LỜI NÓI ĐẦU
Thông tư Liên tịch số 24/2002/TTLT–BGD&ĐT–BTCCBCP ngày 29/4/2002 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo và Ban Tổ chức – Cán bộ Chính phủ (nay là Bộ Nội vụ) hướng dẫn việc xét tuyển dụng
công chức, giáo viên phổ thông, mầm non đã qui định từ năm 2002 trở đi:
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn các trường (khoa) sư phạm, đưa nội dung kiến thức quản
lí hành chính Nhà nước, quản lí ngành và những nội dung liên quan đến công chức ngành giáo dục và
đào tạo thành một học phần của chương trình đào tạo giáo viên, học phần này có giá trị như các học
phần khác, là điều kiện để các trường làm căn cứ xét duyệt và cấp bằng tốt nghiệp sư phạm.
2. Căn cứ vào chỉ tiêu biên chế của địa phương, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết
định việc tuyển dụng giáo viên phổ thông, mầm non theo hai hình thức xét tuyển hoặc thi tuyển.
3. Trong trường hợp thi tuyển thì không thực hiện việc thi lại các nội dung, kiến thức quản lí
hành chính Nhà nước, quản lí ngành và những nội dung liên quan đến công chức ngành giáo dục và
đào tạo đối với những người dự tuyển, đã hoàn thành học phần này trong các trường (khoa) sư phạm
mà chỉ tổ chức thi về khả năng giảng dạy của người dự tuyển.
Thực hiện Thông tư Liên tịch nói trên, ngày 22 tháng 7 năm 2002 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và
Đào tạo đã ban hành Chương trình Quản lí hành chính Nhà nước và quản lí ngành Giáo dục và Đào tạo
theo Quyết định số 38/2002/QĐ–BGD&ĐT.
Học phần này có 2 đơn vị học trình gồm 5 chương:
– Các chương I, II, III: Quy định những nội dung áp dụng cho tất cả các hệ đào tạo giáo viên.
– Chương IV: Quy định các trường (khoa) sư phạm căn cứ vào yêu cầu hệ đào tạo của mình để
cụ thể hoá nội dung giảng dạy cho phù hợp.
– Chương V: Quy định nội dung giảng dạy căn cứ vào tình hình thực tiễn giáo dục ở mỗi địa
phương.
Để có tài liệu phục vụ cho công tác giảng dạy và học tập của cán bộ và sinh viên các trường sư
phạm, Viện Nghiên cứu Sư phạm – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội tổ chức biên soạn giáo trình:
Quản lí hành chính Nhà nước và quản lí ngành Giáo dục và Đào tạo theo chương trình nói trên.
Giáo trình được biên soạn nhằm phục vụ rộng rãi các đối tượng của tất cả các hệ đào tạo từ
mầm non, tiểu học đến phổ thông trung học, nên đã cố gắng phản ánh tối đa nội dung và yêu cầu của
các hệ đào tạo trong phạm vi thực tế giáo dục của cả nước.
Trong quá trình biên soạn không tránh khỏi những sai sót, mong được độc giả góp ý kiến để
giáo trình ngày một hoàn chỉnh hơn.
PGS. TS Phạm Viết Vượng
Viện trưởng Viện Nghiên cứu Sư phạm
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Chương I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC, QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
VÀ CÔNG VỤ, CÔNG CHỨC
A. LÍ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
I. LÍ LUẬN CHUNG VỀ NHÀ NƯỚC
1. Nguồn gốc của nhà nước
Nguồn gốc của nhà nước là câu hỏi được đặt ra từ rất xa xưa, đã có nhiều nhà triết học cố gắng
tìm cách giải thích, nhưng do hạn chế về lịch sử và thế giới quan, những giải thích này đều không đi
vào bản chất xã hội của quá trình hình thành nhà nước.
C Mác và F. Ănghen, với quan điểm duy vật lịch sử, là những người đầu tiên chứng minh một
cách khoa học về nguồn gốc của nhà nước. Các ông cho rằng nhà nước xuất hiện khi xã hội loài người
đã phát triển đến một trình độ nhất định. Nhà nước không phải là phạm trù bất biến, mà luôn vận động,
phát triển và sẽ tiêu vong khi những điều kiện khách quan cho sự tồn tại của nó không còn nữa.
Trong nhiều tác phẩm của mình, các nhà sáng lập Chủ nghĩa Cộng sản khoa học đã khẳng định:
Trong xã hội nguyên thuỷ chưa từng tồn tại nhà nước. Thích ứng với tình trạng kinh tế thấp kém, xã
hội chưa có sự phân hoá giai cấp, tồn tại các tổ chức thị tộc, bộ lạc. Đứng đầu các tổ chức đó là các tộc
trưởng, tù trưởng do các thành viên thị tộc, bộ lạc bầu ra. Quyền lực của người đứng đầu cơ quan quản
lí xã hội dựa vào sức mạnh đạo đức uy tín và chức năng lãnh đạo.
Trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ, quản lí xã hội chưa mang tính chính trị, người đứng đầu
không phải là người cai trị. Họ không có đặc quyền, đặc lợi cá nhân. Họ thực hiện vai trò của mình
theo ý chí và quyết định của nhân dân. Thể chế xã hội trong thời kỳ cộng sản nguyên thuỷ là thể chế tự
quản của nhân dân, mặc dù nhà nước chưa ra đời nhưng xã hội vẫn tồn tại trong vòng trật tự.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ lao động đã giúp cho con người có thể
sản xuất ra một lượng sản phẩm tiêu dùng nhiều hơn so với nhu cẩu tối thiểu đối với sự tồn tại của
mình. Sự dư thừa sản phẩm tương đối chính là cơ sở khách quan làm nảy sinh ở những người có quyền
hành trong thị tộc bộ lạc, sự ham muốn chiếm đoạt làm của riêng và họ đã sử dụng quyền lực trong tay
để thực hiện khát vọng đó. Đây chính là nguyên nhân thúc đầy sự phân hoá xã hội. Một khi các giai
cấp xuất hiện thì mối quan hệ bình đẳng trước đây đã bị đảo lộn, sự đối kháng giai cấp xuất hiện và
ngày càng phát triển tăng lên.
Chủ nô và nô lệ là hai giai cấp đối kháng, lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử loài người. Cuộc
đấu tranh giai cấp dẫn đến nguy cơ là không những họ tiêu diệt nhau mà tiêu diệt luôn cả xã hội. Để
điều đó không xảy ra, một cơ quan đặc biệt ra đời đó là nhà nước – một thiết chế có tiền thân từ những
tổ chức phi chính trị trong xã hội thị tộc, bộ lạc, vốn có chức năng bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng,
giờ đây đã biến thành công cụ bảo vệ lợi ích của một giai cấp – giai cấp chủ nô.
2. Bản chất của nhà nước
Từ nguồn gốc xuất hiện của nhà nước, ta thấy nhà nước không phải là cơ quan điều hoà mâu
thuẫn các giai cấp đối kháng, mà ngược lại, sự ra đời của nhà nước làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày
càng sâu sắc hơn và không thể điều hoà được. Trong điều kiện xã hội có giai cấp đối kháng thì cuộc
đấu tranh này ngày càng trở lên gay gắt, chế độ nhân dân tự quản không còn phù hợp, nó phải được
thay thế bằng nhà nước.
Nhà nước ra đời làm cho sự xung đột giai cấp diễn ra trong vòng “trật tự”, duy trì chế độ kinh
tế, trong đó giai cấp này được quyền bóc lột giai cấp khác. Do đó, nhà nước đương nhiên là do giai cấp
thống trị, có thế lực kinh tế lập ra. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, nhờ có nhà nước, giai cấp chủ nô trở
thành giai cấp thống trị cả về chính trị.
Như vậy, nhà nước là tổ chức chính trị của giai cấp đang thống trị về kinh tế, nhằm bảo vệ trật
tự đang có và đàn áp sự phản kháng của giai cấp khác. “Nhà nước chẳng qua chỉ là bộ máy của một
giai cấp này dùng để trấn áp một giai cấp khác”(1). Luận điểm này của C. Mác đã làm rõ bản chất của
nhà nước.
Nhà nước có hai tính chất quan trọng là tính giai cấp và tính xã hội. Tính giai cấp là thuộc tính
cơ bản, nó thể hiện bản chất của nhà nước. Nhưng với tư cách là bộ máy thực thi quyền lực công cộng,
nhằm duy trì trật tự và ổn định xã hội, nhà nước còn thể hiện tính xã hội. Bên cạnh việc chăm lo bảo vệ
lợi ích của giai cấp thống trị, nhà nước cũng buộc phải chú ý đến lợi ích chung của xã hội, giải quyết
những vấn đề mà đời sống cộng đồng, xã hội đặt ra để ổn định trật tự xã hội, duy trì sự thống trị của
giai cấp cầm quyền.
Từ những phân tích trên, có thể khẳng định về bản chất của nhà nước như sau: Nhà nước là một
tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp, là công cụ chuyên chính giai cấp, với
các chức năng quản lí xã hội đặc biệt, nhà nước vừa bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, vừa duy trì
trật tự xã hội và phục vụ những nhu cầu thiết yếu của đời sống cộng đồng.
3. Đặc trưng của nhà nước
Khi so sánh nhà nước với cơ cấu tổ chức thực hiện quyền lực và quản lí các công việc chung
của thị tộc, bộ lạc trong xã hội nguyên thuỷ, cũng như khi so sánh với các tổ chức khác trong xã hội có
giai cấp cho thấy nhà nước có những đặc trưng sau đây:
a. Nhà nước là bộ máy quản lí dân cư trên một vùng lãnh thổ nhất định
Nếu các tổ chức thị tộc, bộ lạc được hình thành trên cơ sở quan hệ huyết thống thì nhà nước
hình thành trên cơ sở phân chia dân cư theo địa bàn lãnh thổ nơi mà họ cư trú và được tổ chức thành
các đơn vị hành chính. Việc phân chia này đảm bảo cho hoạt động quản lí của nhà nước tập trung
thống nhất và chặt chẽ hơn. Đây là sự khác biệt quan trọng giữa nhà nước với các tổ chức thị tộc, bộ
lạc trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ trước đó.
Quyền lực nhà nước về nguyên tắc có hiệu lực đối với mọi thành viên sinh sống trên địa bàn
dân cư. Từ đó hình thành chủ quyền quốc gia. Chủ quyền quốc gia là thuộc tính gắn liền với nhà nước.
b. Nhà nước thiết lập một hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp mang tính cưỡng chế
đối với mọi thành viên trong xã hội
Để thực hiện quyền lực của mình, nhà nước đã lập ra những cơ quan hành chính và các lực
lượng thuần tuý trấn áp như quân đội, cảnh sát vũ trang, nhà tù… Những cơ quan cưỡng bức và cơ
quan hành chính thực hiện chức năng cai trị, buộc mọi người phục tùng ý chí của giai cấp thống trị.
Khác với những người đứng đầu thị tộc, bộ lạc trong xã hội cộng sản nguyên thủy thực hiện
chức năng quản lí của mình bằng sức mạnh truyền thống, đạo đức, uy tín, những người đại diện cho
nhà nước thực hiện quyền lực của mình bằng sức mạnh cưỡng bức của pháp luật. Nhà nước ban hành
pháp luật và sử dụng các thiết chế và công cụ bạo lực để ý chí của giai cấp thống trị được thực thi trong
thực tế.
Do đó, mặc dù các cơ quan quyền lực nhà nước đều từ xã hội mà ra, nhưng chúng ngày càng
thoát ly khỏi nhân dân và đứng đối lập với nhân dân.
c. Nhà nước ban hành một hệ thống thuế khoá để tạo nguồn ngân sách nuôi bộ máy nhà nước
Bộ máy nhà nước bao gồm đông đảo viên chức và cả đội quân vũ trang đông đảo – lớp người
đặc biệt, tách ra khỏi lao động sản xuất để thực hiện chức năng quản lí nhà nước. Họ không thể tồn tại
nếu không dựa vào nguồn nhân sách bằng thu thuế.
Nhà nước là tổ chức duy nhất có tư cách là đại biểu chính thức của toàn xã hội để sự quản lí xã
hội, do đó nhà nước cũng là tổ chức độc quyền thu thuế.
4. Chức năng của nhà nước
Chức năng của nhà nước được thể hiện qua những hoạt động chủ yếu của nhà nước, thể hiện
trong quá trình thực hiện những nhiệm vụ được đặt ra trước nhà nước, chức năng của nhà nước phản
ánh bản chất của nhà nước.
Khi nghiên cứu tiếp cận nhà nước từ góc độ khác nhau, người ta phân chức năng của nhà nước
thành các loại khác nhau.
a. Nếu tiếp cận nhà nước từ góc độ quyền lực chính trị thì nhà nước có hai chức năng là: chức
năng công cụ thống trị giai cấp và chức năng xã hội
+ Chức năng công cụ thống trị giai cấp là chức năng duy trì và bảo vệ sự thống trị của giai cấp
cầm quyền. Để bảo vệ quyền thống trị xã hội, giai cấp cầm quyền sẵn sàng sử dụng mọi biện pháp để
trấn áp những chống đối của các giai cấp khác.
+ Chức năng xã hội của nhà nước là chức năng quản lí những hoạt động chung của xã hội, đảm
bảo cho xã hội tồn tại và phát triển trong vòng trật tự nằm dưới sự quản lí của nhà nước của giai cấp
cầm quyền, cũng nhằm thoả mãn những nhu cầu chung trong cộng đồng dân cư.
Trong hai chức năng trên, chức năng thống trị giai cấp giữ vị trí chi phối cả phương hướng và
mức độ thực hiện chức năng xã hội của nhà nước. Mặt khác, chức năng xã hội lại là cơ sở của sự thống
trị chính trị, vì sự thống trị chính trị chỉ có thể tồn tại khi nhà nước thực hiện được chức năng xã hội.
Khi xã hội không có giai cấp thì những nội dung thuộc chức năng xã hội do xã hội tự đảm nhiệm, tức
là xã hội do nhân dân tự quản.
b. Nếu tiếp cận từ phạm vi tác động của quyền lực, thì nhà nước có hai chức năng: đối nội và
đối ngoại
+ Chức năng đối nội là những mặt hoạt động chủ yếu của nhà nước trong nội bộ đất nước, như
bảo đảm trật tự xã hội, trấn áp những phần tử chống đối chế độ, bảo vệ và phát triển chế độ kinh tế,
văn hoá theo lợi ích của giai cấp cầm quyền.
+ Chức năng đối ngoại thể hiện vai trò của nhà nước trong quan hệ với các quốc gia khác. Nhà
nước thực hiện chức năng bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền quốc gia, bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và
lợi ích của quốc gia khi lợi ích của quốc gia không mâu thuẫn với lợi ích của giai cấp thống trị.
Chức năng đối nội và chức năng đối ngoại có quan hệ mật thiết với nhau. Trong đó chức năng
đối nội là chức năng chủ yếu vì nhà nước ra đời và tồn tại do cơ cấu bên trong của mỗi quốc gia quy
định và sự thống trị giai cấp được thực hiện trước hết ở địa bàn quốc gia.
Chức năng đối nội quyết định tính chất của chức năng đối ngoại, chức năng đối ngoại luôn xuất
phát từ tình hình thực hiện các chức năng đối nội và phục vụ cho chức năng đối nội. Song việc thực
hiện tốt các chức năng đối nội sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chức năng đối
ngoại.
Để thực hiện các chức năng đối nội và đối ngoại, nhà nước sử dụng nhiều phương pháp hoạt
động khác nhau. Tuỳ thuộc vào tình hình cụ thể của mỗi quốc gia, mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, nhà
nước sử dụng các phương pháp hoạt động khác nhau để thực hiện các chức năng của mình. Thông
thường nhà nước sử dụng hai phương pháp chính là giáo dục thuyết phục và cưỡng chế. Cưỡng chế là
phương pháp được các nhà nước bóc lột sử dụng như phương pháp chủ yếu. Ngược lại, trong các nhà
nước xã hội chủ nghĩa giáo dục thuyết phục được coi là phương pháp quan trọng, cưỡng chế chỉ được
sử dụng kết hợp ở một mức độ nhất định để đảm bảo cho việc quản lí xã hội có hiệu quả.
5. Các kiểu nhà nước
Kiểu nhà nước là khái niệm nói về bản chất và những dấu hiệu đặc trưng của nhà nước. Cơ sở
khoa học để xác định kiểu nhà nước là học thuyết Mác – Lênin về hình thái kinh tế xã hội. Theo C.
Mác trong mỗi hình thái kinh tế xã hội, tương ứng với một chế độ kinh tế có một kiểu nhà nước nhất
định, bởi vì nhà nước bị chi phối bởi hai yếu tố: kinh tế và quan hệ giai cấp.
Trong lịch sử xã hội có giai cấp đã từng tồn tại các hình thái kinh tế xã hội: chiếm hữu nô lệ,
phong kiến, tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa – giai đoạn thấp của hình thái kinh tế xã hội cộng sản
chủ nghĩa. Tương ứng với các hình thái kinh tế xã hội đó đã tồn tại của các kiểu nhà nước: chủ nô,
phong kiến, tư sản và kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Mỗi kiểu nhà nước chủ nô, phong kiến, tư sản có những đặc điểm riêng, nhưng chúng có điểm
chung là những kiểu nhà nước bóc lột, chúng tồn tại trên cơ sở của chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
Các nhà nước đó đều là công cụ để bảo vệ chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, duy trì sự thống trị của
các giai cấp bóc lột đối với đông đảo quần chúng nhân dân lao động. Kiểu nhà nước bóc lột tồn tại
trong những mâu thuẫn đối kháng, do đó sự thay thế kiểu nhà nước này bằng một kiểu nhà nước khác
tiến bộ hơn là một tất yếu khách quan, thông qua các cuộc cách mạng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là kiểu nhà nước đặc biệt, nhà nước kiểu mới, nó tự tiêu vong sau
khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử và nhường chỗ cho hình thức tổ chức và quản lí xã hội cao hơn – xã
hội tự quản lí.
6. Hình thức nhà nước và chế độ chính trị
a. Hình thức nhà nước là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước và những phương thức thực
hiện quyền lực ấy của giai cấp thống trị.
Trong lịch sử xã hội đã tồn tại các hình thức nhà nước: hình thức chính thể, hình thức cấu trúc.
+ Hình thức chính thể là cách thức tổ chức và trình tự thành lập các cơ quan tối cao của nhà
nước và xác lập mối quan hệ giữa các cơ quan đó. Hình thức chính thể có các dạng cơ bản:
– Chính thể quân chủ là hình thức trong đó quyền lực tối cao của nhà nước tập trung toàn bộ
(hay một phần) vào tay nhà vua (quốc vương, nữ hoàng…) là người đứng đầu nhà nước và được
chuyển giao theo nguyên tắc thừa kế hay truyền ngôi. Trong thực tế tổ chức và hoạt động của chính thể
quân chủ lại được chia thành: chính the quân chủ tuyệt đối và chính thể quân chủ hạn chế.
* Chính thể quân chủ tuyệt đối là hình thức nhà nước mà nhà vua – người đứng đầu nhà nước
một mình nắm giữ quyền lực tối cao của nhà nước và có quyền lực vô hạn.
* Chính thể quân chủ hạn chế là hình thức nhà nước trong đó nhà vua – người đứng đầu nhà
nước chỉ nắm một phần quyền lực tối cao, bên cạnh đó còn có một cơ quan quyền lực khác nữa như:
hội đồng cố vấn, nghị viện…
– Chính thể cộng hoà là hình thức nhà nước trong đó quyền lực tối cao của nhà nước thuộc về
một cơ quan được dân cư bầu ra trong một thời gian nhất định, đó là quốc hội, nghị viện… Chính thể
cộng hoà cũng có hai hình thức biến dạng: cộng hoà dân chủ và cộng hoà quý tộc.
– Hình thức cấu trúc của nhà nước là khái niệm chỉ cơ cấu tổ chức của các đơn vị hành chính
lãnh thổ và xác lập những mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương.
Có hai hình thức cấu trúc chủ yếu là hình thức nhà nước đơn nhất và hình thức nhà nước liên bang.
* Nhà nước đơn nhất là nhà nước thống nhất có chủ quyền chung, có cơ quan quyền lực và cơ
quan quản lí thống nhất từ trung ương đến cơ sở.
* Nhà nước liên bang là nhà nước có từ hai thành viên trở lên hợp thành. Nhà nước liên bang có
hai cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính. Ngoài cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính chung
cao nhất cho toàn liên bang, mỗi thành viên lại có cơ quan quyền lực và hành chính của mình, có chủ
quyền quốc gia chung của nhà nước liên bang, đồng thời mỗi thành viên còn có chủ quyền riêng nhất
định.
Hình thức nhà nước được quy định bởi bản chất giai cấp của nhà nước, tương quan lực lượng
giữa các giai cấp và truyền thống lịch sử của đất nước.
b. Chế độ chính trị là tổng thể những phương pháp mà các cơ quan nhà nước sử dụng để thực
hiện quyền lực nhà nước. Sử dụng phương pháp và thủ đoạn nào để thực hiện quyền lực nhà nước, một
mặt phụ thuộc vào bản chất của nhà nước, mặt khác phụ thuộc vào tương quan lực lượng đấu tranh giai
cấp ở từng nước và từng giai đoạn lịch sử quy định.
Nhìn chung giai cấp thống trị thường sử dung hai phương pháp chính là dân chủ và phản dân
chủ.
Những phương pháp dân chủ có nhiều loại và thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: dân chủ
trực tiếp và dân chủ gián tiếp dân chủ rộng rãi hay dân chủ hạn chế…
Những phương pháp phản dân chủ thường được các nhà nước bóc lột sử dụng ở những mức độ
khác nhau trong quá trình thực hiện quyền lực nhà nước. Khi những phương pháp này đã phát triển đến
đỉnh cao thì trở thành những phương pháp tàn bạo, quân phiệt và phát xít.
Hình thức chính thể, hình thức cấu trúc và chế độ chính ta luôn có quan hệ mật thiết với nhau,
tác động qua lại, phản ánh bản chất và mục đích của nhà nước. Ở các nhà nước bóc lột trong một số
trường hợp ba yếu tố này không phù hợp với nhau. Thí dụ: hình thức chính thể là cộng hoà dân chủ
nhưng chế độ chính trị thực chất lại là phản dân chủ – điều này thường gặp ở các nhà nước tư sản. Ở
nhà nước xã hội chủ nghĩa ba yếu tố trên luôn phù hợp với nhau, phản ánh đúng bản chất, chức năng
của nhà nước kiểu mới.
7. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh lịch sử
mỗi nước mà sự ra đời cũng như việc tổ chức nhà nước kiểu mới với những hình thức khác nhau, song
bản chất của nó như Lênin chỉ rõ: “Bước chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, cố nhiên
không thể không đem lại rất nhiều hình thức khác nhau, nhưng thực chất của những hình thức ấy tất
nhiên sẽ chỉ là một tức là: chuyên chính vô sản”.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, nhà nước nào cũng là nền chuyên chính của giai
cấp thống trị về chính trị. Nhưng sự thống trị chính trị của giai cấp công nhân có bản chất và mục đích
khác hẳn với sự thống trị về chính trị của các giai cấp bóc lột. Sự thống trị của giai cấp bóc lột là sự
thống trị của thiểu số đối với tất cả các giai cấp bị áp bức bóc lột nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp bóc
lột. Trái lại, chuyên chính vô sản là sự thống trị của giai cấp công nhân nhằm mục đích xoá bỏ áp bức
bóc lột, bảo vệ lợi ích của tất cả nhân dân lao động, xây dựng một xã hội mới – xã hội không còn
người bóc lột người.
Sự xác lập chuyên chính vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản là cần thiết vì thời
kỳ này còn tồn tại các giai cấp khác nhau. Chuyên chính vô sản vì vậy không chỉ là trấn áp bằng bạo
lực đối với giai cấp bóc lột, mà còn là một tổ chức thông qua đó Đảng của giai cấp công nhân thực
hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với toàn xã hội. Không có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhà
nước đó không giữ được bản chất giai cấp công nhân của mình. Vì vậy, bảo đảm vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản đối với nhà nước là nguyên tắc sống còn của chuyên chính vô sản. Sự lãnh đạo của
Đảng đối với nhà nước không chỉ là yếu tố đảm bảo bản chất giai cấp công nhân của nhà nước, mà còn
là điều kiện để giữ vững tính nhân dân, tính chất dân chủ rộng rãi của nhà nước đó. Bản chất giai cấp
công nhân và bản chất dân chủ là hai mặt thống nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác – Lênin chỉ ra rằng nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà nước đặc biệt, nhà nước
quá độ, nhà nước không còn nguyên nghĩa nhà nước “nửa nhà nước”. Sau khi những cơ sở kinh tế xã
hội của sự xuất hiện và tồn tại nhà nước mất đi thì nhà nước sẽ không còn tồn tại. Sự mất đi của nhà
nước xã hội chủ nghĩa không phải bằng con đường “xoá bỏ” mà bằng con đường “tự tiêu vong” và
muốn cho nó nhanh chóng đi đến chỗ tiêu vong phải không ngừng xây dựng và hoàn thiện nó. Sự tiêu
vong của nhà nước xã hội chủ nghĩa là một quá trình lâu dài.
II. NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
1. Nhà nước là trung tâm quyền lực trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa
Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay được hình thành trong quá trình đấu tranh cách mạng của
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản việt Nam. Nhà nước ra đời sau cuộc cách mạng tháng
8 năm 1945. Đó là hệ thống chính trị có tính chất dân chủ nhân dân, sau khi thực hiện thắng lợi cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ, hệ thống chính trị đó chuyển sang làm nhiệm vụ của hệ thống chính trị xã
hội chủ nghĩa.
Hệ thống chính trị ở nước ta bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và các đoàn thể
quần chúng mang tính chất chính trị.
+ Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo hệ thống chinh trị, lực lượng lãnh đạo nhà
nước và xã hội. Sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là yêu cầu khách quan, là điều kiện cơ bản để
đảm bảo cho hệ thống chính trị và nhà nước giữ đúng bản chất giai cấp công nhân, bảo đảm mọi quyền
lực thuộc về nhân dân và bảo đảm cho con đường phát triển của xã hội Việt Nam theo đúng con đường
xã hội chủ nghĩa.
+ Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là “cột trụ của hệ thống chính trị”, là “công
cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân”. Nhà nước vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị – hành chính, vừa là tổ chức quản lí
văn hoá xã hội của nhân dân. Nhà nước thực hiện sự quản lí xã hội bằng pháp luật và thực hiện chức
năng đối nội và đối ngoại.
+ Các đoàn thể quần chúng mang tính chất chính trị, các tổ chức xã hội – chính trị, đại diện cho
các tầng lớp nhân dân tham gia vào việc xây dựng thể chế chính trị, xây dựng và quản lí nhà nước tuỳ
theo tính chất, tôn chỉ và mục đích của mình. Liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân, của cộng
đồng xã hội của ta là Mặt trận Tổ quốc. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở
chính trị của chính quyền nhân dân, nới thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn
dân.
Như vậy, hệ thống chính trị là một thể thống nhất, việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng
hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nhất thiết phải
đặt trong quan hệ với các tổ chức khác của hệ thống chính trị. Việc đổi mới một cách căn bản tổ chức
và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị phải xác định rõ và giải quyết các mối quan hệ sau
đây:
+ Mối quan hệ giữa Đảng và nhà nước: Đảng cộng sản là đội tiên phong của giai cấp công nhân
lãnh đạo nhà nước và toàn xã hội. Đảng lãnh đạo nhà nước tức là Đảng cầm quyền, nhưng Đảng không
phải là tổ chức quyền lực chính trị mang tính pháp quyền, không phải là quyền lực nhà nước. Đảng
lãnh đạo nhà nước bằng đường lối chủ trương chính sách của Đảng và thông qua đội ngũ đảng viên của
Đảng hoạt động trong các cơ quan nhà nước. Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng hoạt động trong khuôn
khổ hiến pháp và pháp luật nhà nước. Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật đối với toàn xã hội,
nhưng hoạt động của nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Trong quan hệ giữa nhà nước với các đoàn thể nhân dân và toàn thể nhân dân: Nhà nước là tổ
chức công quyền và thực thi quyền lực chính trị. Nhưng nhà nước là công cụ để thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân – nhà nước của nhân dân, nhân dân không chỉ làm chủ bằng nhà nước (dân chủ đại
diện) mà còn bằng các tổ chức và hoạt động của các đoàn thể có tính chất tự quản (dân chủ trực tiếp).
Vì vậy, nhân dân là chủ thể của hệ thống chính trị và những tổ chức đại diện của các tầng lớp nhân dân
tuy không mang tính chất quyền lực nhà nước nhưng có vị trí và vai trò quan trọng tạo thành “cơ sở
chính trị vững chắc của chính quyền nhân dân”.
2. Bản chất của nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Bản chất của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước có tính giai cấp, nhà nước quản lí
xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật và nêu cao vai trò của pháp chế.
Nhà nước yêu cầu mọi tổ chức, mọi công dân phải tôn trọng và tuân thủ luật pháp đi đôi với
phát huy các giá trị đạo đức và văn hoá dân tộc. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
dân, do dân, vì dân có bản chất khác hẳn với bản chất nhà nước của giai cấp bóc lột. Điều này được
quy định một cách khách quan từ cơ sở kinh tế và chế độ chính trị của chủ nghĩa xã hội.
Nhà nước ta mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân được thể hiện
bằng toàn bộ hoạt động của nhà nước từ pháp luật, cơ chế chính sách đến những nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của nhà nước. Các hoạt động này đều thể hiện quan điểm của giai cấp công nhân nhằm từng
bước thực hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, phục vụ lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân
lao động và của cả dân tộc.
Lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, của dân tộc là thống nhất. Sự
thống nhất bắt nguồn từ bản chất của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Sau khi giành được chính quyền thì nhân dân lao động trở thành người chủ của đất nước. Giai cấp
công nhân muốn tự giải phóng mình phải đồng thời giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội. Hơn nữa,
khi chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu được xác lập, nhân dân là người làm chủ những tự liệu
sản xuất chủ yếu đó thì đương nhiên mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Vì vậy nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của ta mang bản chất giai cấp công nhân, đồng thời cũng gắn bó chặt chẽ với
dân tộc, nhân dân. Điều này được quán triệt, được cụ thể hoá, thể chế hoá và thực hiện trên mọi lĩnh
vực mọi tổ chức và hoạt động của nhà nước. Cũng chỉ có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang
bản chất giai cấp công nhân, hoạt động theo đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản – đội tiên phong
của giai cấp công nhân mới là đại biểu cho lợi ích chung của nhân dân lao động và toàn dân tộc.
Tính nhân dân của nhà nước ta thể hiện: Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của ta là của
dân, quyền lực thực sự ở “nơi dân” chính quyền do nhân dân lập nên và nhân dân tham gia quản lí nhà
nước. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thể hiện ý chí, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, cán
bộ công chức nhà nước là công bộc của dân, tận tụy phục vụ nhân dân.
Tính dân tộc của nhà nước thể hiện ở chỗ: Trong tổ chức và hoạt động nhà nước ta kế thừa và
phát huy những giá trị truyền thống, bản sắc tốt đẹp của dân tộc và con người Việt Nam. Nhà nước có
chính sách dân tộc đúng đắn, chăm lo lợi ích mọi mặt cho các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt
Nam và thực hiện đoàn kết dân tộc, coi đoàn kết dân tộc, đoàn kết toàn dân là đường lối chiến lược và
là động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ vững quan điểm của Đảng về độc lập tự chủ
trong quan hệ đối ngoại; kết hợp đúng đắn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong
sáng của giai cấp công nhân.
3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
a. Nguyên tắc nhân dân tham gia vào công việc quản lí nhà nước, quản lí xã hội
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất dân chủ của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, thắng
lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đã làm thay đổi chủ thể quyền lực nhà nước. Nhân dân từ vị trí
người nô lệ phụ thuộc bởi chế độ thuộc địa nửa phong kiến trở thành người chủ đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực hiện nguyên tắc này, Hiến pháp nước ta ghi nhận: “công dân có quyền tham gia quản lí
nhà nước và xã hội, thảo luận, kiến nghị với nhà nước và địa phương, biểu quyết khi nhà nước tổ chức
trưng cầu dân ý” (điều 53 Hiến pháp 1992). Đây là sự bảo đảm bằng pháp luật khả năng nhân dân tham
gia quản lí nhà nước và quản lí xã hội, Hiến pháp là văn bản có giá trị pháp lí cao nhất.
Hiến pháp còn ghi nhận quyền của công dân tham gia quản lí nhà nước và quản lí xã hội qua
việc ghi nhận quyền bầu cử, ứng cử vào Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất và Hội đồng nhân dân
các cấp là cơ quan đại diện ở địa phương (điều 54). Ghi nhận quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi vi
phạm pháp luật của cơ quan nhà nước và của các cá nhân trong bộ máy nhà nước (điều 74). Những
người làm việc trong cơ quan bảo vệ pháp luật làm trái pháp luật đều phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật (điều 74).
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tạo ra những khả năng, điều kiện và phương tiện để
nhân dân tham gia vào quản lí nhà nước và quản lí xã hội. Trong quá trình phát triển xã hội các chức
năng quản lí ngày càng đơn giản hơn và ngược lại trình độ dân trí ngày một nâng cao hơn, do vậy mọi
người đều có thể làm được nó không còn là chức năng riêng của một lớp người đặc biệt nữa, chức năng
quản lí sẽ được mọi người thay nhau đảm nhiệm.
b. Nguyên tắc Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chịu sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam
Nguyên tắc này xuất phát từ bản chất giai cấp công nhân của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, nó được thể hiện trong tổ chức và hoạt động của nhà nước. Vai trò đó đã được ghi nhận ở hai
bản Hiến pháp gần nhất: bản Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 (đều ở điều 4).
Đảng lãnh đạo nhà nước trước hết thông qua việc xây dựng và hoàn chỉnh cương lĩnh, chiến
lược, định ra các chủ trương chính sách cho hoạt động của nhà nước và toàn xã hội để phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh”.
Đảng lãnh đạo bằng tuyên truyền, thuyết phục, bằng công tác tư tưởng và tổ chức, bằng vai trò
gương mẫu của đảng viên và tổ chức Đảng. Đảng xây dựng đường lối phù hợp với lợi ích của nhân
dân, được nhân dân ủng hộ và thực hiện. Như vậy, thực chất sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là
sự lãnh đạo chính trị mang tính định hướng, tạo điều kiện để nhà nước tổ chức bộ máy, bố trí cán bộ,
thực hiện chức năng quản lí bằng những công cụ, biện pháp của mình.
Đảng lãnh đạo nhà nước thông qua công tác cán bộ. Là Đảng cầm quyền nên Đảng ta lựa chọn
những đảng viên ưu tú của mình tham gia vào các cơ quan nhà nước trước hết là Quốc hội và Hội đồng
nhân dân các cấp bằng con đường giới thiệu để nhân dân lựa chọn bầu ra. Vì vậy, cơ chế dân chủ cũng
là thước đo uy tín và năng lực của Đảng trước xã hội và nhân dân. Đảng lãnh đạo nhà nước nhưng
không “hoá thân thành nhà nước”, do vậy việc phân định rõ chức năng lãnh đạo của Đảng với vai trò
quản lí của nhà nước là yêu cầu khách quan. Song, cũng cần phải đề phòng và đấu tranh chống lại
những quan điểm sai lầm muốn tách Đảng ra khỏi nhà nước, cần phải cảnh giác trước bọn cơ hội và
các thế lực thù địch âm mưu xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng, xoá bỏ chủ nghĩa Mác – Lêmn, đưa đất
nước đi chệch khỏi mục tiêu chủ nghĩa xã hội.
c. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của nhà nước
ta. Nguyên tắc này đã được ghi ở điều 4 các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992. Nguyên tắc tập trung
dân chủ chi phối tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Một nhà nước “của dân, do dân” được thể
hiện từ mục đích đến tổ chức hoạt động.
Bộ máy nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa theo quy định của Hiến pháp bao gồm ba cơ
quan thực hiện ba chức năng khác nhau: Quốc hội thực hiện quyền lập pháp, Chính phủ thực hiện
quyền hành pháp và Toà án nhân dân thực hiện quyền tư pháp. Hoạt động của các cơ quan này theo
nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhưng ở mỗi cơ quan nguyên tắc tập trung dân chủ thể hiện khác nhau.
Đối với Quốc hội khi phải quyết định những vấn đề hệ trọng, các đại biểu thường cân nhắc đến:
– Lợi ích của cả nước khi biểu quyết lựa chọn một phương án trong nhiều phương án được đề
xuất.
– Lợi ích của địa phương, ngành, khi biểu quyết các đại biểu không chỉ thể hiện ý chí của cả
nước mà còn chú ý tới nguyện vọng của cử tri nơi đã bầu ra họ.
Do những chi phối đó nên Quốc hội không có cách nào tốt hơn là biểu quyết theo nguyên tắc đa
số. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt của Quốc hội là thiểu số phục tùng đa số trong mọi
trường hợp.
Đối với Chính phủ: Chính phủ vừa là thiết chế làm việc với chế độ tập thể quyết định theo đa
số về những vấn đề quan trọng, vừa đề cao vai trò cá nhân của Thủ tướng Chính phủ - người quyết
định những vấn đề trong điều hành công việc thường xuyên của Chính phủ. Nguyên tắc tập trung dân
chủ trong hoạt động của Chính phủ vừa đảm bảo sự lãnh đạo tập thể, vừa đảm bảo sự quản lí của người
đứng đầu Chính phủ.
Đối với cơ quan tư pháp: Trong các hoạt động xét xử, nguyên tắc tập trung dân chủ đòi hỏi
thực hành đúng quan hệ làm việc giữa thẩm phán, hội thẩm và các thành viên khác trong hoạt động tố
tụng, xác lập quan hệ giữa các cấp xét xử, quan hệ giữa các cơ quan điều tra v.v…
Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ là yếu tố đảm bảo hiệu lực quản lí của bộ máy nhà nước
ta trên cơ sở phát huy tính chủ động sáng tạo của các cơ quan trung ương cũng như ở địa phương.
d. Nguyên tắc pháp chế
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì thế tổ chức và hoạt động của nó phải
tuân theo nguyên tắc pháp chế.
Pháp chế là sự hiện diện của một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội
làm cơ sở một trật tự pháp luật và kỷ luật, là sự tuân thủ và thực hiện đầy đủ pháp luật trong tổ chức và
hoạt động của nhà nước, của các cơ quan đơn vị, tổ chức và đối với công dân. Khi nói tới một trật tự
pháp chế đòi hỏi phải có:
– Một hệ thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội.
– Pháp luật phải được thực hiện nghiêm minh trong cuộc sống, từ các cơ quan nhà nước, các tổ
chức xã hội và công dân.
Như vậy, không phải cứ có nhà nước, có pháp luật là có pháp chế, nhưng pháp luật lại đóng vai
trò tiền đề, cơ sở cho một trật tự pháp chế. Bởi vì pháp luật là thước đo, là tiêu chuẩn thẩm định trật tự
xã hội và tình trạng pháp chế cụ thể trong từng thời kỳ. Để nhận ra một xã hội có pháp chế trước hết
người ta xem xét pháp luật đã có hay chưa, có đầy đủ hay không? Pháp luật được thực hiện hay chỉ là
hình thức; tính xã hội của pháp luật ra sao?
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa đòi hỏi:
– Thứ nhất, nhà nước phải ban hành các văn bản pháp luật một cách kịp thời và có hệ thống.
Nhà nước và pháp luật là hai mặt thống nhất, thống nhất giữa chủ thể và phương tiện. Để nhà nước
hoạt động đảm bảo nguyên tắc pháp chế, các văn bản luật và các văn bản pháp quy để thi hành luật
(văn bản dưới luật) phải được ban hành kịp thời và đồng bộ.
– Thứ hai, các cơ quan nhà nước được lập ra và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật quy định
về địa vị pháp lí, quy mô và thẩm quyền. Nguyên tắc này không chấp nhận hai khả năng thường xảy ra
ở những nơi mà tình trạng pháp chế bị vi phạm: khả năng thứ nhất là các hoạt động quản lí vượt thẩm
quyền được giao, khả năng thứ hai là buông lỏng, bỏ trống một số lĩnh vực thuộc thẩm quyền được
giao.
– Thứ ba, sự tôn trọng hiến pháp, pháp luật của cơ quan nhà nước. Nhà nước thay mặt nhân dân
ban hành luật pháp, nhưng nhà nước cũng bị luật pháp điều chỉnh. Nghĩa là: nếu cơ quan nhà nước
trong hoạt động phạm sai lầm, vi phạm pháp luật thì phải chịu trách nhiệm về những sai lầm đó trước
pháp luật. Nhà nước vì vậy vừa là chủ thể của luật pháp nhưng cũng vừa là đối tượng để luật pháp điều
chỉnh. Đây là đòi hỏi sự tôn trọng của nguyên tắc pháp chế, đồng thời thể hiện tính dân chủ của nhà
nước ta, cũng là yêu cầu rất quan trọng trong quản lí hành chính, trong hoạt động của các cơ quan tư
pháp ở nước ta hiện nay.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của nhà nước có mối quan hệ biện chứng với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau, thực hiện tốt các nguyên tắc trên nhằm đảm bảo cho nhà nước ta là “Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân” trong tổ chức và hoạt động.
4. Cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
Theo Hiến pháp 1992 cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước ta gồm có: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ
Quốc hội; Chủ tịch nước; Chính phủ; Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân; Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân.
a. Quốc hội
“Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước
Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 83, Hiến pháp 1992); Quốc hội do nhân dân trực tiếp
bầu ra bằng chế độ bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín; Quốc hội thống nhất mọi
quyền lực (thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp). Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội là cơ quan cao nhất quyết định những chính sách về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ kinh
tế – xã hội, quốc phòng và an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội là cơ quan giám sát tối cao đối với hoạt động của nhà nước. Hoạt động cơ bản nhất,
quan trọng nhất của Quốc hội là các kỳ họp Quốc hội. Đại biểu Quốc hội về nguyên tắc cũng phải hoạt
động thường xuyên trong cả nhiệm kỳ, chịu sự giám sát và có thể bị cử tri hoặc Quốc hội bãi miễn bất
cứ lúc nào nếu tỏ ra không còn xứng đáng. Quốc hội có các Hội đồng và Ủy ban. Trong điều kiện hiện
nay ở các Hội đồng và Ủy ban của Quốc hội có một bộ phận cán bộ làm việc theo chế độ chuyên trách
còn phần lớn đại biểu Quốc hội là kiêm nhiệm, phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu.
Ở nước ta hiện nay, Quốc hội chưa hoạt động thường xuyên nên Quốc hội lập ra Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan thường trực của Quốc hội do Quốc hội
bầu ra và chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội được giao một số quyền hạn
theo quy định của Hiến pháp như: quyền quyết định ra pháp lệnh do Quốc hội giao, quyền trong thời
gian Quốc hội không họp phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, các thành viên của Chính phủ và báo cáo với Quốc hội tại kỳ
họp gần nhất; quyền giám sát các hoạt động của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát
nhân dân tối cao; quyền đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao trái với hiến pháp và luật… Quyền quyết định
trong thời gian Quốc hội không họp tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nhà nước bị xâm lược: quyền
quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ.
b. Chủ tịch nước
Chủ tịch nước “là người đứng đầu nhà nước thay mặt nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam về đối nội và đối ngoại” (Điều 101 Hiến pháp 1992). Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra, nhiệm
vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước được quy định ở điều 103 Hiến pháp 1992, theo đó người đứng đầu
quốc gia là một cá nhân. Chủ tịch nước ký công bố các văn bản luật pháp (của Quốc hội) và pháp lệnh
(của Ủy ban thường vụ Quốc hội) nhưng Chủ tịch nước có quyền đề nghị xem xét lại pháp lệnh của Ủy
ban thường vụ Quốc hội và nếu không nhất trí thì trình ra Quốc hội quyết định. Chủ tịch nước đề nghị
Quốc hội miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Ủy ban thường vụ
Quốc hội, cũng như xét thấy cần thiết thì có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ. Với quy chế
của Hiến pháp 1992 thiết chế Chủ tịch nước cùng với thiết chế Ủy ban thường vụ Quốc hội là cơ quan
thường trực của Quốc hội, vừa đảm bảo tính tập thể trong việc quyết định những vấn đề trọng đại của
đất nước trong khi Quốc hội không họp, vừa đảm bảo vị trí của người đứng đầu nhà nước.
c. Chính phủ
Theo quan điểm quyền lực nhà nước thống nhất và phân công ba quyền, thì Quốc hợi là cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất và nắm quyền lập pháp. Dưới quyền lực tối cao và thống nhất đó của
Quốc hội là những cơ quan quyền lực nhà nước về hành pháp và tư pháp. Chính phủ là cơ quan quyền
lực hành pháp cao nhất. Chính phủ gồm có Thủ tướng, các Phó Thủ tướng, các Bộ trưởng và các thành
viên khác. Chính phủ do Quốc hội bầu ra trong kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá Quốc hội. Trong kỳ họp
này Quốc hội bầu Thủ tướng Chính phủ theo đề nghị của Chủ tịch nước và giao cho Thủ tướng đề nghị
danh sách các Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ để Quốc hội phê chuẩn.
Chính phủ vừa là cơ quan chấp hành của Quốc hội vừa là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất. Chính phủ chịu trách nhiệm trước Quốc hội và báo cáo công tác với Quốc hội, Ủy ban Thường
vụ Quốc hội, Chủ tịch nước và chịu sự giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ quốc hội. Đứng đầu
Chính phủ là Thủ tướng Chỉnh phủ.
Theo điều 112 Hiến pháp 1992 và chương II Luật Tổ chức Chính phủ, thì thẩm quyền của
Chính phủ bao gồm:
– Quyền kiến nghị lập pháp: Dự thảo các văn bản luật trình Quốc hội, và dự thảo pháp lệnh
trình bày Ban Thường vụ Quốc hội. Dự thảo kế hoạch nhà nước, ngân sách, các chính sách lớn về đối
nội, đối ngoại của nhà nước trên cơ sở đường lối của Đảng để trình Quốc hội.
– Quyền lập quy: Ban hành các văn bản pháp quy có giá trị pháp lí trong cả nước.
– Quyền quản lí và điều hành toàn bộ công việc của đất nước: Xây dựng kinh tế, văn hoá, xã hội
theo đúng đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước và hệ thống pháp quy của Chính phủ.
– Quyền xây dựng và lãnh đạo toàn bộ hệ thống tổ chức cơ quan quản lí nhà nước, thành lập các
cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan giúp Thủ tướng, lãnh đạo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, chỉ đạo việc tổ chức các cơ quan chuyên môn ở địa phương.
– Quyền hướng dẫn, kiểm tra hội đồng nhân dân các cấp.
Chính phủ hoạt động bằng các hình thức cơ bản sau:
Một là: Hoạt động tập thể là các phiên họp của Chính phủ.
Hai là: Sự chỉ đạo, điều hành của Thủ tướng và các Phó Thủ tướng là những người giúp Thủ
tướng theo sự phân công của Thủ tướng, khi Thủ tướng vắng mặt thì một Phó Thủ tướng được Thủ
tướng ủy nhiệm thay mặt lãnh đạo công tác của Chính phủ.
Ba là: Hoạt động của Bộ trưởng với tư cách là thành viên của chính phủ đứng đầu một Bộ hay
cơ quan ngang Bộ.
d. Toà án nhân dân và Viện Kiểm sát nhân dân là hệ thông tổ chức thực hiện quyền tư pháp
– Cơ cấu tổ chức toà án gồm: Toà án nhân dân tối cao, các Toà án nhân dân địa phương, Toà án
quân sự và các Toà án khác do luật định. Toà án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam (điều 127 – Hiến pháp 1992). Trong hệ thống toà án thì Toà án nhân dân tối cao
là cơ quan xét xử cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Có chức năng và quyền
giám đốc việc xét xử của Toà án nhân dân địa phương và Toà án quân sự, giám đốc việc xét xử của
Toà án đặc biệt và các Toà án khác, trừ trường hợp Quốc hội quy định khác khi thành lập Toà án đó.
Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Quốc hội bầu và chịu trách nhiệm báo cáo công việc trước Quốc
hội, trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ
Quốc hội.
Nguyên tắc hoạt động của Toà án là “khi xét xử Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật” (điều 130 – Hiến pháp 1992) và “Toà án nhân dân xét xử công khai, trừ trường hợp do
luật định. Toà án xét xử tập thể và quyết định theo đa số” (điều 131 – Hiến pháp 1992).
– Cơ cấu tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân. Theo quy định của Hiến pháp “Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, các cơ quan khác thuộc
Chính phủ, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân, thực hiện quyền công tố, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”
(điều 137 – Hiến pháp 1992).
Để đảm bảo cho pháp luật được thi hành nghiêm minh, thống nhất, Viện Kiểm sát nhân dân
được tổ chức thành một hệ thống. Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cấp dưới chịu Sự lãnh đạo của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; các Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân và Viện trưởng
Viện kiểm sát quân sự chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, kiểm sát viên nhân dân địa phương và Viện Kiểm sát quân sự do
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức.
Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao do Quốc hội bầu, chịu trách nhiệm và báo cáo công
tác trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm báo cáo trước Ủy ban
thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Viện trưởng các Viện Kiểm sát nhân dân địa phương chịu trách
nhiệm báo cáo trước Hội đồng nhân dân về tình hình thi hành pháp luật ở địa phương và trả lời chất
vấn của Hội đồng nhân dân.
e. Cơ quan chính quyền địa phương: Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
Hội đồng nhân dân địa phương là “cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương; đại diện ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước
nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên” (điều 118 – Hiến pháp 1992). Hội đồng nhân dân
địa phương phải chấp hành Hiến pháp, luật, các quy định và nhiệm vụ của cấp trên giao cho và vận
dụng phù hợp với điều kiện địa phương tự quyết định những vấn đề thuộc quyền lợi của nhân dân địa
phương trong phạm vi được phân cấp theo luật định. Vì vậy, Hội đồng nhân dân phải đặt dưới sự giám
sát, hướng dẫn của Quốc hội, sự hướng dẫn kiểm tra của Chính phủ.
Ủy ban nhân dân nhân theo quy định của Hiến pháp do Hội đồng nhân dân bầu ra, là cơ quan
chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương, chịu trách nhiệm chấp
hành Hiến pháp, luật, các văn bản của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân
dân (điều 123 – Hiến pháp 1992).
Ủy ban nhân dân là cơ quan hành chính nhà nước hoạt động thường xuyên, thực hiện chức năng
quản lí nhà nước ở địa phương, vừa do Hội đồng nhân dân cùng cấp, vừa do Ủy ban nhân dân cấp trên
giao cho và chịu sự lãnh đạo thống nhất của Chính phủ.
B. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
I. KHÁI NIỆM QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Để nắm vững nội hàm khái niệm quản lí hành chính nhà nước chúng ta lần lượt nghiên cứu các
khái niệm quan trọng sau đây:
1. Quản lí
Quản lí là khái niệm được xem xét theo hai góc độ:
+ Theo góc độ chính trị – xã hội, quản lí được hiểu là sự kết hợp giữa tri thức với lao động. Vận
hành sự kết hợp này cần có cơ chế quản lí phù hợp. Cơ chế đúng, hợp lí thì xã hội phát triển, ngược lại
thì xã hội phát triển chậm hoặc rối ren.
+ Theo góc độ hành động, quản lí được hiểu là chỉ huy, điều khiển, điều hành.
Theo C. Mác, quản lí (quản lí xã hội) là chức năng được sinh ra từ tính chất xã hội hoá loa động.
Nó có tầm quan trọng đặc biệt vì mọi sự phát triển của xã hội đều thông qua hoạt động của con người
và thông qua quản lí (con người điều khiển con người). Người viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực
tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự
chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận
động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người
độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng” (C. Mác và
Ph. Ăngghen, Toàn tập, T.23, trang 480).
Từ phân tích cơ sở lí luận trên, ta có thể đi đến định nghĩa như sau:
Quản lí là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lí lên đối tượng quản lí nhằm chỉ huy điều
hành, hướng dẫn các quá trình xã hội và hành vi của cá nhân hướng đến mục đích hoạt động chung và
phù hợp với quy luật khách quan.
Quản lí là một yếu tố không thể thiếu được trong đời sống xã hội. Xã hội phát triển càng cao thì
vai trò của quản lí càng lớn, phạm vi càng rộng và nội dung càng phong phú, phức tạp.
2. Quản lí nhà nước
Quản lí nhà nước ra đời cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, là sự quản lí của Nhà nước đối với
xã hội và công dân. Quản lí nhà nước là sự chỉ huy, điều hành xã hội để thực thi quyền lực Nhà nước;
là tổng thể về thể chế, về tổ chức và cán bộ của bộ máy nhà nước có trách nhiệm quản lí công việc
hàng ngày của nhà nước, do các cơ quan nhà nước (lập pháp,hành pháp và tư pháp) có tư cách pháp
nhân công pháp (công quyền) tiến hành bằng các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn mà nhà nước đã giao cho trong việc tổ chức và điều chỉnh các quan hệ xã
hội và hành vi của công dân.
Cần lưu ý phân biệt hai khái niệm “Quản lí nhà nước” và “Nhà nước quản lí”:
+ “Quản lí nhà nước” là dạng quản lí xã hội thực thi quyền lực Nhà nước; dạng quản lí này
được thể hiện trong các cơ quan hành chính Nhà nước. Điều 12, Hiến pháp 1992 đã ghi: “Nhà nước
quản lí xã hội theo pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”. Theo định nghĩa
của Liên hiệp quốc, quản lí nhà nước tương đồng với khái niệm quản lí quốc gia (Govermance), nghĩa
là: quản lí nhà nước một cách hợp lí, có hiệu quả, công khai, minh bạch và có sự tham gia của các chủ
thể liên quan.
+ “Nhà nước quản lí” là nói đến các chủ thể quản lí; đó là hệ thống tổ chức của các cơ quan nhà
nước, trong đó có các cơ quan hành chính Nhà nước.
3. Hành chính nhà nước
Hành chính là một hoạt động xã hội rộng và rất phức tạp.
Trong cuộc sống, mọi hoạt động của con người đều mang tính xã hội; các cá nhân luôn có quan
hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau. Khi hoạt động có từ hai người trở lên để thực hiện một mục tiêu chung, mà
nếu chỉ có một người không thể làm được, thì sẽ xuất hiện yếu tố tổ chức và quản lí hoạt động. Hành
chính là một dạng của sự quản lí các hoạt động đó.
Thuật ngữ “hành chính” (Tiếng Anh là Administration).
+ Theo nghĩa rộng, hành chính là sự thi hành chính sách và pháp luật của Chính phủ tức là hoạt
động quản lí hành chính Nhà nước. Quản lí hành chính nhà nước là một hình thức quản lí, mà chủ thể
quản lí là Nhà nước. Hành chính nhà nước là một bộ phận quản lí của Nhà nước – nó là hoạt động của
cơ quan hành pháp, thực thi quyền hành pháp bằng quyền lập quy và quyền hành chính.
+ Theo nghĩa hẹp, hành chính là công tác hành chính của các cơ quan nhà nước ở địa phương
như: quản lí hộ khẩu, trật tự, an ninh công cộng, quản lí công văn giấy tờ không thuộc văn bản pháp
luật,… và có cả nghĩa thông thường như hỗ trợ, dịch vụ hành chính,…
Hành chính quan hệ mật thiết với quản lí, tổ chức, chính trị tạo nên các phạm trù: hành chính và
quản lí, hành chính và tổ chức, hành chính và chính trị, hành chính và pháp luật.
Nhà nước quản lí hành chính bằng pháp luật. Còn hành chính nhà nước là “hành pháp trong
hành động”, là sự thực thi pháp luật trong quản lí, điều hành mọi lĩnh vực đời sống của đất nước.
Từ những phân tích trên ta có thể định nghĩa: Hành chính là hoạt động quản lí nhà nước, trong
đó cơ quan quyền lực nhà nước tác động lên các đối tượng quản lí (cơ quan, tổ chức, cá nhân) trong
lĩnh vực hành pháp, nhằm thực hiện chức năng đối nội và đối ngoại quản lí hành chính nhà nước do
các cơ quan hành chính Nhà nước thực hiện.
4. Nền hành chính nhà nước
Nền hành chính nhà nước (hành chính công) là tổng thể cơ chế được cấu thành bởi ba yếu tố sau
đây:
Một là, hệ thông thể chế quản lí xã hội theo Pháp luật bao gồm: Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và
các văn bản, Quyết định, Nghị định, Thông tư của Chính phủ, Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh, quy phạm
pháp luật của các cơ quan hành pháp và quản lí nhà nước. Xây dựng thể chế của nền hành chính nhà
nước dân chủ, thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phục vụ lợi ích và nguyện vọng của
dân, thiết lập kỷ cương Nhà nước, ý thức và trật tự pháp luật, cải cách và hoàn thiện thủ tục hành
chính… Xây dựng thể chế quản lí kinh tế của Nhà nước phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của Nhà nước và tạo sự thích nghi về thể chế trong quan hệ đối ngoại,
với luật pháp và tập quán quốc tế.
Hai là, cơ cấu tổ chức và cơ chế vận hành bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở. Quy định
thẩm quyền của từng cấp, từng cơ quan, mối quan hệ dọc, ngang, trung ương và địa phương. Vận dụng
tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc kết hợp quản lí theo ngành và quản lí theo lãnh thổ. Các
cơ quan trong hệ thống phải đủ mạnh về uy tín, năng lực và phẩm chất để phát huy hiệu lực và hiệu
quả quản lí nhà nước.
Ba là, đội ngũ cán bộ và công chức nhà nước, chế độ công vụ và quy chế công chức, các quy
định về hệ thống ngạch, bậc, tiêu chuẩn chức danh và chế độ tiền lương, các quy chế bổ nhiệm, tuyển
dụng, miễn nhiệm, bãi nhiệm, khen thưởng, đãi ngộ… là những cơ sở để nâng cao chất lượng công tác,
nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động và làm căn cứ cho đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ công chức
nhà nước.
Thực tế hoạt động của nền hành chính nhà nước xuất phát từ bản chất nhà nước pháp quyền,
sống và làm việc theo khuôn khổ pháp luật để quản lí xã hội, đưa đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước vào cuộc sống, là tạo lập môi trường cho mọi tổ chức và công dân sống và làm việc theo
Hiến pháp và Pháp luật.
5. Quản lí hành chính Nhà nước
Bộ máy Nhà nước được cấu thành bởi ba tổ chức giữ ba quyền: quyền lập pháp, quyền hành
pháp và quyền tư pháp, trong đó quyền hành pháp là quyền chấp hành luật (lập quy), tổ chức thực hiện
luật (quản lí hành chính). Hai quyền này đều tập trung vào Chính phủ và hệ thống cơ quan hành chính
nhà nước từ trung ương đến địa phương, được thực hiện bằng các văn bản quy phạm pháp luật hành
chính.
Bộ máy hành chính Nhà nước còn được gọi là bộ máy quản lí Nhà nước.
Hành pháp mang tính quyền lực chính trị (quyền lực nhà nước), còn quản lí hành chính nhà
nước là “Hành pháp hành động”, là quyền thực thi quyền hành pháp. Bản thân quản lí hành chính nhà
nước không chỉ là chính trị, mà còn là hành chính.
Ví dụ: Bộ trưởng có vai trò:
– Là thành viên của Chính phủ (chính trị).
– Là người đứng đầu về quản lí hành chính nhà nước của một bộ, ngành hay lĩnh vực (quản lí
hành chính).
Chủ tịch Ủy ban nhân dân có vai trò:
– Là thành viên của Hội đồng nhân dân bầu ra để chấp hành các nghị quyết của Hội đồng nhân
dân (chính trị).
– Là người đứng đầu về quản lí hành chính nhà nước ở địa phương (quản lí hành chính).
Từ phân tích trên, có thể định nghĩa quản lí hành chính Nhà nước như sau:
Quản lí hành chính Nhà nước là sự tác động có tổ chức, và điều chỉnh bằng quyền lực Nhà
nước đối với các quá trình và hành vi hoạt động của công dân do các cơ quan có tư cách pháp nhân
công pháp trong hệ thống hành pháp và quản lí hành chính nhà nước tiến hành bằng những văn bản
quy phạm pháp luật dưới luật để thực hiện những chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước, phát triển các
mối quan hệ xã hội, duy trì trật tự an ninh công, bảo vệ quyền lợi công và phục vụ nhu cầu hàng ngày
của nhân dân.
Nói một cách đơn giản hơn, quản lí hành chính nhà nước là việc tổ chức thực thi quyền hành
pháp để quản lí, điều hành các lĩnh vực đời sống xã hội bằng pháp luật và theo pháp luật.
Như vậy, có thể thấy ba nội dung chính của khái niệm quản lí hành chính nhà nước:
Một là, quản lí hành chính nhà nước với tư cách là quyền lực nhà nước được gọi là quyền quản
lí hành chính, tức là “quyền hành pháp trong hành động”.
Hai là, quản lí hành chính nhà nước với tư cách là hoạt động thực tiễn hàng ngày, tổ chức và
điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động của công dân bằng việc ra các quyết định hành
chính mang tính quy phạm hành chính, phục vụ cho các nhà cầm quyền, các nhà lãnh đạo và quản lí
đất nước.
Ba là, quản lí hành chính nhà nước, với tư cách là pháp nhân công pháp, chính là hệ thống thiết
chế tổ chức hành chính nhà nước. Trong hệ thống này, đứng đầu là Chính phủ và Thủ tướng Chính
phủ, các bộ, các cơ quan quản lí hành chính nhà nước trung ương, các cấp quản lí hành chính nhà nước
địa phương và các tổ chức công quyền khác có chức năng tổ chức và điều hành các quá trình kinh tế kỹ
thuật, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, nội vụ, ngoại giao… và các hoạt động của tổ chức và công
dân.
II. NHỮNG TíNH CHẤT CHỦ YẾU CỦA NỀN HàNH CHíNH NHà NƯỚC CỘNG HÒA Xã HỘI
CHỦ NGHĩA VIỆT NAM
Nền hành chính nhà nước có các tính chất sau đây:
1. Tính lệ thuộc vào chính trị và hệ thống chính trị
Xét trên góc độ nhà nước, các nhà cầm quyền của một quốc gia có hai loại nhiệm vụ: Nhiệm vụ
chính trị và nhiệm vụ hành chính.
Nhiệm vụ chính trị là nhiệm vụ định hướng cho sự phát triển xã hội, đưa ra đường lối, chính
sách. Chính trị biểu hiện ý chí Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng cầm quyền.
Nhiệm vụ hành chính là việc tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Những vấn đề cơ bản về chính tri ở nước ta hiện nay là:
a) Kiên trì chủ nghĩa Mác –Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và
chiến lược cách mạng với tính linh hoạt, sáng tạo trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới của thời
đại.
b) Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, chống chệch hướng xã
hội chủ nghĩa, chống diễn biến hoà bình.
Đảng Cộng sản việt Nam là trung tâm lãnh đạo, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị xã
hội trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam có vai trò tham gia và giám sát quản lí nhà nước, tập thể lao
động và công dân tham gia đóng góp ý kiến.
2. Tính pháp luật
Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước, hành chính nhà nước mang tính cưỡng chế, yêu cầu
mọi tổ chức xã hội, cơ quan nhà nước và công dân phải tuân thủ các mệnh lệnh hành chuẩn đảm bảo và
giữ vững kỷ cương, trật tự xã hội.
Tính pháp luật đòi hỏi các cơ quan hành chính và công chức phải đảm bảo tính quyền uy, nghĩa
là phải nắm vững quyền lực, sử dụng đúng quyền lực, đồng thời phải tạo dựng uy tín về chính trị về
phẩm chất đạo đức và năng lực trí tuệ.
Quyền uy là thể thống nhất giữa quyền lực và uy tín; các nhà quản lí hành chính nhà nước phải
có quyền uy thì mới phát huy tính pháp luật trong quản lí hành chính nhà nước. Cá nhân và tổ chức nào
vi phạm Pháp luật sẽ bị truy cứu trách nhiệm và xử lí theo Pháp luật.
3. Tính thường xuyên, ổn định và thích nghi
Nhiệm vụ hành chính nhà nước là phục vụ công vụ và công dân. Do vậy, hoạt động hành chính
nhà nước không được làm theo lối “phong trào”, “chiến dịch”. Đội ngũ công chức phải ổn định và có
năng lực, phẩm chất đạo đức ngang tầm nhiệm vụ trong mọi thời kỳ phát triển của đất nước.
Nhà nước là một sản phẩm xã hội, đời sống xã hội biến chuyển không ngừng, do đó, nền hành
chính nhà nước cũng phải thích nghi với hoàn cảnh thực tế xã hội trong từng thời kỳ, phải phù hợp với
xu thế chung của thời đại.
4. Tính chuyên môn hoá nghiệp vụ cao
Đây là vấn đề quan trọng của một nhà nước và của một nền hành chính nhà nước thể hiện trình
độ khoa học, văn minh, hiện đại. Đối với các công chức nhà nước, kiến thức chuyên môn và kỹ năng
quản lí điều hành thực tiễn là tiêu chuẩn về trình độ nghiệp vụ. Tính chuyên môn hoá nghề nghiệp ở
trình độ cao là cơ sở để đảm bảo thực hiện mục tiêu chiến lược, hoạch định chính sách và chương trình
dài hạn.
5. Tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ
Hành chính nhà nước là hệ thống thông suốt từ trung ương tới các địa phương. Mỗi cấp, mỗi cơ
quan, mỗi công chức đều có thẩm quyền riêng và quyền lợi chính đáng. Tính thứ bậc chặt chẽ đòi hỏi
cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương, cả nước phục tùng Chính phủ
trong việc thực hiện quyết định, chỉ thị và chịu sự kiểm tra thường xuyên của cấp trên, của thủ trưởng.
Bên cạnh tính thứ bậc chặt chẽ, mọi hoạt động quản lí hành chính nhà nước phải sát dân, sát cơ sở;
phải chủ động, sáng tạo, linh hoạt.
6. Tính không vụ lợi
Hành chính nhà nước chỉ có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công và lợi ích công dân, không theo đuổi
mục tiêu doanh lợi. Các cơ quan, công chức đều phải thể hiện tính công tâm, trong sạch, liêm khiết,
thực hiện lời Bác Hồ dạy “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”.
7. Tính nhân dạo
Bản chất nhà nước ta là dân chủ, do dân, của dân và vì dân. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được thể
hiện trong luật pháp, cụ thể là trong pháp luật hành chính; những thể chế, quy tắc, thủ tục hành chính
phải xuất phát từ lợi ích của dân, từ tấm lòng thật sự thương dân, phải đơn giản, trong sáng, tôn trọng
con người và đem lại sự thuận lợi cho dân. Các cơ quan hành chính và công chức không được quan
liêu, độc đoán, cửa quyền, gây phiền hà, không đòi hối lộ, không tham nhũng.
So với nhiều nước khác trên thế giới, quản lí nhà nước ở nước ta có ba giá trị cốt lõi sau đây:
a) Quản lí nhà nước được tiến hành trong điều kiện hệ thống trị một Đảng lãnh đạo là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
b) Quản lí nhà nước được thực hiện trong một cơ cấu quyền lực nhà nước thống nhất không
phân chia, nhưng có sự phân công hợp lí giữa ba quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp).
c) Quản lí nhà nước được thực hiện trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ.
III. NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA NỀN HÀNH CHÍNH VIỆT NAM
Do bản chất của nhà nước, nền hành chính nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam có các
nguyên tắc sau đây:
1. Dựa vào dân, do dân và vì dân.
2. Quản lí theo Pháp luật.
3. Tập trung dân chủ.
4. Kết hợp chế độ làm việc tập thể với chế độ một thủ trưởng.
5. Kết hợp quản lí theo ngành với quản lí theo lãnh thổ.
6. Phân biệt quản lí nhà nước với quản lísản xuất kinh doanh.
7. Phân biệt hành chính điều hành với hành chính tài phán.
IV. NỘI DUNG VÀ QUY TRÌNH CHỦ YẾU CỦA QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM
1. Nội dung hoạt động chủ yếu của quản lí hành chính nhà nước
Tất cả bốn cấp hành chính nhà nước ở trung ương và địa phương đều có mục tiêu, chức năng,
nhiệm vụ và quyền hạn, có cơ cấu tổ chức và đội ngũ cán bộ – công chức tương ứng.
Các cơ quan này thực hiện chức năng hành pháp trong hành động về các lĩnh vực và các mặt
công tác sau đây:
a. Quản lí hành chính nhà nước về kinh tế, văn hoá xã hội
Các cơ quan quản lí hành chính nhà nước từ Chính phủ, các Bộ, các cơ quan Chính phủ, các cấp
chính quyền địa phương và các cơ quan, tổ chức có tư cách pháp nhân công pháp trong hệ thống hành
pháp và quản lí hành chính nhà nước, theo thẩm quyền của từng cơ quan, thực hiện các chương trình
và lĩnh vực phát triển có mục tiêu, chỉ tiêu và giải pháp do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của
Đảng đề ra và được Quốc hội ra nghị quyết từ 1996 đến 2000. Theo Nghị quyết của Đại hội đại biểu
Đảng toàn quốc lần thứ VIII, các cơ quan hành chính nhà nước phải thực hiện 11 chương trình phát
triển kinh tế văn hóa, xã hội. Đó là:
– Chương trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn;
– Chương trình phát triển công nghiệp;
– Chương trình phát triển kết cấu hạ tầng;
– Chương trình phát triển khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường, sinh thai;
– Chương trình phát triển kinh tế dịch vụ;
– Chương trình phát triển kinh tế đối ngoại;
– Chương trình phát triển giáo dục và đào tạo;
– Chương trình giải quyết các vấn đề văn hoá – xã hội;
– Chương trình phát triển các vùng lãnh thổ;
– Chương trình phát triển kinh tế – xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc;
– Chương trình về xoá đói, giảm nghèo.
b. Quản lí hành chính nhà nước về an ninh, quốc phòng
Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của Đảng,
Nhà nước và của toàn quân, toàn dân. Phải nắm vững tư tưởng chỉ đạo sau đây: kết hợp chặt chẽ hai
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa; kết hợp quốc phòng và an ninh với kinh tế, gắn nhiệm vụ quốc phòng với nhiệm vụ trọng
yếu thường xuyên (Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VIII – Đảng CSVN).
c. Quản lí hành chính nhà nước về ngoại giao
“Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá
các quan hệ đối ngoại; hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc
tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can
thiệp vào nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng
thương lượng (Nghị quyết Đại hội đại biểu lần thứ VIII – Đảng CSVN).
d. Quản lí hành chính nhà nước về ngân hàng, tài chính ngân sách nhà nước, kế toán, kiểm
toán, quản lí tài sản công, thị trường chứng khoán
Bảo đảm quản lí thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm bội chi ngân sách, góp phần khống chế
và kiểm soát lạm phát; tạo vốn đầu tư phát triển; đổi mới chính sách thuế theo hướng đơn giản, ổn
định, công bằng; thực hiện chặt chẽ chế độ kế toán, kiểm toán và chế độ kiểm tra, thanh tra tài chính
(theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng VIII).
đ. Quản lí hành chính nhà nước về khoa học, công nghệ, tài nguyên thiên nhiên và môi trường
Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học tự nhiên và công nghệ tiên tiến trong tất
cả các ngành sản xuất kinh doanh, dịch vụ, quản lí và quốc phòng – an ninh.
Nám bắt các công nghệ cao như: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu
mới, công nghệ mới trong chế tạo máy… Đánh giá chính xác tài nguyên quốc gia và khai thác sử dụng,
bảo vệ tài nguyên: Chú trọng đúng mức nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội, khoa học nhân văn và
khoa học tự nhiên; thực hiện tốt chính sách và cơ chế đồng bộ cho sự phát triển khoa học và công
nghệ… (theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng VIII).
e. Quản lí hành chính nhà nước về các nguồn nhân lực
Mở rộng các trường lớp dạy nghề, các trường cao đẳng và đại học để đào tạo công nhân lành
nghề, đội ngũ cán bộ kỹ thuật (kỹ sư, công trình sư…), đội ngũ các nhà quản lí doanh nghiệp giỏi.
Nhanh chóng xây dựng đội ngũ công chức và nhân viên của hệ thông hành chính các cấp; phát triển
đào tạo sau đại học, xây dựng đội ngũ trí thức đồng bộ về các lĩnh vực khoa học và công nghệ, văn hoá
văn nghệ, quản lí kinh tế, quản lí xã hội… đáp ứng sự nghiệp tiếp tục đổi mới đưa đất nước vào giai
đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hoá (theo tinh thần Nghệ quyết Đại hội Đảng VIII).
g. Quản lí hành chính nhà nước về công tác tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước về quy chế,
chế độ, chính sách về công vụ, công chức nhà nước
h. Quản lí hành chính nhà nước về phát triển công nghệ tin học trong hoạt động quản lí hành
chính
2. Quy trình của hoạt động quản lí nhà nước
Để thực hiện các nội dung quản lí hành chính nhà nước, các cơ quan quản lí hành chính nhà
nước phải tuân thủ quy trình cơ bản. Quy trình là một quá trình gồm nhiều giai đoạn trong mọi cấp độ
tổ chức quản lí hành chính nhà nước.
Quy trình này gồm bảy giai đoạn sau:
a. Lập kế hoạch
Giai đoạn này bao gồm từ việc điều tra cơ bản, quy hoạch (tổng thể và chuyên ngành) và lập kế
hoạch để thực hiện kế hoạch.
Không có quy hoạch thì không nên làm kế hoạch; nhất thiết phải tiến hành điều tra cơ bản làm
cơ sở xây dựng kế hoạch.
Trên cơ sở mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế – xã hội đã được hoạch định trong đường lối
chủ trương của Đảng và được Quốc hội nhất trí thông qua, Chính phủ, các Bộ, các cơ quan của Chính
phủ, các cấp chính quyền địa phương, các cơ quan và tổ chức công quyền khác nhau trong hệ thống
quản lí hành chính nhà nước phải thực hiện giai đoạn đầu tiên này.
b. Tổ chức bộ máy hành chính
Xây dựng một bộ máy gọn nhẹ, có hiệu lực và hoạt động có hiệu quả, xác định quan hệ chỉ đạo
và hợp tác phối hợp liên ngành, quản lí chặt chẽ sự hoạt động của bộ máy.
c. Bố trí nhân sự
Sắp xếp đội ngũ cán bộ – công chức từ người chỉ huy, chuyên gia đến nhân viên. Xây dựng hệ
thống đánh giá cán bộ theo tiêu chuẩn và theo hành động thực tế để cất nhắc, đề bạt, khen thưởng, kỷ
luật.
d. Ra quyết định hành chính
Từ việc phân tích và tổng hợp thông tin đã thu thập được để để xuất các phương án khác nhau
và chọn lấy phương án tốt nhất làm nội dung quyết định. Thẩm định lại phương án và ban hành văn
bản quản lí hành chính nhà nước.
e. Điều hoà phối hợp
Chỉ đạo điều hành, phối hợp dọc, ngang.
Phân công đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp theo một cơ chế điều hoà phối hợp có hiệu quả.
g. Lập ngân sách
Xây dựng và ra quyết định ngân sách nhà nước từ các nguồn: ngân sách nhà nước, vốn doanh
nghiệp nhà nước tự tích luỹ để tái đầu tư, vốn tiết kiệm của dân, vốn đầu tư nước ngoài.
h. Kiểm tra, tổng kết đánh giá
Kiểm tra định kỳ, đột xuất, xử lí kết quả đã kiểm tra để chỉ đạo kịp thời.
Tổng kết đánh giá thực tiễn để thấy việc đã làm được và chưa làm được, nguyên nhân? Tổng kết
kinh nghiệm khái quát thành lí luận và tiếp tục ra quyết định mới có hiệu lực cao hơn.
V. CÔNG CỤ (PHƯƠNG TIỆN), HÌNH THỨC VÀ PHƯƠNG PHÁP QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH
NHÀ NƯỚC
1. Các công cụ (phương tiện) của quản lí hành chính nhà nước
Một cơ quan hành chính được thành lập, để thực hiện chức năng. nhiệm vụ và quyền hạn của
mình, phải có các công cụ (hoặc còn gọi là phương tiện) cơ bản sau đây: công sở, công vụ, công chức,
công sản và quyết định quản lí hành chính nhà nước
a. Công sở
Là trụ sở làm việc của cơ quan hành chính nhà nước, là nơi lãnh đạo công chức và nhân viên
thực thi công vụ, giao tiếp đối nội và đối ngoại, tiếp nhận các thông tin đầu vào và ban hành các quyết
định để giải quyết, xử lí công việc hàng ngày để điều chỉnh các quan hệ xã hội và hành vi hoạt động
của công dân.
Theo quy định của Chính phủ, công sở phải có tên, địa chỉ rõ ràng và phải treo Quốc kỳ trong
những ngày làm việc.
b. Công vụ và công chức
Công vụ và công chức của một cơ quan quản lí hành chính nhà nước được xác định từ chức
năng, nhiệm vụ và quyền hạn của cơ quan.
– Công vụ là một dạng lao động xã hội của những người làm việc trong cơ quan hành chính nhà
nước (công sở).
– Công chức là người thực hiện công vụ, được bổ nhiệm hoặc tuyển dụng, được hưởng lương và
phụ cấp theo công việc được giao từ ngân sách nhà nước.
c. Công sản là ngân sách, là vốn, là kinh phí và các điều kiện, phương tiện vật chất để cơ quan
hoạt động.
d. Quyết định quản lí hành chính nhà nước
Trong quản lí hành chính nhà nước, người ra quyết định được nhân danh Nhà nước, có tính ý
chí quyền lực nhà nước của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Các công chức lãnh đạo, những người
có thẩm quyền ra quyết định quản lí hành chính Nhà nước là sự biểu thị ý chí nhà nước, là kết quả thực
thi quyền hành pháp của bộ máy nhà nước, mang tính quyền lực và tính cưỡng chế đối với khách thể
quản lí hành chính nhà nước. Đồng thời phải tôn trọng quy trình công nghệ hành chính của việc ra và
tổ chức thực hiện quyết định.
Quy trình ra quyết định này gồm bốn bước:
Bước 1: Phải dựa vào một cơ sở để ra quyết định có nghĩa là quyết định này dựa vào căn cứ nào,
nguồn thông tin nào?
Bước 2: Bảo đảm năm yêu cầu của quyết định:
– Yêu cầu bảo đảm tính chính trị, tính hợp pháp và tính hợp lí.
– Yêu cầu bảo đảm tính quần chúng.
– Yêu cầu bảo đảm tính khoa học.
– Yêu cầu bảo đảm tính thẩm quyền.
– Yêu cầu bảo đảm tính cụ thể, kịp thời, khả thi và đúng văn bản pháp chế.
Bước 3: Thực hiện dân chủ hoá trước khi ban hành quyết định thông qua sự bàn bạc nhất trí
trong lãnh đạo và sự dân chủ bàn bạc với tập thể và trên cơ sở đó, thủ trưởng tính toán, cân nhắc và
quyết định.
Bước 4: Thực hiện quy trình khoa học (thủ tục hành chính) của việc ra và tổ chức thực hiện
quyết định, gồm có: sự phân tích tình hình, dự báo, lập phương án và chọn phương án tốt nhất; soạn
thảo và thông qua quyết định; ra văn bản pháp quy; tổ chức lực lượng để thực hiện quyết định; điều tra
phản hồi, nếu có phản ứng phải điều chỉnh kịp thời; kiểm tra định kỳ và đột xuất; tổng kết, đánh giá,
rút kinh nghiệm đúc kết thành lí luận, tiếp tục ra quyết định mới.
2. Hình thức quản lí hành chính nhà nước
Thông thường quản lí hành chính nhà nước có ba hình thức sau:
a. Ra văn bản pháp quy quy phạm pháp luật hành chính
Các chủ thể quản lí hành chính nhà nước có thể ra quyết định bằng chữ viết, bằng lời nói, bằng
dấu hiệu, ký hiệu, trong đó bằng chữ viết là chủ yếu, là đảm bảo tính pháp lí cao nhất.
Văn bản pháp quy quy phạm pháp luật hành chính là Quyết định hành chính được ghi thành chữ
viết, để cho các khách thể quản lí căn cứ vào đó mà thực hiện và là chứng cứ để các chủ thể quản lí
kiểm tra các khách thể thực hiện có đầy đủ và đúng hay không và tuỳ theo đó mà truy cứu trách nhiệm,
xử lí theo pháp luật.
b. Hội nghị
Hội nghị là hình thức để tập thể lãnh đạo ra quyết định.
Hội nghị còn sử dụng để bàn bạc một công việc có liên quan đến nhiều cơ quan hoặc nhiều bộ
phận trong một cơ quan, cần có sự kết hợp, phối hợp, giúp đỡ lẫn nhau. Hội nghị còn dùng để truyền
đạt thông tin, học tập, biểu thị thái độ, tuyên truyền, giải thích…
Hội nghị bàn công việc sẽ có nghị quyết hội nghị. Các nghị quyết hội nghị được thể hiện bằng
văn bản pháp quy mới có đầy đủ tính pháp lí.
Hội nghị là hình thức cần thiết và quan trọng. Cần phải tổ chức và chủ trì hội nghị theo phương
pháp khoa học để ít tốn thời gian mà hiệu quả cao.
c. Hoạt động thông tin điều hành bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đại
Theo hình thức này, máy móc có thể thay thế lao động chân tay và cả lao động trí óc cho công
chức hành chính.
Hình thức này hiện nay đang phát triển mạnh mẽ. Chẳng hạn: sử dụng điện thoại, ghi âm, ghi
hình, vô tuyến truyền hình, fax, phôtôcopy, máy vi tính, máy điện toán, Internet… Nói chung là tin học
hiện đại được sử dụng vào công tác nghiệp vụ điều hành quản lí hành chính nhà nước.
Trong ba hình thức trên, hình thức ra văn bản pháp quy quy phạm pháp luật hành chính là hình
thức chủ yếu.
3. Phương pháp quản lí hành chính
a. Các phương pháp của khoa học khác được cơ quan hành chính nhà nước sử dụng trong công
tác quản lí của mình, gồm có một số phương pháp chủ yếu:
– Phương pháp kế hoạch hóa
Phương pháp này được dùng để quy hoạch, dự báo xu thế phát triển, xây dựng chiến lược, xây
dựng chương trình mục tiêu, lập chỉ tiêu kế hoạch, tính toán cân đối tổng thể liên ngành, kiểm tra tình
hình thực hiện kế hoạch…
– Phương pháp thống kê
Phương pháp này dùng để điều tra, phân tích, thu thập thông tin, xử lí thông tin, đánh giá tốc độ
phát triển qua các phương pháp: chỉ số, số bình quân, hệ số tương quan…
– Phương pháp toán học hóa
Phương pháp này được dùng để lập chương trình kế toán hoá qua hệ thống máy điện toán, lập
ma trận, sơ đồ mạng, vận trù học… trong quản lí điều hành của Nhà nước.
– Phương pháp tâm lí – xã hội học
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu những vấn đề xã hội và tâm lí nhằm suy tôn
những người có công lao trong quản lí nhà nước như: khen thưởng thi đua, tặng thưởng huân, huy
chương, các danh hiệu: bà mẹ Việt Nam anh hùng, nhà giáo nhân dân, thầy thuốc nhân dân…
– Phương pháp sinh lí học
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu các điều kiện lao động của con người trong cơ
quan làm sao cho phù hợp với sinh lí của họ, tạo ra sự thoải mái, dễ chịu, từ đó góp phần tăng hiệu
năng công tác. Ví dụ: bố trí cơ quan trong một ngôi nhà cho hợp lí, sắp đặt chỗ làm việc theo phương
pháp khoa học.
b. Phương pháp của quản lí hành chính
– Phương pháp giáo dục ý thức, tư tưởng, đạo đức
Đây là sư tác động về tinh thần và tư tưởng đối với con người để họ giác ngộ lí tưởng, hình
thành ý thức chính trị, pháp luật đạo đức.
Ý thức đúng thì hành động tốt. Trên cơ sở của ý thức, tư tưởng và đạo đức, người lao động sẽ có
tinh thần trách nhiệm, có kỷ luật, có lương tâm, hăng hái lao động.
– Phương pháp tổ chức
Đây là biện pháp đưa con người vào khuôn khổ, kỷ luật, kỷ cương. Để thực hiện tốt biện pháp
này thì có nhiều việc phải làm, nhưng quan trọng nhất là phải có quy chế, quy trình, nội quy hoạt động
cho cơ quan, bộ phận, cá nhân và phải cương quyết thực hiện. Phải kiểm tra và xử lí kết quả đã kiểm
tra một cách dân chủ, công bằng, thưởng, phạt phân minh.
Làm tốt biện pháp này thì trách nhiệm và kỷ luật sẽ được giữ vững và tăng lên, hiệu quả công
việc sẽ cao, đoàn kết nội bộ được đảm bảo. Ngược lại thì tư tưởng sẽ không lành mạnh, đoàn kết nội
bộ không yên, kỷ luật kỷ cương lỏng lẻo, hiệu quả công việc thấp.
– Phương pháp kinh tế
Đây là biện pháp mà chủ thể quản lí hành chính nhà nước tác động gián tiếp đến khách thể quản
lí (con người) dựa trên các lợi ích và chất và các đòn bẩy kinh tế (lương, thưởng, phụ cấp chính sách xã
hội…) để làm cho các khách thể quản lí suy nghĩ đến lợi ích của mình, tự giác thực hiện bổn phận và
trách nhiệm của mình một cách tốt nhất mà không phải đôn đốc, nhắc nhở nhiều về mặt hành chính
mệnh lệnh của chủ thể quản lí.
Tuy nhiên, phải biết kết hợp một cách hài hoà và đúng đắn giữa lợi ích của người công dân, lợi
ích của tập thể, lợi ích Nhà nước. Trong ba lợi ích đó, lợi ích của người dân là động lực trực tiếp lợi ích
của Nhà nước là tối cao.
Phương pháp này được thể hiện cả hai mặt: làm giỏi, hiệu quả lớn thì tăng lương, tăng thưởng,
tăng phụ cấp. Làm sai, hiệu quả không có thì hạ lương hoặc cắt lương, bồi thường vật chất hoặc xử lí
phạt tiền.
– Phương pháp hành chính
Đây là biện pháp tác động trực tiếp của chủ thể quản lí lên các khách thể bằng các mệnh lệnh
hành chính dứt khoát, bắt buộc. Mệnh lệnh này có tính đơn phương thuộc chủ thể quản lí và tính chấp
hành vô điều kiện của khách thể quản lí. Nhưng dân chủ và kỷ luật phải đi đôi, cho nên quyết định của
chủ thể đưa ra sau khi đã thực hiện dân chủ hoá.
Trong bốn phương pháp của nhóm thứ hai này, theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện
nay thì phương pháp giáo dục tư tưởng, đạo đức được nổi lên hàng đầu, phải làm thường xuyên, liên
tục và nghiêm túc. Biện pháp tổ chức là hết sức quan trọng. Phương pháp kinh tế là phương pháp cơ
bản, là động lực thúc đẩy mọi hoạt động quản lí nhà nước. Phương pháp hành chính là rất cần thiết.
Nhưng phải được sử dụng một cách đúng đắn.
Tất cả các phương pháp quản lí hành chính nhà nước có mối quan hệ mật thiết với nhau. Các
công cụ, phương pháp nói trên trong điều kiện chuyển đổi sang cơ chế thị trường thì cần nhấn mạnh
tầm quan trọng đối với các công cụ và các phương pháp kinh tế, nó phải thích ứng với cơ chế thị
trường. Điều đó đòi hỏi phải làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa Nhà nước - Thị trường – Doanh
nghiệp và Công dân.
VI. NÂNG CAO HIỆU LỰC, HIỆU QUẢ QUẢN LÍ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm và mối tương quan giữa hiệu lực và hiệu quả quản lí hành chính nhà nước
Hiệu lực, hiệu quả quản lí hành chính nhà nước có liên quan đến quyền lực, năng lực, kết quả và
chi phí.
Mối liên quan này được thể hiện qua sơ đồ:
Hiệu lực (Effectiveness) và hiệu quả (Efficiency) hành chính nhà nước là chuẩn mực biểu thị
quyền lực nhà nước và năng lực tổ chức thực tiễn của bộ máy quản lí hành chính nhà nước.
Hiệu lực của nền hành chính là hoàn thành đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền quy định,
đạt kết quả dự kiến. Hiệu lực là thực hiện đúng việc.
* Hiệu lực phụ thuộc trực tiếp vào năng lực, chất lượng nền hành chính (thiết kế, tổ chức bộ
máy, đội ngũ công chức);
* Hiệu lực phụ thuộc vào sự ủng hộ của nhân dân
* Hiệu lực còn phụ thuộc vào đặc điểm tổ chức, vận hành của cả hệ thống chính trị, đặc biệt
phương thức lãnh đạo, sự phân công rành mạch giữa các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Hiệu quả của nền hành chính là mối tương quan giữa kết quả thu được sao cho tối đa so với chi
phí thực hiện kết quả đó sao cho tối thiểu. Hiệu quả là thực hiện công việc một cách đúng đắn.
Như vậy, có thể đạt hiệu lực, nhưng chưa chắc đã đạt được hiệu quả, vì phải trả giá quá đắt. Do
đó cần chú ý:
* Đạt hiệu quả tối đa với mức độ chi phí các nguồn lực nhất định;
* Đạt hiệu quả nhất định với mức độ chi phí các nguồn lực tối thiểu;
* Đạt hiệu quả không chỉ với chi phí nguồn lực – hiệu quả kinh tế, mà còn hiệu quả xã hội.
Trong những trường hợp nhất định, cần xem xét hiệu quả về mặt định tính và định lượng. Xét
về định lượng, hiệu quả chỉ có thể đạt được nếu giữ vững các mối tương quan sau đây giữa kết quả
(đầu ra) và chi phí (đầu vào):
* Kết quả tăng lên, chi phí cũng tăng nhưng chậm hơn.
* Kết quả tăng, chi phí vẫn giữ nguyên.
* Kết quả tăng, chi phí giảm.
* Kết quả giữ nguyên, chi phí giảm.
* Kết quả giảm, chi phí giảm nhanh hơn.
2. Những định hướng và giải pháp cơ bản để nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lí hành
chính nhà nước
Một là, quán triệt các quan điểm, nguyên tắc trong việc tiếp tục cải cách bộ máy, xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng chiến lược cải cách hành chính.
Hai là, thấu suốt những tư tưởng chỉ đạo tiến trình cải cách hành chính nhà nước. Tiến trình cải
cách hành chính nhà nước được xem:
– Là một bộ phận trọng yếu của việc xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam
gắn với đổi mới và chỉnh đốn Đảng.
– Là một nền hành chính nhà nước dân chủ phục vụ đắc lực nhân dân, giữ vững trật tự kỷ cương
xã hội theo pháp luật.
– Là phục vụ đắc lực và thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc tiếp tục sự nghiệp đổi mới, phát triển đất
nước theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
– Là xuất phát từ yêu cầu cuộc sống, sát với hoàn cảnh thực tế của đất nước đồng thời phải thích
ứng với xu thế của thời đại, nhằm thu được kết quả thiết thực, tác động tích cực đến mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội.
Ba là, tiếp tục chấn chỉnh bộ máy hành chính nhà nước, phân định lại thẩm quyền, phân cấp,
phân công thẩm quyền, ủy quyền cụ thể rõ ràng, xây dựng quy chế hoạt động của hệ thống quản lí
hành chính nhà nước, đặc biệt đối với các cấp chính quyền địa phương. Phân biệt và có cơ chế thích
đáng quản lí bộ máy hành chính nhà nước ở thành phố, thị xã, thị trấn, quận, phường, đẩy mạnh công
cuộc cải cách thủ tục hành chính.
Bốn là, đào tạo cán bộ, bồi dưỡng cán bộ – công chức quản lí hành chính cả về lí luận chính trị,
phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn và năng lực, kỹ năng điều hành thực tiễn, trước hết là đội ngũ
cán bộ chủ chốt, coi trọng đức và tài, trong đó đức là gốc.
Năm là, thực hiện Pháp lệnh cán bộ – công chức và hoàn thiện chế độ công vụ.
Sáu là, nâng cao hiệu lực hoạt động của Toà án hành chính.
Dựa trên cơ sở các định hướng và giải pháp đã trình bày ở trên, chuyển đổi nền hành chính nước
ta sang nền hành chính phát triển, từng bước hiện đại hoá.
C. QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA QUẢN LÍ NHÀ NƯỚC VỀ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1. Khái niệm
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực
nhà nước đối với các hoạt động giáo dục và đào tạo, do các cơ quan quản lí giáo dục của nhà nước từ
trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện chức năng, nhiệm vụ do nhà nước ủy quyền nhằm phát
triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo, duy trì trật tự, kỉ cương, thoả mãn nhu cầu giáo dục và đào tạo của
nhân dân, thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo của nhà nước.
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo chính là việc nhà nước thực hiện quyền lực công để
điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục và đào tạo trong phạm vi toàn xã hội để thực hiện
mục tiêu giáo dục của nhà nước.
Trong khái niệm quản lí nhà nước về giáo dục có 3 yếu tố cơ bản là: chủ thể, đối tượng và mục
tiêu quản lí nhà nước về giáo dục.
Chủ thể quản lí nhà nước về giáo dục là các cơ quan quyền lực nhà nước (cơ quan lập pháp, cơ
quan hành pháp, cơ quan tư pháp), chủ thể trực tiếp là bộ máy quản lí giáo dục từ trung ương đến cơ sở
(các cơ quan quản lí nhà nước về giáo dục được quy định cụ thể trong điều 87 của Luật Giáo dục).
Đối tượng của quản lí nhà nước về giáo dục là hệ thống giáo dục quốc dân, là mọi hoạt động
giáo dục và đào tạo trong phạm vi cả nước.
Mục tiêu quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo, về tổng thể đó là bảo đảm trật tự, kỷ cương
trong các hoạt động giáo dục và đào tạo, để thực hiện được mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài và phát triển nhân cách của công dân. Mỗi cấp học, ngành học có những mục tiêu
cụ thể được quy định trong Luật Giáo dục và các điều lệ nhà trường.
Tóm lại, quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là sự quản lí của các cơ quan quyền lực nhà
nước, của bộ máy quản lí giáo dục từ trung ương đến cơ sở đối với hệ thống giáo dục quốc dân và các
hoạt động giáo dục của xã hội nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước và hoàn thiện nhân cách cho công dân.
2. Tính chất, đặc điểm và nguyên tắc quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
2.1. Tính chất của quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là quản lí nhà nước về một lĩnh vực cụ thể, cho nên nó
có những tính chất chung của quản lí nhà nước và quản lí hành chính nhà nước, cụ thể như sau:
– Tính lệ thuộc vào chính trị: quản lí nhà nước về giáo dục phục tùng và phục vụ nhiệm vụ
chính trị; tuân thủ chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước.
– Tính xã hội: giáo dục là sự nghiệp của nhà nước và của toàn xã hội. Trong quản lí nhà nước
về giáo dục cần phải coi trọng tính xã hội và dân chủ hoá giáo dục. Giáo dục và đào tạo luôn phát triển
trong mối quan hệ với sự phát triển của kinh tế xã hội.
– Tính pháp quyền: quản lí nhà nước là quản lí bằng pháp luật Quản lí nhà nước về giáo dục và
đào tạo cũng phải tuân thủ hành lang pháp lí mà nhà nước đã quy định cho một hoạt động quản lí các
hoạt động giáo dục và đào tạo, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
– Tính chuyên môn nghiệp vụ: cán bộ – công chức hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo
cần được đào tạo có trình độ tương ứng với yêu cầu về tiêu chuẩn các ngạch, chức danh đã được quy
định. Việc tuyển dụng cán bộ – công chức tuân theo các tiêu chuẩn nghiệp vụ, chức danh mà nhà nước
đã ban hành.
– Tính hiệu lực, hiệu quả, lấy hiệu quả của hoạt động chuyên môn nghiệp vụ để đánh giá cán bộ
– công chức ngành giáo dục và đào tạo; chất lượng, hiệu quả và sự bảo đảm trật tự kỷ cương trong giáo
dục và đào tạo là thước đo trình độ, năng lực, uy tín của các cơ sở giáo dục và đào tạo và của các cơ
quan quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo.
2.2. Đặc điểm của quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
Trong một số tính chất nêu trên, có những tính chất có nét đặc biệt mà ta có thể nhấn mạnh hơn
và chúng trở thành các đặc điểm cần lưu ý.
Quản lí nhà nước là việc thực thi ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp để điều chỉnh mọi
quan hệ xã hội và hành vi của công dân.
Quản lí hành chính nhà nước là thực thi quyền hành pháp để tổ chức, điều chỉnh mọi quan hệ xã
hội, hành vi công dân.
Đối với lĩnh vực giáo dục và đào tạo, một hoạt động mang tính xã hội cao, quản lí nhà nước về
giáo dục và đào tạo ở cấp cơ sở thực chất là thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền do nhà nước
phân cấp và thực tế là thực thi quản lí hành chính nhà nước đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo. Vì
vậy ở cấp cơ sở khái niệm quản lí nhà nước và quản lí hành chính nhà nước đối với giáo dục và đào tạo
giao thoa với nhau. Bởi vì đây chính là cấp tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về hành
chính giáo dục. Trên cơ sở nhận thức đó cần nhấn mạnh 3 đặc điểm sau:
2.2.1. Đặc điểm kết hợp quản lí hành chính và quản lí chuyên môn trong các hoạt động quản lí
giáo dục
Quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo ở cơ sở thực chất là triển khai các hoạt động hành
chính nhà nước trong quá trình chỉ đạo các hoạt động giáo dục ở cơ sở. Nó vừa theo nguyên tắc quản lí
hành chính nhà nước vừa theo nguyên tắc hành chính giáo dục đối với một cơ sở giáo dục. Đặc điểm
hành chính – giáo dục là đặc điểm quan trọng nhất trong hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục và chỉ
đạo với nhà trường.
Hành chính giáo dục thực chất là triển khai chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn do nhà nước ủy
quyền, thay mặt nhà nước triển khai sự nghiệp giáo dục và vào tạo và điều hành, điều chỉnh các hoạt
động giáo dục và đào tạo trên địa bàn nhằm bảo đảm các quy định, quy chế về giáo dục và thực hiện
được mục tiêu giáo dục mà nhà nước quy định. Với vai trò trên, các hoạt động quản lí như bảo đảm
môi trường giáo dục, đảm bảo điều kiện giáo dục, bảo đảm trật tự, kỉ cương nhà trường; thanh tra,
kiểm tra để bảo đảm quá trình giáo dục và đào tạo thực hiện đúng quy định của nhà nước về mục tiêu,
nội dung, quy chế… là hoạt động mang nhiều tỉnh quản lí hành chính, mặt khác các hoạt động quản lí
quá trình sư phạm… lại mang nhiều tính quản lí chuyên môn. Rõ ràng quản lí cơ sở giáo dục (nhà
trường) thực chất là quản lí các hoạt động hành chính – sư phạm thâm nhập vào nhau, chúng là hai mặt
của một quá trình quản lí: quản lí nhà trường. Tuy nhiên, khi ta thực hiện tốt những quy chế chuyên
môn chính là ta đang bảo đảm trật tự, kỷ cương trong các hoạt động sư phạm. Mặt khác khi ta chú ý
thích đáng tới việc bảo đảm môi trường kinh tế – xã hội, môi trường giáo dục tốt thì chúng cũng góp
phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục. Cần lưu ý rằng quan tâm thích đáng
đến đặc điểm này sẽ giúp cho các cán bộ quản lí giáo dục giải quyết tốt mối quan hệ giữa quản lí theo
ngành và quản lí theo lãnh thổ trong hoạt động quản lí giáo dục của mình. Chính vì vậy, một mặt cần
phải nắm chắc những quy định, quy chế để chỉ đạo việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ ở cơ sở (quản lí
hành chính), mặt khác cần phải hiểu rõ nghiệp vụ sư phạm, đặc điểm của quá trình giáo dục để chỉ đạo
chuyên môn. Chỉ trên cơ sở biết kết hợp quản lí hành chính và quản lí chuyên môn thì mới có thể chỉ
đạo tốt hoạt động giáo dục và đào tạo, tiến tới thực hiện mục tiêu giáo dục và đào tạo của Nhà nước.
2.2.2. Đặc điểm về tính quyền lực nhà nước trong hoạt động quản lí
Đặc điểm thứ hai của quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo cũng là đặc điểm nổi bật của quản
lí nhà nước và quản lí hành chính nhà nước nói chung ở mọi lĩnh vực, đó là tính quyền lực nhà nước
trong các hoạt động quản lí. Đặc điểm này biểu hiện ở ba vấn đề cơ bản là: tư cách pháp nhân trong
quản lí, công cụ và phương pháp quản lí và quan hệ thứ bậc trong quản lí.
– Điều kiện để triển khai quản lí nhà nước là phải có tư cách pháp nhân và yêu cầu về tính hợp
pháp trong quản lí là yêu cầu trước hết. Muốn có tư cách pháp nhân để quản lí phải được bổ nhiệm và
khi đã được bổ nhiệm cần phải thực hiện đúng, đủ chức năng, thẩm quyền. Không lạm quyền cũng
không đùn đẩy trách nhiệm; thực hiện đúng chế độ thủ trưởng trong việc ra quyết định và trong việc
chịu trách nhiệm về các quyết định quản lí trước tập thể và cấp trên. Trong quản lí nhà nước sẽ không
có tư cách pháp nhân để “ra quyền” khi chưa được bổ nhiệm. Tuy nhiên, mỗi tư cách pháp nhân đều có
trách nhiệm và quyền hạn tương ứng, việc hiểu cho đúng, làm cho đủ thẩm quyền là thước đo khả năng
sử dụng quyền lực Nhà nước của một tư cách pháp nhân. Trong thực tế có những vấn đề phát sinh do
không nhận thức đúng tính quyền lực Nhà nước trong các hoạt động quản lí. Thoái quyền và lạm
quyền là hai thái cực của sự vi phạm thẩm quyền, mặt khác khái niệm thẩm quyền cũng gắn với sự
phân cấp và tuân thủ thứ bậc chặt chẽ trong quản lí nhà nước.
– Phương tiện quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo là các văn bản pháp luật và pháp quy.
Phương pháp chủ yếu để quản lí nhà nước là phương pháp hành chính tổ chức. Cần nhận thức rằng
pháp luật, pháp quy là sự cụ thể hoá chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, phản ảnh lợi ích
của toàn dân, vì vậy đây chính là hành lang pháp lí cho việc triển khai các hoạt động quản lí giáo dục,
bảo đảm tính quyền lực nhà nước trong quản lí. Việc không tuân thủ hành lang pháp lí trong các hoạt
động quản lí giáo dục tức là vi phạm trật tự kỷ cương và sẽ bị xử lí theo quy định của pháp luật.
– Trong quản lí nhà nước phải tuân thủ thứ bậc chặt chẽ hoạt động quản lí theo sự phân cấp rõ
ràng và mệnh lệnh – phục tùng là biểu hiện rõ nhất của tính quyền lực trong quản lí nhà nước. Tính
quyền lực nhà nước ở đây cũng chính là việc cán bộ quản lí giáo dục cấp phòng cần nhận thức đầy đủ
rằng cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương trong quá trình quản lí
giáo dục.
2.2.3. Kết hợp nhà nước – xã hội trong quá trình triển khai quản lí nhà nước về giáo dục và đào
tạo
Chúng ta đều biết giáo dục và đào tạo là một hoạt động mang tính xã hội cao và Đảng ta cũng
đã nhấn mạnh tư tưởng giáo dục và đào tạo là sự nghiệp của nhà nước và của toàn xã hội.
Rõ ràng, dân chủ hoá và xã hội hoá công tác giáo dục là một tư tưởng có tính chiến lược và nó
có vai trò rất to lớn trong sự phát triển giáo dục nói chung và quản lí giáo dục nói riêng. Nhiều bài toán
quản lí giáo dục sẽ rất khó giải quyết nếu không có sự tham gia của đông đảo lực lượng xã hội. Đây
cũng là một đặc điểm quan trọng cần nhận thức trong quản lí giáo dục.
Tóm lại: Quản lí nhà nước về giáo dục là việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền do
nhà nước quy định, phân cấp trong các hoạt động quản lí giáo dục. Ở một cơ sở giáo dục (nhà trường),
quản lí nhà nước về giáo dục thực chất là quản lí các hoạt động hành chính – giáo dục, vì vậy nó có hai
mặt quản lí thâm nhập vào nhau, đó là quản lí hành chính sự nghiệp giáo dục và quản lí chuyên môn
trong quá trình sư phạm.
2.3. Nguyên tắc quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
Hoạt động quản lí nhà nước về giáo dục cần quán triệt hai nguyên tắc cơ bản sau:
2.3.1. Nguyên tắc kết hợp quản lí theo ngành và quản lí theo lãnh thổ
Mọi cơ sở giáo dục thực hiện chức năng, nhiệm vụ giáo dục và đào tạo theo sự chỉ đạo ngành
dọc, nhưng các cơ sở giáo dục đều đóng trên một địa bàn cụ thể nào đó, vì vậy cũng phải tuân thủ sự
quản lí hành chính của địa phương theo quy định phân cấp của nhà nước.
Mọi hoạt động quản lí không thể tách rời sự chỉ đạo theo ngành dọc và theo lãnh thổ và chúng
được coi là một nguyên tắc quan trọng trong quản lí nhà nước nói chung và quản lí nhà nước về giáo
dục nói riêng.
Nội dung chủ yếu của nguyên tắc này dưới góc độ vĩ mô có thể diễn đạt như sau: sự nghiệp giáo
dục, hệ thống giáo dục quốc dân là một hệ thống nhất. Bộ Giáo dục và Đào tạo là cơ quan quản lí nhà
nước về giáo dục và đào tạo thống nhất trong phạm vi cả nước. Chính quyền địa phương quản lí nhà
nước về giáo dục và đào tạo theo phân lãnh thổ của mình thông qua cơ quan chuyên môn, theo nhiệm
vụ, quyền hạn do nhà nước quy định phù hợp với cơ chế phân cấp.
Để thực hiện được điều đó nhà nước đã quy định cụ thể nhiệm vụ quyền hạn của ngành và địa
phương như sau:
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Giáo dục và Đào tạo được nhà nước quy định, như:
– Xét duyệt và cho phát hành các loại sách giáo khoa.
– Quy đình tiêu chuẩn đánh giá, thể lệ cấp phát và thu hồi văn bằng, chứng chỉ giáo dục và đào
tạo.
– Xây dựng tiêu chuẩn định mức giáo viên, tổ chức, quản lí thống nhất việc đào tạo, bồi dưỡng
đội ngũ giáo viên các cấp.
– Thực hiện chức năng thanh tra giáo dục trong cả nước
+ Nhiệm vụ, quyền hạn Hội đồng nhân dân địa phương:
– Quyết định quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục của địa phương.
– Giám sát việc thi hành pháp luật và chủ trương chính sách về giáo dục ở địa phương.
– Quyết định chủ trương huy động và sử dụng nguồn lực ở địa phương nhằm phát triển sự
nghiệp giáo dục và đào tạo ở địa phương.
+ Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban Nhân dân địa phương.
– Xây dựng và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển giáo dục, bảo đảm các điều kiện cho các
hoạt động sự nghiệp giáo dục trên địa bàn.
– Quản lí các trường, các cơ sở giáo dục theo sự phân cấp.
– Chỉ đạo thực hiện xã hội hoá giáo dục, tổ chức thực hiện phổ cập, xoá mù chữ.
Nói chung, chính quyền địa phương có trách nhiệm bảo đảm môi trường kinh tế – xã hội lành
mạnh cho các hoạt động giáo dục diễn ra đúng mục tiêu của nhà nước.
Trong hoạt động quản lí ở một cơ sở giáo dục và đào tạo địa phương phải tuân thủ những quy
định, quy chế chuyên môn của ngành dọc (thực hiện quy chế thi cử, văn bằng chứng chỉ, chỉ thị năm
học…). Sự kết hợp có hiệu quả sự chỉ đạo của ngành và lãnh thổ trong việc triển khai các hoạt động
quản lí giáo dục làm một nguyên tắc quan trọng trong quản lí nhà nước về giáo dục.
2.3.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ trong quản lí giáo dục và đào tạo
Nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong hoạt động chính trị xã hội ở nước ta,
đồng thời cũng là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Quản lí
nhà nước về giáo dục cũng tuân thủ nguyên tắc này. Nguyên tắc tập trung dân chủ yêu cầu nhà nước
thống nhất quản lí hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình, nội dung… quy chế thi cử và
hệ thống văn bằng (Điều 13, Luật Giáo dục). Bên cạnh đó phân cấp rõ ràng về quản lí giáo dục cho địa
phương và tạo điều kiện để cơ sở phát huy chủ động và sáng tạo.
Nguyên tắc tập trung dân chủ cũng đòi hỏi trong quá trình triển khai quản lí, chỉ đạo cần tuân
thủ những quy định chung của cấp trên về chủ trương, đường lối, phát triển giáo dục; đòi hỏi cơ sở
phải tuân thủ hành lang pháp lí đã quy định nhưng tuyệt đối không được áp đặt, cần tạo điều kiện cho
cơ sở phát huy quyền chủ động sáng tạo của họ.
Nguyên tắc tập trung dân chủ có thể vận dụng được trong hoạt động quản lí nhà nước về giáo
dục ở cơ sở cần suy nghĩ trả lời cho câu hỏi: làm thế nào giải quyết tốt mối quan hệ giữa chế độ thủ
trưởng và thực hiện dân chủ cơ sở ở một trường học?
Rõ ràng nguyên tắc tập trung dân chủ đối với quản lí nhà nước về giáo dục có nghĩa là Nhà
nước thống nhất, tập trung quản lí về chế độ, chính sách giáo dục, về mục tiêu, nội dung giáo dục và
quy chế văn bằng… Tuy nhiên, tạo điều kiện cho cơ sở chủ động sáng tạo trong việc triển khai các
hoạt động giáo dục và quản lí giáo dục cụ thể, tránh việc ôm đồm hoặc buông lỏng trên cơ sở phân cấp,
phân quyền về quản lí giáo dục rõ ràng bằng một hành lang pháp lí hợp lí, đồng bộ. Đối với cơ sở, phát
huy quyền làm chủ của tập thể sư phạm, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân theo chế độ thủ trưởng
đối với việc quản lí nhà nước. Dân chủ hoá giáo dục, dân chủ hoá nhà trường là các tư tưởng lớn, tuy
nhiên việc dựa vào các văn bản pháp luật, pháp quy để đảm bảo quyền và nghĩa vụ đối với mọi đối
tượng tham gia hoạt động giáo dục là điều cần nắm chắc khi triển khai nguyên tắc tập trung dân chủ ở
cơ sở.
Tóm lái, nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ ở đây là phát huy quyền chủ động
của cơ sở dựa trên hành lang pháp lí được quy định bởi Luật Giáo dục và những văn bản pháp quy
trong hoạt động quản lí giáo dục đồng thời nâng cao tinh thần cá nhân phụ trách, tập thể lãnh đạo và
phát huy dân chủ của tập thể theo quy chế dân chủ cơ sở do Chính phủ và Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành.
3. Nội dung quản lí nhà nước về giáo dục và đào tạo
Quản lí nhà nước đối với các cấp quản lí đào tạo bao gồm bốn nội dung chủ yếu sau đây:
Một là: Hoạch định chính sách cho giáo dục và đào tạo. Lập pháp và lập quy cho các hoạt động
giáo dục và đào tạo. Thực hiện quyền hành pháp trong quản lí giáo dục.
Hai là: Tổ chức bộ máy quản lí giáo dục.
Ba là: Huy động và quản lí các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục.
Bốn là: Thanh tra, kiểm soát nhằm thiết lập trật tự kỷ cương pháp luật trong hoạt động quản lí
giáo dục và phát triển sự nghiệp giáo dục.
Tuy nhiên quản lí nhà nước ở các cấp độ khác nhau được cụ thể hoá nội dung không hoàn toàn
giống nhau.
– Đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo, cơ quan thay mặt Chính phủ thực hiện quyền quản lí nhà
nước về giáo dục, theo khuyến cáo của Hội đồng Giáo dục Quốc gia tập trung làm tốt những nội dung
sau:
+ Xây dựng chiến lược và kế hoạch phát triển ngành.
+ Xây dựng cơ chế chính sách và quy chế quản lí nội dung và chất lượng giáo dục và đào tạo.
+ Tổ chức thanh tra, kiểm tra và thẩm định.