Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Tài liệu ôn thi tốt nghiệp và Đại học môn ngữ văn lớp 12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.66 KB, 63 trang )

NGHỊ LUẬN VĂN HỌC
1
1. Khái quát văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945
đến hết thế kỷ XX. 2
2. Hồ Chí Minh 2
3. Tuyên ngôn độc lập – Hồ Chí Minh. 3
4. Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc
– Phạm Văn Đồng. 3
4. Tây Tiến – Quang Dũng. 4
5. Tố Hữu 4
6. Việt Bắc (trích) – Tố Hữu 5
7. Đất Nước (trích Trường ca Mặt đường khát vọng)
- Nguyễn Khoa Điềm. 6
8. Sóng – Xuân Quỳnh. 10
9. Đàn ghi- ta của Lor-ca – Thanh Thảo 12
10. Ai đã đặt tên cho dòng sông? (trích) – Hoàng Phủ Ngọc Tường. 16
11. Người lái đò Sông Đà (trích) - Nguyễn Tuân. 18
12. Vợ chồng A Phủ (trích) – Tô Hoài. 21
13. Vợ nhặt (Kim Lân). 23
14. Rừng xà nu – Nguyễn Trung Thành. 28
15. Những đứa con trong gia đình (trích) - Nguyễn Thi. 31
16. Chiếc thuyền ngoài xa – Nguyễn Minh Châu. 33
17. Hồn Trương Ba, da hàng thịt – Lưu Quang Vũ. 35
18. Phụ lục văn học nước ngoài 37
Khái quát văn học Việt Nam
từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến hết thế kỉ XX
1/ Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975
a/ Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hoá, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung của đất nước.
b/ Nền văn học hướng về đại chúng
c/ Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
2/ Những đặc điểm cơ bản của Văn học Việt Nam từ sau 1975 đến hết thế kỉ XX?



a/ Nền văn học vận động theo hướng dân chủ hóa, mang tính nhân bản và nhân văn sâu sắc.
b/ Nền văn học đã khám phá con người trong những mối quan hệ đa dạng và phức tạp, có tính chất hướng nội,
quan tâm nhiều hơn tới số phận cá nhân trong những hoàn cảnh phức tạp, đời thường.
c/ Nền văn học có nhiều tìm tòi , đổi mới về nghệ thuật .
• Luyện tập

1/ Những đặc điểm cơ bản của văn học Việt Nam từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến
1975?
2/ Một trong những đặc điểm cơ bản của nền văn học Việt Nam từ năm 1945 đến năm 1975 là
chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn.
Hãy nêu những nét chính của đặc điểm trên.
• Gợi ý đề 2
* Khuynh hướng sử thi
- Văn học phản ánh những sự kiện, những vấn đề có ý nghĩa lịch sử lớn lao, tập trung thể hiện chủ nghĩa yêu
nước, chủ nghĩa anh hùng.
- Nhân vật chính thường là những con người tiêu biểu cho lí tưởng chung của dân tộc, kết tinh các phẩm
chất cao quý của cộng đồng, gắn bó số phận mình với số phận của đất nước.
- Lời văn mang giọng điệu trang trọng, hào hùng, thiên về ngợi ca, ngưỡng mộ.
* Cảm hứng lãng mạn
- Cảm hứng lãng mạn chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí tưởng của cuộc sống mới
và vẻ đẹp của con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào tương lai tươi sáng của
dân tộc.
- Cảm hứng lãng mạn gắn liền với khuynh hướng sử thi.
Tác gia HỒ CHÍ MINH
1.Về quan điểm sáng tác văn học

Quan điểm sáng tác văn học của Người hết sức nhất quán. Tập trung ba điểm :
+ Bác luôn coi văn nghệ là một hoạt động tinh thần phong phú và phục vụ có hiệu quả cho sự nghiệp cách
mạng; nhà văn phải góp phần đấu tranh và phát triển xã hội. Nghĩa là “văn học nghệ thuật cũng là một mặt trận”

và người cầm bút phải là “chiến sĩ trên mặt trận ấy”:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
( Cảm tưởng đọc Thiên gia thi )
+ Người chủ trương văn học phải phản ánh cuộc sống một cách chân thật và đậm tính dân tộc. Hình thức
phải trong sáng, hấp dẫn.
+ Người nêu kinh nghiệm sáng tác : Bao giờ cũng xác định rõ đối tượng và mục đích : Viết cho ai? Viết để
làm gì? Từ đó mới xác định nội dung và hình thức viết : Viết cái gì? Viết như thế nào?
2 . Về sự nghiệp văn học

Nguyễn Ai Quốc-Hồ Chí Minh đã để lại một di sản văn học đồ sộ và đa dạng : truyện ngắn, phóng sự, hồi
kí, bút kí, tiểu phẩm, tuyên ngôn, lời kêu gọi, thư từ, thơ tiếng Việt và tiếng Hán, kịch bản …Tác phẩm văn học
của Người được viết bằng tiếng Pháp, Hán văn và tiếng Việt. Sự nghiệp sáng tác nổi bật ở 3 lĩnh vực : Văn chính
luận, Truyện và ký, Thơ ca.
Văn chính luận được viết với mục đích tiến công trực diện kẻ thù hoặc thể hiện nhiệm vụ cách mạng trong
từng giai đoạn. Các tác phẩm tiêu biểu như Bản án chế độ thực dân Pháp, Tuyên ngôn độc lập, Lời kêu gọi toàn
quốc kháng chiến, Không có gì quí hơn độc lập tự do …
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
2
Truyện và kí tiêu biểu trước hết là những tác phẩm viết bằng tiếng Pháp vào khoảng đầu những năm 20
của thế kỉ XX như Vi hành, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu, Lời than vãn của bà Trưng Trắc … Các
tác phẩm này cũng nhằm mục đích tiến công kẻ thù nhưng bằng hình tượng nghệ thuật.
Thơ ca là lĩnh vực nổi bật trong giá trị sáng tạo văn chương của Hồ Chí Minh. Trên 250 bài thơ ở ba tập
Nhật kí trong tù, Thơ Hồ Chí Minh và Thơ chữ Hán Hồ Chí Minh.
3. Về phong cách nghệ thuật

+ Văn chương của Người kết hợp mối quan hệ giữa chính trị và văn học, giữa tư tưởng và nghệ thuật, giữa
truyền thống và hiện đại. Mỗi loại hình đều có phong cách riêng, độc đáo, hấp dẫn và có giá trị bền vững.
- Văn chính luận: lí lẽ sắc bén, lập luận chặt chẽ, đanh thép; giọng điệu đa dạng; giàu tính luận chiến.
- Truyện và kí: kết hợp linh hoạt cách viết hiện đại với cách kể truyền thống; lối trào phúng giàu chất trí tuệ; giọng

văn khi nghiêm trang khi hài hước.
- Thơ ca: thơ tuyên truyền giản dị, mộc mạc; thơ nghệ thuật thâm trầm, sâu sắc, vừa cổ điển vừa hiện đại.
+ Đa dạng nhưng thống nhất, thể hiện ở sự nhất quán về quan điểm sáng tác và tư tưởng, tình cảm; nhất
quán về nghệ thuật: cách viết thường ngắn gọn, trong sáng, giản dị, thường vận dụng linh hoạt nhiều thủ pháp
và bút pháp khác nhau.
• Luyện tập

1/ Nêu những nét chính về quan điểm sáng tác văn học nghệ thuật của Chủ tịch Hồ Chí Minh ?
2/ Những nét khái quát về sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh ?
3/ Đặc điểm cơ bản của phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh ?
TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
HỒ CHÍ MINH
1/ Hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác
a. Hoàn cảnh ra đời
- Ngày 19-8-1945, chính quyền ở Hà Nội về tay nhân dân. Ngày 26-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ
chiến khu cách mạng Việt Bắc về tới Hà Nội. Tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Người soạn thảo bản Tuyên
ngôn Độc lập. Ngày 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình, Hà Nội, trước hàng vạn đồng bào, Người thay mặt
Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt
Nam mới.
- Lúc này cũng là thời điểm bọn đế quốc, thực dân nấp sau quân Đồng Minh vào tước khí giới quân đội
Nhật, đang âm mưu chiếm lại nước ta. Thực dân Pháp tuyên bố : Đông Dương là thuộc địa của Pháp, bị Nhật
xâm chiếm, nay Nhật đầu hàng nên Đông Dương phải thuộc quyền “bảo hộ” của Pháp.
b. Mục đích sáng tác
- Chính thức tuyên bố trước quốc dân, trước thế giới sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam.
- Tố cáo tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta suốt 80 năm qua và tuyên bố chấm dứt chế độ thực
dân, xoá bỏ mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.
- Khẳng định ý chí của cả dân tộc Việt Nam kiên quyết bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
2/ Giá trị Tuyên ngôn độc lập
- Tuyên ngôn độc lập là một văn kiện lịch sử to lớn : tuyên bố xoá bỏ chế độ thực dân, phong kiến;

khẳng định quyền tự chủ và vị thế bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới; mở ra kỉ nguyên độc lập tự do trên
đất nước ta.
- Tuyên ngôn độc lập là một tác phẩm chính luận đặc sắc : lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng
xác thực, ngôn ngữ hùng hồn, đầy cảm xúc, …
- Tuyên ngôn độc lập còn là một áng văn tâm huyết của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3/ Ý nghĩa của việc trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập (Mỹ) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền (Pháp)
trong phần mở đầu Tuyên ngôn Độc lập
- Nêu lên những nguyên lí chung về quyền được tự do bình đẳng của con người để khẳng định lập trường
chính nghĩa của dân tộc; tạo vị thế bình đẳng giữa Việt Nam với các nước lớn trên thế giới.
- Đưa ra những lí lẽ thuyết phục để chuẩn bị tiền đề cho lập luận ở phần tiếp theo, làm cơ sở cho cả hệ
thống lập luận của bản tuyên ngôn.
• Luyện tập

1/ Nêu hoàn cảnh ra đời và mục đích sáng tác Tuyên ngôn độc lập.
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
3
2/ Giá trị Tuyên ngôn độc lập
3/ Ý nghĩa của việc trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập (Mỹ) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân
quyền (Pháp) trong phần mở đầu Tuyên ngôn Độc lập ?
NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU, NGÔI SAO SÁNG TRONG VĂN NGHỆ CỦA DÂN TỘC
PHẠM VĂN ĐỒNG
1/ Hoàn cảnh và mục đích sáng tác
- Hoàn cảnh sáng tác:
+ Viết nhân dịp kỉ niệm 75 năm ngày mất của Nguyễn Đình Chiểu (3/7/1888). Tác phẩm được đăng trên Tạp chí
Văn học tháng 7/1963.
+ Hoàn cảnh đất nước: Mĩ can thiệp vào chiến trường Việt Nam ngày càng nhiều, đánh phá miền Nam và
chuẩn bị tiến hành chiến tranh xâm lược miền Bắc, phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam đang diễn ra
mạnh mẽ.
- Mục đích sáng tác:
+ Tưởng nhớ, định hướng cách nhìn nhận, đánh giá về thơ văn NĐC

+ Xác định mối quan hệ giữa thơ văn yêu nước NĐC với sự nghiệp chống Mĩ cứu nước.
2/ Nhận xét về cách trình bày các luận điểm:

- Bài viết có 3 luận điểm lớn:
+ Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu
+ Thơ văn yêu nước Nguyễn Đình Chiểu
+ Tác phẩm Lục Vân Tiên
- Nêu thơ văn yêu nước trước để nhấn mạnh tính chiến đấu của thơ văn NĐC, phù hợp với mục đích xác định mối
quan hệ giữa thơ văn yêu nước NĐC với sự nghiệp chống Mĩ cứu nước.
• Luyện tập

1/ Vì sao văn thơ của Nguyễn Đình Chiểu cũng giống như “những vì sao có ánh sáng khác thường”
?
2/ Vì sao Pham Văn Đồng cho rằng ngôi sao Nguyễn Đình Chiểu đáng lẽ phải sáng tỏ hơn nữa
không chỉ trong tời ấy, mà cả trong thời đại hiện nay ?
TÂY TIẾN
QUANG DŨNG
• Luyện tập

1/ Hoàn cảnh sáng tác bài thơ Tây Tiến có điểm gì lưu ý ?
2/ Phân tích đoạn thơ đầu (14 câu)
3/ Hình ảnh người lính Tây Tiến được khắc hoạ bằng vẻ đẹp lãng mạn và chất bi tráng.
Phân tích đoạn thơ thứ ba để làm rõ.
4/ Phân tích cảm hứng lãng mạn trong bài thơ Tây Tiến
• Gợi ý
ĐỀ 2 :
a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm – Nêu đoạn thơ
b. Phân tích
- Cảm xúc chủ đạo trong đoạn thơ là nỗi nhớ da diết của tác giả về miền Tây và đoàn quân Tây Tiến.
- Bức tranh thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội, bí hiểm mà thơ mộng, trữ tình.

- Hình ảnh người lính trên chặng đường hành quân đầy gian nan, nguy hiểm; tuy vất vả, hi sinh nhưng
vẫn ngang tàng, trẻ trung, lãng mạn.
- Nghệ thuật: kết hợp hài hoà giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn; ngôn ngữ giàu tính tạo hình, giàu
nhạc điệu; biện pháp tu từ đặc sắc;
c. Đánh giá chung về đoạn thơ.
ĐỀ 4 :
a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
b. Phân tích
- Giải thích ngắn gọn : Cảm hứng lãng mạn chủ yếu được thể hiện trong việc khẳng định phương diện lí
tưởng của cuộc sống mới và vẻ đẹp của con người mới, ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng và tin tưởng vào
tương lai tươi sáng của dân tộc.
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
4
- Chất lãng mạn trong Tây Tiến chính là cảm hứng hướng đến vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc và người
lính Tây Tiến .
+ Khai thác triệt để thủ pháp đối lập : cảnh vật và con người được dựng lên ở một biên độ rất rộng. Vì
thế, bên cạnh một Tây Bắc hùng vĩ dữ dội có một Tây Bắc mĩ lệ duyên dáng, giữa hai nét gân guốc táo bạo và
tươi tắn mềm mại, giữa hai gam màu vừa chói gắt vừa quyến rũ lạ thường.
+ Tô đậm màu sắc xứ lạ phương xa : Đó là những “hội đuốc hoa” . Đó là những “chiều sương” ở Châu
Mộc, là “hồn lau” thấp thoáng “nẻo bến bờ”, là dáng người mảnh mai, mềm mại trên dòng suối
+ Chân dung người lính Tây Tiến hiện lên trên cái nền hùng vĩ và mĩ lệ của núi rừng Tây Bắc.
- Tính chất lãng mạn còn thể hiện ở một phương diện khác, đó là gắn liền với cảm hứng bi tráng.
c. Đánh giá chung
Tác gia TỐ HỮU
1/ Đường cách mạng, đường thơ :
- Tố Hữu đến với thơ và cách mạng cùng một lúc. Các chặng đường thơ song hành với các giai đoạn đấu
tranh cách mạng ; đồng thời thể hiện sự vận động trong tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ.
- Năm tập thơ tiêu biểu là Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng, Ra trận, Máu và hoa.
+ Từ ấy (1937-1946), chặng đường đầu mười năm thơ Tố Hữu, cũng là mười năm hoạt động sôi nổi của
người thanh niên giác ngộ lí tưởng cộng sản và sẵn sàng chiến đấu xả thân cho lí tưởng. Tập thơ có ba phần :

Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng tương ứng với ba chặng đường trong mười năm ấy.
+ Việt Bắc (1947-1954) là bản hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp, một giai đoạn lịch sử gian lao
mà anh dũng. Tập thơ kết tinh những tình cảm lớn của người Việt Nam, mà thống nhất và bao trùm là tình yêu
nước.
+ Gió lộng (1955-1961) khai thác những tình cảm lớn của con người Việt Nam đương thời : niềm vui
của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, tình cảm với miền Nam và ý chí thống nhất Tổ quốc.
+ Ra trận (1962-1971) , Máu và hoa (1972-1977) là chặng đường thơ Tố Hữu trong những năm chống
Mĩ quyết liệt và hào hùng của cả dân tộc cho đến ngày toàn thắng.
- Từ 1978 về sau tập hợp trong tập Một tiếng đờn (1992) và Ta với Ta (1999).
2/ Phong cách nghệ thuật :
A/ Về nội dung
- Thơ Tố Hữu mang tính chất trữ tình chính trị sâu sắc :
+ Hướng tới lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của con người cách mạng, của cả dân tộc.
+ Cái tôi trữ tình vận động từ cái tôi chiến sĩ, trở thành cái tôi nhân danh Đảng, nhân danh cộng
đồng dân tộc.

- Thơ Tố Hữu mang đậm sử thi :
+ Cảm húng chủ đạo là cảm hứng lịch sử-dân tộc, chứ không phải cảm hứng thế sự-đời tư.
+ Nổi bật là vấn đề vận mệnh cộng đồng, chứ không phải vần đề số phận đời tư.
- Thơ Tố Hữu có giọng điệu riêng : tự nhiên, đằm thắm, chân thành
B/ Về nghệ thuật
Thơ Tố Hữu đậm đà tính dân tộc thiên về các thể thơ dân tộc, ngôn ngữ quen thuộc, nhạc điệu phong
phú.
• Luyện tập

1/ Những nét lớn trong cuộc đời Tố Hữu ?
2/ Hiểu thế nào về nhận xét : “Tố Hữu đã đưa thơ chính trị lên đến trình độ là thơ rất đỗi trữ
tình”( Xuân Diệu ).
VIỆT BẮC
TỐ HỮU

• Luyện tập

1/ Cảm hứng sáng tác
2/ Trong đoạn trích bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đã sử dụng những phương tiện nghệ thuật giàu
tính dân tộc nào? Những phương tiện đó phù hợp với việc diễn tả tình cảm gì của người cán bộ
kháng chiến và nhân dân Việt Bắc?
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
5
3/ Phân tích vẻ đẹp của “bộ tranh tứ bình” về thiên nhiên và con người Việt Bắc trong bài
thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
4/ Phân tích 20 câu đầu trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
• Gợi ý

ĐỀ 1
- Hoàn cảnh ra đời : Việt Bắc là đầu não của cuộc kháng chiến chống Pháp, là căn cứ vững chắc của
Trung ương Đảng và Chính phủ. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được kí
kết (tháng 7-1954), hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng. Một trang sử mới của đất nước được
mở ra. Tháng 10-1954, Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội. Nhân sự kiện
thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc.
- Việt Bắc là một trường thiên, có thể chia làm hai phần. Phần đầu tái hiện những kỉ niệm cách mạng và
kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc. Phần sau gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ca ngợi công ơn của Đảng,
của Hồ Chủ tịch đối với dân tộc.
Việt Bắc chính là khúc hát ân tình của những người kháng chiến đối với quê hương đất nước, đối với
nhân dân và cách mạng.
ĐỀ 2
+ Tố Hữu đã sử dụng những phương tiện nghệ thuật giàu tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc:
- Thể thơ lục bát mềm mại, uyển chuyển của dân tộc được Tố Hữu sử dụng điêu luyện kết hợp với lối
hát đối đáp giao duyên vốn quen thuộc trong ca dao dân ca
- Tác giả đã chọn lựa và sử dụng thật linh hoạt và đầy sáng tạo cặp đại từ nhân xưng vốn quen thuộc
trong ca dao dân ca “mình – ta”

- Tác giả đã sử dụng những biện pháp tu từ truyền thống (so sánh, nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ, cường điệu,
điệp từ, điệp ngữ …) cũng như sử dụng những từ láy và cách nói quen thuộc của thơ ca dân gian đã tạo nên
nhạc tính dân tộc của bài thơ như giọng điệu tâm tình.
+ Những phương tiện nghệ thuật trên rất phù hợp với việc diễn tả tình cảm lớn, ân tình cách mạng (tình
quân dân “cá nước” trong chín năm kháng chiến gian khổ mà hào hùng ở núi rừng Việt Bắc, tình cảm đối với
Đảng và Bác Hồ kính yêu) giữa người cán bộ kháng chiến về xuôi và nhân dân (người ở lại) Việt Bắc, làm cho
tình cảm giữa họ kín đáo mà không xa vời, gắn bó thắm thiết, mặn nồng sâu sắc mà không gượng gạo, không sỗ
sàng.
ĐỀ 3
a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
b. Phân tích
Nghệ thuật :
+ Tác giả chọn thể thơ lục bát là thể thơ dân tộc.
+ Kiểu đối đáp của lối hát giao duyên trong dân ca.
+ Nhà thơ dùng ngôn ngữ của tình yêu với hai nhân xưng đầy biến hoá mình – ta để diễn đạt tình cảm
cách mạng.
+ Những biện pháp tu từ (so sánh, ẩn dụ, tượng trưng …) quen thuộc với cách cảm, cách nghĩ của quần
chúng được sử dụng nhuần nhuyễn.
Nội dung :
- Hai câu thơ đầu giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của đoạn thơ. Hoa và Người quấn quýt với
nhau trong vẻ đẹp hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này.
- Trong bốn cặp lục bát còn lại : câu sáu dành Hoa, câu tám dành cho Người.
- Mùa đông với màu "đỏ tươi" - gam màu nóng của bông chuối làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên ấm
áp. Màu xanh của núi rừng tiềm ẩn một sức sống.
Con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng với một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt
trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ở ngang lưng. Con người ấy cũng đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất -
" đèo cao" trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
- Mùa xuân với màu trắng trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng.
Hình ảnh con người với hoạt động " chuốt từng sợi giang" : cần mẫn, khéo léo, tài hoa, chính là phẩm
chất tần tảo của con người Việt Bắc.

 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
6
- Mùa hè đến trong âm thanh rộn rã của tiếng ve, cũng là thời điểm rừng phách đổ vàng. Đây là một bức
tranh sơn mài được vẽ lên bằng hoài niệm, nên lung linh màu sắc và rộn rã âm thanh.
Hình ảnh "cô em gái hái măng một mình" gợi lên được vẻ đẹp chịu khó chịu thương của cô gái. Đằng
sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả.
- Thu sang, khung cảnh núi rừng chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu
mát.
Đó là tiếng hát trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung ân tình.
c. Đánh giá chung
ĐỀ 4
a. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
b. Phân tích
- Bốn câu đầu là lời Việt Bắc tỏ bày với người cán bộ chiến sĩ khi chia tay:
“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?”
+ Điệp từ “nhớ” luyến láy trong cấu trúc câu hỏi tu từ đồng dạng, tràn đầy thương nhớ.
+ Các xưng hô “mình - ta” mộc mạc, gợi liên tưởng ca dao: “Mình về ta chẳng cho về - Ta nắm vạt áo,
ta đề câu thơ”.
+ “15 năm” là chi tiết thực chỉ độ dài thời gian từ năm 1940 thời kháng Nhật và tiếp theo là phong trào
Việt Minh, đồng thời cũng là chi tiết gợi cảm - nói lên chiều dài gắn bó thương nhớ vô vàn.
+ Hai câu hỏi liên tiếp chất chứa tình cảm lưu luyến, bao hàm lời dặn dò kín đáo: đừng quên cội nguồn
“núi, nguồn”
- Bốn câu tiếp theo là nỗi lòng của người về:
“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

+ “Bâng khuâng, bồn chồn” là hai từ láy gợi cảm, diễn tả trạng thái tâm lí tình cảm buồn vui, luyến tiếc,
nhớ thương, chờ mong… lẫn lộn cùng một lúc. Mười lăm năm Việt Bắc cưu mang người cán bộ chiến sĩ, mười
lăm năm gian khổ có nhau, mười lăm năm đầy những kỉ niệm chiến đấu, giờ phải chia tay rời xa để làm nhiệm
vụ mới về tiếp quản tại thủ đô Hà Nội (10-1954), biết mang theo điều gì, biết lưu lại hình ảnh nào, tâm trạng của
người về do vậy không tránh khỏi là nỗi niềm bâng khuâng khó tả.
+ “Áo chàm đưa buổi phân li” là một ẩn dụ, màu áo chàm, màu áo xanh đen đặc trưng của người miền
núi Việt Bắc - tác giả hướng nỗi nhớ Việt Bắc qua hình ảnh cụ thể “áo chàm”, chiếc áo, màu áo bình dị, đơn sơ,
mộc mạc của vùng quê nghèo thượng du đồi núi nhưng sâu nặng nghĩa tình, đã góp phần không nhỏ vào sự
nghiệp kháng chiến cứu nước.
+ Câu thơ “Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…” đầy tính chất biểu cảm - biết nói gì không phải không
có điều để giãi bày mà chính vì có quá nhiều điều muốn nói mà ngôn ngữ bất lực.
- 12 câu tiếp theo kết thúc đoạn trích, là lời tâm tình của Việt Bắc:
“Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, có nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa”
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
7
+ Điệp khúc “mình đi-mình về” nhắc nhớ cuộc chia tay đầy nghĩa tình, lưu luyến.
+ Điệp từ “nhớ” lập đi lập lại nhiều sắc thái ý nghĩa: nhớ là nỗi nhớ, ghi nhớ, nhắc nhở. Hàng loạt những
câu hỏi tu từ bày tỏ tình cảm tha thiết đậm đà của Việt Bắc. Tình cảm lưu luyến của người đưa tiễn, gửi đi nỗi
nhớ mong, Việt Bắc nhắc người cán bộ chiến sĩ đừng quên thiên nhiên, con người Việt Bắc, đừng quên những

kỉ niệm kháng chiến.
+ “Miếng cơm chấm muối” là chi tiết thực, phản ánh cuộc sống kháng chiến gian khổ. Và cách nói “mối
thù nặng vai” nhằm cụ thể hóa nhiệm vụ chống thực dân cướp nước, đè nặng vai dân tộc ta.
+ Hình ảnh “Trám bùi để rụng, măng mai để già” gợi nỗi buồn thiếu vắng - “Trám rụng - măng già”
không ai thu hái. Nỗi ngùi nhớ bức bối như thúc vào lòng kẻ ở lại. Tiễn người về sau chiến thắng và chính trên
cái nền của sự chiến thắng đó, đã làm cho nỗi buồn nhớ trở nên trong sáng. Việt Bắc vẫn “một dạ khăng khăng
đợi thuyền”, đồng thời nhắc nhở khéo léo tấm “lòng son” của người cán bộ chiến sĩ.
+ Xin đừng quên thời kỳ “kháng Nhật thuở còn Việt Minh”, đừng quên cội nguồn cách mạng, đừng quên
để chăm lo giữ gìn sự nghiệp cách mạng.
c. Đánh giá chung
Tóm lại, đoạn thơ trên là nỗi lòng thương nhớ, là lời tâm tình của Việt Bắc. Đoạn thơ trên tiêu biểu sắc
thái phong cách Tố Hữu, giọng điệu thơ ngọt ngào truyền cảm, mang đậm phong vị ca dao dân gian, đề cập đến
con người và cuộc sống kháng chiến. Thông qua hình tượng Việt Bắc, tác giả ca ngợi phẩm chất cách mạng cao
đẹp của quân dân ta, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung son sắt của người cán bộ, chiến sĩ đối với Việt Bắc.
ĐẤT NƯỚC
(trích Trường ca Mặt đường khát vọng)
NGUYỄN KHOA ĐIỀM
• Luyện tập

1/ Trong chương Đất Nước,tác giả đã thể hiện tư tưởng cốt lõi gì, phát niện mới mẻ về Đất
Nước ở những phương diện nào, ý nghĩa của sự phát hiện đó ?
2/ Nêu ví dụ và nhận xét về cách sử dụng chất liệu văn hoá dân gian của tác giả?
3/ Phân tích chín câu đầu của đoạn trích.
• Gợi ý
ĐỀ 1
- Nguyễn Khoa Điềm tập trung thể hiện tư tưởng cốt lõi “ Đất Nước của Nhân dân”.
- Đất nước được cảm nhận ở chiều dài thời gian-lịch sử, ở chiều rộng không gian-địa lí, ở bề dày của văn
hoá-phong tục. Qua đó, hình ảnh đất nước hiện lên vừa thiêng liêng lớn lao sâu xa, vừa gần gũi thân thiết tự
nhiên với mỗi người.
ĐỀ 3

a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
b. Phân tích
- Cảm nhận chung : Nguyễn Khoa Điềm trình bày những cảm xúc và suy tưởng về Đất Nước dưới dạng
một lới trò chuyện tâm linh, mạch cảm hứng và liên tưởng có vẻ tự do, phóng túng như một thứ tuỳ bút thơ. Qua
đó, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo được bút pháp nghệ thuật : biến một vấn đề chính trị thành một câu chuyện tâm
tình, chuyển hoá ý thức công dân thành tình cảm cá nhân, đời tư hoá một chủ đề sử thi. “Ta” hoà vào “Đất
Nước”, lấy trải nghiệm bản thân để suy ngẫm về Đất Nước.
- Lịch sử trường tồn của đất nước giới thiệu bằng hình ảnh “ngày xửa ngày xưa”.
- Những câu thơ như không hề dụng công nghệ thuật lại chứa đựng phát hiện bất ngờ. Có thể nói từ
những gì quen thuộc nhất trong nền văn hoá, văn học dân gian của người Việt Nam được Nguyễn Khoa Điềm
sử dụng, vận dụng, tái tạo một cách nhuần nhuyễn.
- Đất Nước không xa xôi trừu tượng, không ở đâu xa, Đất Nước là những gì có thể bắt gặp ở ngay trong
cuộc sống của mỗi gia đình, của mỗi con người. Đất Nước đã được phát hiện từ trong cổ tích mẹ kể, miếng trầu
bà ăn, ngôi nhà ta ở, hạt gạo ta dùng. Đất Nước hiện diện từ câu ca dao bình dị, từ cái kèo cái cột nôm na, từ vị
gừng cay muối mặn mộc mạc, từ cách bới tóc sau đầu của người phụ nữ, từ hạt gạo dãi dầu một nắng hai sương

c. Đánh giá chung
BÀI VĂN THAM KHẢO
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
8
Cùng viết về đề tài đất nước, cùng là thành tựu tiêu biểu của thi ca Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến
chống Pháp và chống Mĩ, nhưng cảm hứng sáng tác của hai nhà thơ Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm
có nét riêng. Nguyễn Đình Thi chừng như hoà tan suy tư của mình vào cảm xúc. Còn Nguyễn Khoa Điềm cảm
xúc muốn kết tinh lại trong suy tư. Sự chuyển hoá trong tư duy thơ ở Nguyễn Khoa Điềm có thể gọi là trữ tình -
triết luận. Một đoạn thơ chứng minh cho điều đó :
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có từ ngày đó.
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ những năm chống Mĩ. Trong
thơ của lớp nhà thơ này nổi bật lên sự tự ý thức của tuổi trẻ về vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến

đấu và sự tự nhận thức sâu sắc về Đất Nước, về Nhân dân qua những trải nghiệm của chính mình. Đoạn thơ trên
thuộc chương V trong Trường ca Mặt Đường Khát Vọng. Trường ca này được tác giả hoàn thành ở chiến trường
Trị – Thiên năm 1971. Mới nhìn thì chương V có vẻ không gắn với các chương khác, nhưng kì thực đây lại là
điểm tựa, là cột trụ của tư tưởng tác phẩm : sự tự nhận thức của tuổi trẻ Việt Nam đứng về phía nhân dân, chia
sẻ vận mệnh và trách nhiệm với dân tộc trong cuộc đấu tranh để giải phóng và bảo vệ đất nước. Tư tưởng xuyên
suốt chương thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm chính là tư tưởng :
Để Đất Nước này là đất nước của Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” được thể hiện một cách nhuần nhuyễn bằng “Đất Nước của ca dao
thần thoại”. Chất liệu văn hoá, văn học dân gian kết tinh vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống tinh thần của Nhân dân.
Trong đoạn thơ trữ tình chính luận này, Nguyễn Khoa Điềm trình bày những cảm xúc và suy tưởng về
Đất Nước dưới dạng một lới trò chuyện tâm linh, mạch cảm hứng và liên tưởng có vẻ tự do, phóng túng như
một thứ tuỳ bút thơ. Qua đó, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo được bút pháp nghệ thuật : biến một vấn đề chính trị
thành một câu chuyện tâm tình, chuyển hoá ý thức công dân thành tình cảm cá nhân, đời tư hoá một chủ đề sử
thi.
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Với giọng tâm tình sâu đậm, đằm thắm, câu thơ mở đầu quyết định chất giọng cho cả đoạn thơ. “Ta” hoà
vào “Đất Nước”, lấy trải nghiệm bản thân để suy ngẫm về Đất Nước.
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Lịch sử trường tồn của đất nước, chiều dài thời gian được nhắc đến không bằng cách thức trang trọng khi
điểm lại các triều đại, mà bằng hình ảnh “ngày xửa ngày xưa”. Hình ảnh đó nằm trong đời sống tâm linh của
mỗi con người Việt Nam, thế giới cổ tích luôn chất chứa ước mơ đẹp của nhân dân về cuộc đời tốt đẹp giành
cho cái thiện, cái tâm.
Mạch thơ chuyển hoá bất ngờ mà tự nhiên :
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.
Miếng trầu bà ăn, trồng tre đánh giặc là những hình ảnh dân dã, mộc mạc, bình dị trong sinh hoạt tập
quán của người Việt từ ngàn đời nay. Câu thơ còn gợi nhớ đến những truyền thuyết và cổ tích vào loại xa xưa
nhất của dân tộc : Thánh Gióng và Trầu Cau. Đồng thời thế giới trong hai câu chuyện trên tô đậm những phẩm
chất của dân tộc ta, đó là tình nghĩa thuỷ chung trong quan hệ gia đình, yêu nước bất khuất trong đấu tranh giữ

gìn biên cương bờ cõi.
Câu thơ : “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn” như một nghich lí, phi lí. Đất nước là một
khái niệm thiêng liêng, lớn lao, hệ trọng lại được “bắt đầu” bằng “miếng trầu”. Tác giả đã chọn hình thức phi lí
để nói lên một chân lí. Đó là : một Đất Nước dù lớn đến đâu cũng bắt đầu từ những cái nhỏ nhoi. Vô số cái nhỏ
nhoi mới làm nên sự lớn lao. Nói cách khác, không có những cái nhỏ nhoi như “miếng trầu” thì không có sự
lớn lao của “Đất Nước”. Mỗi miếng trầu ngỡ như vô nghĩa đều giành trong nó một phần Đất Nước. Mỗi cái hiện
diện hôm nay phía đằng sau có cả một lịch sử lâu dài. Quá khứ luôn có mặt trong hiện tại, lịch sử vẫn hiện diện
hôm nay.
Những câu thơ như không hề dụng công nghệ thuật lại chứa đựng phát hiện bất ngờ. Nó không chỉ là sản
phẩm của tư duy sắc sảo, mà trước hết nó là sản phẩm của một tình yêu, một tấm lòng. Nếu không có sự trân
trọng với tất cả những gì tổ tiên chắt chiu, gìn giữ trong mấy ngàn năm qua, thì mọi thứ triết luận dù sắc sảo đến
đâu cũng không thể có được những câu thơ có thể đánh động vào tầng sâu của tâm linh người đọc đến thế được.
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
9
Có thể nói từ những gì quen thuộc nhất trong nền văn hoá, văn học dân gian của người Việt Nam được
Nguyễn Khoa Điềm sử dụng, vận dụng, tái tạo một cách nhuần nhuyễn:
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột cũng thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng.
Từ tập quán bới tóc của người phụ nữ Việt Nam đến việc đặt tên, từ nền văn minh lúa nước đến tình
nghĩa vợ chồng được nhào nặn bằng cảm xúc mới với ánh sáng mới, khiến cho câu thơ vừa rất hiện đại vừa
thấm đẫm chất dân gian truyền thống. Điều đó tạo cho đoạn thơ một không gian nghệ thuật riêng, gợi mở ra một
thế giới nghệ thuật hết sức gần gũi quen thuộc mà lại mĩ lệ bay bổng của văn hoá dân gian kết tinh tâm hồn, trí
tuệ nhân dân. Người Việt Nam mình chất phác, bình dị trong cách sống, cách sinh hoạt, điều ấy dường như chỉ
cần nói đến qua tập quán bới tóc, đặt tên. Hay là thành ngữ “một nắng hai sương” được hình thành từ đời sống
cần lao của những người nông dân làm ra hạt gạo. Câu ca dao : “Tay nâng chén muối đĩa gừng, gừng cay muối
mặn xin đừng phụ nhau” nhắc nhở về lối sống tình nghĩa.
Câu thơ kết thúc :
Đất Nước có từ ngày đó.

Đất Nước không xa xôi trừu tượng, không ở đâu xa, Đất Nước là những gì có thể bắt gặp ở ngay trong
cuộc sống của mỗi gia đình, của mỗi con người. Đất Nước đã được phát hiện từ trong cổ tích mẹ kể, miếng trầu
bà ăn, ngôi nhà ta ở, hạt gạo ta dùng. Đất Nước hiện diện từ câu ca dao bình dị, từ cái kèo cái cột nôm na, từ vị
gừng cay muối mặn mộc mạc, từ cách bới tóc sau đầu của người phụ nữ, từ hạt gạo dãi dầu một nắng hai sương

Đoạn thơ mở đầu cho một chương trong trường ca Mặt Đường Khát Vọng đã nói lên một điều có ý nghĩa
là, dù Đất Nước là đề tài muôn thuở, nhưng mỗi thời có cách cảm nhận riêng, làm phong phú thêm về Tổ Quốc
thiêng liêng. Nhưng tất cả đều phải xuất phát từ một tấm lòng chung, đó là sự thiết tha, sự thuỷ chung với giang
sơn Tổ Quốc. Có như thế tiếng thơ mới có thể làm rung động trái tim hàng triệu con người.
SÓNG
XUÂN QUỲNH
• Luyện tập

1/ Nhận xét hình tượng thơ
2/ Phân tích vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ đang yêu trong bài thơ Sóng.
• Gợi ý
ĐỀ 1
- Bao trùm cả bài thơ là hình tượng “sóng”, nhưng còn một hình tượng nữa là “em”.
- “Sóng” là hình tượng ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hoá thân của “em”. “Sóng” và
“Em” vừa hoà nhập, vừa phân đôi ra để soi chiếu vào nhau, cộng hưởng.”Em” soi vào “Sóng” để hiểu rõ mình,
“Em” nhờ “Sóng” để biểu hiện những trạng thái của tâm hồn.
ĐỀ 2
a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
b. Phân tích
- Bốn khổ thơ đầu, con sóng có tính đối cực trong một chỉnh thể. Tâm hồn đang yêu đang tự nhận thức
những biến động khác thường của lòng mình và khát khao vượt ra khỏi những giời hạn chật chội, tìm đến những
miền bao la vô tận, như con sóng phải từ sông ra bể.
Sóng trường tồn với thời gian, cũng như nỗi khát vọng tình yêu của con người- nhất là người trẻ tuổi
còn mãi mãi.
- Ba khổ giữa :

+ Tâm hồn đang yêu soi vào sóng mà diễn tả được nỗi nhớ chiễm lĩnh trọn không gian, thời gian và cả
trong tiềm thức.
+ Tình yêu của người phụ nữ đòi hỏi sự thuỷ chung, như nhất
- Hai khổ cuối : cái tôi trữ tình trở về với những suy nghĩ về thời gian và khát vọng vĩnh viễn của tình
yêu.
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
10
c. Đánh giá chung
BÀI VĂN THAM KHẢO
Xuân Quỳnh, một gương mặt thơ rất đáng lưu ý của nền thơ Việt Nam hiện đại. Thơ Xuân Quỳnh là
tiếng lòng của một tâm hồn gắn bó thiết tha với cuộc đời, với con người, khát khao tình yêu, trân trọng hạnh
phúc bình dị đời thường. Nét nổi bật của thơ Xuân Quỳnh là sự dung dị, hồn nhiên và chân thật. Thơ tình yêu là
một mảng đặc sắc và tiêu biểu cho hồn thơ Xuân Quỳnh, một tiếng nói trực tiếp bày tỏ những khát khao sôi nổi,
mãnh liệt mà chân thành tự nhiên của một trái tim phụ nữ trong tình yêu. Sóng là một trong những bài thơ tình
đặc sắc của Xuân Quỳnh.
Sóng được Xuân Quỳnh viết tại Biển Diêm Điền cuối năm 1967, được in trong tập Hoa dọc chiến hào.
Tựa đề bài thơ chính là thể hiện hình tượng trung tâm và nổi bật, hình tượng sóng. Sức sống và vẻ đẹp của bài
thơ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng sóng. Cả bài thơ là những cơn
sóng tâm tình của một người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng vô hạn,
vô hồi. Thực ra thì trong bài thơ còn có một tình tượng trữ tình nữa, đó là “em”. Sóng là một hình tượng ẩn dụ,
là sự hoá thân cái tôi trữ tình của nhà thơ. “Sóng” và “Em” vừa hoà nhập làm một, lại vừa phân đôi ra để soi
chiếu vào nhau, cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để
thể hiện những trạng thái của lòng mình. Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã tìm được một cách thể hiện thật
xác đáng vẻ đẹp tâm trạng của người phụ nữ trong tình yêu.
Trước hết, có thể cảm nhận một hình tượng sóng được gợi ra trong cả bài thơ bằng âm điệu. Bài thơ của
một âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thầm thì lắng sâu, gợi âm hưởng của những đợt
sóng miên man. Am hưởng ấy được tạo nên bởi thể thơ năm chữ với vần nhịp phong phú đa dạng. Nhịp sóng
cũng là nhịp lòng của tác giả, một tâm trạng đang xao động, chảy trôi miên man và chất chứa những khát khao,
rạo rực.
Bài thơ mở đầu bằng những trạng thái đối nghịch của sóng như một biện chứng kép. Sóng vừa “dữ dội,

ồn ào”, lại vừa “dịu êm, lặng lẽ”, chính như trạng thái tâm hồn người phụ nhữ đang yêu, mang trong mình
những đối nghịch, thất thường. Với sức sống và khát vọng không lúc nào nguôi ngoai, yên định, con sóng không
thể không “tìm ra tận bể”. Hành trình của sóng hướng về biển rộng cũng chính là sự dứt khoát chối bỏ những
giới hạn chật chội, những thoả mãn tầm thường để tìm đến những chân trời bao la, những khát vọng lớn rộng.
Chỉ có ra đến biển, con sóng mới thật sự tìm thấy mình, mới nhận thức được sức mạnh và những khát khao của
nó. Tình yêu cũng có qui luật của nó là sự vận động hướng về cái mới mẻ, cao rộng, như có lần Xuân Quỳnh
phát biểu :
Bởi tình yêu muôn thuở
Có bao giờ đứng yên.
Biển là biểu tượng của không gian lớn rộng, cũng như sóng là sự vĩnh hằng với thời gian. Đứng trước
biển người ta thường nghĩ đến cái vô cùng vô tận của tự nhiên, của vũ trụ. Với Xuân Quỳnh bao giờ biển cũng
khơi dậy những ước mơ, khát vọng lớn lao : Suốt cuộc đời biển gọi ước mơ. Nỗi khát vọng những phương trời
chưa đến.
Sóng trường tồn với thời gian, không ngừng nghỉ, không mệt mỏi “ngày xưa và ngày sau vẫn thế”. Cũng
như nỗi khát vọng tình yêu sống mãi mãi với con người, trước hết là với tuổi trẻ:
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.
Đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu, người phụ cũng lại soi vào sóng : “Sóng
bắt đầu từ gió, gió bắt đầu từ đâu ?” và chợt nhận thức về cái qui luật không thể cắt nghĩa rõ ràng của tình yêu :
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau.
Cái điều mà trước kia Xuân Diệu đã tổng kết như phát biểu một chân lí : “Làm sao cắt nghĩa được tình
yêu”, thì nay Xuân Quỳnh lại phát hiện nó, nhưng bằng trực cảm, bằng sự trải nghiệm của chính lòng mình,
được nói lên như một lời “thú nhận” thành thật, hồn nhiên mà không kém ý nhị, sâu sắc.
Tình yêu đi liền với nỗi nhớ. Tâm hồn đang yêu lại soi vào sóng mà diễn tả cái sâu sắc, bao la của nỗi
nhớ trong lòng mình : nó choán đầy cả tầng sâu và bề rộng, nó chiếm lĩnh trọn cả thời gian :
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Oi con sóng nhớ bờ
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011

11
Ngày đêm không ngủ được
Như nỗi lòng người con gái :
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Cái “thức”trong cả giấc mơ, nói lên được sự thật của nỗi lòng : nỗi nhớ không chỉ chiếm lĩnh ý thức mà
còn thấm sâu vào tiềm thức.
Tình yêu sôi nổi, nồng nhiệt của trái tim phụ nữ cũng lại là một tình yêu thật chân thành, trong sáng, một
tình yêu hết mình và đòi hỏi sự duy nhất, tuyệt đối, sự gắn bó thuỷ chung. Như con sóng nào cũng hướng tới bờ
và nhất định sẽ tới bờ “dù muôn vời cách trở”, thì lòng em cũng thế :
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương
Quan niệm tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh mới mẻ, mạnh bạo, nhưng cũng rất gần gũi với mọi người và
có gốc rễ trong tâm thức dân tộc.
Tâm trạng người phụ nữ trong tình yêu, nhờ cách thể hiện sóng đôi qua “em” và “sóng” nên vừa bộc
bạch trực tiếp, vừa được diễn tả đầy hình ảnh với các nét tâm trạng được trở đi trở lại như một điệp khúc bồi
hoàn, như những vòng sóng nối tiếp nhau, lan toả. Nếu “sóng nhớ bờ ngày đêm không ngủ được” thì “em nhớ
đến anh cả trong mơ còn thức” . Và nếu em ở nơi nào cũng nghĩ “hướng về anh một phương” thì sóng “con nào
chẳng tới bớ dù muôn vời cách trở”.
Hai khổ kết, cái tôi trữ tình trở về với những suy nghĩ về thời gian và khát vọng vĩnh viễn của tình yêu.
Xuân Quỳnh vốn nhạy cảm với sự chảy trôi của thời gian, ý thức về thời gian hữu hạn của đời người : “cuộc đời
tuy dài thế, năm tháng vẫn đi qua”. Từ niềm âu lo ấy dẫn đến khát vọng muốn được mãi mãi với muôn thuở của
con người, được hoà nhập với vĩnh hằng. Với Xuân Quỳnh cái cách để sống mãi ấy là tình yêu. Người đàn bà ấy
khát khao được sống hết mình cho tình yêu và được sống mãi với thời gian bằng tình yêu của mình. Sóng lại
giúp Xuân Quỳnh nói lên niềm khao khát ấy :
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ.
Khát vọng yêu cũng là khát vọng sống mãnh liệt, đủ đầy. Cuộc đời một con người dù có là dài thì rồi
năm tháng cũng sẽ đi qua, nhưng tình yêu lớn sẽ còn mãi với thời gian, với các thế hệ con người.
Xuân Quỳnh như sinh ra để yêu làm thơ. Thơ với Xuân Quỳnh là sự tiếp tục trọn vẹn và sâu sắc thêm
cuộc sống chính mình. Sóng là một bài thơ như thế đó, thơ ca và tình yêu hoà hợp vào nhau để nói lên khát
vọng sống mạnh mẽ, hết mình :
Em trở về đúng nghĩa trái tim em
Là máu thịt đời thường ai chẳng có
Vẫn ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa
Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi.
ĐÀN GHI TA CỦA LOR-CA
THANH THẢO
• Luyện tập

1/ Ý nghĩa câu đề từ
2/ Cảm nhận về 2 đoạn thơ đầu trong bài Đàn ghi ta của Lor-ca của Thanh Thảo.
3/ Cảm nhận vẻ đẹp bài thơ.
• Gợi ý
ĐỀ 1
Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca (trích Khối vuông ru-bích, 1985) của Thanh Thảo, lấy cảm hứng từ nhân cách cao
đẹp cùng số phận oan khuất của nghệ sĩ Tây Ban Nha tài hoa.
Câu đề từ bài thơ "khi tôi chết hãy chôn tôi với cây đàn" được Thanh Thảo lấy từ câu thơ của Lor-ca trong bài Ghi
nhớ : "khi nào tôi chết - hãy vùi xác tôi cùng cây đàn - dưới lớp cát". Hình tượng cây đàn, tiếng đàn ghi ta đồng nhất với
hình tượng Lor-ca.
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
12
Nó là linh hồn của Lor-ca, là tinh thần yêu tự do, yêu cuộc sống, yêu nhân dân. Nó là số phận Lor-ca.
Nó là mọi cung bậc thơ Lor-ca, mọi cung bậc cuộc đời Lor-ca : ngọt ngào và cay đắng, hạnh phúc và bi kịch, …
Tiếng đàn không thể chôn được như linh hồn Lor-ca, như thơ Lor-ca không thể bị hủy diệt. Cây đàn giống như
một chiếc thuyền giúp Lor-ca vượt dòng thời gian để đến được với cõi bất tử.

ĐỀ 2
a. Giới thiệu tác giả và tác phẩm
- Thanh Thảo là một gương mặt tiêu biểu của thơ chống Mĩ, cũng là cây bút luôn nỗ lực cách tân sau
1975, nổi bật là sự tìm kiếm những cách biểu đạt mới cho thơ.
- Đàn ghi ta của Lor-ca là bài thơ lấy cảm hứng từ cái chết bi phẫn của nhà thơ lớn người Tây Ban Nha
bị bọn phát xít Phrăng-cô giết hại năm 1936; là một trong những sáng tác tiêu biểu cho nghệ thuật thơ Thanh
Thảo.
b.Cảm nhận đoạn thơ
* Về nội dung
a. Hình tượng thơ:
- Hình tượng người nghệ sĩ Lor-ca
+ Là người nghệ sĩ tài hoa, yêu tự do, lãng du mà đơn độc.
+ Là hiện thân của văn hoá Tây Ban Nha.
+ Là nạn nhân của những thế lực tàn ác với cái chết oan khuất, bi phẫn.
- Hình tượng tiếng đàn của Lor-ca
+ Tiếng đàn là tâm hồn, là vẻ đẹp của nghệ thuật Lor-ca.
+ Tiếng đàn là thân phận của Lor-ca, cũng là thân phận của nghệ thuật nói chung trong một thực
tại mà cái ác ngự trị.
b. Cảm xúc của tác giả:
Ngưỡng mộ tài năng và tiếc thương cho thân phận của Lor-ca.
* Về nghệ thuật
- Hình tượng thơ có sự song hành và chuyển hoá lẫn nhau giữa ba hệ thống hình ảnh: Tây Ban Nha, Lor-
ca và tiếng đàn.
- Lời thơ giàu nhạc tính với việc dùng những từ láy, điệp từ, điệp ngữ, chuỗi từ tượng thanh mô phỏng
tiếng đàn.
- Sử dụng nhiều biện pháp nghệ thuật có hiệu quả: đối lập, nhân hoá, ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, …
ĐỀ 3 : BÀI VĂN THAM KHẢO
Từ xửa xưa, song song với định đề "thi trung hữu họa", bao giờ cũng là "thi trung hữu nhạc". Định đề ấy
bảo rằng cùng với hoạ, nhạc là một yếu tính của thơ. Chừng nào còn thơ, chừng ấy thơ còn nhạc. Quả có vậy,
nhạc là phần tinh chất của cảm xúc thơ đã được điệu thức hoá. Ngân nga cả bên trong cả bên ngoài mỗi tiếng

thơ, nhạc đã thực sự là phần hồn của thơ. Nó là hơi thở của ngôn từ thơ. Tất nhiên, đây là nói nhạc của ngôn
ngữ. Thơ đã phát huy bao hiệu quả phong phú của ngôn ngữ để cất lên tiếng nói riêng của mình.
Không chỉ vậy, để làm giàu cho mình, thơ còn khai thác cả ngôn ngữ của nhạc nữa. Bao đời nay, đã có
biết bao yếu tố nhạc từ vương quốc âm nhạc đã vượt biên, rồi nhập tịch vào thơ, ban đầu, tạm trú, về sau,
thường trú. Thậm chí, nhờ sự cưu mang quá sâu nặng của thơ, trải đời này đời khác, mà nhiều thứ đã được
đồng hoá luôn. Dân ngụ cư đã biến thành dân sở tại. Gốc gác âm nhạc của chúng, đôi khi, chỉ còn là kí ức xa
xăm. Đó phải chăng cũng là một kiểu hoà nhập tiếp biến ?
Là một tay bút ham cách tân, Thanh Thảo cũng đã tạt sang âm nhạc vay mượn không ít vốn liếng đem về
đầu tư cho thơ mình. Để làm các trường ca Những người đi tới biển, Những nghĩa sĩ Cần Giuộc, Bùng nổ của
mùa xuân, Đêm trên cát , anh đã mướn cấu trúc của những bản giao hưởng và xônát. Khiến cho các thi phẩm
ấy có cái dáng là lạ như một thứ trường-ca- giao-hưởng. Còn để viết thơ ngắn, lắm khi anh lại giật tạm cấu trúc
của ca khúc. Có lúc thì đem về lai ghép để tạo ra một diện mạo mới. Cũng có lúc lại làm theo kiểu biến đổi gen
mà tạo ra giống mới. Nhiều bài thơ ngắn được anh tổ chức khá ngon lành theo thể thức của bài hát. Dáng của
chúng nhang nhác như những ca-khúc-thơ. Mà cũng không chỉ vay cấu trúc thuộc văn bản khúc ca, anh còn
mượn cả lối diễn tấu ca khúc để làm giàu cho hình thức thơ nữa. Đàn ghi-ta của Lorca là một "ca" như thế
chăng?
Nòi nghệ sĩ vốn dễ đồng bệnh tương lân. Do đồng bệnh mà đồng điệu. Cho nên, có một cách để hiểu
một kẻ viết : cứ xem anh viết về ai, có thể biết anh là ai. Trong các thi sĩ nội, Thanh Thảo mê nhất Nguyễn Đình
Chiểu, Cao Bá Quát, Xuân Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Văn Cao, Đặng Đình Hưng Còn những thi sĩ ngoại,
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
13
thấy anh viết đậm về Aragông, Êxênhin, Maicôpxki, Pasternac, Lorca Về từng vị đều có những kí thác, những
đồng điệu riêng. Nhưng, trong số những tay bút Tây phương anh ngưỡng mộ, thì trường hợp về Lorca, xem ra,
thành công hơn cả. Là một nhà thơ lớn của Tây Ban Nha hiện đại, Lorca đã đem được chất dân gian Anđaluxia
cùng sức sống của xứ sở bò tót vào thơ mình. Lại thạo dân nhạc, ông thường thích đi khắp xứ như một gã Digan
đơn độc mà hát lên những bài thơ của mình như những khúc romance, ballad. Bởi vậy, Lorca như một nghệ sĩ
kép : thi si kiêm nhạc sĩ. Cũng bởi vậy nhiều bài thơ Lorca thường sống cuộc đời kép : thi phẩm và nhạc phẩm
Có người sẽ nghĩ : thơ về một nghệ sĩ độc đáo như thế, nếu có được một hình thức kép nữa thì thật là
tam hợp ! Nhưng, tam hợp lại dễ sinh tam tai. Thanh Thảo không dại thế. Vả, làm thế cũng đâu ra võ của anh.
Không thuộc kiểu thi sĩ mớm thơ cho nhạc, càng không phải một tay vãi nhạc vào thơ. Anh vẫn đi lại với nhạc,

nhưng theo chiêu riêng : vừa nhập cấu trúc ca khúc vào lòng bài thơ vừa khảm thêm tiếng nhạc vào lời thơ. Nên,
dù dan díu với nhạc, trước sau thơ anh vẫn luôn là thơ. Ngoài vốn thi liệu được tái chế, tái tạo từ di sản thơ của
chính Lorca, thì ngôn ngữ của nhạc, cấu trúc của ca khúc sẽ bắc những nhịp cầu tương giao để hồn kẻ hậu sinh
nói lời đồng điệu với bậc tiền nhân của xứ sở Tây ban cầm. Ngón ấy chẳng tương thích sao ? Đàn ghi-ta của
Lorca chính là một lối thơ mà ở đó lời thơ đã cườm vào nét nhạc, hình tượng thơ đã cùng cấu trúc nhạc bay đôi.
Thậm chí, để tiếng nói của thơ mình thêm phong phú, Thanh Thảo còn mô phỏng những âm thanh từa tựa các
nốt đàn ghita, mô phỏng cả lối diễn tấu vẫn thường đệm cho người hát khi diễn nữa.
Thanh Thảo đã chọn thời điểm bi phẫn nhất của cuộc đời Lorka cho cảm hứng của thi phẩm : lúc ông bị
bắn chết. Lorca luôn dự cảm và bị ám ảnh khôn nguôi bởi cái chết. Nhưng ông cũng không thể ngờ cái chết phũ
phàng nhất đã ập xuống thân phận mình. Đối với lòng tiếc thương, mọi cái chết đều ngang trái. Cái chết của
Lorca càng ngang trái bội phần. Vì ông bị phatxit giết hại khi mới 37 tuổi, xác ông còn bị chúng quẳng xuống
một cái giếng để phi tang. Mất mát kinh hoàng là thế, nhưng oái oăm thay, cái chết còn là một giải thoát. Giải
thoát bất đắc dĩ nhưng hoàn toàn. Hẳn suy tư Thanh Thảo đã bị vây ám giữa những phản trái kia của cái chết.
Nhất là lúc anh đọc được cái câu như một lời nguyện cuối, một di chúc viết sớm của Lorca : Khi tôi chết hãy
chôn tôi với cây đàn ghi-ta. Và thế là thi phẩm đã tự chọn cho nó một hình hài : vừa là thơ viếng vừa như một bi
ca.
Có một cách mà từ xưa người ta đã dùng đến "mệt mỏi", trong những trường hợp thế này, là : lấy tên các
tác phẩm của người ấy hay lời văn trong đó đem ghép lại với nhau cho chúng tạo ra một nội dung nào đó
Thanh Thảo chọn cách khác. Thi liệu anh viết về Lorca toàn là những thi ảnh rất ám trong thế giới nghệ
thuật của chính Lorca, mà sau những lãng quên chúng vẫn không thôi đeo bám Thanh Thảo : đàn ghi-ta, bài ca
mộng du, con ngựa đen, vầng trăng đỏ, chàng kĩ sĩ đơn độc, áo choàng đấu sĩ, sắc máu đấu trường, cô gái Di
gan, lá bùa hộ mệnh, hoa tử đinh hương Và, tất nhiên, làm sao có thể thiếu được dòng sông cùng với cỏ mọc
hoang vốn là những hình ảnh - biểu tượng từ lâu vẫn miên man với ngòi thơ Thanh Thảo ! Cảm hứng vụt dậy thì
liền gọi luôn những đạo quân ấy về cho cùng đầu quân (đầu thai thì đúng hơn) vào thi phẩm này. Nhờ đó, hình
tượng Lorca và suy cảm Thanh Thảo đã nói chung một thứ tiếng là dòng thi liệu đã trộn vào nhau đó. Thì tương
giao, tâm giao cũng còn là thế chứ sao ?
Trong xử lý thi liệu, Thanh Thảo có dùng những lối kết hợp khá phổ biến ở thơ tượng trưng. Ta gặp
những Tiếng đàn bọt nước, tiếng ghi-ta nâu, tiếng ghi-ta lá xanh, tiếng ghi-ta tròn, tiếng ghi-ta ròng ròng máu
chảy, về miền đơn độc, vầng trăng chếnh choáng, chôn cất tiếng đàn, đường chỉ tay, dòng sông rộng Nhiều
thi ảnh được tượng trưng hoá, khiến chúng có dạng một hình thể chứa nhiều hình ảnh. Đường chỉ tay là hiện

thân của thiên mệnh. Đường chỉ tay đã đứt tượng trưng cho cú giáng phũ phàng trái ngang của số mệnh. Chiếc
ghi-ta tượng trưng cho âm nhạc và thơ ca. Nó là cây đàn lia của chàng nghệ sĩ tài hoa. Chiếc ghita màu bạc là
biến ảnh của chiếc ghi-ta nâu khi đã sang cõi khác. Đúng hơn, là chiếc ghi-ta đã hoá, giờ sang cõi siêu sinh. Thi
sĩ bơi trên chiếc ghi-ta chính là bơi trên con thuyền của thi ca đang vượt qua bến bờ sinh tử. Lá bùa cô gái di-
gan là cái đẹp huyền bí. Xoáy nước là tai hoạ định mệnh trên dòng sông của số phận, cũng là cái dòng sông ranh
giới giữa cõi sống và cõi chết, giữa thực tại và hư vô. Hành động ném lá bùa và ném trái tim đều giàu hàm ý
tượng trưng về sự giã từ, sự giải thoát của Lorca Lối viết này không còn xa lạ đối với người đọc thơ Xuân
Diệu, Hàn Mặc Tử, Bích Khê, Chế Lan Viên hay nhóm Xuân Thu nhã tập hồi Thơ Mới. Nhưng, nó đã được
Thanh Thảo dùng nhuần nhị và ăn nhập để tạo ra cho thơ mình một cách nói hàm súc. Riêng cái câu giọt nước
mắt vầng trăng trong đoạn bày tỏ nỗi đau xót và tiếc thương trước cái chết hết sức thương tâm của Lorca mà lời
thơ kết hợp cả trượng trưng thơ Đường với tượng trưng Thơ Mới :
không ai chôn cất tiếng đàn
tiếng đàn như cỏ mọc hoang
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
14
giọt nước mắt vầng trăng
long lanh trong đáy giếng
cũng thấy được vẻ súc tích của nó. Có phải câu ấy được viết theo lối "nghệ thuật sắp đặt" không, mà cứ đơn
giản y như đặt hai hình ảnh bên nhau : giọt nước mắt - vầng trăng thế thôi ? Giữa chúng chẳng có một quan hệ
từ nào. Thì ra, lắm khi, việc tước bỏ quan hệ từ lại là cách gia tăng nghĩa cho hình ảnh và lời thơ. Vì giờ đây,
giữa chúng lại có thể phát sinh nhiều kiểu quan hệ, tạo ra nhiều làn nghĩa : 1) quan hệ đẳng lập : giọt nước mắt
(và) vầng trăng ; 2) quan hệ song song : giọt nước mắt (với) vầng trăng ; 3) quan hệ so sánh : giọt nước mắt
(như) vầng trăng ; 4) quan hệ sở hữu : giọt nước mắt (của) vầng trăng ; 5) quan hệ đồng nhất : giọt nước mắt (là)
vầng trăng Người đọc có một thoáng phân vân : vậy ý thực của câu thơ sẽ theo nghĩa nào ? Nhưng thoáng ấy
sẽ qua nhanh bởi chỉ có câu trả lời duy nhất : nó phải là sự giao thoa và lung linh của tất cả các làn nghĩa ấy.
Chẳng thế sao, trong mạch cảm xúc, trong hình tượng chủ đạo cũng như cấu tứ, các làn nghĩa kia đâu có loại trừ
nhau. Trái lại, chúng làm giàu và làm đẹp cho nhau cả thôi. Vậy chả súc tích sao ? Còn mạch triển khai của thi
phẩm lại là hợp lưu của cả hai dòng tự sự và nhạc. Việc tái hiện sự kiện Lorca bị hành hình với những diễn biến
phũ phàng, dù chỉ là chấm phá, cũng đã ít nhiều đem lại một cái "cốt" cho thi phẩm. Muốn kể, thì cũng kể được
đôi chút. Tâm tư người đọc bị cuốn ngay vào mạch kể qua các diễn biến ấy với những kinh hoàng, đau đớn và

tiếc thương cho một con người vô tội, một bậc tài hoa oan khuất. Nhưng, dường như cái mạch kia còn tuân theo
các bước phát triển thuộc về cấu trúc của một ca khúc nữa.
Sự kiện Lorca bị hành hình vào bài thơ này đã dàn thành bốn phần nội dung với những khúc có dụng ý
hẳn hoi về độ dài và tiết nhịp. Đầu tiên, phần giới thiệu, là hình ảnh Lorca theo lối ấn tượng : những tiếng đàn
bọt nước / Tây Ban Nha / áo choàng đỏ gắt / li-la li-la li-la / đi lang thang về miền đơn độc / với vầng trăng
chếnh choáng / trên yên ngựa mỏi mòn. Tiếp nối, phần phát triển, Lorca bị giết : Tây Ban Nha / hát nghêu ngao /
bỗng kinh hoàng / áo choàng bê bết đỏ / Lorca bị điệu về bãi bắn / chàng đi như người mộng du. Kế đó, phần
cao trào, là nỗi tiếc thương trước sự thực phũ phàng : tiếng ghi-ta nâu / bầu trời cô gái ấy / tiếng ghi-ta lá xanh
biết mấy / tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan / tiếng ghi-ta ròng ròng / máu chảy / không ai chôn cất tiếng đàn /
tiếng đàn như cỏ mọc hoang / giọt nước mắt vầng trăng / long lanh trong đáy giếng. Và cuối cùng, phần kết, với
hình ảnh Lorca lìa bỏ tất cả và giải thoát : đường chỉ tay đã đứt / dòng sông rộng vô cùng / Lorca bơi sang
ngang / trên chiếc ghi-ta màu bạc // chàng ném lá bùa cô gái di-gan / vào xoáy nước / chàng ném trái tim
mình / vào lặng yên bất chợt / li-la li-la li-la
Tất nhiên, trước sau, đây vẫn là sản phẩm thơ chứ không phải là một sản phẩm nhạc. Nên các bước của
cấu trúc này không thể "cóp" y sì theo lối "một ăn một" với những bước chuyển gam như trong một nhạc phẩm
thực sự được. Mà làm cách ấy đối với thơ, chắc gì tránh khỏi sống sượng? Chiêu thức nhuần nhuyễn nhất, có lẽ
là thế : nhập cấu trúc ca khúc vào với cốt tự sự để chúng đồng thể với nhau.
Nếu chỉ dừng lại ở đó không thôi thì sắc thái ca khúc trong việc tổ chức mạch thơ hãy còn mơ hồ, chưa
thuyết phục. Thú vị và bất ngờ nhất là việc khảm vào mạch ấy những âm thanh như cách diễn tấu của nhạc công
khi đệm cho người hát một ca khúc. Sự có mặt của hai chuỗi li-la li-la li-la ở phần đầu và phần kết là thế. Thú
thực, khi mới đọc bài thơ này trong tập Khối vuông Rubic, tôi thấy cái chuỗi kia là một nét lạ, nhưng nhác nghĩ :
lại một trò "tân hình thức" đây. Cha Thanh Thảo này cũng bày đặt gớm. Nhưng đọc kĩ hơn thì thấy hình như có
một nghĩa lý nào đó hay hay, chứ không hẳn chỉ là những con âm rỗng nghĩa. Nhưng thực hư ra sao, thì cứ tù
mà tù mù. Mãi sau, đọc kĩ hơn vào cấu trúc mới vỡ lẽ : té ra đây lại là sự giao duyên kì thú của thơ và nhạc. Cụ
thể là giao thoa giữa thanh âm và thi ảnh. Mở đầu là hai câu : Những tiếng đàn bọt nước / Tây Ban Nha áo
choàng đỏ gắt. Thanh Thảo chọn hai hình ảnh này khởi đầu một thi phẩm giống như kiểu tạo những âm chủ cho
một nhạc phẩm. Chúng là những tương phản kín đáo mà gay gắt : âm thanh hồn nhiên - sắc màu chói gắt, tiếng
đàn thảo dân - áo choàng đấu sĩ, vẻ khiêm nhường - sự ngạo nghễ, niềm hân hoan - nỗi kinh hoàng, nghệ thuật -
bạo lực, thân phận bọt bèo - thực tại tàn khốc Cặp hình ảnh cứ ngỡ tương phùng nào ngờ lại tương tranh. Nội
dung chủ đạo mà thi phẩm triển khai sẽ là phận người trong một hiện thực đầy tranh chấp đối chọi như thế. Rồi

ngay sau hai câu mào đầu đó là chuỗi âm thanh li-la li-la li-la. Nó như một chuỗi nốt đàn buông do người đệm
đàn (ghi ta) lướt qua hàng dây để kết thúc phần dạo, đánh dấu khoảng ngắt cho người hát chính thức bắt lời trình
diễn ca khúc. Và thi phẩm cũng kết thúc bằng sự trở lại của chuỗi âm thanh ấy. Nó tựa những tiếng đàn đệm
cuối cùng nhằm tạo những dư âm sau khi lời hát đã ngừng. Đấy chẳng phải là một lối phối âm quen thuộc trong
diễn tấu ca khúc sao ? Mà cũng có thể hình dung nó như tiếng huýt sáo ngẫu hứng của người ca sĩ trên nền nhạc
khi diễn tấu. Ngẫu hứng mà đầy xao xuyến. Khi âm thanh gây niềm xao xuyến thì tự nó cũng chất chứa thi vị
chứ sao !
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
15
Song, nếu chỉ có thế, thì việc phỏng âm nhạc ấy bất quá, cũng chưa đi xa hơn bao nhiêu một trò trang
sức hoa mĩ. Về nghĩa, lila lại chính là một loài hoa có màu tím ngát rất được người phương Tây ưa chuộng : hoa
lila - tức hoa tử đinh hương. Chuỗi âm thanh kế tiếp gợi hình ảnh những tràng hoa chuỗi hoa bật tím liên tiếp.
Đó là những đoá hoa người đời, người thơ thầm kính viếng hương hồn Lorca hay chính là ngàn muôn đoá hoa
của sự sống đang nảy nở từ cái chết đau thương của nhà thi sĩ, thể hiện sức sống bất diệt của những giá trị chân
chính trên cõi đời này ? Có thể là thế này, có thể là thế kia, mà có lẽ là cả hai. Vì thế, chính cái chuỗi âm thanh
ngỡ không đâu ấy lại chứa đựng rất nhiều cảm thương, niềm tin và lòng ngưỡng mộ sâu kín của người viết.
Thiếu ý nghĩa của một thi ảnh, chuỗi li la kia khó vượt qua một trò diễn âm thanh cầu kì.
Mỗi nghệ phẩm là một sản phẩm không lặp lại. Không chỉ nội dung, mà ngay cả hình thức. Năng lượng
sáng tạo có thể tích tụ lâu dài trong cả ý thức và tiềm thức, bằng cả vốn sống, vốn văn hoá cùng kinh nghiệm
nghệ thuật. Nhưng nó chỉ xuất ra có một lần. Mỗi bài thơ là một lần loé sáng, một tia lửa không lặp lại. Tôi ngờ,
bản thân người viết cũng chẳng bao giờ kiểm soát hết được những gì loé lên trong tia lửa ấy. Sáng tạo nghệ
thuật là thế ; phải thế mới là nghệ thuật. Thanh Thảo có thể sử dụng tiếp những chiêu y sì thế này để viết thi
phẩm khác nữa không ? Nếu có, e rằng khó tránh khỏi hậu quả của nhân bản vô tính về hình thức. Là người ham
tìm tòi cách tân, Thanh Thảo hiểu rõ điều đó. "Với những bài thơ hay - anh viết, thi sĩ sáng tạo với toàn bộ thể
chất và tâm linh mình, và không biết cái nào bắt đầu trước : thể xác hay tâm linh ? đó là những bài thơ người
ta chỉ phóng ra có một lần, xuất ra có một lần, rồi ngắt. Phần tích điện, phần thu góp là cả một quá trình nhưng
sáng tạo là khoảnh khắc. Khoảnh khắc ấy xảy ra càng đột ngột bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu".Và anh cũng tâm
niệm : Những người tìm đến sự hoàn mĩ của hình thức nghệ thuật thường dễ gặp nhau. Mà trong nghệ thuật,
trong thơ, hình thức là gì ? Hình thức chính là sự hiện diện nghệ thuật riêng của từng nghệ sĩ. Không có cái hình
thức đó thì cũng chẳng bao giờ có nghệ thuật.Tôi nghĩ, với thi phẩm này chẳng hạn, anh đã có được điều đó.

AI ĐÃ ĐẶT TÊN CHO DÒNG SÔNG ?
(Trích)
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG
• Luyện tập

Phân tích vẻ đẹp của sông Hương
• Gợi ý
a. Giới thiệu về tác giả, tác phẩm
- Hoàng Phủ Ngọc Tường, con người đậm "chất Huế", đặc biệt sở trường về thể tùy bút, bút kí. Qua đó
hiện lên là nhà văn có phong cách độc đáo : Tài hoa, một nhà thơ thật sự trong văn xuôi ; uyên bác, đặc biệt về
Huế ; giàu trí tưởng tượng ; yêu tha thiết sông Hương và cố đô Huế. Bài Ai đã đặt tên cho dòng sông ? được viết
tại Huế tháng 1-1981, rút trong tập kí cùng tên.
- Bài kí ca ngợi dòng sông Hương và rộng hơn là vùng đất cố đô Huế đẹp và thơ mộng, ca ngợi lịch sử
vẻ vang của Huế, ca ngợi văn hóa và tâm hồn người Huế. Tác giả coi sông Hương là biểu tượng của tất cả
những gì là vẻ đẹp của cảnh và người đất cố đô này.
b. Phân tích
b.1 Cảm nhận chung
- Với một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, một vốn văn hóa phong phú về Huế và trước hết, với một tình cảm vô
cùng thiết tha đối với Huế, tác giả đã huy động triệt để mọi tiềm năng văn hóa cùng với vốn ngôn từ giàu có của
mình để phát hiện, diễn tả vẻ đẹp và chất thơ của Huế thể hiện tập trung ở dòng Hương giang như một biểu
tượng của Huế.
- Sông Hương thường được khám phá ở vẻ đẹp của Huế "đây xứ mơ màng, đây xứ thơ" (Tố Hữu) : "Con
sông dùng dằng, con sông không chảy - Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu" (Thu Bồn). Với Hoàng Phủ Ngọc
Tường, ông theo "hành trình gian truân" của sông Hương từ thượng nguồn Trường Sơn, nên phát hiện vẻ đẹp
hùng tráng của nó, đó là "bản trường ca của rừng già", là dòng sông "của thời gian ngân vang, của sử thi viết
giữa màu cỏ lá xanh biếc".
b.2 Vẻ đẹp ở cảnh sắc thiên nhiên
Có vẻ đẹp "phóng khoáng và man dại", "rầm rộ", "mãnh liệt" - "một bản trường ca của rừng già" khi nó
đi giữa đại ngàn Trường Sơn ; có vẻ đẹp "dịu dàng và trí tuệ" khi trở thành "người mẹ phù sa" của một vùng đất
đế đô ; có vẻ đẹp biến ảo như phản quang nhiều màu sắc của nền trời tây nam thành phố "sớm xanh, trưa vàng,

chiều tím" ; có vẻ đẹp "vui tươi hẳn lên" khi đi qua những bờ bãi xanh biếc vùng ngoại ô Kim Long ; có vẻ đẹp
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
16
"trầm mặc" "như triết lí, như cổ thi" khi lăng lẽ chảy dưới chân những rừng thông u tịch với những lăng mộ âm
u mà kiêu hãnh ; có vẻ đẹp "mơ màng trong sương khói" khi nó rời xa thành phố …
b.3 Vẻ đẹp từ góc độ văn hóa
Tác giả gắn sông Hương với âm nhạc cổ điển Huế : sông Hương ấy là "người tài nữ đánh đàn lúc đêm
khuya" ; liên tưởng đến Nguyễn Du và truyện Kiều.
Tác giả cho rằng có một dòng sông thi ca về sông Hương, một dòng sông "không bao giờ lặp lại mình",
ấy là "dòng sông trắng - lá cây xanh" của Tản Đà "tinh tế” ; là vẻ đẹp "khí phách" trong thơ Cao Bá Quát " như
kiếm dựng trời xanh" ; là "nỗi quan hoài vạn cổ" trong thơ Bà Huyện Thanh Quan ; là "sức mạnh phục sinh tâm
hồn" trong thơ Tố Hữu …
b.4 Vẻ đẹp từ góc độ lịch sử :
Sông Hương "oanh liệt" của thế kỉ trung đại, "vẻ vang" của thời Nguyễn Huệ, "bi tráng" của thế kỉ
XVIII, "rung chuyển" của Cách mạng tháng Tám, "nồng nhiệt" của mùa xuân Mậu Thân, …
b.5 Vẻ đẹp trong trí tưởng tượng sáng tạo, tài hoa của tác giả
Ong đã nhìn sông Hương như cô gái Huế, từng có lúc là một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại,
nhưng nói chung là một thiếu nữ tài hoa, dịu dàng mà sâu sắc, đa tình mà kín đáo, lẳng lơ nhưng rất chung tình,
khéo trang điểm để không lòe loẹt phô trương, …
c. Đánh giá chung
Đoạn trích là đoạn văn xuôi súc tích và đầy chất thơ về sông Hương. Nét đặc sắc làm nên sức hấp dẫn
của đoạn văn là những xúc cảm sâu lắng được tổng hợp từ vốn hiểu biết phong phú về văn hóa, lịch sử, địa lí và
văn chương cùng một văn phong tao nhã, hướng nội, tinh tế và tài hoa.
BÀI THAM KHẢO
Ai đó đã từng viết “ Đất nước có nhiều dòng sông nhưng chỉ có một dòng sông để thương, để nhớ như
đời người có nhiều cuộc tình nhưng chỉ có một cuộc tình để mãi mãi mang theo”. Vâng, “một dòng sông để
thương, để nhớ” của mỗi người rất khác nhau. Nếu tên tuổi Văn Cao gắn liền với sông Lô hùng tráng; nếu
Hoàng Cầm là nỗi nhớ của ta khi ngang qua “Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh”; nếu Hoài Vũ mãi là nhà
thơ của con sông Vàm Cỏ đêm ngày thao thiết chở phù sa, thì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã song hành cùng sông
Hương đi vào trái tim người đọc với “Ai đã đặt tên cho dòng sông?.”

Có một huyền thoại vọng về từ làng Thành Trung, một ngôi làng trồng rau thơm ở Huế: Vì yêu quý con
sông xinh đẹp, người dân hai bên bờ sông Hương đã nấu nước của trăm loài hoa đổ xuống dòng sông cho làn
nước xanh thắm ấy mãi mãi thơm tho.
Phải chăng đó là cách lý giải tên của Hương Giang – con sông gắn liền với Huế, gắn liền với tình yêu
của Hoàng Phủ Ngọc Tường?
Bút ký “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được viết năm 1981, khi tác giả đã sống bên bờ sông Hương,
sống trong lòng Huế hơn 40 năm trời, tình yêu máu thịt đối với quê hương cứ lớn lên từng ngày và nó hiện hữu
ở mọi thời gian, mọi không gian.
Khi tác giả ngồi đọc truyện Kiều giữa mùa thu, trong một khu vườn xưa cổ, nơi có những loài hoa đang
nở, trái cây đang chín, yên tĩnh và khoáng đạt - khu vườn tọa lạc trên vùng đất mà Nguyễn Du từng sống nên
thiên nhiên của “mảnh đất Kinh- xưa” đã in bóng trong thơ Nguyễn, ngược lại sông Hương và Huế đã gợi cho
tác giả hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng: Kim- Kiều.
Chưa bao giờ tôi nhìn thấy một dòng chảy nào đáng yêu đến thế, sông Hương đến với Huế qua cái nhìn
của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã mang hình ảnh một cô gái mỹ miều đến với tình yêu. Hãy ngắm nhìn nàng trước
khi gặp Huế, đó là “một cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại” “bản lĩnh và gan dạ” có một tâm hồn “ tự
do và trong sáng”, đó là hình ảnh “ bản trường ca của rừng già” rầm rộ và mãnh liệt nhưng cũng có lúc “dịu
dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”, nàng đã chế ngự sức mạnh bản
năng của mình để đến lúc ra khỏi rừng già sẽ trở nên dịu dàng và trí tuệ.
Để đến với Huế, sông Hương phải băng qua một hành trình, phải chuyển dòng liên tục, như một cuộc
kiếm tìm thiết tha và rạo rực, vô vàn địa danh mà dòng nước ấy đã trôi qua Hòn Chén, Ngọc Trản, Nguyệt Biều,
Lương Quán, Thiên Mụ… người con gái Di-gan ấy đã đột ngột uốn mình theo một đường cong thật mềm nhưng
“vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản, để sắc nước trở
nên xanh thẳm”, nàng vẫn còn mang một vẻ buồn trầm mặc như triết lý, như cổ thi… cho đến khi gặp được
tiếng chuông Thiên Mụ, nghe âm thanh bát ngát tiếng gà, từ ấy sông Hương rạng rỡ như nắng mới, nàng uốn
một cánh cung thật nhẹ, đến khi giáp mặt với thành phố, đường cong ấy làm cho nàng “mềm hẳn đi, như một
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
17
tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu”- Cái phút ban đầu để đến với “người tình” của sông Hương như thế
đấy! Nàng đã tự làm mới mình để hiến tặng những gì đẹp nhất cho người yêu.
Sông Hương - dòng sông thuộc về một thành phố duy nhất - đã rời cuộc sống hoang dã của rừng để đến

với Huế và chỉ Huế mà thôi, nàng như “sông Xen của Paris, sông Ðanuýp của Buđapet…” chảy trong lòng
thành phố yêu quý của mình nhưng khác ở chỗ nàng đẹp một cách huyền hồ như đang che khuôn mặt diễm kiều
bằng tấm voan sương khói, nàng trôi lặng lẽ với nghìn ánh hoa đăng vào hội rằm tháng 7 bồng bềnh chao nhẹ
trên mặt nước như vương vấn một nỗi lòng . Tôi chợt nhớ đến một câu nói “có những dòng tình cảm, rất sâu nên
rất đỗi lặng lờ”, dòng chảy êm đềm của sông Hương hay chính là tình yêu sâu lắng mà nàng dâng tặng cho
thành phố Huế? Vẻ đẹp của sông Hương còn là vẻ đẹp của một nền văn hóa, vẻ đẹp của người tài nữ đánh đàn
lúc đêm khuya ,toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh sôi trên mặt sông này và hơn thế khắp lưu vực
sông còn vang vọng những điệu hò dân dã, những điệu hò thấm đẫm tấm chung tình, thấm đẫm lời thề của sông
Hương trước phút chia tay với Huế mà trôi về biển cả. Nhưng chẳng phải bao giờ sông Hương cũng là người
con gái đằm thắm ,dịu dàng, mềm mại trong lòng Huế, đã có một thời sông Hương “mang tên là Linh Giang,
dòng sông viễn châu đã chiến đấu oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam” của Tổ quốc, vẻ vang soi bóng kinh
thành Phú Xuân, “dòng sông của thời gian ngân vang", của lịch sử viết giữa màu cỏ xanh, lá biếc…
Sông Hương được nhìn như một người con gái đến với tình yêu, dâng tặng những vẻ đẹp mà mình có
được cho người yêu, đắm mình trong tình yêu để khám phá và hoàn thiện bản thân. Từ một dòng sông hoang
dại, bí ẩn, nàng đã trở thành một sông Hương rất mực dịu dàng, rất mực tài hoa, rất mực kiên cường, rất mực hy
sinh…
Cho nên, từ khi có được sông Hương, Huế - chàng Kim của nàng- cũng có nhiều thay đổi. Từ hoang sơ
với “cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại” hay kiêu hãnh âm u với những lăng tẩm đền đài đồ sộ, đã hóa thành vẻ
đẹp cổ kính mà thơ mộng, khiến người con của Huế dù đến Pari, Buđapét hay Leningrad vẫn đau đáu nhớ về
một thành phố với nguyên dạng đô thị cổ, trải dọc hai bờ sông. Huế càng lung linh hơn khi sông Hương chở
trong lòng Huế những nét đặc thù của hội Hoa đăng, của ca Huế, man mác tiếng rơi của những mái chèo khuya.
Có sông Hương, Huế trở thành biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng, Huế chiến đấu oanh liệt bảo về biên
giới phía Nam của Đại Việt, Huế là kinh thành của người anh hùng Nguyễn Huệ, Huế cùng sông Hương đi vào
Cách mạng tháng 8 bằng những chiến công rung chuyển. Huế đã cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc trong cuộc
trường chinh máu lửa bên cạnh sông Hương - dòng sông của sử thi đã tự hiến đời mình làm một chiến công.
Tình yêu của sông Hương và Huế - một tình yêu lãng mạn và âm vang sức sống, một tình yêu như một
cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, bản hợp xướng diệu kỳ giữa thi ca và âm nhạc. Tình yêu ấy
được vun đắp bởi ngòi bút tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, đứa con thân yêu của Huế, yêu Huế, yêu sông
Hương, nhìn ngắm sông Hương khi gần kề để phát hiện ra dòng sông ấy “đang đổi sắc không ngừng dưới ánh
nắng và mùi hương của hoa trái trong vườn”, lúc xa xôi gần nửa vòng trái đất, nhìn Nê va để sông Hương tìm về

trong niềm nhớ.
Sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường không chỉ mang vẻ đẹp trời phú mà còn ánh lên vẻ đẹp của
con người, những tài nữ đánh đàn, những người dân Châu Hóa lái thuyền xuôi ngược, những người con anh
dũng đã hi sinh, những Nguyễn Du, những bà huyện Thanh Quan, những Tố Hữu…đã viết thơ trên dòng chảy
long lanh in bóng mây trời.
Cũng như tình yêu của sông Hương với Huế, tình yêu của Hoàng Phủ Ngọc Tường với sông Hương cũng
là quá trình dâng tặng, khám phá và hoàn thiện chính mình. Tuy nhiên, vì sông Hương là hóa thân của huyền
thoại nên câu hỏi bâng khuâng của một người Hà Nội khi lặng lẽ ngắm nhìn dòng nước : “Ai đã đặt tên cho
dòng sông?” vẫn là một câu hỏi lửng lơ chưa có lời giải đáp , câu hỏi đã thành tên cho một thiên bút ký tuyệt
vời…
NGƯỜI LÁI ĐÒ SÔNG ĐÀ
NGUYỄN TUÂN
• Luyện tập

1/ Hoàn cảnh sáng tác-Giá trị tác phẩm
2/ Phân tích hình tượng sông Đà
3/ Phân tích cuộc giao tranh giữa người lái đò với thác dữ
• Gợi ý
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
18
ĐỀ 1
- Hoàn cảnh sáng tác : Người lái đò sông Đà in trong tập tuỳ bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và
một bài thơ ở dạng phác thảo. Đây là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi thực tế
năm 1958.
Phong cảnh Tây Bắc dưới ngòi bút của ông vừa hùng vĩ uy nghiêm, vừa tuyệt vời thơ mộng. Ong ca
ngợi những con người đến với Tây Bắc là “thứ vàng mười đã được thử lửa”, là “chất vàng mười của tâm hồn
Tây Bắc”. Tuỳ bút Sông Đà có nhiều bức tranh sinh động và nhiều hình tượng giàu sức hấp dẫn, đồng thời cũng
đậm đà cảm hứng lãng mạn trong sáng.
- Người lái đò sông Đà vừa là một công trình khảo cứu công phu, vừa là một áng văn giàu tính thẩm mỉ
về sông Đà và con người sông Đà, thể hiện rõ phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân.

ĐỀ 2 (BÀI VĂN THAO KHẢO)
Người lái đò sông Đà in trong tập tuỳ bút Sông Đà (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng
phác thảo. Đây là kết quả của nhiều dịp ông đến với Tây Bắc, đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Có hai
nhân vật dưới cách nhìn của Nguyễn Tuân trong thiên tuỳ bút này : “nhân vật” sông Đà và nhân vật người lái đò
sông Đà.
“Chúng thuỷ giai đông tẩu. Đà giang độc bắc lưu”. Nguyễn Tuân dùng hai câu thơ Nguyễn Quang Bích
giới thiệu sông Đà. Sông Đà dưới ngòi bút Nguyễn Tuân không phải là thiên nhiên vô tri vô giác mà là “con
sông Đà”, một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét
tính cách cơ bản - như tác giả gọi “hung bạo và trữ tình”. Lúc hung bạo, nó như “kẻ thù số một” của con người.
Lúc trữ tình, nó lại đầy chất thơ và thân thiết với con người như một “cố nhân”, xa thì nhớ nhung lưu luyến.
Hung bạo của “con sông Đà” ở những đoạn thác dữ, những đoạn bờ sông dựng vách thành, những quãng
hẹp như cái yết hầu, những cái hút nước chết người … Lúc này sông Đà “có tâm địa và diện mạo một thứ kẻ thù
số một của con người”. Tác giả tựa như một nhà quay phim lão luyện vừa cho người xem thấy bao quát khung
cảnh Sông Đà, vừa thỉnh thoảng dừng lại cống hiến những pha cận cảnh thật tiêu biểu đặc tả sự dữ dằn của con
sông. Để khắc hoạ cái huyền bí có phần hoang sơ của dòng sông, nhà văn đã vận dụng tổng hợp các giác quan
khác nhau và có những so sánh táo bạo, mới mẻ, bất ngờ. Sự hung bạo của Sông Đà được Nguyễn Tuân thể hiện
tài tình. Chẳng hạn như nhằm tô đậm những con sóng dữ, nhà văn đã dùng những câu có kết cấu trùng điệp, tạo
nên nhịp điệu khẩn trương, gấp gáp giống như sự chuyển vần của gió to, sóng lớn:“ Nước xô đá, đá xô sóng,
sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm …”. Đoạn văn này có thể cung cấp đầy đủ những hình ảnh
cần thiết cho những hoạ sĩ nào ưa vẽ những cảnh tượng sông nước dữ dằn, rùng rợn : “Nước ở đây thở và kêu
như cửa cống cái bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn … Những cái
giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào … Có những cái thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền
trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưói dòng sông đến mươi phút sau mới thành tan
xác ở khuỷnh sông dưới …”. Con Sông Đà trở thành một loài thuỷ quái vừa hung ác vừa nham hiểm. Tác giả
gợi cho người cảm giác về âm thanh “tiếng nước”, nó đa dạng “van xin, oán trách, khiêu khích, giọng gằn mà
chế nhạo”, có lúc “rống lên như ngàn con trâu mộng”. Còn là cảm giác hình ảnh thị giác, nước sông Đà như
đang lồng lộn giữa “rừng lửa”. Một lối liên tưởng độc đáo nước với lửa. Lòng sông trắng xoá bày “thạch trận
trên sông”. Nguyễn Tuân đã dựng dậy và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô tri vô giác. Hòn thì “bệ vệ oai
phong lãm liệt”, hòn thì “ngỗ ngược”, hòn thì “nhăn nhúm méo mó” … Lúc giao chiến, có hòn “hất hàm” hỏi
tên tuổi đối phương, hòn khác thì “lùi lại một chút và thách thức” … Thạch trận có ba tuyến hẳn hoi, tiền vệ

trong như sơ hở để dụ địch thủ, tuyền hai “đánh khuýp quật vu hồi”, tuyến ba tiêu diệt.
Nhưng bên cạnh tính “hung bạo”, Sông Đà còn là dòng sông “trữ tình”. Dưới ngòi bút Nguyễn Tuân,
Sông Đà quả là một công trình nghệ thuật tuyệt vời của tạo hoá, nó mềm mại như áng tóc người phụ nữ kiều
diễm “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa
ban hoa gạo”. Màu sắc Sông Đà thay đổi theo mùa, xuân thì “xanh ngọc bích”, hạ thì “lừ lừ chín đỏ”, có lúc lại
loé lên màu nắng tháng ba Đường thi “Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu”. Phải là người có một vốn văn hoá
phong phú và một tâm hồn thi sĩ thì mới có được cái liên tưởng bất ngờ kia giữa vẻ đẹp Sông Đà với bài thơ
tuyệt vời của Lí Bạch viết về tình bạn cố nhân. Sông Đà trở thành nỗi nhớ và người bạn thân thiết của con
người, một “cố nhân”. Nguyễn Tuân rất chú ý đến âm thanh, nhịp điệu của câu văn xuôi diễn tả vẻ đẹp trữ tình
của con Sông Đà:“ Cảnh ven sông ở đây lặng tờ. Hình như đời Lí, đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng lặng
tờ như vậy mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô nhú lên mấy lá ngô non đầu mùa. Cỏ gianh đồi núi đang
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
19
ra những nõn búp… Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày
xưa”.
Bằng cách cấu trúc câu trùng điệp, cách so sánh độc đáo, cách nhân hoá và liên tưởng bất ngờ…,
Nguyễn Tuân đã khắc hoạ được con sông Đà vừa hùng vĩ, vừa thơ mộng. Đây chính là sự ngợi ca, niềm tự hào
về quê hương đất nước của nhà văn.
ĐỀ 3
a. Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm
- Trong kháng chiến chống Pháp, Nguyễn Tuân có dịp đến với Tây Bắc nhiều lần. Năm 1958, ông trở lại
Tây Bắc trong chuyến đi thực tế và kết quả là tập tuỳ bút Sông Đà được ra đời. Tây Bắc hiện ra một thiên nhiên
vừa dữ dội hùng vĩ vừa mĩ lệ duyên dáng, con người Tây Bắc như là “chất vàng mười” được tôi luyện thử
thách. Bài Người lái đò Sông Đà rút từ tập Sông Đà ghi lại cảm nghĩ của nhà văn về vùng đất này.
- Có hai nhân vật dưới cách nhìn của Nguyễn Tuân trong thiên tuỳ bút này : “nhân vật” sông Đà và nhân
vật người lái đò sông Đà. Tác giả mô tả tập trung nhân vật người lái đò ở trường đoạn người lái đò giao tranh
với thác dữ.
b. Phân tích
b.1. Giới thiệu về sông Đà và ông lái đò :
Nguyễn Tuân viết : “Tôi xin ghi ở đoạn này cái hình ảnh chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến

trường sông Đà, trên một quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà”. Một câu văn có đến ba từ gợi lên chất quân sự
dữ dội “ chiến đấu, chiến trường, thuỷ chiến”.
- Sông Đà “hung bạo” ở những đoạn thác dữ, những đoạn bờ sông dựng vách thành, những quãng hẹp
như cái yết hầu, những cái hút nước chết người … Lúc này sông Đà “có tâm địa và diện mạo một thứ kẻ thù số
một của con người”. Tác giả tựa như một nhà quay phim lão luyện vừa cho người xem thấy bao quát khung
cảnh Sông Đà, vừa thỉnh thoảng dừng lại cống hiến những pha cận cảnh thật tiêu biểu đặc tả sự dữ dằn của con
sông. Để khắc hoạ cái huyền bí có phần hoang sơ của dòng sông, nhà văn đã vận dụng tổng hợp các giác quan
khác nhau và có những so sánh táo bạo, mới mẻ, bất ngờ. Nhằm tô đậm những con sóng dữ, nhà văn đã dùng
những câu có kết cấu trùng điệp, tạo nên nhịp điệu khẩn trương, gấp gáp giống như sự chuyển vần của gió to,
sóng lớn :“ Nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm …”. Con Sông Đà trở
thành một loài thuỷ quái vừa hung ác vừa nham hiểm. Tác giả gợi cho người cảm giác về âm thanh “tiếng
nước”, nó đa dạng “van xin, oán trách, khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”, có lúc “rống lên như ngàn con
trâu mộng”. Còn là cảm giác hình ảnh thị giác, nước sông Đà như đang lồng lộn giữa “rừng lửa”. Một lối liên
tưởng độc đáo nước với lửa.
Lòng sông trắng xoá bày “thạch trận trên sông”. Có đá “mai phục”, có đá “nhổm cả dậy”. Nguyễn
Tuân đã dựng dậy và thổi sự sống vào cho những hòn đá vô tri vô giác. Hòn thì “bệ vệ oai phong lãm liệt”, hòn
thì “ngỗ ngược”, hòn thì “nhăn nhúm méo mó” Thạch trận có ba tuyến hẳn hoi, tiền vệ trong như sơ hở để dụ
địch thủ, tuyền hai “đánh khuýp quật vu hồi”, tuyến ba tiêu diệt.
- Nhân vật người lái đò sông Đà ơ đây là người lái đò-nghệ sĩ. Chở đò mà là một nghệ thuật cao cường
đầy tài hoa, gọi là “tay lái ra hoa”. Nghệ thuật ở đây, như tác giả nói, là nắm chắc “qui luật tất yếu của dòng
nước sông Đà”. Và vì làm chủ được qui luật ấy nên có tự do. Nhưng đây là một qui luật hết sức khắc nghiệt.
Một phút thiếu chính xác, một tích tắc thiếu bình tĩnh, loá mắt, lỡ tay là phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhà văn đã khắc hoạ một hình tượng đẹp “trên thác hiên ngang một người lái Sông Đà có tự do, vì người lái đò
ấy đã nắm được cái qui luật tất yếu của dòng nước Sông Đà”.
b.2 Cuộc giao tranh :
- Cuộc chiến đấu giữa ông lái đò đầy trí dũng với con thác dữ hiện lên như trong một trường đoạn phim
thật sôi động, hấp dẫn. Như một viên tướng xung trận, người lái đò thật oai phong, bình tĩnh, tỉnh táo hiểu đối
tượng, ứng phó linh hoạt. Một đoạn văn dựng cảnh đầy giá trị tạo hình, một lối thuật kể hồi hộp, đầy kịch tính
căng thẳng, dùng đến cả tri thức quân sự và võ thuật. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân có điều kiện khoe hết góc cạnh và
sự giàu có của nó.

- Lúc giao chiến, có hòn “hất hàm” hỏi tên tuổi đối phương, hòn khác thì “lùi lại một chút và thách
thức”. Một loạt động từ miêu tả sông Đà “hò la, ùa vào, đá, thúc, đội, bám” chiếc thuyền nhỏ sáu người trên
đó. Ong lái đò đã “nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá … thuộc qui luật phục kích của lũ đá nơi ải nước
hiểm trở này” nên nhanh chóng chiến thắng vòng đầu. Tiếp đến là vòng hai, “cưỡi lên thác sông Đà, phải cưỡi
đến cùng như cưỡi hổ”. Hình ảnh ông lái đò “nắm chặt cái bờm sóng, … bám chắc cai luồng nước, … phóng
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
20
nhanh, lái miết …” hết sức sinh động. Sự chiến thắng của con người đối với thiên nhiên được nhàvăn miêu tả
bằng bộ mặt “tiu nghỉu” thất vọng của “thằng đá tướng”. Thuyền ông lái đò vượt qua thác dữ hiện lên như
“một mũi tên tre”. Ông lái đò oai phong như một viên tướng đầy trí dũng, cưỡi lên luồng nước hung dữ đang
thế mạnh, nắm chắc lấy bờm sóng, lao vụt qua lớp lớp những cửa đá đầy hiểm ác như mũi tên tre xuyên nhanh
qua hơi nước … Lái đò như thế quả là một nghệ thuật siêu phàm.
- Cuộc “chiến đấu” trôi qua, mọi người chẳng cần bàn thêm lời nào. Công việc lao động thầm lặng ngày
ngày vẫn tiếp diễn. Phần thắng thuộc về con người, khi làn sóng thác “xèo xèo tan trong trí nhớ. Sông lại thanh
bình thì chả ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến đấu vừa qua”. Cuộc chiến đấu sống chết vừa rồi hoá ra
“không có gì đáng hồi hộp, đáng nhớ”. Trên bối cảnh sông nước, ông lái đò đẹp hơn tất cả, quí hơn tất cả.
- Cảm hứng được khơi dậy, nhà văn tung ra hết kho ngôn ngữ phong phú của mình để diễn tả cho được
mọi sắc thái, mọi tình huống, mọi âm thanh của trận chiến đấu giữa ông lái đò đầy trí dũng với thác nước sông
Đà hung hãn. Có thể nói cuộc giao tranh giữa ông lái đò với thác dữ song song với cuộc đua tranh giữa Nguyễn
Tuân và tạo hoá về khả năng sáng tạo hình tượng, Nguyễn Tuân đã ném ra bao nhiêu chữ nghĩa đầy góc cạnh,
gợi ra biết bao liên tưởng so sánh độc đáo và chính xác.
3/ Đánh giá chung
Qua bài tuỳ bút, đặc biệt là qua đoạn tả cuộc vượt thác nói trên của người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân
muốn nói rằng, chủ nghĩa anh hùng đâu chỉ ở nơi chiến trường. Nó ở ngay trong cuộc sống của nhân dân ta,
hàng ngày phải vật lộn với thiên nhiên vì miếng cơm manh áo. Và trí dũng tài ba không phải tìm ở đâu, mà ở
ngay những người lao động bình thường kia. Cuộc đời của ông lái đò vô danh nơi ngọn thác hoang vu khuất nẻo
kia là cả một thiên anh hùng ca, là cả một pho nghệ thuật tuyệt vời.
VỢ CHỐNG A PHỦ (trích)
TÔ HOÀI
• Luyện tập


1/ Tóm tắt truyện và giá trị doạn trích.
2/ So sánh ngắn gọn hai nhân vật Mị và A Phủ.
2/ Phân tích hình tượng nhân vật Mị.
3/ Phân tích giá trị nhân đạo tác phẩm Vợ chồng A Phủ (trích) của Tô Hoài.
• Gợi ý
ĐỀ 3
a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
b. Phân tích hình tượng nhân vật MỊ
b.1 Số phận : Mị là cô gái dân tộc Hmông. Số phận của Mị tiêu biểu cho số phận của phụ nữ nghèo ở
miền núi trước đây. Mị có đủ phẩm chất để được sống hạnh phúc. Mị xinh đẹp, khao khát tình yêu và được yêu.
Nhưng chỉ vì “món nợ truyền kiếp”, nên Mị phải đành hi sinh tuổi xuân và sự tự do của mình, trở thành con dâu
gạt nợ tủi nhục của gia đình thống lí Pá Tra.
b.2 Tính cách : nhẫn nhục và phản kháng, chấp nhận cuộc sống của một súc nô và khao khát được sống
như một con người là hai mặt mâu thuẫn trong con người Mị.
- Mị, một mặt như một con người chai lì về cảm xúc và tê liệt về ý thức. Ở lâu trong cái khổ, Mị quen
khổ rồi. Mị tưởng mình là con trâu con ngựa, Mị không mong đợi bất kì cái gì và cô cũng chẳng còn ý niệm về
thời gian, không gian, suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Căn buồng của Mị như không gian của
một nhà tù .
- Mặt khác, ở Mị vẫn tiềm tàng một sức sống bền bỉ mãnh liệt, sự phản kháng quyết liệt.
+ Ngay sau khi bị bắt làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra, Mị đã cầm lá ngón về nhà lạy
chào vĩnh biệt cha rồi tự tử. Ý thức về cuộc sống tủi nhục của mình, không chấp nhận cuộc sống đó, lòng ham
sống khát vọng tự do khiến Mị tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát. Thương bố, Mị không nỡ chết,
rồi “ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Mị như chấp nhận cuộc sống trâu ngựa ở nhà thống lí Pá Tra.
+ “Đêm tình mùa xuân” đã tới. Lòng ham sống, niềm khao khát hạnh phúc lại được đánh thức.
Mị sống lại những ngày quá vãng : “Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn. Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi. Mùa
xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo”. Mị ý thức về hiện tại rằng mình vẫn còn trẻ. Cảm xúc về thân
phận sống lại, “nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay”. “Mị đến góc nhà, lấy ống mỡ,
xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng. Trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo. Mị muốn đi chơi”. Mị quấn
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011

21
lại tóc, lấy váy áo định đi chơi. Nhưng A Sử đã bắt trói đứng Mị. Tuy bị đau đớn, nhưng Mị vẫn thả hồn mình
theo những đám chơi với tiếng hát tình tứ.
+ Sức sống mãnh liệt ở người phụ nữ này lại trỗi dậy lần thứ ba, khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ
bị hành hạ có nguy cơ phải chết trong nay mai. Thương mình, thương người, Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ,
cũng chính là cắt dây cởi trói mình khỏi kiếp đời nô lệ.
3 . Đánh giá chung :
Tác phẩm là một thành công có tính khai phá của Tô Hoài về đề tài miền núi trong nền văn học mới. Tác
giả thể hiện tư tưởng nhân đạo tích cực, mang ý thức giai cấp : lên án những thế lực phong kiến, thực dân áp
bức tàn bạo; thông cảm với số phận đau khổ của người nông dân nghèo miền núi; khẳng định những bản chất tốt
đẹp và những khát vọng ở họ; những khả năng tích cực và con đường đi tới cách mạng của ngưòi dân miền núi.
ĐỀ 4 :
Có ý kiến cho rằng : Văn học, suy cho cùng, thì ý nghĩa thật sự của nó là góp phần nhân đạo hoá con
người. Tác phẩm văn học là sản phẩm tinh thần của con người, do con người làm ra để đáp ứng nhu cầu của nó.
Vì vậy tác phẩm văn học chỉ thực sự có giá trị khi nó lên tiếng vì con người, ca ngợi và bảo vệ vì con người.
Với ý nghĩa đó một tác phẩm lớn trước hết phải là một tác phẩm có giá trị nhân đạo sâu sắc. Vợ chồng A Phủ
của Tô Hoài là một tác phẩm như thế.
Thế nào là một tác phẩm văn học có giá trị nhân đạo ? Trả lời câu hỏi này, người ta thường căn cứ trên
một số phương diện cơ bản của tác phẩm. Trước hết một tác phẩm có giá trị nhân đạo phải là một tác phẩm tập
trung tố cáo, vạch trần tội ác của những thế lực đang chà đạp lên quyền sống con người. Tác phẩm đó cũng phải
là một tác phẩm nhằm tập trung biểu dương, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của con người. Cuối cùng nhà văn
trong tác phẩm phải thông cảm và thấu hiểu được tâm tư tình cảm cũng như những nguyện vọng và mơ ước của
con người, giúp họ họ nói lên những ước nguyện và đấu tranh để giành được ước nguyện ấy. Tất cả điều đó có
nghĩa là tác phẩm chỉ có giá trị nhân đạo khi giúp con người sống cho ra con người “giữ con người không sa
xuống thành con vật, mà cũng không thành những ông thánh vô bổ vô duyên. Nghệ thuật là sự vươn tới, sự
hướng về, sự níu giữ mãi mãi tính người cho con người. Cái cốt lõi của nghệ thuật là tính nhân đạo” (Nguyên
Ngọc).
Vợ chồng A Phủ, như tên gọi của thiên truyện, viết về cuộc đời của một đôi vợ chồng người Mèo ở vùng
núi cao Tây Bắc trước và sau khi đến với Cách mạng. Truyện làm nổi bật số phận khốn khổ, tủi nhục của người
dân nghèo miền núi dưới ách thống trị của lũ chúa đất và bọn thực dân, đồng thời ca ngợi cuộc đổi đời của họ

nhờ cách mạng. Như thế bản thân đề tài và chủ đề của tác phẩm đã mang nội dung nhân đạo sâu sắc. Thực hiện
chủ đề ấy, tác phẩm kết cấu gồm hai phần. Phần I : cuộc sống nô lệ của Mị và A Phủ ở Hồng Ngài, phần II :
cuộc sống mới của vợ chồng A Phủ ở khu du kích Phiềng Sa. Chiều sâu nhân đạo của tác phẩm chủ yếu được
thể hiện ở phần I, qua đoạn đời tủi nhục của Mị và A Phủ trong nhà thống lí Pá Tra.
Số phận của Mị điển hình cho số phận những người miền núi bị cột chặt vào kiếp nô lệ. Cuộc sống địa
ngục ở nhà tên chúa đất đã biến một cô gái xinh đẹp, tràn đầy sức sống thành một nô lệ chai lì về cảm xúc, tê
liệt về ý thức. “Ở lâu trong cái khổ, mị quen khổ rồi”. Mị sống quán tính như một con vật “mỗi ngày Mị càng
không nói, lùi lùi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Thậm chí nhiều khi Mị cảm thấy mình không bằng một con
vật. Trong đêm tình mùa xuân, bị A Sử trói đứng vào cột, Mị “chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vách. Ngựa
vẫn đứng gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Cuộc sống ngục tù của Mị được
nhà văn đặc tả bằng căn buồng của cô “kín mít, có một chiếc cửa sổ, một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông
ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ
vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Tô Hoài còn hé mở cho thấy thân phận của bao người con gái
khác, trước hết là những người bị bắt về làm vợ trong nhà thống lí Pá Tra“đời người đàn bà lấy chồng nhà giàu
ở Hồng Ngài thì một đời người chỉ biết theo đuôi con ngựa của chồng”.
Số phận nô lệ tủi nhục của người dân miền núi còn được bổ sung và hoàn chỉnh bằng cuộc đời rách nát
đầy khốn khổ của A Phủ. Vốn là một thanh niên sớm mồ côi, sống tự lập, tính cách được rèn luyện mạnh mẽ “A
Phủ khoẻ, chạy nhanh như ngựa, con gái trong làng nhiều người mê”, thế mà chỉ một lần va chạm với A Sử mà
trở thành kẻ tôi đòi trong nhà Pá Tra, mãn kiếp không thể cất đầu lên để được làm người.
Giá trị nhân đạo còn thể hiện trong chỗ nhà văn vạch trần những hành vi và việc làm bạo ngược của cha
con thống lí Pá Tra. Sức mạnh của cường quyền được nhà văn miêu tả trong cảnh A Sử bắt Mị trói đứng không
cho đi chơi Tết, tóc Mị xoã xuống, A Sử cuốn luôn tóc lên cột, rồi y “thắt nốt cái thắt lưng, tắt đèn, đi ra, khép
cửa buồng lại”. Cái kĩ càng, rành rẽ của từng động tác biểu hiện sự tàn ác đến thản nhiên của A Sử. Và cảnh
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
22
bọn chức việc trong làng xử A Phủ lại thêm một bức tranh cụ thể sống động giàu sức tố cáo về một tập tục là
hiện thân của ách áp chế kiểu trung cổ của miền núi. Việc bắt A Phủ làm đứa ở trừ nợ càng làm tăng thêm sức tố
cáo của tác phẩm : một chàng trai khoẻ mạnh, gan góc, sống tự do như chim trời nơi núi rừng, vậy mà cuối cùng
không thoát khỏi ách áp bức của bọn chúa đất, phải rơi vào thân phận nô lệ suốt đời trong nhà thống lí Pá Tra.
Đồng thời, Tô Hoài còn kết án tư tưởng thần quyền đã được bọn phong kiến miền núi lợi dụng nhằm cột chặt

những kiếp đời nô lệ, Mị và A Phủ bị lời nguyền “cúng trình ma” trói buộc đời sống tinh thần.
Ngòi bút của Tô Hoài không chỉ phơi bày cái đen tối ảm đạm của cuộc đời, mà còn thiết tha hướng tới
phía sự sống và ánh sáng để khơi gợi nó lên. Ngòi bút của nhà văn đã thấm nhuần tinh thần nhân đạo, thể hiện ở
niềm tin và sự trân trọng khát khao vươn lên đời sống tự do và hạnh phúc của những con người bị đoạ đầy đau
khổ. Đấy là sự tiếp nối tinh thần nhân đạo truyền thống trong văn học văn học dân tộc. Bên trong con người lầm
lũi của Mị, Tô Hoài đã nhìn thấy một sức sống nội tâm hết sức hết sức mạnh mẽ phong phú. Trong cái đêm
mùa xuân bị trói ấy, tuy thể xác bị hành hạ cầm tù, nhưng tâm hồn hoàn toàn tự do “Mị vẫn nghe tiếng đưa Mị
đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Mị vẫn bay bổng theo “tiếng sáo gọi yêu vẫn lửng lơ bay ngoài
đường”. Trong cái đêm Mị cắt dây cởi trói A Phủ, Mị cũng đã tự cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà thống
lí Pá Tra. Đến đây cái vòng trói buộc cuộc đời Mị và A Phủ đã được tháo gỡ nút thứ nhất. Mặc dù đây chỉ là
những hành động đấu tranh tự phát, nhưng cũng chính là những khát vọng tự do và sự phản kháng mạnh mẽ ấy
mà họ sẽ nhanh chóng đến với cách mạng, để giải phóng triệt để cho số phận của mình và của những người
nghèo khổ khác.
Cuối cùng việc Mị và A Phủ chạy đến Phiềng Sa, nên vợ nên chồng, gặp gỡ cách mạng, làm du kích,
vừa phản ánh hiện thực vừa thể hiện ước mơ của đồng bào miền núi Tây Bắc, khi ánh sáng của cách mạng bắt
đầu soi thấu vào cuộc đời tăm tối của họ. Đó cũng là một khía cạnh của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học Việt
Nam sau cách mạng tháng Tám : nhà văn không chỉ giải thích hiện thực mà còn góp phần cải tạo hiện thực, chỉ
ra con đưòng giải phóng của nhân loại cần lao.
Văn học Việt Nam vốn là một nền văn học giàu truyền thống nhân đạo. Nền văn học ấy như tấm gương
phản chiếu lịch sử tâm hồn của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam, một dân tộc nặng nghĩa, nặng tình, giàu
lòng nhân ái vị tha. Góp phần làm giàu thêm truyền thống ấy là nhiệm vụ cao cả và thiêng của mỗi nhà văn chân
chính. Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là một đóng góp rất đáng trân trọng vào truyền thống ấy.
VỢ NHẶT
KIM LÂN
• Luyện tập

1/ Hoàn cảnh sáng tác và giá trị tác phẩm.
2/ Ý nghĩa đoạn kết tác phẩm.
3/ Nêu ngắn gọn tình huống truyện.
4/ Phân tích nhân vật bà cụ Tứ.

5/ Giá trị nhân đạo tác phẩm
• Gợi ý
ĐỀ 3 :
- Đó là một sự lạ: Anh Tràng xấu xí, thô kệch, không ai thèm lấy, bỗng nhiên “nhặt” được vợ một cách
thật dễ dàng nhanh chóng, ở ngay giữa đường giữa chợ nhờ mấy bát bánh đúc riêu cua. “Nhặt” trong những
ngày đói tràn lan.
Điều đó khiến cho mọi người trong xóm ngụ cư này phải ngạc nhiên. Thậm chí bà cụ Tứ và cả chính
Tràng cũng ngạc nhiên.
- Đó còn là sự éo le : vui mà tội nghiệp, mừng mà tủi mà lo. Giữa lúc cái chết rình rập, miếng ăn rất hệ
trọng, Tràng nuôi thân, nuôi mẹ cũng khó khăn; thế mà bây giờ thêm một miệng ăn nữa, biết lấy gì nuôi nhau.
Và hạnh phúc của vợ chồng Tràng, niềm vui của bà cụ Tứ cứ phải diễn ra trong một không khí ảm đạm chết
chóc.
Đây là tình huống giàu ý nghĩa, có tác dụng làm nổi bật giá trị tư tưởng của tác phẩm.
ĐỀ 4 :
4/ Phân tích nhân vật bà cụ Tứ
a. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
b. Phân tích
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
23
- Đến khoảng giữa câu chuyện, Kim Lân mới cho nhân vật Bà cụ Tứ xuất hiện . Bắt đầu là cái dáng
"lọng khọng đi vào ngõ, vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng" Chao ôi! những câu giản dị nhường ấy
mà chất chứa bao yêu thương trìu mến. Ta gặp lại cái dáng gầy gầy, còng còng vì sương gió cuộc đời của người
bà quen thuộc. Từ "lọng khọng" đầy sáng tạo và có sức gợi hình, gợi tả tạc lại trong ta một dáng hình.
- Hình ảnh bà - hình ảnh của người mẹ nông dân Việt Nam 1945 hiện lên chân thực như nó vốn có qua
những lời nói tưởng như ngớ ngẩn, lẩm cẩm mà xiết bao ân tình. Cuộc đời tuy có mất mát nhưng cũng không
cướp đi của bà tất cả. Bà vẫn còn có anh Tràng - đứa con trai độc nhất để yêu thương chăm sóc. Làm mẹ, ai
cũng mong cho con mình chóng khôn lớn, trưởng thành và yên bề gia thất. Rồi cái ngày hạnh phúc ấy cũng đã
đến: cái ngày anh Tràng lấy vợ. Những tưởng niềm vui ánh lên rạng ngời trong trái tim già cỗi ấy, nhưng lòng
người mẹ lại ngổn ngang bao tâm sự thầm kín. Dạo đầu của chuỗi tâm trạng ấy là một loạt những câu hỏi đầy vẻ
ngạc nhiên, thắc mắc: "Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường con mình thế kia?" "ai thế nhỉ? sao lại chào

mình bằng u?". Mọi việc đến với bà quá nhanh. Bà lão thực sự đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tới
mức: "không còn tin vào mắt, vào tai mình nữa". "Bà lão nhấp nháy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão
thấy mắt mình nhoèn thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà quay lại
nhìn con tỏ ý không hiểu".
- Tâm trạng cứ băn khoăn như thế cho đến khi mọi chuyện được vỡ lẽ thông qua lời xác nhận của con
trai: "Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ " Lúc ấy tâm trạng của người mẹ lại bước sang một trang khác,
hứa hẹn nhiều biến động hơn và tinh tế hơn. Kim Lân đã không tả thêm nữa những suy nghĩ, những căn vặn
trong tâm não của nhân vật, hay những động thái tâm lý phức tạp khác, mà chỉ đơn giản là một cái "cúi đầu nín
lặng". Không chỉ là câu trần thuật, trong câu văn ngắn này còn rưng rưng tấm lòng hoà cảm đầy ân tình của Kim
Lân. Bao nhiêu nỗi niềm chất chứa trong cái im lặng cúi đầu ấy. Cái im lặng tủi phận. Cái im lặng cam chịu. Cái
im lặng xót xa.
- Khi biết được cơ sự thì "Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa, dòng
sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng
vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út. Bà nghĩ đến cuộc đời
khổ cực dằng dặc của mình" . Cuộc đời bà là một chuỗi ngày khổ đau, điều ấy lý giải vì sao người mẹ già ấy lại
quen đánh giá sự việc bằng kinh nghiệm và sự từng trải, bằng một nỗi lòng đầy ám ảnh của một quá vãng nặng
trĩu những đắng cay.
- Bà thương cho cái số kiếp của đứa con trai. Vì người mẹ ấy giờ đây ý thức rõ hơn vợ chồng Tràng rất
nhiều về cái nghịch cảnh quá éo le, nghiệt ngã của cuộc hôn nhân này. "Chao ôi! người ta dựng vơ gả chồng cho
con là lúc gia đình ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này - con mình thì " Bao nhiêu
ngập ngừng, tủi cực, chua xót dồn nén sau chữ "thì" vô vọng ấy. Bà xót xa vì không thể làm tròn bổn phận của
người mẹ: không lo nổi chuyện đại sự cho con. Giờ đây, giữa lúc người chết đói "như ngả rạ", lại có người theo
con trai mình về làm vợ.
- Cái buồn, cái tủi lại chan đầy nước mắt, và bà khóc vì thương con, thương dâu không biết làm sao đây
để vượt qua cơn khốn khó này: "Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rũ xuống hai hàng nước mắt", lý trí đã không
ngăn nổi tình cảm. "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này không". . Bà thương
con, để rồi lại thương dâu: Bà "đăm đăm nhìn người đàn bà" như để nhận mặt người đồng hành khốn cùng trong
cuộc đời khổ nghèo. Người con dâu đứng đấy, tay "vân vê tà áo đã rách bợt". Và cũng từ đó đã thức dậy trong
bà lão bao ý nghĩ nhân đạo và một sự hàm ơn: "Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy
đến con mình. Mà con mình mới có vợ được Thôi thì bổn phận bà làm mẹ, bà đã chẳng lo được cho con " .

Những lời độc thoại cứ như đợt sóng cuộn lên trong lòng người mẹ, vừa khắc khoải, dạt dào, vừa bao la, vỗ về
đầy tình mẫu tử, hoà trong đó là là những rung cảm xót xa trong trái tim nhân đạo của Kim Lân.
- “Chúng mày lấy nhau u cũng mừng lòng”. Ta cũng thấy tim ta thổn thức cùng với những trăn trở bình
dị mà xiết bao ân tình. Đẹp biết bao 2 tiếng "mừng lòng" của bà lão nói với các con. Chữ "mừng" thật là đắc
địa, có vẻ như không đâu vào đâu của người già cả, nhưng lại lột tả đúng cái thần thái của một tấm lòng vị tha
cao quý đang ngượng ngập, vụng về tìm cách giấu đi dòng nước mắt xót thương vì sợ phiền lòng cho chính
người mình đang thương xót.
- "Có đèn đấy à? Ừ, thắp lên một tí cho sáng sủa Dầu bây giờ đắt gớm lên mày ạ". Người mẹ già như
cố nuốt nước mắt vào trong, cố nén nỗi đau trong lòng để tình thương của mình an ủi các con. Nỗi lo sợ ngày
mai mãi chỉ là 1 niềm riêng không chia sẻ. Bới trái tim người mẹ ấy hiền hậu nhân từ lắm. Chẳng muốn con
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
24
buồn, chẳng muốn con đau, chỉ mong con hãy tận hưởng trọn vẹn cái hạnh phúc lứa đôi. Mẹ kêu con thắp đèn
lên "cho sáng sủa" hay chính tình yêu bao la của mẹ đang toả sáng cho hạnh phúc của các con.
- Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui, niềm tin thắp lên trong lòng bà cụ
Tứ. Một niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh được khi bị những nỗi lo, nỗi buồn luôn trĩu nặng. Nhưng bà
vẫn cố vui, cố nén tất cả mọi sầu muộn, héo hon vào trong bằng tất cả sức mạnh của tình mẹ, để gắng làm cho
con vui, dâu vui. Hoá ra chính cái bà lão "gần đất xa trời" này lại là người nói đến hi vọng, đến ngày mai nhiều
hơn tất cả. Đó là niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con của bà mẹ nghèo: "Rồi may ông
giời cho khá ai giàu ba họ, ai khó ba đời " Một lời động viên con giản dị, mang đậm niềm tin tâm linh của
một bà mẹ nông dân từng trải, nhưng cũng thật cần thiết, bởi đó chính là nguồn động lực giúp cho mẹ con bà đủ
vững vàng để vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của cái đói, cái chết. Câu nói ấy chỉ có thể thốt lên từ một
tấm lòng cao cả, tràn ngập tình thương.
- Và niềm tin đã chuyển hoá thành niềm vui. Bà vui trong công việc "sửa sang nhà cửa vườn tược". Nó
khiến bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, "cái mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên". Bà đã
chủ động tạo nên niềm vui đó trong ngày đầu tiên gia đình đón chào một nàng dâu mới: bà dậy từ rất sớm, bà
"xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, giẫy những búi cỏ mọc nham nhở trong vườn". Bởi bà hiểu rằng, bắt đầu
từ hôm nay đã đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời các con mình, chúng nó đã nên vợ nên chồng và bà cảm
thấy mình phải vun vén cho hạnh phúc của các con. Buổi sáng hôm nay, bà đã đon đả lo chu tất, chuẩn bị bữa
cơm đón dâu, nhưng "cái bữa cơm ngày đói thật thảm hại" với món cháo loãng và món "chè khoán" đắng chát,

nhưng bà vẫn cố tạo ra một không khí ấm cúng, vui vẻ để động viên, làm giảm bớt nỗi thất vọng cho các con.
- Dù cuộc sống này có khắc nghiệt, ngặt nghèo đến tàn bạo, đầy đoạ mẹ con bà, bà vẫn nói toàn chuyện
vui, chuyện sung sướng sau này, chuyện nuôi đôi gà cho nó sinh sôi nảy nở thành đàn gà con Người mẹ già ấy
vẫn nghĩ đến cái sống, nghĩ đến ánh sáng của ngày mai ngay bên bờ vực thẳm của cái chết. Hình ảnh đàn gà
sinh sôi trong bữa cơm ngày đói đã nói lên sức sống kì diệu của người lao động. Nhưng xúc động nhất là nồi
chè cám mà bà đã cố tình giấu con trai, con dâu cho đến phút cuối cùng. Người đọc cười ra nước mắt trước sự
hào hứng vui vẻ khi bà "lễ mễ bưng nồi cháo cám nghi ngút khói" lên nhà, tươi cười đon đả múc cho các con rồi
mời mọc: "cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ ăn thử mà xem". Nhưng ta biết, bên trong cái vẻ tươi tỉnh niềm
nở ấy, lòng mẹ đang quặn thắt. Cái món mà bà cụ Tứ gọi là "chè khoán" ấy hoá ra lại là cám, gọi như vậy để
cho các con bớt tủi thân, lời mời mọc của bà là lời động viên, an ủi. Bà muốn con được no đủ, hạnh phúc trong
một việc làm mà bà cố gắng tạo nên dẫu biết rằng đó chỉ là ảo giác, sau đó thực tại sẽ lại trở về nguyên bản, bẽ
bàng và chua chát. Dường như bà có ý xua tan đi không khí ảm đạm, cố che đậy, vùi đi thực cảnh thê lương.
Nhưng thật tội nghiệp cho bà lão, tội nghiệp thay cho cái niềm vui bé nhỏ chới với giữa một bể bi luỵ, khi mà
màu sắc của hiện tại phải được trả về đúng nghĩa của nó."
c. Đánh giá chung
Nhân vật bà cụ Tứ đã cho ta hiểu bao điều về tình yêu thương vô bờ bến của người mẹ dành cho con. Bà
chính là là linh hồn của tác phẩm, là hiện thân cho tình mẫu tử, là hình tượng tiêu biểu cho vẻ đẹp các bà mẹ
Việt Nam: rất nhân hậu, rất bao dung, giàu lòng nhân ái, thương con vô hạn, hết lòng vun đắp cho các con được
hạnh phúc, khát khao sống, khát khao yêu thương và truyền được ngọn lửa sống ấy từ mình sang cho các con.
Người mẹ già ấy phải chăng chính là ánh sáng của cả thiên truyện, lặng thầm đằng sau bóng tối bi thảm của
những kiếp đời nghèo khổ. Ánh sáng ấy làm cho câu chuyện anh Tràng nhặt vợ trở nên thấm thía cảm động hơn,
nâng truyện ngắn "Vợ nhặt" lên tầm cao, mang chiều sâu của một truyện ngắn "hiện thực - nhân bản". Ta thấy
cái nhìn đồng cảm xót thương của Kim Lân chứa chan, thấm đượm trong từng câu, từng chữ, từng chi tiết của
bức tranh đời sống nạn đói năm Ất Dậu, đằng sau những giọt nước mắt, những lời độc thoại được chắt ra từ một
tâm hồn cao đẹp.
ĐỀ 5 : BÀI VĂN THAM KHẢO
Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân – một nhà văn hiện thực có
thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ ấy”. Ngay sau cách
mạng, ông đã bắt tay viết ngay tiểu thuyết Xóm ngụ cư.
Khi hoà bình lặp lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng,

truyện ngắn Vợ nhặt đã ra đời. Trong lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá
mới, một điểm sáng soi chiều toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của
những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành
 TailieuontapNGUVAN12 – Luuhanhnoibo.2011
25

×