Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

các thao tác cơ bản trong hoạt động đọc - hiểu văn bản của tiết học đọc văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.32 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH QUẢNG NINH
TRUNG TÂM HN&GDTX UÔNG BÍ
**
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
*****
TÊN ĐỀ TÀI

NGƯỜI THỰC HIỆN: HOÀNG TH Ị MAI HƯƠNG
ĐƠN VỊ: TRUNG TÂM HN&GDTX UÔNG BÍ

NĂM HỌC 2011 – 2012

A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong lịch sử nhà trường đã tồn tại sai lầm khá lâu là coi học sinh
(HS) chủ yếu như một khách thể, một đối tượng thụ động chịu tác động của
giáo viên (GV). Nhưng trước sự phát triển của xã hội, thời đại, của các khoa
học liên ngành và chuyên ngành, vai trò chủ thể và hoạt động tích cực sáng
tạo của HS trong quá trình dạy học đã được đặc biệt chú ý. Hiện nay, vấn đề
phát triển chủ thể HS đang bùng lên với một sức mạnh mới, trở thành xu thế
phổ biến, thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà phương pháp, nhà
sư phạm học.
Đề cao vai trò chủ thể HS trong quá trình giảng dạy và học tập văn
hoá nói chung, văn học nói riêng chính là tìm một phương hướng cơ bản để
nâng cao hiệu quả dạy học. Phương hướng đó không những phù hợp với yêu
cầu của thời đại khoa học hiện nay mà còn là vấn đề quan điểm nhân văn và
nhận thức khoa học (xây dựng những con người mới tích cực, chủ động,
sáng tạo, tự tin vào năng lực của mình). Chính từ luận điểm này, theo hướng
dẫn của Chương trình ngữ văn trung học phổ thông, Đọc - hiểu văn bản
đang được xem là khâu trung tâm của quá trình dạy học văn, và đổi mới
phương pháp dạy học Đọc - hiểu văn bản văn học là khâu trung tâm của đổi
mới phương pháp dạy học văn trong nhà trường.


B-GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:

I.CƠ SỞ LÝ LUẬN
TS. Nguyễn Thị Thanh Hương cho rằng: “ Mối quan hệ giữa văn bản -
bạn đọc - học sinh thực chất là mối quan hệ giữa sự tác động của văn bản
đến sự tiếp nhận của bạn đọc”, từ đó xác định GV là “chủ thể tác động và
định hướng quá trình tiếp nhận những tác động thẩm mĩ của một văn bản
văn học cho HS”. “Hoạt động định hướng của GV, theo tác giả là hoạt động
hai chiều: định hướng dạy và định hướng học. Định hướng dạy để dẫn dắt,
khêu gợi, định hướng những rung động thẩm mĩ của HS nhằm giúp các em
tiếp nhận các tác động cụ thể của một văn bản văn học, uốn nắn những sự
hiểu sai, hiểu lệch lạc, phát triển và nâng cao năng lực tiếp nhận của HS.
Định hướng học nhằm hoàn thành tốt ba nhiệm vụ: giáo dục, giáo dưỡng, và
phát triển”.
Như vậy, đọc một tác phẩm (TP) văn học, dù ở mức độ nào thì cuối cùng
vẫn phải đi đến mục đích chung là hiểu văn. Khái niệm “hiểu” ở đây không
chỉ là nhận ra kí hiệu và nghĩa của kí hiệu mà còn phán đoán ra ý muốn biểu
đạt của tác giả, tức là đồng cảm và nắm được những thông điệp nghệ thuật
mà nhà văn muốn nói, muốn gửi gắm tới người đọc. Có những lúc nhận ra
nghĩa của kí hiệu và hiểu ý muốn biểu đạt không khó, nhưng trong nhiều
trường hợp, để hiểu đúng văn thật không đơn giản chút nào.


II.CƠ SỞ THỰC TIỄN
Đối với mỗi GV dạy văn, nếu có ý thức nghề nghiệp, sẽ thấy day dứt
về tình trạng dạy văn trong nhiều thập kỷ qua, đặc biệt là những năm gần
đây. Thực trạng HS không học văn, chất lượng môn văn ở trường phổ thông
đặc biệt là ở các Trung tâm HN&GDTX sút kém là bởi nhiều nguyên nhân,
trong đó không thể không nói đến phương pháp dạy học. Một thực tế là lâu
nay chúng ta vẫn quan niệm dạy văn là mô hình “dạy học lấy thầy giáo làm

trung tâm”. Giờ học văn chủ yếu là giờ thầy giảng, trò nghe, trò ghi chép,
học thuộc một cách thụ động. Theo đó, dạy văn là truyền đạt những điều
thầy hiểu về văn cho học trò, ít quan tâm hình thành kỹ năng đọc cho HS,
phát huy suy nghĩ của HS. Đã đến lúc ta phải đổi thay quan niệm dạy học
văn, đổi thay mô hình và phương pháp dạy học văn. Dạy văn hôm nay là dạy
HS Đọc - hiểu văn bản. HS là người chủ động kiến tạo kiến thức văn học
trong giờ học dưới sự tác động của thầy. GS. Trần Đình Sử qua bài viết
“Đọc hiểu văn bản - một khâu đột phá trong nội dung và phương pháp dạy
văn hiện nay” đã nhấn mạnh: “…môn văn trong nhà trường là môn đọc văn.
Dạy văn là dạy cho HS năng lực đọc, kỹ năng đọc để HS có thể đọc - hiểu
bất cứ văn bản nào cùng loại”. Dạy đọc văn theo tác giả, “tức là dạy cho học
sinh một hoạt động phải làm việc với từng con chữ, với câu văn, với dấu
phẩy, dấu chấm của văn bản để hiểu đúng, hiểu sâu văn bản đó”. Đọc - hiểu
văn bản là quá trình đối thoại giữa học sinh, thầy giáo với văn bản. Đó là
cuộc đối thoại vượt thời gian, vượt không gian, vượt chênh lệch lứa tuổi để
đến với cái thật, cái đẹp, cái thiện. Muốn dạy học văn theo phương pháp mới
cần phải xây dựng hệ thống kỹ năng đọc - hiểu văn bản một cách khoa học.
Công việc đó đòi hỏi vừa tìm tòi cái mới , vừa kế thừa mọi yếu tố tích cực
trong quá trình dạy học văn truyền thống. Đó là công việc lâu dài và của
đông đảo các nhà giáo dục, chứ không một cá nhân nào có thể đảm đương
được. Tuy vậy, sau hai năm thực hiện hướng dẫn của Chương trình ngữ văn
trung học phổ thông về việc đổi mới phương pháp dạy học văn, tôi xin mạnh
dạn đề xuất các thao tác cơ bản trong hoạt động Đọc - hiểu văn bản của
tiết học Đọc văn (một hoạt động trọng tâm của giờ học) để góp phần nâng
cao hiệu quả của việc dạy và học môn văn.
III.NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
1/ Tổ chức học sinh tự đọc - hiểu ở nhà
- Tổ chức cho HS tự đọc - hiểu ở nhà là “tạo tiền đề cho việc cảm thụ ở
trên lớp”, góp phần hình thành những cảm xúc, ấn tượng của HS trong bước
Đọc - hiểu văn bản trên lớp ; tự đọc ở nhà là bước “ tập dượt cho sự cảm thụ

trên lớp được sâu sắc hơn”. Trong giờ lên lớp, trên cơ sở những ấn tượng,
cảm xúc hình thành được trong quá trình tự đọc ở nhà của HS, GV “khơi sâu
phát triển những ấn tượng đúng đắn và loại trừ đi những cảm xúc và suy
nghĩ ban đầu còn chủ quan lệch lạc về TP, về tác giả hay về một nhân vật,
một chi tiết trong TP”.
- Hoạt động tự đọc ở nhà của HS bao gồm nhiều nội dung hết sức phong
phú, đa dạng đòi hỏi phải có sự định hướng của GV. Ngoài hệ thống câu hỏi
đọc hiểu trong SGK, GV cần phải xây dựng một hệ thống câu hỏi hướng dẫn
việc tự đọc hiểu ở nhà cho HS. Hệ thống câu hỏi này vừa khêu gợi hứng thú,
say mê, thích thú, hấp dẫn HS vừa phải hướng dẫn HS đi vào những vấn đề
trung tâm, then chốt của TP, vừa có tác dụng chuẩn bị cho hoạt động phân
tích, khám phá TP của GV và HS trên lớp.
Ví dụ (giáo án trích ngang): Ở bài học Tam đại con gà, ngoài những
câu hỏi đọc hiểu trong sách giáo khoa, GV hướng dẫn HS về nhà tìm hiểu
bài học qua các câu hỏi sau:
Hoạt động của thầy Hoạt động của trò Nội dung
Thầy giáo đặt các câu
hỏi:
- Khái niệm truyện
cười.
- Những điều kiện tạo
ra tiếng cười trong
truyện cười là gì?
HS đào sâu suy nghĩ
để trả lời các câu hỏi
trong quá trình đọc
hiểu ở nhà, nhằm:
Hiểu được đặc điểm
của văn bản Tam đại
con gà, hiểu được ý

nghĩa sâu xa của vấn
đề qua văn bản…
- Truyện cười là những tác
phẩm tự sự dân gian ngắn,
có kết cấu chặt chẽ, kết thúc
bất ngờ, kể về những sự
việc xấu, trái tự nhiên trong
cuộc sống, có tác dụng gây
cười, nhằm mục đích giải
trí, phê phán.
- Cái đáng cười có thể là
một thói xấu (thói keo kiệt,
thói khoe của, dốt nát…),
nhưng chưa đủ, cần phải tạo
ra hoàn cảnh thích hợp để
hiện tượng mang sẵn cái
- Phân loại truyện
cười?
đáng cười có điều kiện tự
bộc lộ và bị phát hiện.
Trong Tam đại con gà đặt
thầy đồ dốt vào hoàn cảnh:
chữ kê trong sách Tam thiên
tự (là sách dạy cho trẻ vỡ
lòng) mà cũng không biết,
để đến nỗi phải bịa đặt linh
tinh.
- Dựa vào mục đích gây
cười, ý nghĩa giáo dục của
truyện cười, ta có thể chia

truyện cười dân gian Việt
Nam ra làm hai loại:
+ Truyện khôi hài: kể về
những cái đáng cười do
những sai lầm, hớ hênh,
đãng trí hoặc khuyết tật nào
đó của con người, chủ yếu
nhằm mua vui, giải trí.
+ Truyện trào phúng: kể về
thói hư tật xấu của con
người, ngược lại điểm đạo
đức truyền thống của nhân
dân.
2/ Tổ chức HS đọc - hiểu trên lớp
Tổ chức Đọc - hiểu tác phẩm văn chương trên lớp nhằm giúp HS có
thể cắt nghĩa, lí giải ý nghĩa khách quan của tác phẩm, thâm nhập vào thế
giới nghệ thuật, nắm bắt được thông điệp thẩm mĩ trong tác phẩm. Đồng thời
khơi gợi bộc lộ những tiếp nhận chủ quan của cá nhân HS đối với vấn đề tác
giả đặt ra trong tác phẩm.
a) Đọc diễn cảm
Khi hướng dẫn HS nắm bắt giọng điệu và đọc diễn cảm, GV cần chú
ý một số yêu cầu sau:
- Đảm bảo độ chính xác trong việc nắm bắt giọng điệu và thể hiện
bằng giọng đọc tương ứng. Tránh tình trạng nắm không đúng giọng điệu của
bài văn dẫn đến hiểu không đúng thái độ, tình cảm, tư tưởng của nhà văn.
- Chú ý điều chỉnh, uốn nắn kịp thời những lỗi về ngữ âm, chính tả
cho HS trong quá trình HS đọc diễn cảm.
- Có thể sử dụng những phương tiện kĩ thuật cần thiết để hướng dẫn
HS đọc diễn cảm như: nghe nghệ sĩ ngâm thơ, đọc văn qua máy ghi âm…
b) Đọc - hiểu ngôn từ văn bản

So với việc đọc và tìm hiểu chú thích văn bản, việc đọc - hiểu ngôn từ
văn bản có yêu cầu cao hơn. Ở đây chúng ta không chỉ tìm hiểu nghĩa của
từng từ riêng lẻ mà phải hiểu được cách diễn đạt, nắm bắt mạch văn xuyên
suốt văn bản, đặc biệt phải phát hiện ra mạch ngầm văn bản để hiểu được
những nét đặc sắc, khác thường, thú vị trong nghệ thuật sử dụng ngôn từ của
tác giả.
Ví dụ (giáo án trích ngang): Bài học Chiến thắng Mtao-Mxây

Hoạt động của thầy Hoạt động của trò Nội dung
Thầy giáo cho HS
đọc đoạn: “Đến lúc
này Mtao – Mxây
bảo Hơ Nhị quăng
cho hắn một miếng
trầu. Nhưng Đăm
Săn đã đớp được
miếng trầu. Chàng
nhai trầu, sức mạnh
chàng tăng lên gấp
bội” (tr.32)
Có thể hiểu: “Đây là
phần thưởng của tình
yêu mà Hơ Nhị tặng
chàng. Do đó khi
nhai trầu, sức mạnh
của Đăm Săn tăng
lên, ý chí chiến đấu
trở nên quyết liệt
hơn” được không?


HS theo dõi.
HS thảo luận và cử
đại diện trả lời câu
hỏi.

Hơ Nhị ném trầu cho Mtao-
Mxây chứ không phải cho
Đăm Săn. Đăm Săn chỉ là
người đớp được miếng trầu đó.
Vì vậy, không nên hiểu như
thế. Cách hiểu này xa rời văn
bản và dễ dẫn đến ngộ nhận:
Hơ Nhị cũng tích cực góp phần
làm nên chiến thắng của Đăm
Săn.

c) Đọc - hiểu hình tượng nghệ thuật
Theo lí thuyết tiếp nhận văn học, đọc là một hoạt động sáng tạo nhưng
không phải là một hoạt động hoàn toàn tự do. Người đọc trước hết bị quy
định bởi văn bản tác phẩm với các mã ngôn từ, mã nghệ thuật. Có những
khi, việc đọc - hiểu một hình tượng nghệ thuật tưởng đơn giản nhưng lại rất
phức tạp.
Ví dụ (giáo án trích ngang): Bài học Tấm Cám
Hoạt động của thầy Hoạt động của trò Nội dung
Em hãy phát biểu cảm
nhận của mình về hình
tượng quả thị mà Tấm
hoá thân.

HS thảo luận và phát

biểu ý kiến.

Trong truyện cổ tích thần kỳ
nói chung, mô típ nhân vật
giấu mình trong vật thiêng
vốn là chi tiết quen thuộc và
mang tính thẩm mĩ cao.
Trong truyện Tấm Cám, quả
thị thể hiện vẻ đẹp bình dị,
không cao sang quyền quý
nhưng cũng không nhếch
nhác, thể hiện bước phát
triển về nhận thức của nhân
vật (biết im lặng một cách
cần thiết) chứ không hót
vang như chim vàng anh,
không kẽo kẹt như chiếc
võng hoặc lách cách như
khung cửi.

d) Đọc - hiểu tư tưởng tình cảm tác giả
Theo Tiến sĩ, giảng viên Trần Thanh Bình: “Nhà văn sáng tác bao giờ
cũng nhằm thể hiện tư tưởng tình cảm trong tác phẩm. Tư tưởng tình cảm là
linh hồn của tác phẩm”. Vì vậy, Đọc - hiểu văn bản văn học là phải phát hiện
được linh hồn đó. Tuy nhiên tình cảm thường không được tác giả bộc lộ trực
tiếp mà được thể hiện ở giữa lời, ngoài lời.
Việc Đọc - hiểu tư tưởng tình cảm tác giả đòi hỏi phải có năng lực tổng
hợp, khái quát cao. Để phát hiện đúng tư tưởng tình cảm tác giả , người đọc
một mặt phải kết hợp ngôn từ và phương thức thể hiện hình tượng, mặt khác
phải từ những phán đoán về các mối quan hệ giữa các nhân vật, sự kiện, chi

tiết…trong tác phẩm.
Ví dụ (giáo án trích ngang): Bài học Tấm Cám
Hoạt động của thầy Hoạt động của trò Nội dung
- Trong truyện cổ tích
Tấm Cám, việc Tấm
chết đi sống lại nhiều
lần, cuối cúng đã tìm
được hạnh phúc mà
không phải đợi đến
kiếp sau như quan
niệm về kiếp luân hồi
của nhà Phật cho thấy
quan niệm của nhân
dân ta về hạnh phúc
như thế nào?
- Xây dựng hình
tượng Bụt chỉ hiện lên
giúp Tấm khi Tấm
còn là một cô bé yếu
đuối, nhân dân ta
muốn gửi vào tác
HS thảo luận theo
nhóm, cử đại diện
trình bày.
HS thảo luận theo
nhóm đôi và trả lời
câu hỏi.
- Quan niệm của nhân dân
ta về hạnh phúc: hạnh phúc
không tồn tại ở đâu xa xôi,

trừu tượng mà tồn tại ở ngay
trong cuộc đời trên cõi trần
thế.
- Chi tiết Bụt chỉ hiện lên
giúp Tấm khi Tấm còn là
một cô bé yếu đuối, ngây
thơ cho thấy chính sức sống
mãnh liệt của con người,
của cái thiện mới là nguyên
nhân quan trọng nhất tạo
nên chiến thắng cuối cùng.
phẩm thông điệp gì?

IV.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Sau nhiều năm học thực hiện phương pháp đổi mới việc dạy học môn
văn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, bản thân tôi đã cố gắng tìm tòi, tham khảo
các tài liệu về phương pháp Đọc - hiểu văn bản của các nhà sư phạm, tôi đã
chú ý nhấn mạnh các thao tác trong hoạt động Đọc - hiểu văn bản của tiết
Đọc văn (xin được lặp lại, đây chỉ là các thao tác cơ bản của một hoạt
động trong tiết học Đọc văn).
- Với các thao tác này, học sinh đã hiểu sâu về tác phẩm, nắm bắt được
những tín hiệu, thông điệp mà tác giả gửi vào tác phẩm một cách đầy đủ và
chính xác hơn, từ đó mà hình thành và duy trì những ấn tượng nghệ thuật,
những rung động mạnh mẽ về tác phẩm trong HS để HS tiếp tục đi sâu vào
những khám phá mới.
- Từ kiến thức về văn bản nói riêng và sự tích hợp về kiến thức giữa các
phân môn Văn - Tiếng Việt - Làm văn nói chung, qua các thao tác của hoạt
động Đọc - hiểu văn bản nói trên, HS sẽ vững vàng và thực hiện tốt các câu
hỏi trong đề bài kiểm tra.
- Sau nhiều năm ứng dụng các thao tác cơ bản trong hoạt động Đọc -

hiểu văn bản của tiết Đọc văn, kết quả về bộ môn văn ở các lớp mà tôi đã
dạy đạt được kết quả khá cao. Trong các học kỳ, đã có nhiều lớp đạt tỷ lệ
cao nhất khối

C.KẾT LUẬN
Đọc - hiểu văn bản là hoạt động trung tâm của hoạt động dạy học Văn
đổi mới, bởi vì nội dung trọng tâm của phần Văn trong bài học Ngữ văn
là “Đọc - hiểu văn bản”. Mục đích của việc đổi mới phương pháp dạy học ở
trường phổ thông là thay đổi lối dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học
theo “phương pháp dạy học tích cực” nhằm giúp HS phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện thói quen và khả năng tự học… Muốn
đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy, trong đó đổi mới dạy học Văn
thông qua hoạt động Đọc - hiểu văn bản là một biểu hiện cụ thể và trực
tiếp.
Hy vọng những vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Văn sẽ tiếp tục thu
hút sự quan tâm, chú ý của các thầy cô giáo.
D- KIẾN NGHỊ:
- Nhà trường cần tổ chức thường xuyên các lớp tập huấn, bồi dưỡng để
giúp giáo viên và học sinh thành thạo các kỹ năng sử dụng máy vi tính, chủ
động ứng dụng công nghệ thông tin vào việc giảng dạy, học tập.
- Các thầy cô giáo bộ môn văn nên khích lệ, tạo điều kiện cho học sinh
tự tìm tòi,nghiên cứu tác phẩm.
- Để phát huy cá tính sáng tạo của HS trong hoạt động Đọc - hiểu văn
bản, thầy giáo phải coi trọng cách cảm thụ, thể nghiệm, lí giải chủ quan của
HS, từ đó mà nâng trình độ của HS lên trình độ khoa học. Khích lệ HS nêu
thắc mắc, nêu cách hiểu khác,…để tạo hứng thú trong giờ học. Muốn vậy
HS phải chuẩn bị bước Đọc - hiểu ở nhà thật kỹ và GV cũng phải phát huy
cá tính của riêng mình trong giờ dạy.
Đ. PHẦN PHỤ LỤC
- Đọc - hiểu văn bản là hoạt động đọc văn một cách nghiêm túc, có

nghiền ngẫm, cảm xúc, tưởng tượng và liên tưởng. Bản chất Đọc - hiểu là
tìm hiểu phân tích để chiếm lĩnh văn bản bằng nhiều biện pháp và hình thức
dạy học văn. Như vậy cần hiểu được Đọc - hiểu văn bản có nội hàm phong
phú hơn, sâu sắc hơn các khái niệm giảng văn, phân tích văn học lâu nay
quen dùng.
- Trong đổi mới phương pháp phải có sự hợp tác của thầy và trò, sự
phối hợp hoạt động dạy với hoạt động học sẽ đem lại kết quả cao trong quá
trình dạy học.
- Nâng cao tính khoa học, đối thoại, tư duy, tưởng tượng đều phải dựa
vào thực tế văn bản, không suy diễn tuỳ tiện. Đối thoại từ các vấn đề của văn
bản, tạo nên cuộc trò chuyện thú vị giữa thầy và trò. Sự Đọc - hiểu thông
qua quá trình đối thoại mà được thực hiện. Đọc phải chuẩn xác, đúng đắn:
đọc đúng chữ, đúng âm; hiểu đúng từ ngữ, nắm đúng đại ý. Suy nghĩ về văn
bản không thoát ly ngôn từ. Đồng thời phải biết đọc sáng tạo: HS chủ động,
tự mình cảm thụ được ý nghĩa của hình tượng, cảm nhận được cái hay của
ngôn từ, thể nghiệm được tình huống trong tác phẩm một cách tự do, biết
dùng ngôn từ của mình để giải thích cái hay của hình tượng và ngôn từ trong
văn bản.
- Cách dạy quyết định cách học, tuy nhiên thói quen học tập thụ động
của HS cũng ảnh hưởng đến cách dạy của thầy. Do vậy GV cần phải kiên trì
cách dạy theo phương pháp dạy học tích cực.
Nếu được coi trọng bồi dưỡng năng lực đọc - hiểu văn bản thì HS chẳng
những ghi nhớ được kiến thức thầy dạy, mà sẽ phát huy, mở rộng được kiến
thức đã học, tự bồi dưỡng thêm nhiều kiến thức mới.
E. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Trần Thanh Bình
Mấy ý kiến về đọc - hiểu văn bản văn học Việt Nam trong sách giáo khoa
Ngữ văn 10 (chương trình chuẩn), Khoa Ngữ văn, Đại học Quy Nhơn – 30
năm nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục, năm 2007.
2. ThS. Trần Đình Chung

Tiến tới một quy trình “đọc - hiểu văn bản” trong bài học Ngữ văn mới.
Văn học và tuổi trẻ, NXB Giáo dục, tháng 2 - 2004.
3. GS.TS. Trần Đình Sử
Dạy học văn là dạy học sinh đọc - hiểu văn bản. Văn học và tuổi trẻ,
NXB Giáo dục, tháng 9 – 2007.
MỤC LỤC
1.Tên đề tài.
2.Đặt vấn đề.
3.Cơ sở lý luận.
4.Cơ sở thực tiễn .
5. Nội dung nghiên cứu.
6.Kết quả nghiên cứu.
7. Kết luận .
8.Đề nghị.
9. Ph ần phụ lục.
10.Tài liệu tham khảo.
11.Mục lục.

×