo Mường ra đời vào lúc nào. Tuy nhiên, theo các nhà
nghiên cứu, khi nghiên cứu về sử thi Việt Nam đều đánh giá sử thi Việt Nam
được xuất hiện vào thời kỳ tiền giai cấp, tiền nhà nước - cách đây khoảng
trên 2800 năm. Riêng với sử thi Đẻ đất, đẻ nước được nhận định ra đời vào
thời kỳ lịch sử Việt - Mường chung, là giai đoạn tiếng Việt được người Việt
sử dụng ở thời kì độc lập sau khi thoát khỏi sự đô hộ của phong kiến phương

Bắc, kéo dài từ thế kỉ IX (có tài liệu dẫn là thế kỷ X) đến thế kỉ XIV. Đây là

10
thời kì người Việt bắt đầu xây dựng một quốc gia phong kiến độc lập trên cơ
sở lãnh thổ địa lí của nhà nước Hùng Vương trước đây.
Về sự hình thành mo Mường:
Mo là nghi lễ tín ngưỡng được tổ chức trong đám ma của người
Mường. Mo thuộc loại nghi lễ vòng đời, gắn với cái chết của con người. Mo
có quá trình hình thành, tồn tại và vận động lâu dài, vừa là sản phẩm vận
dụng, sáng tạo các giá trị văn hóa Mường truyền thống, vừa là hiện tượng xã
hội phản ánh vật chất và tinh thần của người Mường trong suốt lịch sử hàng
ngàn năm của họ.
Chính đặc điểm sinh cư và hoạt động kinh tế của người Mường đã chi
phối đến sự hình thành Mo. Các phương thức sản xuất của họ đều có sự kết
hợp giữa tính cạn (trồng lúa nương) và tính nước (trồng lúa nước), trong đó
tính cạn trội hơn. Và trong nghi lễ Mo cũng thể hiện tính cạn trội hơn với
trong ứng xử với xác chết và linh hồn biểu hiện qua việc tổ chức lễ thức và
sắm sửa vật lễ phục vụ cho đám ma mang đậm dấu ấn của hoạt động săn bắn,
hái lượm, trồng trọt, chăn nuôi của cư dân cạn. Quan niệm về hồn, về thế giới
thần linh và toàn bộ tiến trình vận động đến nơi sống của hồn là hòa trong
không gian sống cư dân nông nghiệp bán sơn địa.
“Mo được bắt nguồn từ chính loại nghi lễ của cư dân vùng cạn. Mỗi
khi bắt đầu diễn ngôn Mo, ông mo bao giờ cũng ngâm “hâm mo ”. Tách
lời ngâm ra thì không hiểu, nhưng nếu đặt trong mối liên hệ với các yếu tố
khác như chiếc mũ hình sừng bò ông mo đặt trên đầu, lại thêm giáo và kiếm
ông mo cầm trong tay hay bác trên vai, cùng với nội dung bài mo kể về việc
đẻ Mo, chúng ta hiểu đây là hành động bắt chước tiếng kêu con thú. Ông mo
đã đóng vai kẻ đi săn hay thú săn bằng cách hóa trang và kêu nhại tiếng. Từ
nghi lễ hóa trang đến nghi lễ tín ngưỡng, Mo tiếp thu và vận dụng trọn vẹn
loại nghi lễ của cư dân vùng bán sơn địa” [31; 22].


11
Mo bao gồm hai phần cấu tạo cơ bản là lễ thức và lời. Lễ thức và lời
không giống nhau giữa các cuộc Mo. Hai thành phần này có quy mô rất lớn.
Về lễ thức, mỗi cuộc Mo có số lượng lễ thức khác nhau tùy theo thực
tế của từng đám ma đặt ra.Lễ thức Mo thay đổi theo nôổ Mo, thay đổi theo
ông Mo, thay đổi theo cuộc Mo. Chẳng hạn ông Mo được mời đến làm lễ biết
bao nhiêu lễ thức, đám ma đó phải xử lý những lễ thức nào để có thể hoàn tất
việc tống táng, điều kiện vật chất của gia chủ, các quy định quản lí xã hội yêu
cầu Tuân thủ và đáp ứng thực tế yêu cầu đó, quy mô một cuộc Mo cụ thể
được hình thành.
1.1.2. Mo Mường đối với đời sống văn hóa, tinh thần của dân tộc Mường
Bên cạnh bình diện lý giải về sự ra đời của vũ trụ, thế giới và loài người,
Mo Mường gắn với đời sống hàng ngày của người Mường, Mo Mường được sử
dụng trong các buổi lễ của người Mường như: lễ cầu may, lễ cúng
Có thể nhận định vai trò của Mo Mường thông qua một số bình diện
như sau:
1.1.2.1. Mo đáp ứng nhu cầu thông quan với thế giới vô hình
Mo hình thành từ ứng xử của người Mường trong giải quyết vấn đề về
cái chết. Cũng như mọi dân tộc khác, ửng xử đó xuất phát từ quan niệm tìm
một thế giới cho người chết, do con người không dễ dàng chấp nhận sự thật
mất vĩnh viễn đồng loại của mình. Tuy nhiên, trong ứng xử đầy tính nhân văn
này, việc tìm ra thế giới tồn tại cho người chết của mỗi dân tộc là khác nhau
và người Mường cũng có quan niệm của họ.
Người Mường quan niệm, chết là một quy luật tất yếu. Họ thừa nhận
cái chết đối với thể xác. Thành ngữ Mường có câu “Mọl chít cốt, thánh lột
lại” (người chết còn xương, rắn lột xác lại) [31; 18]. Người Mường còn cho
rằng, con người chết thì sinh ra hồn, hồn là tất yếu của sự sống sau khi con
người chết đi. Hồn tồn tại, có hình hài, có nhu cầu, có một đời sống mới. Hồn
xuất hiện đồng thời khi con người tắt thở. Hồn không phải là vìa và phẩm


12
chất của nó cũng khác vía. Vía yếu ớt, dễ bị tổn thương. Hồn dữ hơn và dễ
làm hại đến người sống. Người Mường gọi hồn là hồn hay ma và dùng từ
khang làm đại từ nhân xưng.
Trong quan niệm Mường, hồn có hình dáng khá đặc biệt. Ban đầu hồn
giống người, cũng đi, đứng, ăn, uống, nhớ thương, cảm động Hồn theo ông
mo lên trời chuộc lấy một số kiếp mới, xin trời lấy một dánh hình (đuông)
mới, lúc đó hồn thay đổi thành dáng chim (Vật tổ của người Mường là chim,
trở về dáng chim là trờ về dánh hình của vật tổ). Với hình dáng này, hồn có
thể đi vay về biến, lên trời, xuống âm phủ, ở mặt đất đều dễ dàng.
Điểm đặc biệt về hồn trong quan niệm Mường là không sống ở trên
trời như hồn trong quan niệm của Phật giáo hay Thiên chúa giáo, mà sống ở
mường ma, một mường dưới mặt đất thuộc tầng pưa tỉn. Mường ma có mô
thức như mường của người đang sống (có ruộng đồng, nhà cửa, chợ búa, làm
ăn sinh hoạt, quan hệ mướng nước, họ hàng ), chỉ có điều mọi thứ thu nhỏ
lại và người của họ chỉ bằng cái ống suốt chỉ (ống khút). Mường ma là nơi
sống đời đời của hồn.
Nhìn chung quan niệm của người Mường về linh hồn có nòng cốt là
thuyết vật linh. Quan niệm này đã có biến đổi, bổ sung, nhưng về cơ bản thì
thuyết vật linh vẫn giữ vai trò chủ đạo, thể hiện qua kiến giải “vạt vận có linh
hồn” và “vật sao thì hồn vậy”, Hồn theo quan niệm của người Mường hiện
lên vớxi các đặc điểm như con người, có đầy đủ các nhu cầu - “người sống
sao ma sống vậy”. Nhu cầu “giống người” khiến cho quan niệm hồn của
người Mường thân thiện - nhân sinh và nghi lễ Mo hình thành trên quan niệm
ấy cũng mang tính nhân văn sâu sắc.
Quan niệm về linh hồn đã trở thành nguyên nhân quan trọng nhất trong
sự hình thành nghi lễ Mo. Quan niệm về linh hồn còn trở thành thiết chế tồn
tại và vận động của toàn bộ nghi lễ Mo. Quan niệm của người Mường về linh


13
hồn là hoàn chỉnh do đó hệ thống lễ thức của Mo Mường được xây dựng bài
bản, thống nhất và chặt chẽ.
Bản chất của nghi lễ Mo là cách ứng xử với cái chết, nhưng hàm chứa
trong đó là cả một hệ thống quan niệm của người Mường về thế giới, về linh hồn.
Từ quan niệm về xác, hồn và mô thức thế giới (chia thành 3 mường:
trời - bằng - dưới với bốn mường: mường trời - mường người - mường khú -
mường ma), nghi lễ Mo đã được xây dựng. Bản chất của nghi lễ Mo là cách
ứng xử với người chết, trong đó điểm cốt yếu là tìm và giải quyết nơi sống
của linh hồn. Hệ thống quan niệm Mường đã giải quyết thỏa đáng nhu cầu ấy
và cũng vì thế Mo Mường trở nên rất quan trọng, quyết định hoàn thành
nhiệm vụ tống táng của đám tang.
Tất cả những quan niệm trên có thể được lý giải như sau:
Niềm tin về sự tồn tại của thế giới vô hình xuất hiện từ rất sớm trong
lịch sử loài người. Ở bất cứ thời đại, xã hội nào con người cũng có nhu cầu
được thông quan với thế giới đó; Từ giác độ niềm tin tôn giáo tín ngưỡng,
người Mường quan niệm thông qua mo để thế giới hữu hình thông quan với
thế giới vô hình.
Thông qua mo, người Mường hướng đến mong ước được thế giới vô hình
mà cụ thể là tổ tiên sẽ che chở cho thế giới những người đang sống, mong sao
cho “việc nhỏ cũng qua, việc cả cũng rồi, cũng thôi, cũng đoạn” [22; 75]
Trong các nghi lễ sử dụng mo, nghi lễ tang ma là một nghi lễ tối quan
trọng trong một đời người. Phải làm hàng loạt các thủ tục để đoạn tuyệt với
thế giới người sống và gia nhập thế giới người chết. Việc quan trọng nhất của
tang lễ người Mường ở Hòa Bình là phải dẫn dắt điều khiển được linh hồn
người quá cố thực hiện các thủ tục của tang lễ. Người Mường quan niệm
rằng, khi người ta mất đi, lúc chưa làm đám tang và trong lúc làm đám tang
họ không còn là người trần mà cũng chưa phải là ma, tuy nhiên họ có sức
mạnh linh thiêng mà người trần không thể điều khiển hay cầu xin nổi. Việc


14
làm cho linh hồn người quá cố làm sao phải nghe theo để thực hiện những
nghi lễ của tang ma cần thông qua việc mo. Và người thực hiện mo chính là
các thầy mo.
Việc mo trong tang lễ thực chất là nhằm thuyết phục, hướng dẫn linh
hồn người chết “thực thi” các nghi lễ như vừa kể trên hoàn toàn bằng lời mo.
Nếu như mo sai, linh hồn không thể “thực thi” được nghi lễ, như thế sẽ
không hoàn tất thủ tục sẽ rơi vào tình trạng luẩn quẩn. Hồn không thể đoạn
tuyệt với thế giới người sống mà cũng không thể gia nhập thế giời người
chết. Người ta sợ trong hoàn cảnh dở dang ấy, linh hồn người chết sẽ về quấy
phá hành tội con cháu trong nhà. Chính vì thế, việc mo có ý nghĩa hết sức
quan trọng đối với đám tang của người Mường, và đó được xem là công việc
chính trong đám tang.
Người Mường với nghi lễ tang ma của họ có đặc điểm chung là những
đêm mo. Một lễ tang có thể kéo dài từ một đêm, hai đêm, hoặc mười đêm,
mười hai đêm hoặc lâu hơn nữa. Điều này phụ thuộc vào tuổi tác và địa vị xã
hội làng, bản của người chết.
Trước năm 1954 người xứ Mường có tục làm ma khô. Với người giàu
việc lưu giữ xác chết trong nhà để bày tỏ sự giàu có, vì phong tục đó đòi hỏi
những nghi lễ tốn kém trong suốt thời gian lưu quan tài ở trong nhà. Ngược
lại với người nghèo đó là dấu hiệu tủi nhục, vì việc chôn cất người chết chỉ
được thực hiện sau khi đã làm đủ các nghi lễ rất tốn kém theo hủ tục cổ
truyền. Trong cuốn Vũ trụ luận Mường, tác giả Trần Từ cho rằng “Giờ đã
đến lúc đưa người thân vừa mất về thế giới bên kia, một thế giới phù hợp với
thân phận mới của người ấy: một tinh linh đã hoàn toàn tách khỏi thân xác
người sống. Giữa thế giới đó và thế giới của chúng ta là cả một khoảng cách
chỉ có thể vượt qua bằng uy lực của bố mo” [28; 282].
Trong việc Mo, vị trí của bố mo - thầy mo đóng vai trò bắt buộc và
quyết định trong toàn bộ nghi thức tang ma của người Mường. Trong suốt


15
các nghi thức tang ma thầy mo chỉ làm một việc: thuyết phục và hướng dẫn,
hai hành động đi đôi với nhau nhiều khi xen lẫn trước sau, cũng có lúc phải
hoà vào nhau thành một qua trình đồng nhất. Bởi người thầy mo ở đây phải
có nghĩa vụ làm cho người chết hiểu được quy luật tự nhiên của sự sống và
cái chết, mà người đã chết thì phải tách khỏi thế giới của người sống. Để sau
đó hồn mới có thể sẵn sàng đi tiếp hành trình, chuyến đi cuối cùng đến với
thế giới dành riêng cho họ.
Hai chức năng thuyết phục và hướng dẫn đó, của các đêm mo được
người hành lễ thực hiện trong một nghi lễ lễ thức duy nhất: ngồi xếp bằng
tròn từ đầu hôm đến mờ sáng, mồm ngân tang ca hầu như không dứt, đấu đội
mũ lễ, trên thân là áo lễ, hai tay cầm chuông lễ và dao lễ, và cuối cùng là túi
đựng Khót (Khót- đựng một số vật thiêng do các bố mo được truyền lại, hoặc
được Thánh Sư của bố mo báo mộng qua giấc mơ)- chứa đựng siêu lực của
bố mo. Đây là những vật thiêng không thể thiếu trong quá trình hành lễ của
người làm mo.
Các áng mo được các bố mo sử dụng với mục đích làm sợi dây kết nối
giữa Mường đất - Mường người - Mường trời mà chính bố mo là những
người có khả năng giao cảm với thế giới hữu hình và thế giới vô hình, họ
được giao trọng trách là “ sứ giả” của các Mường, nên những khả năng của
họ cũng được thần thánh ban cho, thần thánh lựa chọn… và họ phải sử dụng
khả năng đó của mình để phục vụ cho lợi ích chung cao nhất - lợi ích cộng
đồng dân tộc Mường.
Ngày nay, khi điều kiện kinh tế - xã hội đã phát triển, cùng với việc
trình độ văn hóa đã lên cao, nghi lễ tang ma của người Mường cũng chỉ kéo
dài tối đa hai hay ba đêm mo. Chính vì thế mà người hành lễ tùy số đêm dành
cho từng tang lễ một mà giữ nguyên hay cắt bớt một số tang ca, có khi cắt
một số đoạn của từng tang ca. Cũng có những trường hợp, nhà chịu tang có
quyền yêu cầu thầy mo sư dụng các áng mo này hay các áng mo kia, thậm chí


16
một số đoạn nhất định trong áng này hay áng khác. Tuy nhiên, việc cử hành
các nghi lễ mo vẫn đảm bảo đúng các thủ tục cần thiết, nhằm đưa tiễn người
chết về thế giới bên kia.
Ngoài ra, có một số lễ như Tết Nguyên đán, hầu hết các gia đình người
Mường thường mời thầy mo về cử hành lễ cúng vía Tất niên. Hay cúng Gia
tiên vào đêm Giao thừa hoặc những ngày mùng 1, mùng 2, mùng 3 Tết. Việc
cúng lễ này đều sử dụng các bài mo nhằm mời tổ tiên về chứng giám và phù
hộ cho con cháu.
Bên cạnh đó, mo Mường còn được sử dụng vào lễ tạ mộ, lễ cưới, lễ rửa
lá lúa, lễ cơm mới và lễ vía hộp thì thường vẫn được sử dụng đến mo. Hay
nói cách khác, người Mường sử dụng mo để cử hành các nghi lễ trong đời
sống hàng ngày của người Mường. Thực tế trong đời sống của người Mường
ở Hòa Bình không thể thiếu mo.
1.1.2.2. Mo thể hiện khả năng đuổi tà ma, chữa bệnh
Đối với từng cá nhân trong cộng đồng, ngay từ ngày đầu thai nghén đã
phải cử hành mo nhằm yểm bùa ngái để ma quả không quấy phá được (lễ vía
cho người mang thai). Khi sinh ra cũng phải mời vía về để treo nạ mụ (chỗ
cho vìa người trú ngụ) lên trên mái nhà. Trong quá trình sinh sống thì sự có
mặt của các nghi lễ mà thông qua mo là thiết yếu của cuộc sống. Ngày nay
những nghi lễ trong nhóm lễ cầu phúc, cầu lộc và nhóm nghi lễ gọi linh hồn
con người vẫn diễn ra thường xuyên trong đời sống của người Mường.
Trước đây khi y học chưa phát triển hầu hết con người đều mong muốn
và thực hiện việc chữa bệnh bằng các phép thuật là rất phổ biến. Thời kỳ này,
người Mường thường sử dụng cách chữa bệnh chủ yếu là dựa vào các nghi lễ
mo, cúng của các thầy mo. Họ coi những người bị bệnh là vì trong quá trình
ăn ở chưa tốt nên bị bên “âm” trừng phạt hay “ám” vào. Vì thế phải nhờ thầy
mo về làm lễ để trừ, đuổi tà ma, qua đó chữa được bệnh tật

17

Dần dần, người Mường quan niệm chữa bệnh thì chữa cả bên dương
nhưng đồng thời phải tạ cả “bên âm” để “tốt bên âm, lành bên dương, tốt hai
bên, bền hai mái”. Các áng mo được sử dụng trong “chữa bệnh” thường là
bài “ténh khồng tlăm”. Nghi lễ “ténh” được sử dụng với nghĩa “trừ tà ma”
hay “chữa bệnh tinh thần”.
Thực tế cho thấy, rất nhiều trường hợp khi chữa trị “bên dương” (chữa
trị bằng y học) không khỏi, sau khi về nhà, được các thầy mo sử dụng các bài
mo để trừ tà ma.v.v thì lại khỏe mạnh bình thường. Chính điều này làm cho
tư duy của người Mường có phần tin vào sự tồn tại của “bên âm”. Do đó,
củng cố niềm tin rằng chính các bài mo giúp cho họ trừ được tà ma, chữa
được bệnh tật.
Như vậy, các áng mo vẫn luôn được gìn giữ, trân trọng với vai trò của
nó đối với đời sống văn hóa tinh thần của người Mường trên đất nước Việt
nam nói chung và ở Hòa Bình nói riêng.
Ngày nay, khi y học phát triển, niềm tin vào sự cầu an, cầu sức khỏe
qua các nghi lễ mo đã giảm đi. Thực tế, chỉ có một số ít gia đình thực hiện
các nghi lễ đó sau khi có trường hợp y học đã từ chối nhằm giải tỏa về mặt
tinh thần. Họ quan niệm là vừa phải chữa bệnh nhưng đồng thời cũng phải
trừ tà ma. Như vậy, nếu không may xảy ra chuyện xấu nhất thì cũng không
phải ân hận điều gì.
1.1.2.3. Hệ thống nghi lễ thực hiện bằng Mo
Những nghi lễ thực hiện bằng mo trong đời sống văn hóa tinh thần của
dân tộc Mường được sắp xếp thành từng nhóm như sau:





18
Nhóm nghi

lễ
Stt
Tên nghi lễ
Nhân vật thờ
Tính chất
Thời gian thực
hiện
Không
gian thực
hiện





CẦU
PHÚC
CẦU
LỘC

1
Tết Nguyên
đán
Tổ tiên, Chàng
Wàng, Khổng
Dòl, vua Bếp,
Thổ công
Tưởng nhớ, tạ
ơn, cầu phúc lộc
Dịp Tết Nguyên

đán
Trong gia
đình
2
Tạ mộ
Tổ tiên
Tưởng nhớ, cầu
phúc lộc
Dịp sau Tết
Nguyên đán, sau
thu hoạch vụ
chiêm, hoặc bất kì
Khu mộ
của gia
đình
3
Lễ cưới
Tổ tiên
Tưởng nhớ, cầu
phúc lộc
Trong những nghi
lễ thuộc hôn nhân
Trong gia
đình
4
Tế Thành
hoàn, Khuống
mùa
Thần Thành
hoàng, Đức

Thánh Tản, Ải
Lý Ải Lo
Tưởng nhớ, tạ
ơn, cầu phúc lộc
Tháng Chạp hoặc
tháng Giêng âm
lịch
Ngoài bãi
5
Rửa lá lúa
(thứa lả lõ)
Nàng bông cơm
vía lúa, Khổng
Dòl
Tạ ơn, cầu phúc
lộc
Lúc lưa vụ mùa
màng đông
Trong gia
đình
6
Cơm mới
(cơm mởi)
Khổng Dòl
Tạ ơn, cầu phúc
lộc
Sau thu hoạch vụ
mùa
Trong gia
đình

7
Càu quàng
Chàng Wàng
Tạ ơn, cầu phúc
lộc, cầu sự an
toàn

Bất kì
Trong gia
đình

GỌI
LINH
HỒN
CON
NGƯỜI
8
Mụ đẻ (mũ té)
Bà mụ, vía
người mới sinh
Mời gọi, tạ ơn
Sau khi sinh ba
ngày
Trong gia
đình

9
Vía hộp
Vía người
Mời gọi, tạ ơn

Cuối tháng, cuối
năm hoặc bất kì
Trong gia
đình



19
10
Vía mạnh
(wãi thẳn)
Vía mạnh
Mời gọi, tạ ơn
Khi ốm yếu, hoặc
khi hay nằm mơ
thấy người đã quá
cố

Trong gia
đình
11
Vía khang
(wãi khang)
Vía khang
Mời gọi, tạ ơn
Khi trẻ em ốm hay
những ấn tượng xấu
Trong gia
đình
12

Vía gầy
(wãi the)

Vía gầy
Mời gọi, tạ ơn
Khi trẻ em và phụ
nữ gầy yếu
Trong gia
đình
13
Vía cho người
có mang

Các loại vía
Mời gọi, tạ ơn
Khi phụ nữ có
mang
Trong gia
đình
14
Mụ thổ
(mũ thổ)
Các loại vía
Mời gọi, tạ ơn
Khi ốm nặng
Trong gia
đình
15
Mụ thảy
(mũ thảy)

Các loại vía
Mời gọi, tạ ơn
Sau đám tang
Trong gia
đình

TRỪ TÀ
MA,
CẦU
YÊN,
CẦU
SỨC
KHỎE

16

Tẻnh ma nhà

Chàng Wàng,
Khổng Dòl

Tạ ơn, cầu yên
Khi hay gặp rủi ro,
làm rượu bị chua,
làm ăn thất bát, gia
đình lục đục


Trong gia
đình

17
Tẻnh ma rừng
(ténh ma
hầng)
Ma ở trong
rừng, ma ở
vùng Ngòi Hoa
Tạ ơn, cầu yên,
cầu sức khỏe
Khi có người ốm,
mắc bệnh
Trong gia
đình




TRỪ TÀ
MA,
CẦU
18
Tẻnh ma trài
(ténh ma tlài)
Ma trài
Tạ ơn, cầu yên
Khi cây trái tự
nhiên bị úa vàng,
khi trẻ con hay
quấy khóc vô cớ
Trong gia

đình
19
Tẻnh ma tống
(téng ma tổng)
Ma lang chiềng
chạ
Tạ ơn, cầu yên
Khi có người bị ốm
Trong gia
đình
20
Tẻng khổng
Cac loại ma và
Tạ ơn, cầu yên
Khi có chuyện
Trong gia

20
YÊN,
CẦU
SỨC
KHỎE
trăm (téng
khổng tlăm)
thân linh
không hay trong gia
đình
đình
21
Tẻng hu tống

(téng hu tổng)
Các loại ma và
thần linh
Giả oan, cầu yên
Khi có chuyện
không hay trong gia
đình
Ngoài
đồng
22
Tẻng khồng
tập (téng
khồng tâp)
Các loại ma và
thần linh
Yểm bùa
Khi cần yểm bùa
vào ai
Bất cứ đâu


ĐẶC
BIỆT


23


Tang lễ



Người quá cố,
các thần linh
của Ông Mo
Dẫn dắt linh hồn
người quá cố
thực hiện các
nghi lễ đoạn
tuyệt với thế giới
người sống và gia
nhập với thế giới
người chết


Khi có người qua
đời


Trong gia
đình và
ngoài
đồng,
ngoài
rừng.

Như vậy, chúng ta thấy các nghi lễ liên quan đến con người đều được
thực hiện bằng Mo. Hầu hết các nghi lễ vòng đời của người Mường đều xử
dụng Mo làm “công cụ” để thực hiện các nghi thức. Như vậy, có thể thấy vai
trò quan trọng của Mo Mường đối với đời sống văn hóa tinh thần của người
Mượng như thế nào.

Hình thức của nghi lễ thực hiện bằng Mo
Những nghi lễ thực hiện bằng Mo là những nghi lễ dùng lời mo để nói
lên mục đích ý nghĩa của nghi lễ mà người thực hiện phải là ông Mo. Hầu hết
các nghi lễ thực hiện bằng mo được thực hiện thành các bước như sau:
1) Chuẩn bị đồ lễ cúng, đồ hiến tế: nấu nướng và sắp xếp đầy đủ và
đúng vị trí cúng tế.
2) Mo:

21
Đây là bước quan trọng nhất, nó đảm bảo sự thành công hay thất bại
của nghi lễ. Về mặt nội dung của tất cả các bài mo bao gồm những phần
chính như sau: Nêu lí do của nghi lễ; mời các nhân vật thờ về tại nơi tổ chức
nghi lễ, dâng ăn uống và cầu xin; đưa các nhân vật thờ về chỗ ngự.
3) Phẩn hưởng lộc của lễ:
Mọi người trong gia đình và những người phục vụ lễ sẽ dùng những đồ
lễ đã cúng tế đó để liên hoan.
Như vậy, nghi lễ Mo được thực hiện với một hình thức sắp đặt bài bản,
khoa học. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện cần có sự chuẩn bị rất chu
đáo, đầy đủ về vật chất cũng như các thủ tục để tiến hành mo.
1.2. Mo Mƣờng ở Hòa Bình
1.2.1. Khái quát đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội và văn hóa tỉnh
Hòa Bình
1.2.1.1. Khái quát đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội tỉnh Hòa Bình
Đặc điểm địa lí
Hòa Bình là một tỉnh miền núi thuộc vùng Tây Bắc Việt Nam, có vị trí
ở phía Nam Bắc Bộ, giới hạn ở tọa độ 200°19' - 210°08' vĩ độ Bắc, 104°48' -
105°40' kinh độ Đông, tỉnh lỵ là thành phố Hòa Bình nằm cách trung tâm thủ
đô Hà Nội 73 km.
Cũng giống như Ninh Bình và Thanh Hóa, tỉnh Hòa Bình nằm giáp
ranh giữa 3 khu vực: Tây Bắc, Đông Bắc và Bắc Trung Bộ của Việt Nam.

Địa giới Hòa Bình: phía Bắc giáp với tỉnh Phú Thọ; phía Nam giáp với
các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình; phía Đông và Đông Bắc giáp với thủ đô Hà
Nội, phía Tây, Tây Bắc, Tây Nam giáp với các tỉnh Sơn La, Thanh Hóa.
Hòa Bình là tỉnh miền núi, tiếp giáp với phía tây đồng bằng sông
Hồng, Hòa Bình có địa hình núi trung bình, chia cắt phức tạp, độ dốc lớn và
theo hướng tây bắc - Đông Nam, phân chia thành 2 vùng: vùng núi cao nằm
về phía tây bắc có độ cao trung bình từ 600 - 700 m, địa hình hiểm trở, diện

22
tích 212.740 ha, chiếm 44,8% diện tích toàn vùng; vùng núi thấp nằm ở phía
đông nam, diện tích 262.202 ha, chiếm 55,2% diện tích toàn tỉnh, địa hình
gồm các dải núi thấp, ít bị chia cắt, độ dốc trung bình từ 20 - 250, độ cao
trung bình từ 100 - 200 m. Bên cạnh đó, hệ thống sông ngòi trên địa bàn tỉnh
phân bố tương đối đồng đều với các sông lớn như sông Đà, sông Bôi, sông
Bười, sông Lạng, sông Bùi Hòa Bình có khí hậy cận nhiệt đới ẩm, nhiệt
đới khô lạnh, ít mưa ; mùa hè nóng, mưa nhiều. Nhiệt độ trung bình hàng
năm trên 23 °C. Tháng 7 có nhiệt độ cao nhất trong năm, trung bình 27 -
29 °C, ngược lại tháng 1 có nhiệt độ thấp nhất, trung bình 15,5 - 16,5 °C.
Các đường giao thông quan trọng trên địa bàn tỉnh như:
Quốc lộ 6: qua các huyện Lương Sơn, Kỳ Sơn, thành phố Hòa Bình,
huyện Cao Phong, Tân Lạc, Mai Châu, nối liền Hòa Bình với thủ đô Hà
Nội và các tỉnh tây bắc khác, điểm gần trung tâm Hà Nội nhất trên quốc lộ 6
của Hòa Bình thuộc huyện Lương Sơn là gần 40 km ;
Quốc lộ 15A đi từ huyện Mai Châu nối quốc lộ 6 với các huyện vùng
cao tỉnh Thanh Hóa; Quốc lộ 12B nối thẳng quốc lộ 6 (ở Mãn Đức- Tân Lạc)
đi qua các huyện Tân Lạc, Lạc Sơn, Yên Thuỷ và tỉnh Ninh Bình là con
đường ngắn nhất từ tây bắc xuyên ra Biển Đông;
Quốc lộ 21 có điểm đầu là ngã ba giao cắt với quốc lộ 32, trước cửa
ngõ vào thị xã Sơn Tây, điểm cuối là thị trấn Thịnh Long, huyện Hải Hậu,
tỉnh Nam Định qua thị trấn Xuân Mai Hà Nội qua các huyện Lương Sơn,

Kim Bôi, Lạc Thủy xuống Phủ Lý. Đường Hồ Chí Minh chạy song song với
quốc lộ 21, gặp quốc lộ 12B xã Hưng Thi, Lạc Thủy và quốc lộ 12A tại địa
bàn giáp ranh giữa xã Yên Nghiệp của huyện Lạc Sơn và xã Lạc Thịnh của
huyện Yên Thuỷ.
Các tuyến đường chính này nối với hệ thống đường nối liền các huyện,
xã trong tỉnh với thị xã và với các huyện, tỉnh bạn rất thuận lợi cho giao lưu

23
kinh tế - xã hội, đây cũng là điều kiện để Hòa Bình du nhập và có sự giao
thoa văn hóa lớn.
Đặc điểm về kinh tế - xã hội
Do đặc điểm địa lý tiếp giáp với đồng bằng sông Hồng và thủ đô Hà
Nội, có điều kiện tự nhiên, đất đai, tài nguyên khoáng sản, đặc điểm văn hoá
đa dạng và phong phú đã tạo điều kiện cho tỉnh Hoà Bình phát triển mạnh
một số lĩnh vực kinh tế lợi thế.
Công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng: với trữ lượng sét và đá vôi
lớn, hiện nay sản xuất vật liệu xây dựng là một trong những ngành công
nghiệp mũi nhọn của tỉnh, cung cấp vật liệu xây dựng cho vùng và các tỉnh
lân cận. Ngoài ra, tỉnh còn có 3 nhà máy sản xuất xi măng công suất mỗi nhà
máy 8,8 vạn tấn/năm tại các huyện Lương Sơn, Yên Thuỷ và thị xã Hoà
Bình; ngoài ra còn 2 nhà máy đang hoàn chỉnh thủ tục để đầu tư xây dựng
với công suất 1,2 triệu tấn và 8,8 vạn tấn/năm ở Lương Sơn và các cơ sở sản
xuất đá, vôi, gạch ở hầu hết các huyện, thị.
Công nghiệp chế biến nông - lâm sản: Hoà Bình có đất đai phù hợp với
nhiều loại cây công nghiệp (mía, sắn, chè, măng…), cây ăn quả (cam, quýt, dứa,
vải, nhãn…), từ đó có thể phát triển công nghiệp chế biến nông sản như: đường,
tinh bột, chè khô, hoa quả đóng hộp. Bên cạnh đó, diện tích đất lâm nghiệp
chiếm khoảng 55%, diện tích rừng đã phủ xanh 41% với nhiều vạt rừng kinh tế
được phép trồng và khai thác phục vụ công nghiệp chế biến lâm sản.
Công nghiệp cơ khí, điện tử, may mặc, giày da: dựa trên địa thế tiếp

giáp với các trung tâm công nghiệp lớn là Hà Nội, Hà Tây và tiềm năng lao
động dồi dào, cộng thêm số lao động ở nông thôn chiếm 84%, trong khi thời
gian sử dụng chỉ đạt 74%, do đó Hoà Bình có thể phát triển công nghiệp cơ
khí điện tử, may mặc, giày da. Hiện nay, trên địa bàn đã có một số cơ sở sản
xuất như: Công ty May sông Đà, Công ty May 3/2, Công ty Ban Đai (sản

24
xuất linh kiện điện tử), Công ty R Việt Nam (sản xuất thấu kính), Công ty
Điện tử SANKOR (đang đầu tư xây dựng).
Đặc điểm dân cư:
Hòa Bình có 832.543 dân (tháng 7/2012). Hòa Bình là một trong bốn
tỉnh của Việt Nam mà trong đó người Việt (Kinh) không chiếm đa số, đồng
thời tỉnh này cũng được coi là thủ phủ của người Mường, vì phần lớn người
dân tộc Mường sống tập trung chủ yếu ở đây. Người Mường xét về phương
diện văn hóa - xã hội là dân tộc gần gũi với người Kinh nhất. Địa bàn cư trú
của người Mường ở khắp các địa phương trong tỉnh, sống xen kẽ với người
Kinh và các dân tộc khác.
Theo thống kê, trên địa bàn tỉnh Hòa Bình có 6 dân tộc sinh sống, đông
nhất là người Mường chiếm 63,3%; người Việt (Kinh) chiếm 27,73%;
người Thái chiếm 3,9%; người Dao chiếm 1,7%; người Tày chiếm 2,7%;
người Mông chiếm 0,52%; ngoài ra còn có người Hoa sống rải rác ở các địa
phương trong tỉnh. Người Hoa trước đây sống tập trung ở Ngọc Lương, Yên
Thủy; nhưng sau năm 1979 còn lại một số gia đình và hiện nay sống phân tán
ở các xã Yên Trị, Ngọc Lương và Phú Lai huyện Yên Thuỷ. Ngoài ra, còn có
một số người thuộc các dân tộc khác chủ yếu do kết hôn với người Hòa Bình
công tác ở các tỉnh miền núi khác [30; 03].
Hòa Bình là một trong bốn tỉnh của Việt Nam mà trong đó người Việt
(Kinh) không chiếm đa số, đồng thời tỉnh này cũng được coi là thủ phủ
của người Mường, vì phần lớn người dân tộc Mường sống tập trung chủ yếu
ở đây. Người Mường xét về phương diện văn hóa - xã hội là dân tộc gần gũi

với người Kinh nhất. Địa bàn cư trú của người Mường ở khắp các địa phương
trong tỉnh, sống xen kẽ với người Kinh và các dân tộc khác.
Người Kinh, sống ở khắp nơi trong tỉnh. Những người Kinh sống ở
Hòa Bình đầu tiên đã lên tới 4-5 đời; nhưng đa số di cư tới Hòa Bình từ

25
những năm 1960 của thế kỉ trước, thuộc phong trào khai hoang từ các tỉnh
đồng bằng lân cận (Nam Định, Hà Nam, Ninh Bình, Hà Tây ). Trong những
năm gần đây, sự giao lưu về kinh tế và văn hóa mở rộng, nhiều người Kinh từ
khắp các tỉnh thành đều tìm kiếm cơ hội làm ăn và sinh sống ở Hòa Bình.
Người Thái, chủ yếu sống tập trung ở huyện Mai Châu. Tuy sống gần
với người Mường lâu đời và đã bị ảnh hưởng nhiều về phong tục, lối sống
(đặc biệt là trang phục), nhưng vẫn giữ được những nét văn hóa độc đáo. Đây
là vốn quí để phát triển du lịch công động và bảo lưu vốn văn hóa truyền
thống. Hiện nay, khu du lịch Bản Lác là một trong những điểm du lịch hấp
dẫn du khách trong và ngoài nước hàng đầu ở Hòa Bình.
Người Tày, chủ tập trung ở huyện Đà Bắc, sống xen kẽ với người
Mường, người Dao. Người Tày có tập quán và nhiều nét văn hóa gần giống
với người Thái, đặc biệt là ngôn ngữ. Tuy nhiên, xét theo khía cạnh trang
phục thì người Tày ở Đà Bắc giống người Thái Trắng thuộc các huyện Phù
Yên, Bắc Yên tỉnh Sơn La.
Người Dao sống thành cộng đồng ở các huyện Đà Bắc, Lương Sơn,
Kim Bôi, Cao Phong, Kỳ Sơn và thành phố Hòa Bình. Người H’Mông sống
tập trung ở xã Hang Kia và Pà Còcủa huyện Mai Châu. Trước đây hai dân tộc
này sống du canh du cư, nhưng từ những năm 70-80 đã chuyển sang chế độ
đinh canh, định cư và đã đạt được những thành tựu đáng kể về phương diện
kinh tế - xã hội.
Với sự đa dạng về sắc tộc như vậy và đặc biệt gần với đồng bằng Bắc
Bộ, cách thủ đô Hà Nội chỉ khoảng từ 70 tới 100 km, kết hợp với các điều kiện
địa hình, phong cảnh của tỉnh; thì đây là tiềm năng lớn để phát triển du lịch.

Với những điều kiện về tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định là
tiền đề quan trọng để người Mườngở tỉnh Hòa Bình phát triển nền văn hóa tín
ngưỡng mang đậm bản sắc dân tộc.
1.2.1.2. Khái quát nét văn hóa của dân tộc Mường ở tỉnh Hòa Bình
Khái quát về người Mường ở Hòa Bình

×