Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.35 KB, 24 trang )

Lời mở đầu
Trong những năm qua, xuất khẩu của Việt Nam đã có những bước
phát triển vượt bậc cả về kim ngạch xuất khẩu và giá trị sản lượng. Năm
2006, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 50 của Tổ chức Kinh
tế Thế giới ( WTO ). Việc gia nhập WTO vừa tạo ra nhiều cơ hội cho
Việt Nam trong công cuộc hội nhập kinh tế toàn cầu nhưng cũng đặt ra
nhiều thử thách cho nền kinh tế Việt Nam.
Cà phê là một trong những mặt hàng xuất khẩu mạnh của Việt Nam.
Hiện nay, xuất khẩu cà phê chưa tương xứng với tiềm năng của ngành cà
phê Việt Nam. Đẩy mạnh phát triển ngành cà phê xuất khẩu Việt Nam là
một công việc cần thiết để góp phần nâng cao hơn nữa xuất khẩu của
Việt Nam.
Chuyên đề nghiên cứu xin đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy
xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt Nam sau khi nghiên cứu hiện trạng
của ngành cà phê Việt Nam hiện nay.
Trong quá trình nghiên cứu, do còn nhiều hạn chế về con người và
nguồn tài liệu, chuyên đề không tránh khỏi có những thiếu sót, mong thầy
giáo xem xét và chỉ bảo hướng dẫn để em có thể hoàn thiện hơn nữa
chuyên đề nghiên cứu của mình.
Em xin chân thành cảm ơn !
Sinh viên
Đàm Tiến Thành
1
1. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu mặt hàng cà phê của Việt
Nam
1.1 Vị trí của mặt hàng cà phê trong xuất khẩu của Việt Nam và thế giới
Kể từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển sang cơ chế thị trường, kim
ngạch xuất khẩu các mặt hàng của Việt Nam sang nhiều thị trường trên thế
giới đã tăng lên đáng kể. Một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
Việt Nam là cà phê. Hiện nay, cà phê đã là 1 trong 5 mặt hàng thuộc câu lạc
bộ xuất khẩu 1 tỷ USD, theo dự kiến, xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong


năm 2007 sẽ đạt 1,5 tỷ USD. Trong cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam, cà phê
là mặt hàng chủ lực trong xuất khẩu nông sản. Trong 10 tháng năm 2007,
xuất khẩu cà phê của nước ta đạt 972,65 nghìn tấn với trị giá 1,467 tỷ USD,
tăng 44,58% về lượng và tăng 86,71% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái.
Tính đến thời điểm nói trên, kim ngạch từ xuất khẩu cà phê chiếm tới 13 %
tổng sản lượng xuất khẩu nông sản - đứng đầu trong nhóm các mặt hàng
này, vượt qua mặt hàng gạo (đạt 1,283 tỷ USD), và đứng thứ 6 về kim ngạch
trong số các mặt hàng xuất khẩu của cả nước.
Bên cạnh đó, Việt Nam là nước có sản lượng cà phê Robusta cao nhất
trên thế giới. Về xuất khẩu cà phê nhân, Việt Nam là nước có kim ngạch
xuất khẩu lớn thứ 2 sau Braxil. Sản lượng xuất khẩu niên vụ 06/07 của Việt
Nam là hơn 18 triệu bao so với gần 29 triệu bao cà phê xuất khẩu của Braxil.
Xuất khẩu cà phê hiện chiếm khoảng 13% tổng giá trị xuất khẩu nông sản
Việt Nam, và trở thành nước xuất khẩu cà phê vối lớn nhất thế giới, chiếm
tới 43% thị phần cà phê toàn cầu.
2
1.2 Tiềm năng của ngành cà phê xuất khẩu Việt Nam
Trong vài năm trở lại đây, thị trường cà phê được giá trở lại nên bà con
nông dân đã đầu tư và khôi phục trở lại những trang trại cà phê, cà phê sinh
trưởng tốt và đem lại thu hoạch khá cao. Nước ta hiện có 500.000 ha càphê,
năng suất bình quân 17 tạ/ha, sản lượng 836.000 tấn. Diện tích trồng tăng
không chỉ ở các tỉnh Tây Nguyên mà còn ở các tỉnh Đông Nam Bộ và vùng
Đông Trường Sơn. Riêng tại Đắc Lắc – địa phương có diện tích và sản
lượng lớn nhất toàn quốc, cà phê chiếm tới 60% GDP của tỉnh và chiếm tới
50% kim ngạch xuất khẩu cà phê của nước ta.
Trong đó, tỉ lệ cà phê vối ( Robusta) chiếm tới 95%.
Cà phê robusta ở Việt Nam phần lớn được trồng trên đất đỏ bazan có độ
phì nhiêu cao, nhất là có tính vật lý lý tưởng, tại các tỉnh Tây Nguyên có độ
cao 450 - 600 m. Bởi vậy, cà phê robusta Việt Nam vừa có chất lượng cao,
vừa rất phù hợp cho chế biến cà phê pha trộn và cà phê hoà tan.

Chất lượng cà phê Robusta Việt Nam cũng được công nhận là ngon nhất thế
giới. Cà phê Robusta được ưu chuộng trên rất nhiều thị trường các nước
nhập khẩu.
1.3 Những vấn đề được giải quyết khi đẩy mạnh xuất khẩu
1.3.1 Diện tích trồng trọt lớn, đảm bảo đời sống kinh tế và việc làm cho nông
dân.
Với hơn nửa triệu ha cà phê hàng năm tạo việc làm cho hơn 600 nghìn
nông dân và đảm bảo cuộc sống cho hơn một triệu người dân ở vùng nông
thôn miền núi và Tây Nguyên, cây cà phê có một vị trí quan trọng trong cơ
cấu cây trồng của nước ta.
3
Việc xuất khẩu cà phê không chỉ đem lại lợi ích cho Nhà Nước và doanh
nghiệp mà còn góp phần rất lớn trong việc ổn định kinh tế xã hội và đời sống
nhân dân.
1.3.2 Cà phê đứng vị trí thứ 6 trong các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam
Vượt qua gạo, cà phê chiếm tới 13 % xuất khẩu nông sản và đứng vị trí
thứ 6 trong các mặt hàng của Việt Nam, góp phần không nhỏ vào sự phát
triển của nền kinh tế, đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn.
Tình hình và kim ngạch xuất khẩu cà phê có ảnh hưởng lớn tới xuất
khẩu của Việt Nam. Thúc đẩy xuất khẩu cà phê sẽ giúp Việt Nam đạt được
mục tiêu xuất khẩu 58 tỷ USD vào năm 2008 và đạt được những chỉ tiêu
kinh tế xã hội khác.
1.3.3 Việt Nam là nước có sản lượng lớn thứ 2 trên thế giới nhưng mức tiêu
thụ trong nước rất thấp.
Theo ông Đoàn Triệu Nhạn, Phó Chủ tịch Hiệp hội Cà phê- Ca cao Việt
Nam, bình quân các nước thành viên của Tổ chức cà phê quốc tế (ICO) tiêu
thụ nội địa mỗi năm lên đến 25,16% sản lượng, trong khi Việt Nam (là thành
viên của Tổ chức) hiện nay chỉ mới đạt 5% sản lượng thu hoạch. Đây là mức
tiêu thụ quá thấp so với tiềm năng của thị trường trong nước.
Việc tiêu thụ thấp một phần do trước đây, sản lượng cà phê thấp, để đủ

nhu cầu trong nước, các cơ sở chế biến đã pha trộn nhiều tạp chất, hình
thành nên sở thích của người uống. Hiện nay, cà phê nguyên chất không hợp
với khẩu vị của người dùng. Mặt khác, do thói quen và tập quán của dân ta
thường uống nước chè, vối hay nước trắng khi đi làm ruộng, rẫy, cà phê vừa
khó uống và tốn nhiều thời gian, phức tạp trong khâu pha chế. Số lượng
người thường xuyên uống cà phê ít, chủ yếu tập trung ở những khu đô thị,
thành phố.
4
Vì vậy, khi tiêu thụ trong nước thấp, xuất khẩu là nhu cầu tất yếu để
đảm bảo sản xuất trong nước và đảm bảo việc tiêu thụ cà phê thu được.
2. Thực trạng xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong thời gian qua
2.1 Sản lượng và chất lượng cà phê xuất khẩu
2.1.1 Sản lượng
Hiện nay Việt Nam là nước thứ 2 trên thế giới về kim ngạch xuất khẩu
cà phê. Tính đến đầu tháng 11/2007, sản lượng xuất khẩu cà phê vượt
ngưỡng 1 triệu tấn hàng, đạt giá trị kim ngạch khoảng 1,55 tỷ USD, tăng
43% sản lượng nhưng tăng tới 84 % về giá trị sản lượng so với cùng kì năm
trước. Hiệp hội cà phê ca cao Việt nam dự báo trong năm nay , kim ngạch
xuất khẩu cà phê của Việt Nam đạt mức 1,8 tỷ USD.
Về giá, từ đầu năm đến nay, giá cà phê xuất khẩu Việt Nam tăng khá do
giá cà phê trên thế giới tăng. Hiện nay, giá cà phê xuất khẩu đạt xấp xỉ
1800USD/ tấn, tăng 80-100USD/tấn, và là mức cao nhất trong 9 năm rở lại
đây. Tuy vậy, giá cà phê Việt Nam vẫn còn thấp hơn so với các nước xuất
khẩu cà phê khác vào khoảng 50 – 70 USD/ tấn. Năm 2006, giá cà phê
Robusta của Việt Nam là 1188 USD, trong khi giá thị trường London là
1.317.7 USD, và giá chỉ thị ICO là 1.489,2 USD; gần nhất vào tháng 9/2007,
sự chênh lệch giá tương ứng vẫn là 1.582 USD - 1.835,8 USD - 2045,9
USD.
Trong cơ cấu xuất khẩu thì Việt Nam xuất khẩu chủ yếu là cà phê
Robusta, giá thường thấp hơn cà phê chè ( Arabica) 30 % và Robusta cũng

chỉ chiếm tới 30% lượng sản phẩm rang xay.
5
2.1.2 Chất lượng cà phê xuất khẩu
Chất lượng cà phê Robusta Việt Nam được coi là tốt nhất thế giới nhưng
lại không đồng đều, đặc biệt là tỉ lệ bị thải loại là cao nhất thế giới. Từ
tháng 10/2006 – 3/2007 tổng số cà phê bị loại của Việt Nam chiếm 88%
tổng số cà phê bị thải loại trên thế giới.
Do thói quen lâu nay, nông dân Việt Nam đã để lẫn cà phê quả xanh với
quả chín, cũng như chưa quan tâm đúng mức đến việc phơi khô cà phê. Mặt
khác, do 2 bên người mua và người bán cà phê ở Việt Nam đều thoả thuận
áp dụng tiêu chuẩn cũ TCVN 4193:93, chỉ chú ý tỉ lệ phần trăm hạt đen, vỡ,
do đó người ta không thể tính số lỗi như hạt mốc, hạt chưa chín và mẩu cây
vụn, sạn nhỏ...
Để đảm bảo chất lượng, cà phê xuất khẩu phải được phân loại theo
phương pháp tính số lỗi, có như thế Việt Nam mới có cơ sở ghi chứng chỉ
xuất xứ đầy đủ (hiện nay, Việt Nam vẫn nằm ngoài danh sách 28 nước xuất
khẩu cà phê đã báo cáo chất lượng cho Tổ chức Cà phê Quốc tế).
2.2 Thị trường xuất khẩu
Hiện nay, cà phê Việt Nam đã xuất khẩu sang gần 70 nước và vùng lãnh
thổ. Trong đó phải kể đến 10 nước nhập khẩu hàng đầu cà phê Việt Nam
gồm: Đức, Hoa Kỳ, Tây Ban Nha, Italia, Bỉ, Ba Lan, Pháp, Hàn Quốc, Anh,
Nhật Bản. Nhóm 10 nước này chiếm thị phần rất lớn tới ¾ khối lượng cà
phê xuất khẩu của Việt Nam.
Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam vẫn ổn định, trong đó Đức
tiếp tục giữ vị trí số 1 về nhập khẩu cà phê của Việt Nam với thị phần
khoảng 14%. Tiếp theo là các nước như Mỹ, Italia, Tây Ban Nha, Thuỵ Sỹ.
6

Thị trường xuất khẩu cà phê của Việt Nam ngày càng mở rộng, ngoài các
nước ở châu Âu và Hoa Kỳ, cà phê Việt Nam còn xuất khẩu sang vùng

Trung Cận Đông, châu Phi, một số nước trong Hiệp hội ASEAN và vùng
Trung Mỹ.
2.3 Các đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu cà phê của Việt Nam
Hiện nay, Việt Nam xuất khẩu cà phê thứ 2 thế giới, đứng đầu là Braxil,
sau Việt Nam là các nước Colombia, Indonesia, Guatemala, Honduras,
Costa Rica…
2.3.1 Xuất khẩu cà phê của Brazil :
Brazil là nước có sản lượng thu hoạch và kim ngạch cà phê xuất khẩu
lớn nhất thế giới. Theo thông báo của Hội đồng xuất khẩu cà phê nhân
Brazil hôm 05/11, Brazil đã xuất khẩu 2,51 triệu bao cà phê nhân loại 60kg
trong tháng 10, giảm 2% so với 2,56 triệu bao xuất khẩu 1 năm trước đó.
Khối lượng xuất khẩu tháng 10 bao gồm 2,27 triệu bao cà phê nhân arabica,
giảm 2,1% so với 2,32 triệu bao cùng kỳ năm trước. Cà phê robusta xuất
khẩu cũng giảm 1,4% từ 222.967 bao của tháng 10/06 xuống còn 238.309
bao.
Tính chung cho ngành xuất khẩu cà phê của Brazil, tổng khối lượng
xuất ra trong tháng 10/07 đã tăng 0,3% lên 2,79 triệu bao, với kim ngạch
tăng tới 26,6% lên 423,2 triệu USD so với cùng kỳ năm trước.
7
2.3.2 Xuất khẩu cà phê của Guatemala:
Xuất khẩu cà phê của Guatemala trong tháng 10 – tháng đầu tiên của
niên vụ 2007/08 đạt 111.146 bao loại 60kg, tăng 14,15% so với cùng kỳ năm
ngoái. Anacafe cho biết trong tháng 10 năm 2006, xuất khẩu của Central
American Arabica là 97.369 bao.
2.3.3 Xuất khẩu cà phê của Costa Rica:
Theo tổ chức cà phê Costa Rican, xuất khẩu cà phê trong tháng 10 của nước
này đạt 34.018 bao loại 60 kg, giảm 12,2% so với cùng kỳ năm ngoái.
2.3.4 Xuất khẩu cà phê của Honduras:
Tổ chức cà phê Honduras cho biết xuất khẩu cà phê của nước này trong
tháng 10 đạt 47.488 bao loại 60kg, tăng 88%.

Nước sản xuất cà phê lớn thứ 2 Trung Mỹ này đang có kế hoạch tăng gấp
đôi sản lượng cà phê xuất khẩu hàng năm lên khoảng 7,7 triệu bao loại 60kg
vào năm 2010/2011 nhờ giá sản xuất thấp và nguồn đất trồng rộng.
8
3. Một số giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong
thời gian tới
3.1 Nâng cao chất lượng sản phẩm
Chất lượng cà phê xuất khẩu của Việt Nam không có tính đồng đều, đây
là một điểm yếu lớn của cà phê Việt Nam. Để nâng cao chất lượng sản
phẩm, chúng ta có thể thực hiện một số công việc như sau:
3.1.1 Áp dụng tích cực các hệ thống quản lý chất lượng
Các cơ sở doanh nghiệp trồng và chế biến cà phê hiện nay gần như
không tuân theo một tiêu chuẩn nào cả. Trước đây có áp dụng tiêu chuẩn cũ
TCVN 4193:93, nay không còn phù hợp với tình hình mới, không kiểm soát
được chất lượng cà phê. Đến năm 2005, Việt Nam đã ban hành Tiêu chuẩn
cà phê xuất khẩu TCVN 4193:2005, áp dụng phân loại theo cách tính lỗi để
phù hợp với cách phân loại của Hội đồng Cà phê Thế giới. Tuy nhiên đây là
một tiêu chuẩn mang tính tự nguyện, không bắt buộc nên không được nhiều
cơ sở thực hiện. Hiện nay mới chỉ có 10% các doanh nghiệp áp dụng tiêu
chuẩn này, tương đương 1 – 1,5 % lượng xuất khẩu.
Ngày 1/10/2007, Bộ Công Thương đã ra văn bản yêu cầu thực hiện theo
tiêu chuẩn mới này. Vì phải trang bị máy móc và thay đổi quy trình thu mua
chế biến nên các cơ sở đã phản ứng với quyết định trên. Nhưng đây là một
biện pháp cần được áp dụng triệt để nhằm nâng cao chất lượng của cà phê
xuất khẩu.
9

×