Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Tổng hợp 35 câu hỏi đáp án Triết học cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (667.95 KB, 90 trang )

Mục lục
Mục lục 1
Câu 1: Phân tích mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và vận dụng mối quan hệ này vào công cuộc đổi
mới nước ta hiện nay? 3
Câu 2. Anh chị hãy phân tích cơ sở lý luận và và nêu ra các yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc
khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang vận dụng nguyên
tắc này như thế nào vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay ? 6
Câu 3.Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, anh ( chị) hãy phân tích làm sáng tỏ luận
điểm sau đây của C. Má.c: 10
“ Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực lượng vật
chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật
chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng” 10
Câu 4. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện. Vì sao trong hoạt động nhận thức và trong
thực tiễn chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện? Hãy vận dụng nguyên tắc này vào công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay 11
Câu 5. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển. Vì sao trong hoạt động nhận thức và trong
thực tiễn chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc phát triển? Hãy vận dụng nguyên tắc này vào công cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay 15
Câu 6: Vì sao trong hoạt động nhận thức và thực tiễn chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc lịch sử - cụ
thể ? Hãy vận dụng nguyên tắc này vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay 18
Câu 7: Phân tích nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mác – Lênin;
Vận dụng nguyên tắc này vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay 25
CÂU 8. Bằng lý luận và thực tiễn, Anh( chị) hãy chứng minh rằng: “ Trong mọi thời đại, những tư
tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng
vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội” 31
CÂU 9: Bằng hiểu biết của mình về nội dung của chủ nghĩa duy vật lịch sử, Anh ( chị) hãy làm sáng tỏ
luận điểm sau đây của Lênin: 32
“ Chủ nghĩa duy vật lịch sử của Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học . Một lý luận hết
sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện, vẫn ngự trị từ trước đến nay trong
các quan niệm về lịch sử và chính trị” 32
CÂU 10: Hãy giải thích và chứng minh luận điểm sau đây của Lênin: 41


“ Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội vào những quan hệ sản xuất, và đem quy những quan hệ sản
xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có được một cơ sở vững chắc để
quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên” 41
1
Câu 11. Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng. Vận dụng mối
quan hệ này vào việc xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện nay.
44
Câu 12: Anh ( chị) hãy làm rõ sự khác biệt giữa quan niệm về con người trong triết học Mác với quan
niệm về con người trong lịch sử triết học trước Mác và vận dụng các quan điểm về con người trong
triết học Mác vào việc phát huy nguồn lực con người ở Việt Nam hiện nay 46
Câu 13/ Lý luận là gì? Tư duy lý luận là gì? Vai trò của triết học Mác trong việc nâng cao năng lực tư
duy lý luận? Bình luận nhận định của Ph.Ăngghen: “Một dân tộc muốn đứng vững trên đỉnh cao của
khoa học thì không thể không có tư duy lý luận”… “Cứ mỗi lần khoa học đạt được thành tựu mới thì
triết học phải thay đổi hình thức tồn tại của chính mình” 50
Câu 15/ Phân tích cơ sở triết học (lý luận & phương pháp luận) trong khẳng định của Đảng Cộng sản
Việt Nam: “Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách
quan”. 54
Câu 16. Bằng lý luận và thực tiễn, chứng minh rằng: “Ý thức con người không chỉ phản ánh thế giới mà
còn góp phần sáng tạo ra thế giới” 57
Câu 21. Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc lịch sử – cụ thể. Tại sao
nói: “Nguyên tắc lịch sử – cụ thể là ‘linh hồn’ phương pháp luận của chủ nghĩa Mác”. Đảng CSVN đã
vận dụng nguyên tắc này như thế nào vào thực tiễn cách mạng VN hiện nay? 58
Câu 22. Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phân tích mâu thuẫn
(phân đôi cái thống nhất). Đảng CSVN đang vận dụng nguyên tắc này như thế nào vào quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay? 61
Câu 23. Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phân tích lượng – chất.
Đảng CSVN đang vận dụng nguyên tắc này như thế nào vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay? 65
Câu 24. Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng.
Đảng CSVN đang vận dụng nguyên tắc này như thế nào vào quá trình xây dựng nền văn hóa xã hội chủ

nghĩa ở Việt Nam hiện nay? 68
Câu 25: Bằng lý luận và thực tiễn, chứng minh rằng, cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ là một quá
trình khó khăn, lâu dài, phức tạp; cái mới có thể thất bại tạm thời nhưng cuối cùng nó sẽ chiến thắng
cái cũ 72
Câu 26: Giải thích câu nói của V.I.Lênin: “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về
sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều
đó đòi hỏi phải có sự giải thích và một sự phát triển thêm” 73
Câu 27: Giải thích câu nói của V.I.Lênin: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn là quan điểm thứ nhất
và cơ bản của lý luận nhận thức” 75
Câu 28: Phân tích cơ sở lý luận và yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn. Việc tuân thủ nguyên tắc này sẽ khắc phục được những hạn chế gì trong hoạt động nhận
thức và hoạt động thực tiễn? 76
2
Câu 29: Hình thái kinh tế xã hội là gì? Vạch ra ý nghĩa của học thuyết hình thái kinh tế – xã hội? Phân
tích tư tưởng của Mác: “Sự phát triển hình thái kinh tế – xã hội là quá trình lịch sử – tự nhiên”. Đảng
CSVN đã vận dụng học thuyết hình thái KT-XH như thế nào vào thực tiễn cách mạng VN hiện nay? 78
Câu 31: Phân tích nội dung cơ bản của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất. Tại sao nói quy luật này là quy luật cơ bản và phổ biến nhất của xã hội lòai người.
Đảng CSVN đã vận dụng quy luật này như thế nào vào quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
hiện nay 80
Câu 32 :Phân tích mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng? Sự vận dụng
mối quan hệ này trong công cuộc đổi mới ở nước ta? 82
Câu 33 : Giai cấp là gì? Bằng lý luận và thực tiễn, chứng minh rằng: “Trong mọi thời đại, những tư
tưởng của giai cấp thống trị là những tư tưởng thống trị. Điều đó có nghĩa là giai cấp nào là lực lượng
vật chất thống trị trong xã hội thì cũng là lực lượng tinh thần thống trị trong xã hội” 84
Câu 34:Nhà nước pháp quyền là gì? So sánh NNPQ tư sản & NNPQ xã hội chủ nghĩa. Phân tich cơ sở
kinh tế, cơ sở chính trị và cơ sở xã hội của NNPQ xã hội chủ nghĩa Việt Nam 86
Câu 35:Phân tích quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người và về vấn đề giải phóng
con người 88
“Con người là một thực thể tự nhiên mang đặc tính xã hội; có sự thống biện chứng giữa hai phương

diện tự nhiên và xã hội” 88
Câu 1: Phân tích mối quan hệ giữa vật chất với ý thức và vận dụng mối quan hệ này vào công cuộc
đổi mới nước ta hiện nay?
Trả lời:
*Phân tích mối quan hệ giữa vật chất với ý thức:
- Khái niệm về vật chất
+ Theo Lênin “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc
vào cảm giác”
+Vật chất là phạm trù triết học, là sản phẩm của sự trừu tượng hóa nên không có các thuộc tính cụ thể mà
ta cảm nhận trực tiếp bằng giác quan. Vì vậy ta không thể đồng nhất vật chất với một dạng cụ thể của
nó.Thuộc tính cơ bản của vật chất là tồn tại khách quan tất cả những gì tồn tại ngoài ý thức có thể tác
động vào giác quan
-Khái niệm về ý thức: Ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong đầu óc con người, phản ánh thế
giới vật chất xung quanh, hình thành phát triển trong quá trình lao động và định hình thể hiện ra bằng
ngôn ngữ
3
-Mối quan hệ giữa vật chất với ý thức
+Tính quyết định của vật chất đối với ý thức
• Vật chất có trước ý thức
• Vật chất là nguồn gốc của ý thức
• Vật chất quyết định ý thưc
 Vật chất quyết định nội dung ý thức
 Vật chất quyết định hình thức biểu hiện (tồn tại) của ý thức
 Vật chất quyết định vai trò và tác dụng của ý thức
+Vai trò của ý thức đối với vật chất
• Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực
• Khi thông qua lực lượng vật chất và bằng lực lượng vật chất (vật chất hóa tri thức khoa học, quần
chúng hóa quan điểm cách mạng…), ý thức đi vào hoạt động thực tiễn của con người, khi đó nó
sẽ tác động trở lại các tiến trình vật chất

 Những yếu tố ý thức đúng đắn, tiến bộ thì sẽ thúc đẩy các tiến trình vật chất trong xã hội
tiến lên
 Những yếu tố ý thức sai lầm cổ hũ, phản động sẽ kìm hãm sự phát triển của các tiến trình
vật chất trong xã hội
• Vật chất hóa ý thức càng sâu rộng thì sức tác động của ý thức càng lớn
*Vận dụng mối quan hệ giữa vật chất với ý thức vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
Thựctrạng:
_Trướcđổimới:
Kinhtế(vậtchất):
Cơsởvậtchấtkỹthuậtyếukém,cơcấukinhtếnhiềumặtmấtcânđối,năngxuấtlaođộngthấp,sảnxuấtchưađả
mbảonhucầuđờisống,sảnxuấtnôngnghiệpchưacungcấpđủthựcphẩmchonhândân,nguyênliệuchocôngnghiệp,
hànghoáchoxuấtkhẩu.
Chínhtrị(ýthức):
Chúngtachưatìmrađượcđầyđủnhữngnguyênnhânđíchthựccủasựtrìtrệtrongnềnkinhtếcủanướctavàcũ
ngchưađềracácchủtrươngchínhsáchvàtoàndiệnvềđổimới,nhấtlàvềkinhtế,chúngtachưakiênquyếtkhắcphụcch
ủquan,trìtrệtrongbốtrícơcấukinhtế,cảitạoxãhộichủnghĩavàquảnlýkinhtếvàphạmnhữngsailầmtronglĩnhvựcp
hânphốilưuthông.
_Sauđổimới:
Chínhtrị:
Đảngvànhànướcđãđisâunghiêncứu,phântíchtìnhhình,lấyýkiếnrộngrãicủacơsở,củanhândân.vàđặcbi
ệtlàđổimớitưduyvềkinhtế.
ĐạihộilầnthứVIcủaĐảngđãrútrabàihọckinhnghiệmlớn,trongđó:phảiluônxuấtpháttừthựctế,tôntrọng
vàhànhđộngtheoquyluậtkháchquan.Đảngđãđềrađườnglốiđổimới,mởrabướcngoặttrongsựnghiệpxâydựngch
ủnghĩaxãhộiởnướcta.VàđếnĐạihộiđạibiểutoànquốclầnthứVII,tađãđánhgiátìnhhìnhchínhtrịxãhộiViệtNams
4
auhơnbốnnămthựchiệnđườnglốiđổimới:côngcuộcđổimớibướcđầuđãđạtđượcnhữngthànhtựubướcđầurấtqua
ntrọng,tìnhhìnhchínhtrịcủađấtnướcổnđịnh.
Kinhtế:
Nềnkinhtếcónhữngchuyểnbiếntíchcực,bướcđầuhìnhthànhnềnkinhtếhànghoánhiềuthànhphần,vậnđ
ộngtheocơchếthịtrườngcósựquảnlýcủanhànước,nguồnlựcsảnxuấtcủaxãhộiđượchuyđộngtốthơn,đờisốngvật

chấttinhthầncủamộtbộphậnnhândâncóphầnđượccảithiện.Sinhhoạtdânchủtrongxãhộingàycàngđượcpháthuy

Đảng chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,
đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, phù hợp theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền
với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, boả vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát trển kinh tế xã hội với tăng
cường quốc phòng an ninh.
Cùng với quá trinh vận dụng của Đảng trong công cuộc đổi mới kinh tế đất nước thì phát triển
giáo dục và đào tạo khoa học ông nghệ, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân téc. Về giáo
dục đào tạo tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện đổi mới nội dung phương pháp va hệ thống
quản lý giáo dục…Về khoa học công nghệ khoa học xã hội và nhân văn hướng vào giải đáp các vấn đề
lý luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển , cung cấp luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường
lối chủ trương cuả Đảng …
Tăng cường quốc phòng và an ninh bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa la bảo vệ vững chắc độc lập
tự chủ, an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, kết hợp chặt chẽ kinh tế quốc phòng và an ninh và kinh tế
trong các chiến lược. Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, trong đó chủ động
hội nhập kinh tê quốc tế và khu vực. Phát huy sức manh đại đoàn kết toàn dân .
Vận dụng:
-“ Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” trong đánh giá tình hình, “Tôn trọng quy luật khách quan”
trong quá trình đổi mới
+ Xuất phát từ hiện thực khách quan của đất nước, của thời đại để hoạch định chiến lược, sách lược phát
triển đất nước
+Biết tìm kiếm, khai thác, tổ chức, sử dụng những lực lượng vật chất (cá nhân-cộng đồng, kinh tế-quân
sự, trong nước-ngoài nước, quá khứ-tương lai…) để phục vụ cho sự nghiệp Đổi mới
+Coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, coi đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu phát triển
đất nước
+Biết kết hợp hài hòa các dạng lợi ích khác nhau (kinh tế, chính trị, tinh thần: cá nhân, tập thể, xã hội…)
thành động lực thúc đẩy Đổi mới

+ “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”
-Khơi dậy và phát huy tối đa sức mạnh tinh thần, truyền thống tốt đẹp của dân tộc
+Coi sự thống nhất nhiệt tình cách mạng và tri thức khoa học là động lực tinh thần thúc đẩy công cuộc
Đổi mới
5
+Bồi dưỡng nhiệt tình phẩm chất cách mạng, khơi dậy lòng yêu nước nồng nàn, ý chí quật cường, tài trí
người Việt Nam…
+Coi trọng và đẩy mạnh công tác giáo dục tư tưởng (chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng HCM…), nâng
cao và đổi mới tư duy lý luận (về CNXH và con đường đi lên CNXH…)
+Phổ biến tri thức khoa học – công nghệ cho cán bộ, nhân dân
- Khắc phục chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, đầu óc bảo thủ, trì trệ trong quá trình Đổi mới
+Kiên quyết ngăn ngừa tái diễn bệnh chủ quan duy ý chí; lối suy nghĩ, hành động giản đơn; nóng vội
chạy theo nguyện vọng chủ quan ảo tưởng, bất chấp quy luật hiện thực khách quan
+Chống lại thái độ thụ động, ỷ lại, bảo thủ, trì trệ, thói thờ ơ lãnh đạm…
+Phê phán thói vô trách nhiệm hay đổ lỗi cho hoàn cảnh mà lẫn trốn trách nhiệm cá nhân…
Câu 2. Anh chị hãy phân tích cơ sở lý luận và và nêu ra các yêu cầu phương pháp luận của nguyên
tắc khách quan của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang vận
dụng nguyên tắc này như thế nào vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước ta hiện
nay ?
Cơ sở lý luận:
Nguyên tắc khách quan trong xem xét được xây dựng dựa trên nội dung của nguyên lý về tính
thống nhất vật chất của thế giới. Yêu cầu của nguyên tắc này được tóm tắt như sau:khi nhận
thức khách thể ( đối tượng ), sự vật,hiện tượng tồn tại trong hiện thực -chủ thể tư duy phải nắm bắt,
tái hiện nó trong chính nó màkhông được thêm hay bớt một cách tùy tiện .
Nguyên tắc khách quan trước nhất thừa nhận vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, ta trong
nhận thức và hành động phải xuất phát từ chính bản thân sự vật với những thuộc tính, những mối
liên hệ vốn có của nó, những quy luật khách quan, phải có thái độ tôn trọng sự thật, không được lấy
ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến
lược, sách lược cách mạng. Tuy nhiên, việc thực hiện nguyên tắc khách quan không có nghĩa là quan
điểm khách quan xem nhẹ, tính năng động, sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phát phát huy tính

năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố chủ quan.
• Vật chất là cái có trước tư duy. Vật chất tồn tại vĩnh viễn và ở một giai đọan phát triển
nhất định của mình nó mới sản sinh ra tư duy. Do tư duy phản ánh thế giới vật chất, nên tron
g quá trình nhận thức đối tượng ta không được xuất phát từ tư duy, từ ý kiến chủ
quan của chúng ta về đối tượng.mà phải xuất phát từ chính bản thân đối tượng, từ bản
chất của nó, không được ”bắt” đối tượng tuân theo tư duy mà phải “bắt” tư duy tuân
theo đối tượng. Không ép đối tượng thỏa mãn một sơ đồ chủ quan hay một “Lôgíc” nào đó,
mà phải rút ra những sơ đồ từ đối tượng, tái tạo trong tư duy các hình tượng, tư
tưởng- cái lôgíc phát triển của chính đối tượng đó.
• Toàn bộ “nghệ thuật” chinh phục bản chất của sự vật, hiện tượng được gói ghém trong
sự tìm kiếm, chọn lựa, sử dụng những con đường, cách thức, phương tiện thâm nhập
hữu hiệu vào “thế giới” bên trong của sự vật, “nghệ thuật” chinh phục như thế không
6
mang đến cho sự vật, hiện tượng một cái gì đó xa lạ với chính nó. Điều này đặt ra cho
chủ thể một tình thế khó khăn. Làm như thế nào để biết chắc chắn những suy nghĩ của
chúng ta về sư vật là khách quan, là phù hợp với bản thân sự vật? Nguyên tắc khách
quan đòi hỏi được bổ sung thêm yêu cầu phát huy tính năng động sáng tạo của chủ thể và
nguyên tắc tính đảng .
• Giới tự nhiên và xã hội không bao giờ tự phơi bày tòan bộ bản chất của mình ra thành
các hiện tượng điển hình. Con người không phải chỉ nhận thức những cái gì bộc lộ ra
trước chủ thể. Do đó để phản ánh khách thể như một chỉnh thể, chủ thể tư duy không thể kh
ông bổ sung những yếu tố chủ quan như đề xuất các giả thuyết, đưa ra các dự đóan
khoa học ….thiếu những điều này tư duy sẽ không mang tính biện chứng, sẽ không thể hiện
bản tính sáng tạo thông qua trí tưởng tượng của chính mình. Yêu cầu phát huy tính năng độn
g sáng tạo của chủ thể đòi hỏi chủ thể tư duy phải biến đổi, thậm chí cải tạo đối tượng để tì
m ra bản chất của nó. Những biến đổi, cải tạo đó là chủ quan nhưng không phải tùy tiện, mà
là những biến đổi và cải tạo đối tượng phù hợp quy luật của hiện thực thuộc lĩnh vực
nghiên cứu .
• Yêu cầu khách quan trong xem xét có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức các hiện
tượng thuộc đời sống xã hội. Đối tượng nghiên cứu bao gồm cái vật chất và cái tinh thần

chứa đầy những cái chủ quan, những cái lý tưởng và luôn chịu sự tác động của các lực
lượng tự phát của tự nhiên lẫn lực lượng tự giác ( ý chí,lợi ích, mục đích, nhân cách, cá
tính khác nhau ) của con người.Ờ đây đối tượng, khách thể tư duy quyện chặt vào chủ
thể tư duy bằng hệ thống những mối liên hệ chằng chịt. Do đó cần phải cụ thể hóa
nguyên tắc khách quan trong xem xét các hiện tượng xã hội, tức là phải kết hợp nó với
các yêu cầu phát huy tính năng động, sáng tạocủachủ thể và nguyên tắc tính đảng. Điều này
có nghĩa là nguyên tắc khách quan trong xem xét không chỉ bao hàm yêu cầu xuất
phát từ chính đối tượng, từ những quy luật vận động và phát triển của nó, không được
thêm bớt tùy tiện chủ quan, mà nó còn phải biết phân biệt những quan hệ vật chất với
những quan hệ tư tưởng, các nhân tố khách quan với các nhân tố chủ quan, thừa nhận
các quan hệ vật chất khách quan tồn tại xã hội là nhân tố quyết định.còn những hiện
tượng tinh thần, tư tưởng được quy định bởi đời sống vật chất củacon người và các quan hệ
kinh tế của họ nhưng chúng có ảnh hưởng ngược lại tồn tại xã hội. Phải coi xã hội là một
là một cơ thể sống tồn tại và phát triển không ngừng chứ không phải là cái gì đó kết
thành một cách máy móc. Phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu
thành một hình thái kinh tế xã hội nhất định và cần phải nghiên cứu những quy
luật vận hành và phát triển của hình thái xã hội đó.
• Khi nhận thức các hiệntượng xã hội chúng ta phải chú trọng đến mức độ quan tâm và
năng lực nhận thứccủa cáclựclượng xã hội đối với việc giải quyết các vấn đề xã hội, đối
với khuynh hướng phát triển của các hiện tượng xã hội, đối với việc đánh giá tình hình
xã hội ….những đánh giá có giá trị hơn, những cách giải quyết đúng hơn thường là
những đánh giá, những cách giải quyết thuộc về các lực lượng xã hội biết đứng trên lập
trường của giai cấp tiên tiến, của những lực lượng cách mạng của thời đại đó. Vì vậy
tính khách quan trong xem xét các hiện tượng xã hội nhất quán với nguyên tắctính đảng. Việ
c xem thường nguyên tắc này dễ dẫnđến vi phạm yêu cầu của nguyên tắc khách
quan trong xem xét, dễ biến nó thành chủ nghĩa khách quan, cản trở việc nhận thức
đúng đắn các hiện tượng xã hội phức tạp.
Những yêu cầu phương pháp luận của nguyên tắc khách quan trong xem xét :
Nguyên tắc khách quan trong xem xét có mối liên hệ mật thiết với các nguyên tắc khác của
lôgíc biện chứng. Nó thể hiện ở yêu cầu cụ thể sau :

7

Trong hoạt động nhận thức :
Chủ thể phải :
Một là : Xuất phát từ hiện thực khách quan, tái hiện lại nó như nó vốn có mà không được tùy
tiện đưa ra những nhận định chủ quan .
Hai là : Phải biết phát huy tính năng động, sáng tạo của chủ thể, đưa ra các giả thuyết khoa học
có giá trị về khách thể, đồng thời biết cách tiếnhành kiểm chứng các giả tuyết đó bằng thực nghiệm.

Trong hoạt động thực tiễn :
Chủ thể phải :
Một là : Xuất phát từ hiện thực khách quan, phát hiệnra nhữngquy luật chi phối nó
Hai là : Dựa trên các quy luật khách quan đó, chúng ta vạch ra các mục tiêu, kế họach, tìm kiếm các
biện pháp, phương thức để tổ chức thực hiện. Kịp thời điều chỉnh, uốn nắn họat động của con
người đi theo lợi ích và mục đích đã đặt ra .
Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức có nghĩa là phát huy vai trò tri thức, tình cảm, ý
chí, lý trí ….tức là phát huy vai trònhân tố conngười trong họat động nhận thức và
họat động thực tiễn cải tạo hiện thực khách quan, vươn lên làm chủ thế giới .
Đảng Cộng Sản Việt Nam đã vận dụng như thế nào vào sự nghiệp cách mạng của Việt Nam :
Sai lầm của Đảng ta trước thời kỳ đổi mới: Đại hội lần thứ VI đã chỉ rõ Đảng đã “nóng vội chạy theo
nguyện vọng chủ quan”, “giản đơn hóa, muốn thực hiện nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện nước
ta mới có chặng đường đầu tiên”: “chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ
SX với tính chất và trình độ SX”; việc đầu tư cơ sở sai và tràn lan, không có cơ sở khoa học, không phù
hợp với điều kiện thực tế về tài nguyên, lao động của từng vùng nên việc khai thác nguồn vốn đầu tư
không hiệu quả, nhiều công trình đầu tư dở dang và thậm chí không đủ nguyên liệu để đưa vào hoạt động
(cụ thể như đầu tư nhà máy đường đều khắp các tỉnh nhưng có tỉnh không đủ nguyên vật liệu để cung cấp
cho nhà máy hoạt động); dùng kế hoạch pháp lệnh để chỉ huy toàn bộ nền kinh tế đất nước, “duy trì quá
lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp” - một cơ chế "gắn liền với tư duy kinh tế dựa trên
những quan niệm giản đơn về chủ nghĩa xã hội, mang nặng tính chất chủ quan, duy ý chí", “có nhiều chủ
trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ “ cùng với “việc bố trí cơ cấu kinh tế trước hết là

SX và đầu tư thường chỉ xuất phát từ lòng mong muốn đi nhanh, không tính đến điều kiện khả năng thực
tế ” nên dẫn đến việc SX chậm phát triển, mâu thuẩn giữa cung và cấu ngày càng gay gắt do việc áp dụng
những chính sách, chủ trương trên đã vi phạm những quy luật khách quan của nền kinh tế SX hàng hóa
(quy luật cung cầu quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh, phá sản …). Tóm lại, việc bỏ qua không thừa
nhận và vận dụng những quy luật khách quan của phương thức sản xuất, của nền kinh tế hàng hóa vào
việc chế định các chủ trương chính sách kinh tế làm cho nền kinh tế nước ta bị trì trệ khủng hoảng trầm
trọng  nguyên nhân: Đó là sự yếu kém lạc hậu về tư duy lý luận, trí thức lý luận không đáp ứng được
yêu cầu của thực tiễn. Đó là việc hiểu và vận dụng chưa đúng nguyên lý, quy luật, phạm trù, chưa chú ý
tiếp thu kế thừa những thành tựu, kỹ thuật công nghệ mới của chủ nghĩa tư bản, của nhân loại, thậm chí
còn có định kiến phủ nhận một cách cực đoan những thành tựu đó, chưa chú ý tổng kết những cái mới từ
sự vận động, phát triển của thực tiễn theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nguyên nhân của bệnh chủ quan là
kém lý luận, lý luận và lý luật suông.
8
Rút kinh nghiệm từ những sai lầm trên, Đại hội Đảng lần VI (1986) đã chỉ rõ bài học kinh nghiệm trong
thực tiễn cách mạng ở nước ta là “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy
luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng” (Văn kiện Đại hội Đảng lần VI trang 30). Đây là sự vận
dụng đúng đắn nguyên tắc khách quan, thừa nhận vai trò quyết định của vật chất và các quy luật khách
quan vốn có của nó trong việc đề ra các chế định, chủ trương, chính sách vào thực tế của công cuộc xây
dựng đất nước ta từ sau ĐH Đảng lần VI
Đại hội Đảng lần VI đã xác định xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn,
không thể làm xong trong một thời gian ngắn, không thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác
định: "Nay phải sửa lại cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên,
liên tục trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm cho
quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác dụng thúc đẩy sự
phát triển của lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn có tính lý luận, hoàn toàn mới
mẻ: "Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ
sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành
phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ".
Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, Đảng và Nhà nước đã điều chỉnh lại theo hướng "không bố trí

xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực tế", tập trung sức người, sức của vào
việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương thực- thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản
xuất hàng xuất khẩu. Đây là những chương trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy
giờ mà còn là điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sản phẩm hàng hóa.
Về cơ chế quản lý kinh tế, lần đầu tiên khái niệm về hàng hóa, thị trường được đưa vào Nghị quyết một
cách rõ ràng "Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước" (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội: ). Cơ chế quản lý kinh tế được Đại hội VI xác định : "Tính kế hoạch là đặc
trưng số một của cơ chế quản lý kinh tế ngay từ buổi đầu của thời kỳ quá độ. Sử dụng đúng đắn quan hệ
hàng hóa - tiền tệ là đặc trưng thứ hai của cơ chế về quản lý kinh tế". Vì vậy, chúng ta phấn đấu thi hành
chính sách một giá, đó là giá kinh doanh thương nghiệp và xây dựng hệ thống ngân hàng chuyên nghiệp
kinh doanh tín dụng và dịch vụ ngân hàng, hoạt động theo chế độ hạch toán kinh tế.
Vấn đề phân phối đã được chú trọng hơn trong quan hệ SX bằng việc thực hiện nhiều hình thức phân
phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời dựa trên mức đóng
góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội.
Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá
trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện cả ở khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu
phân phối kết quả sản xuất. Văn kiện Đại hội chỉ rõ: "Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng
của mọi thành phần kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định
9
trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích làm giàu
hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói giảm nghèo".
Đồng thời với các đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, việc đổi mới bắt đầu từ việc Đảng phải đổi mới tư duy
lý luận, nâng cao năng lực, trình độ lý luận của Đảng để nhận thức đúng và hành động đúng phù hợp với
hệ thống các quy luật khách quan. Đồng thời với việc đổi mới tư duy lý luận, việc tăng cường phát huy
dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT, đội ngũ cán bộ quản lý và tăng cường công tác tổng kết thực
tiễn, tổng kết cái mới, không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn chỉnh lý luận về mô hình, mục tiêu, bước đi,
đổi mới và kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị … là những biện pháp
nhằm từng bước sửa chữa sai lầm và khắc phục bệnh của chủ quan duy ý chí.
Câu 3.Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, anh ( chị) hãy phân tích làm sáng tỏ

luận điểm sau đây của C. Má.c:
“ Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí, lực
lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành
lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”
Gợi ý
Gỉải thích luận điểm
Ở đây, "Vũ khí của sự phê phán" và "lý luận" là khoa học, tư tưởng khoa học, lý luận khoa học,
thuộc phạm trù ý thức, còn "sự phê phán của vũ khí” và "lực lượng vật chất" là hoạt động vật chất, hoạt
động thực tiễn của con người, thuộc phạm trù vật chất. Như vậy, C Mác khẳng định, lý luận khoa học
phải thông qua hoạt động của con người thì mới trở thành lực lượng vật chất.
Phân tích Luận điểm trên tức là làm rõ quan hệ giữa vật chất với ý thức :
Về vật chất, V.I.Lênin đã đưa ra định nghĩa kinh điển về vật chất: ‘‘Vật chất là phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta
chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”.
Còn ý thức là toàn bộ hoạt động tinh thần diễn ra trong đầu óc con người, phản ánh thế giới vật
chất xung quanh, hình thành phát triển trong quá trình lao động và định hình thể hiện ra bằng ngôn ngữ.
Như vậy bản chất của ý thức là sự phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan của bộ óc con
người; là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
+ Trong mối quan hệ với ý thức, vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau; vật chất là nguồn
gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức; ý thức là sự phản ánh đối với vật chất.
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao, là bộ óc người nên chỉ khi có con người
mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì con người là kết quả quá trình
phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của thế giới vật chất, tức vật chất có trước, ý thức có
sau.
Các yếu tố tạo thành nguồn gốc tự nhiên, nguồn gốc xã hội của ý thức (bộ óc người, thế giới
khách quan tác động đến bộ óc gây ra hiện tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ) đều, hoặc là chính bản
thân thế giới vật chất (thế giới khách quan), hoặc là những dạng tồn tại của vật chất (bộ óc người, hiện
tượng phản ánh, lao động, ngôn ngữ) nên vật chất là nguồn gốc của ý thức.
10
Sự vận động và phát triển của ý thức, hình thức biểu hiện của ý thức bị các quy luật sinh học, các

quy luật xã hội và sự tác động của môi trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất
nên vật chất không chỉ quyết định nội dung mà còn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi
sự biến đổi của ý thức.
+ Ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người:
Ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trò của ý thức là nói đến vai trò của con người.
Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực. Muốn thay đổi hiện thực con
người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song, mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ
đạo, nên vai trò của ý thức không phải trực tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho
con người tri thức về thực tại khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương
hướng, xây dựng kế hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, v.v. để thực hiện
mục tiêu của mình.
Như Mác nói, khoa học, là sản phẩm của tư duy, của trí tuệ, nếu không thông qua hoạt động của
người lao động (công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức…), thì không thể biến thành cái gì cả, không thể
sinh ra tác động tích cực hay tiêu cực.
Câu 4. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện. Vì sao trong hoạt động nhận thức và trong
thực tiễn chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện? Hãy vận dụng nguyên tắc này vào
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
4.1 Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện
Định nghĩa
Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một trong những nguyên tắc
phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện chứng duy vật. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn
nhận thức được bản chất của sự vật, hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ
qua lại giữa các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện tượng ấy và
trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật, hiện tượng đó với sự vật hiện tượng khác; tránh cách xem xét phiến
diện, một chiều. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét: đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ, và phải
nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng;
tránh chủ nghĩa chiết trung, kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm của thuật nguy biện, coi
cái cơ bản thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất hoặc ngược lại, dẫn đến sự nhận thức
sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng.
Nguyên tắc toàn diện là một phần của nguyên lý mối quan hệ phổ biến nên cũng có những tính chất của

nguyên lý này là khách quan và phổ biến.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Mọi sự vật, hiện tượng hay quá trình (vạn vật) trong thế giới đều tồn tại trong muôn vàn mối liên hệ ràng
buộc lẫn nhau. Mối liên hệ tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.
11
Trong muôn vàn mối liên hệ chi phối sự tồn tại của chúng có những mối liên hệ phổ biến.Mối liên hệ phổ
biến tồn tại khách quan, phổ biến; chúng chi phối một cách tổng quát quá trình vận động, phát triển của
mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong thế giới.
4.2 Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn phải tôn trọng nguyên tắc toàn diện
Phát hiện nhiều mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) đang chi phối sự tồn
tại của bản thân sự vật. Sẽ xem xét được sự vật từ nhiều góc độ, từ nhiều phương diện.
Xác định được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) nào là bên
trong, cơ bản, tất nhiên, ổn định…; còn những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu
tố, mặt,…) nào là bên ngoài, không cơ bản, ngẫu nhiên,không ổn định…;
Từ những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) bên trong, cơ bản, tất
nhiên, ổn định…sẽ lý giải được những mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố,
mặt…) còn lại. Qua đó, xây dựng một hình ảnh về sự vật như sự thống nhất các mối quan hệ, liên hệ (hay
những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…), phát hiện ra quy luật (bản chất) của nó.
Đánh giá đúng vai trò của từng mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt,…) chi
phối sự vật.
Thông qua hoạt động thực tiễn, sử dụng đồng bộ nhiều công cụ, phương tiện, biện pháp thích hợp (mà
trước hết là những công cụ, phương tiện, biện pháp vật chất) để biến đổi những mối liên hệ, quan hệ (hay
những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản thân sự vật, đặc biệt là những mối liên hệ, quan hệ (…)
bên trong, cơ bản, tất nhiên, quan trọng… của nó.
Nắm vững sự chuyển hóa các mối liên hệ, quan hệ (hay những đặc điểm, tính chất, yếu tố, mặt…) của bản
thân sự vật, kịp thời sự dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp bổ sung để phát huy hay hạn chế sự tác
động của chúng, nhằm lèo lái sự vật vận động, phát triển theo đúng quy luật và hợp lợi ích chúng ta. Quán
triệt và vận dụng sáng tạo nguyên tắc toàn diện sẽ giúp chủ thể khắc phục được chủ nghĩa phiến diện, chủ
nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện… trong hoạt động thực tiễn và nhận thức của chính mình.
Nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện

Mắc phải ba sai lầm là chủ nghĩa phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện:
• Chủ nghĩa phiến diện là cách xem xét chỉ thấy một mặt, một mối quan hệ, tính chất nào đó mà
không thấy được nhiều mặt, nhiều mối quan hệ, nhiều tính chất của sự vật; chỉ xem xét sự vật ở
một góc độ hay từ một phương diện nào đó mà thôi.
• Chủ nghĩa chiết trung là cách xem xét chỉ chú ý đến nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật
nhưng không rút ra được mặt bản chất, không thấy được mội liên hệ cơ bản của sự vật; mà coi
chúng như nhau, kết hợp chúng một cách vô nguyên tắc, tùy tiện.
• Chủ nghĩa ngụy biện là cách xem xét qua đó đánh tráo cái cơ bản với cái không cơ bản, cái chủ
yếu với cái thứ yếu,… hay ngược lại nhằm đạt được mục đích hay lợi ích của mình một cách tinh
vi.
12
Ngoài ra nếu không tôn trọng nguyên tắc toàn diện ta sẽ dễ sa vào chủ nghĩa bình quân, quan điểm dàn
đều, tức không thấy được trọng tâm, trọng điểm, điều cốt lõi trong cuộc sống vô cũng phức tạp.
4.3 Vận dụng nguyên tắc toàn diện vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
Vận dụng của Đảng
Trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, Đảng ta quán triệt thực hiện nguyên tắc toàn diện, tuy
nhiên chúng ta không thực hiện rập khuôn mà có sự kết hợp chặt chẽ giữa “chính sách dàn đều” và “chính
sách trọng điểm”. Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định cần phải đổi mới toàn diện các lĩnh vực của đời
sống xã hội; chú trọng tăng trưởng kinh tế đi liền với thực hiện công bằng xã hội, giải quyết những vấn đề
của xã hội; đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa, đi tới bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc; vừa chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế, vừa đảm bảo độc lập, tự chủ, an ninh quốc phòng…trong đó xác định phát triển
kinh tế là trọng tâm.
Về mặt kinh tế:
Ngay trong việc phát triển kinh tế, quan điểm toàn diện cũng được Đảng ta áp dụng thể hiện cụ thể ở việc
thực hiện phát triển chính sách kinh tế nhiều thành phần có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cụ thể là Nhà nước vẫn thừa nhận vai trò tích cực của các thành phần kinh tế khác cũng
như thừa nhận sự tồn tại của hình thức sở hữu tư nhân.Tuy nhiên, trong đó Đảng ta vẫn đặc biệt nhấn
mạnh và coi trọng hình thức sở hữu công cộng với vai trò chủ đạo là thành phần kinh tế quốc doanh trong
cơ chế thị trường.
Giai đoạn hiện nay, Đảng và nhà nước ta vẫn tuân thủ nguyên tắc trên song song đó là sàng lọc, lựa chọn

và giữ nguyên các tập đoàn quốc doanh kinh doanh có hiệu quả đồng thời xóa bỏ các tập đoàn, doanh
nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả gây hệ lụy xấu cho toàn bộ nền kinh tế.
Về chính trị:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: "Xét trên tổng thể, Đảng ta bắt đầu công
cuộc đổi mới từ đổi mới về tư duy chính trị trong việc hoạch định đường lối và chính sách đối nội, đối
ngoại. Không có sự đổi mới đó thì không có mọi sự đổi mới khác. Song, Đảng ta đã đúng khi tập trung
trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội,
tạo điều kiện cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, xây dựng và củng cố niềm
tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác nhau của đời sống xã hội".
Đảng cộng sản Việt Nam xác định phải ngày càng hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực tổ chức thực tiễn của
Đảng, Nhà nước phải được xây dựng thành Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, quản lý xã hội
bằng pháp luật. Nước ta đã và đang xây dựng một nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững
mạnh, từng bước hiện đại hóa xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực.
Đổi mới chính trị thể hiện ở đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy, phân cấp lãnh đạo của Đảng, dân chủ hoá
trước hết từ trong Đảng. Đổi mới chính trị, tạo điều kiện cho đổi mới kinh tế. Khi đường lối chính trị,
thiết chế chính trị được đổi mới phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thì chính trị trở thành định hướng
13
cho phát triển kinh tế. Đồng thời tạo môi trường phát triển về an ninh trật tự để phát triển kinh tế và chính
trị còn đóng vai trò can thiệp điều tiết, khắc phục những mặt trái do đổi mới kinh tế đưa đến.
Tăng cường quốc phòng an ninh: bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ bảo
vệ an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá.
Về văn hoá, xã hội
Đảng ta coi nguồn lực con người là quý báu nhất, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của đất nước.
Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Cùng với sự đẩy mạnh phát triển kinh tế, chính trị, Đảng ta chủ trương giải quyết tốt các vấn đề xã hội coi
đây là một hướng chiến lược thể hiện bản chất ưu việt của chế độ ta.
Phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc.
Bên cạnh đó, gắn kết tăng trưởng kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống, phát triển y tế, giáo dục.

Đề xuất vận dụng cho công cuộc đổi mới đất nước
Tạo lập tính đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế. Vận dụng quan điểm tòan diện đồng bộ các yếu tố của thị
lao động, thị trường hàng hóa và dịch vụ, thị trường vốn, thì tường bất động sản, thị trường nhà ở, thị
trường đất đai,…là yếu tố cần thiết để thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển. Bên cạnh đó, còn phải
hòan chỉnh đồng bộ và toàn diện hệ thống các công cụ quản lý thị trường xã hội chủ nghĩa. Văn kiện Đại
hội VIII của Đảng chỉ rõ: Nhà nước quản lý thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế, chính sách các
đòn bẩy kinh tế và bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế Nhà nước. Hệ thống các công cụ được Đảng
và Nhà nước chỉ ra là: Các công cụ pháp luật là bảm đảo môi trường pháp lý, môi trường kinh doanh cho
mọi thành phần kinh tế phát triển; công cụ kế hoạch; các công cụ chính sách (CS tiền tệ, CS tài chính );
các công cụ khác (thông tin, truyên truyền dự trữ của Nhà nước, sức mạnh của doanh nghiệp Nhà nước,
…). Hàng loạt các công cụ này không thể bỏ qua bất cứ công cụ nào, nếu thiếu đi một trong những công
cụ trên thì hậu quả không lường sẽ xảy ra.
Phải triệt để thực hiện dân chủ, theo đó phải triển khai và thực hiện đồng bộ: thực sự tôn trọng các quyền
tự do báo chí, quyền bình đẳng trước pháp luật; Triệt để tôn trọng nguyên tắc “Quốc hội là cơ quan quyền
lực cao nhất”; Đảm bảo có hệ thống tòa án độc lập là sự phân quyền vô cùng quan trọng; Tạo cơ chế công
khai, minh bạch, thực sự dân chủ. Nếu bồn điểm nêu trên được thực hiện, dân chúng sẽ tin tưởng ở Đảng
Cộng sản, tin tưởng ở người lãnh đạo và hy vọng về một đất nước tốt đẹp hơn.
Chú trọng xây dựng văn hoá trong đảng, nhất là phong cách văn hoá lãnh đạo, văn hoá quản lý; trong đó,
trước hết cán bộ, công chức phải là những người làm gương, đi đầu; chống những hiện tượng phản văn
hoá, phi văn hoá. Đa dạng hoá các hình thức hoạt động để thu hút toàn dân tham gia phong trào” Toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá”, chú trọng chất lượng, không chạy theo phong trào, hình thức.
Tiếp tục đầu tư các thiết chế văn hoá, phát huy hiệu quả sử dụng phục vụ trong cộng đồng dân cư. Quan
tâm xây dựng lối sống lành mạnh, có văn hoá, có lý tưởng trong thanh, thiếu niên.
14
Câu 5. Phân tích cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển. Vì sao trong hoạt động nhận thức và trong
thực tiễn chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc phát triển? Hãy vận dụng nguyên tắc này vào
công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay
5.1 Cơ sở lý luận
Khái niệm
Phát triển là quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến

hoàn thiện hơn; nguồn gốc của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện
tượng và giải quyết mâu thuẫn đó là động lực của sự phát triển; phát triển vừa diễn ra dần dần, vừa nhảy
vọt đi theo đường xoáy ốc, dường như lặp lại sự vật, hiện tượng cũ nhưng trên cơ sở cao hơn; thể hiện
tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùi tương đối trong sự phát triển.
Tính chất của sự phát triển.Phát triển có tính khách quan; tính phổ biến; tính kế thừa và tính đa dạng,
phong phú.Các tính chất đó của sự phát triển phản ánh tính chất của các sự vật, hiện tượng trong thế giới
đa dạng.
Từ nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng duy vật, rút ra nguyên tắc phát triển trong nhận thức
và thực tiễn
Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nội dung nguyên lý về sự phát triển.
Vận động là thuộc tính cố hữu, là phương thức tồn tại của vật chất; vận động được hiểu như sự thay đổi
nói chung. “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất, tức được hiểu là một phương thức tồn tại của vật chất,
là một thuộc tính cố hữu của vật chất, thì bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ
trụ, kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy”.
Phát triển là khuynh hướng vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn
thiện đến hoàn thiện hơn, do mâu thuẫn trong bản thân sự vật gây ra. Phát triển là một khuynh hướng vận
động tổng hợp của hệ thống sự vật, trong đó, sự vận động có thay đổi những quy định về chất (thay đổi
kết cấu – tổ chức) của hệ thống sự vật theo khuynh hướng tiến bộ giữ vai trò chủ đạo; còn sự vận động có
thay đổi những quy định về chất của sự vật theo xu hướng thoái bộ và sự vận động chỉ có thay đổi những
quy định về lượng của sự vật theo xu hướng ổn định giữ vai trò phụ đạo, cần thiết cho xu hướng chủ đạo
trên.
“Hai quan điểm cơ bảnvề sự phát triển (sự tiến hóa): sự phát triển coi như là giảm đi và tăng lên, như lập
lại; và sự phát triển coi như sự thống nhất của các mặt đối lập. Quan điểm thứ nhất thì chết cứng, nghèo
nàn, khô khan.Quan điểm thứ hai là sinh động. Chỉ có quan điểm thứ 2 mới cho ta chìa khóa của “sự vận
động”, của tất thảy mọi cái “đang tồn tại”; chỉ có nó mới cho ta chìa khóa của những “bước nhảy vọt”,
của “sự gián đoạn của tính tiệm tiến”, của “sự chuyển hóa thành mặt đối lập”, của sự tiêu diệt cái cũ và sự
nảy sinh ra cái mới”.
15
Phát triển như sự chuyển hóa: giữa các mặt đối lập; giữa chất và lượng; giữa cái cũ và cái mới; giữa cái

riêng và cái chung; giữa nguyên nhân và kết quả; giữa nội dung và hình thức; giữa bản chất và hiện
tượng; giữa tất nhiên và ngẫu nhiên; giữa khả năng và hiện thực.
Phát triển là quá trình tự thân của thế giới vật chất, mang tính khách quan, phổ biến và đa dạng: phát triển
trong giới tự nhiên vô sinh; phát triển trong giới tự nhiên hữu sinh; phát triển trong xã hội; phát triển trong
tư duy, tinh thần
Nội dung của nguyên tắc phát triển trong nhận thức và thực tiễn.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, khi xem xét sự vật, hiện tượng, phải đặt nó trong trạng thái vận động, biến
đổi, chuyển hoá để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại, mà còn phải thấy
được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai. Cần chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển là mâu
thuẫn, còn động lực của sự phát triển là đấu tranh giữa các mặt đối lập trong sự vật, hiện tượng đó.
Nguyên tắc phát triển yêu cầu, phải nhận thức sự phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn, từ thấp
đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Mỗi giai đoạn phát triển lại có
những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau; bởi vậy, phải phân tích cụ thể để tìm ra những hình thức
hoạt động, phương pháp tác động phù hợp để hoặc, thúc đẩy, hoặc kìm hãm sự phát triển đó.
Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn phải nhạy cảm với cái
mới, sớm phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới phát triển; phải
chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến v.v. Sự thay thế cái cũ bằng cái mới diễn ra rất phức tạp,
nhiều khi cái mới hợp quy luật chịu thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển không thẳng mà quanh
co, phức tạp; tránh lạc quan và bi quan thái quá trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Trong
quá trình thay thế cái cũ bằng cái mới phải biết kế thừa những yếu tố tích cực đã đạt được từ cái cũ mà
phát triển sáng tạo chúng trong điều kiện mới
5.2 Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, tôn trọng nguyên tắc phát triển sẽ mang lại:
- Sự phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn, nguyện vọng, ý chí, ý thức con
người. Dù con người có muốn hay không muốn, sự vật vẫn phát triển theo khuynh hướng chung nhất
của thế giới vật chất. Tôn trọng nguyên tắc phát triển giúp các sự vật hiện tượng phát triển theo đúng
quy luật của nó dần dẫn tới sự tiến bộ, tiến hóa
- Tránh được sự lạc hậu không còn phù hợp trong hoạt động nhận thức và thực tiễn tránh nguy cơ bị
đào thải.
- Giúp khắc phục tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Ngược lại, không tôn trọng nguyên tắc phát triển sẽ mang lại hậu quả sau:

- Xuất hiện những tư tưởng bảo thủ, trì trệ, định kiến trong hoạt động nhận thức và thực tiễn.
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, các sự vật hiện tượng không ngừng vận động và phát triển,
nếu ta kìm hãm hoặc lở đi sự vận động phát triển đó sẽ trợ nên lạc hậu , không còn phù hợp dẫn đến
nguy cơ bị đào thải.
- Nếu không tôn trong nguyên tắc phát triển mà cố gắng tác động vào quá trình phát triển tự nhiên của
nó sẽ gậy ra những tác dụng ngược, những hậu quả không đáng có, mang lại những kết quả không
như mong muốn.
16
5.3 Vận dụng nguyên tắc phát triển trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện nay
Vận dụng của Đảng
Phát triển hình thái xã hội với mục đích cao nhất là trở thành một nước XHCN, cũng giống như tất cả các
nước trên thế giới, Việt Nam đã dần phát triển, trải qua các hình thái kinh tế xã hội từ thấp nhất là “công
xã nguyên thủy” đến các hình thái cao hơn như “chiếm hữu nô lệ”, “phong kiến”, và hiên tại mục tiêu của
Việt Nam là nềnkinh tế thị trường định hướng XHCN. Tôn trọng nguyên tắc phát triển sẽ giúp Việt Nam
nhanh chóng đạt được sự tiến bộ, đạt được những mục tiêu đề ra, ngày càng rút ngắn khoản cách với các
nước khác trên thế giới.
Phát triển nền kinh tế bao cấp (những năm chiến tranh) thành nền kinh tế thị trường, sau khi kháng chiến
chống Pháp thắng lợi, nước ta bắt đầu xây dựng một nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung ,váo thời điểm
này mô hình này đã quy tựu những điểm tích cực của nó, biến Việt Nam từ một nền kinh tế lạc hậu, phân
tán nay đã tập trung lại để ổn định và phát triển kinh tế. Sau năm 1975, khi đất nước thống nhất, chúng ta
vẫn tiếp tục xây dựng nền kinh tế tập trung như cũ, kìm hãm sự phát triển của những cái mới tốt hơn đến
năm 1986 cơ chế này vẫn chưa đc xóa bỏ, cho đến khi văn kiện Đại Hội Đại Biểu toàn quốc lần thứ VI
đc ban hành nước ta mới bắt đầu nhận ra sự quan trọng của phát triển và dần hình thành nền kinh tế thị
trường cho đến nay.
Phát triển về nhận thức tư tưởng, lý luận của Đảng Cộng Sản Việt Nam, trong giai đoạn sau khi thống
nhất đất nước chúng ta đã có một sự lạc hậu về nhận thức trong thời kỳ quá độ, đặc biệt là bệnh chủ quan,
duy ý chí , lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan,đến Đại hội
VII Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên cứu tìm tòi, xây dựng đường lối, xậy dựng mục tiêu và phương
hướng XHCN, Đảng nhận định cần xóa bỏ ngay nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Hiện nay, tư
tưởng của Đảng ta là xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.Qua đó, ta có thể thấy, nhận

thức về tư tưởng, lý luận của Đảng ta có những thay đổi, chuyển biến theo các giai đoạn, và hoản cảnh
khác nhau, tôn trọng nguyên tắc phát triển.
Đề xuất vận dụng cho công cuộc đổi mới đất nước
Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững kinh tế vĩ mô, đảm bảo an ninh kinh tế. Tăng trưởng
kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển văn hóa, nâng cao chất lượng cuộc sống nhân dân, luôn coi
trọng và bảo vệ cải thiện môi trường, giữ vững ổn định chính trị xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập để đảm
bảo cho đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.Lấy việc thực hiện mục tiêu này làm tiêu chuẩn cao
nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi mới và phát triển.Ngoài ra phải mở rộng dân chủ, phát huy tối
đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Nâng
cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát
huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảm đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất
nước.
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn
thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.Tạo môi trường cạnh
17
tranh bình đẳng, minh bạch.Phát triển đồng bộ, hòan chỉnh và ngày càng hiện đại các loại thị trường.Tiếp
tục hòan thiện cơ chế quản lý và phân phối, bảo dảm công bằng lợi ích, tạo động lực thúc đẩy phát triển
kinh tế xã hội.Cuối cùng là xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng.Phát triển lực lượng doanh nghiệp trong nước với nhiều thương hiệu mạnh để
làm chủ thị trường trong nước, mở rộng thị trường ngoài nước.Trong hội nhập quốc tế, phải luôn chủ
động thích ứng với những thay đổi của tình hình, bảo đảm hiệu quả và lợi ích quốc gia.
Trong quá trình thực hiện đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, qua mỗi giai đoạn có sự tổng kết
đúc rút kinh nghiệm, từ đó đề ra những cơ chế chính sách ngày càng hòan thiện.
Thực hiện có hiệu quả tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội trong từng bước và từng chính
sách phát triển như tập trung giải quyết tốt chính sách lao động, việc làm và thu nhập; Bảo đảm an sinh xã
hội; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số, kế hoạch hóa gia đinh, bào vệ
và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em; Đấu tranh phòng, chống có hiệu quả tệ nạn xã hội, tai nạn giao
thông.

Câu 6: Vì sao trong hoạt động nhận thức và thực tiễn chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc lịch sử -
cụ thể ? Hãy vận dụng nguyên tắc này vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta hiện
nay.
Nguyên tắc lịch sử cụ thể là gì?
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể là khoa học về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển, tức là một hệ thống
các nguyên lý, quy phạm, phạm trù nói về mối liên hệ phổ biến và về sự phát triển xảy ra trong toàn bộ
thế giới. Mỗi sự vật, hiện tượng hay quá trình tồn tại trong hiện thực đều được tạo thành từ những yếu tố,
bộ phân khác nhau; có muôn vàn sự tương tác (mối liên hệ, quan hệ) với nhau và với các sự vật, hiện
tượng hay quá trình khác nhau; qua đó nó bộc lộ ra thành những đặc điểm tính chất không giống nhau.
Thêm vào đó, mỗi sự vật, hiện tương hay quá trình đều tồn tại trong tiến trình phát sinh, phát triển và diệt
vong của chính mình; quá trình này thể hiện một cách cụ thể bao gồm mọi sự thay đổi và phát triển diễn
ra trong những điều kiện, hòan cảnh khác nhau, tương tác với những sự vật, hiện tượng hay quá trình khác
nhau, trong những không gian và theo những thời gian không như nhau.
Cơ sở lý luận của nguyên tắc lịch sử - cụ thể bao gồm toàn bộ nội dung của hai nguyên lý là nguyên lý
về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển
Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật là hai nguyên lý cơ bản và đóng vai trò xương sống trong
phép duy vật biện chứng của triết học Mác - Lênin khi xem xét, kiến giải sự vật, hiện tượng. Trong hệ
thống đó nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là hai nguyên lý khái quát nhất.
Nội dung hai nguyên lý cơ bản như sau:
• Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là nguyên tắc lý luận xem xét sự vật, hiện tượng khách quan
tồn tại trong mối liên hệ, ràng buộc lẫn nhau tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện
tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.
• Nguyên lý về sự phát triển là nguyên tắc lý luận mà trong trong đó khi xem xét sự vật, hiện tượng
khách quan phải luôn đặt chúng vào quá trình luôn luôn vận động và phát triển (vận động tiến lên
từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật).
Phương pháp thống nhất cái lịch sử và cái lôgích
18
Vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể vào thực tế, nhất thiết phải áp dụng phương pháp lịch sử và phương
pháp logic. Phương pháp lịch sử là phương pháp diễn lại tiến trình phát triển của các hiện tượng và các sự
kiện lịch sử với mọi tính chất cụ thể của chúng. Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu quá trình

phát triển lịch sử, nghiên cứu các hiện tượng lịch sử trong hình thức tổng quát, nhằm vạch ra bản chất quy
luật, khuynh hướng chung trong sự vận động của chúng. Tiêu chuẩn của chân lý là lý luận ăn khớp với
thực tiễn, tức là cái lôgích phản ảnh đúng bản chất của lịch sử. Mặc khác, trong nhận thức, cái lôgích khái
quát được mà chưa được thực tiễn lịch sử kiểm tra thì chưa hẳn đã là chân lý, vì chân lý bao giờ cũng cụ
thể trong tri giác, Lê-nin nhấn mạnh: “nếu chân lý là trừu tượng thì tức là không phải chân lý”. Vì thế,
trong thực tế, hai phương pháp lịch sử và lôgích phải thâm nhập vào nhau và ảnh hưởng lẫn nhau.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc lịch sử - cụ thể sẽ mang lại hiệu quả
gì ? Ngược lại nếu không tôn trọng nguyên tắc lịch sử - cụ thể sẽ mang lại hậu quả gì ?
Trong hoạt động nhận thức, chủ thể phải tìm hiểu quá trình hình thành, tồn tại và phát triển cụ thể của
những sự vật cụ thể trong những điều kiện, hòan cảnh cụ thể.
Trong hoạt động thực tiễn, chủ thể phải xây dựng được những đối sách cụ thể, áp dụng cho những sự vật
cụ thể, đang tồn tại trong những điều kiện, hòan cảnh, quan hệ cụ thể mà không nên áp dụng những khuôn
mẫu chung chung cho bất cứ sự vật nào, trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh, quan hệ cụ thể nào.
Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu tôn trọng nguyên tắc lịch sử - cụ thể sẽ giúp nhận thấy:
- Sự vật đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những chất, lượng nào; thể hiện qua những độ nào; đang
(đã hay sẽ) thực hiện những bước nhảy nào để tạo nên những chất, lượng mới nào…
- Sự vật đang (đã hay sẽ) bị tác động bởi những mâu thuẫn nào; những mâu thuẫn đó đang nằm ở
giai đoạn nào, có vai trò như thế nào đến sự vận động, phát triển của sự vật…
- Sự vật đang (đã hay sẽ) trải qua những lần phủ định biện chứng nào; cái cũ nào đang (đã hay sẽ)
phải mất đi, cái mới nào đang (đã hay sẽ) xuất hiện…
- Trong mối quan hệ với những sự vật khác, những điều gì được coi là những cái riêng hay cái đơn
nhất, điều gì là cái chung hay cái đặc thù/ cái phổ biến; chung quy định nhau, chuyển hóa lẫn
nhau như thế nào
- Bản chất của sự vật là gì, nó được thể hiện qua những hiện tượng nào; hiện tượng nào là giả
tưởng, hiện tượng nào là điển hình
- Nội dung của sự vật là gì, nó đang (đã hay sẽ) tồn tại thông qua những hình thức nào; hình thức
nào phù hợp với nội dung của sự vật, hình thức nào không phù hợp với nội dung, cái gì làm cho
nội dung của sự vật biến đổi
- Trong bản thân sự vật, hiện thực là gì; hiện thực đó đang (đã hay sẽ) nảy sinh ra những khả năng
nào; mỗi khả năng đó trong những điều kiện cụ thể nào có độ tất yếu hiện thực hóa ra sao…

Nhận biết được những điều đó sẽ giúp ta:
- Có quan điểm đánh giá chính xác đặc điểm cũng như những điểm mạnh, điểm yếu của sự vật đó
- Dễ dàng có phương hướng, hành động đúng đem lại hiệu quả cao.
- Áp dụng những chính sách cụ thể vào tình hình thực tế một cách đúng đắn, mang lại thắng lợi.
19
- Tổng quát được các sự kiện xảy ra trong nghiên cứu khoa học hay các biến cố xảy ra trong các
tiến trình lịch sử nhân loại; nhận thức được tính muôn vẻ của tự nhiên, tính phong phú của lịch sử
trong sự thống nhất.
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể còn được coi là “linh hồn” phương pháp luận của triết học Mác – Lênin. Nó
tổng hợp trong mình những nguyên tắc, quan điểm, yêu cầu mang tính phương pháp luận của triết học
Mác – Lênin, do đó, hiểu theo nghĩa rộng, nó cũng chính là phương pháp biện chứng. Vì thế trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn, nếu không tôn trong nguyên tắc lịch sử - cụ thể đồng nghĩa với việc đi ngược
lại với phương pháp biện chứng, tức phương pháp siêu hình:
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác và giữa các
mặt đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
- Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại; nếu có sự biến đổi thì đấy chỉ là sự biến đổi về số
lượng, nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng.
Mà hậu quả của phương pháp siêu hình là làm cho con người chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà
không nhìn thấy mối liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà
không nhìn thấy sự phát sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những
sự vật ấy mà quên mất sự vận động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng.
Tóm lại, trong hoạt động nhận thức và thực tiễn nếu không tôn trọng nguyên tắc lịch sử - cụ thể sẽ mang
lại những hậu quả rất nghiệm trọng, ta sẽ luôn nhìn nhận sự vật hiện tượng một cách phiến diện, trừu
tượng và sẽ không bao giờ giải quyết được các mâu thuẫn; sẽ không bao giờ có được những phương
hướng, hành động đúng khi giải quyết vấn đề.
(Về hậu quả của việc không vận dụng nguyên tắc lịch sử cụ thể do không có tài liệu tham khảo mà tự suy
luận nên cần liên lạc với Thầy để hỏi lại)
Nguyên tắc lịch sử - cụ thể gợi mở cho chúng ta điều gì công cuộc xây dựng và phát triển đất nước ta
hiện nay ?
i. Đảng ta vận dụng như thế nào?

Từ năm 1930, Đảng ta đã lựa chọn con đường CNXH. Ngày nay, để xây dựng thành công CNXH, Đảng
đề ra đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ưu tiên phát
triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng XHCN; phát huy
cao độ nội lực đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển
nhanh, có hiệu quả và bền vững; thực hiện tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải
thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường an ninh, quốc phòng; bảo vệ và xây
dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng và phát triển đất nước:
Điều kiện trong nước:
Bức tranh chung của nền kinh tế Việt Nam năm trước khi đổi mới là tăng trưởng thấp 3,7% /năm, làm
không đủ ăn và dựa vào nguồn viện trợ là chính. Thu nhập quốc dân trong nước sản xuất chỉ đáp ứng
được 80-90% thu nhập quốc dân sử dụng. Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ bên ngoài chiếm 10,2% thu nhập
quốc dân sử dụng, nợ nước ngoài lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Cũng vào các năm đó nền kinh tế rơi
20
vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, siêu lạm phát tăng ở mức 774,7% vào các năm 1986 kéo theo giá
cả leo thang và vô phương kiểm soát.
Sự tàn phá nặng nề của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém dài để lại nhiều hậu quả nặng nề: cơ
sở vật chất kém với nền khoa học công nghệ, kỹ thuật lạc hậu, hầu hết các hệ thống máy móc trong các xí
nghiệp đều do Liên Xô cũ giúp đỡ từ chiến tranh nên năng suất lao động thấp, chất lượng kém.
Điều kiện địa lý cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế. Về địa hình nước ta
trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang hẹp, địa hình phức tạp mang đậm nét của sự phân dị sâu sắc về điều
kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Các đặc điểm này chi phối sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ và
phát triển các vùng kinh tế. Nằm ở Tây Thái Bình Dương và Đông Nam Á, khu vực khá phát triển cao, ổn
địng, nơi cửa ngõ của giao lưu kinh tế. Việt Nam có nhiều khả năng phát triển nhiều loại hình kinh tế
khác nhau dựa trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn thông, du lịch. Tài nguyên khoáng sản phân
bố không đều trên các vùng, ngay ở mỗi vùng cũng phân tán và thiếu đồng bộ không gắn với nhau gây
khó khăn cho việc khai thác sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố trí kinh tế các vùng. Về dân số
nước ta dân số còn đông, nguồn lao động dồi dào nhưng phân bố không đồng đều.
Về chế độ chính trị : Quan hệ giữa kinh tế và chính trị là một trong những vấn đề cơ bản của công cuộc

đổi mới ở Việt Nam. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin thì kinh tế quyết định chính trị "
chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để
thực hiện mục đích kinh tế" . Lênin đã chỉ rõ " Để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị
chỉ được sử dụng làm phương tiện đơn thuần". Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận vai
trò quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động của chính trị đối với kinh tế.
Vấn đề kinh tế không thể tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét giải quyết theo một lập trường
chính trị nhất định. Như vậy chúng ta có thể khẳng định rằng kinh tế và chính trị thống nhất biện chứng
với nhau trên nền tảng quyết định của kinh tế.
Sau khi miền Bắc giải phóng và từ sau năm 1975 thống nhất đất nước cả nước ta đã kiên quyết đi theo
con đường XHCN – đây là sự lựa chọn tất yếu và đúng đắn. Tuy nhiên vì không qua giai đoạn TBCN nên
chúng ta gặp nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng một hệ thống chính trị vững mạnh.
Thêm vào đó khi ta đang trong tình trạng ban đầu của công cuộc đổi mới, một giai đoạn quan trọng mà
chính trị là yếu tố định hướng dẫn đường thì CNXH ở Liên Xô cũ và các nước Đông Âu sụp đổ hàng loạt
đã gay nhiều hoang mang cho Đảng và nhân dân ta. Điều này cũng chứng tỏ rằng đang có nhiều thế lực
phản động không ngừng tìm cách phá hoại, lật đổ chế độ CNXH ở nước ta.
Điều kiện thế giới:
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mặc dù thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp nhưng hoà bình và hợp
tác là xu thế chủ đạo, là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia. Các cuộc cách mạng khoa học
và công nghệ đạt đựơc những bước tiến vượt bậc đặc biệt trong lĩnh vực tin học, viễn thông, sinh học, vật
liệu mới và năng lượng mới đang đẩy mạnh quá trình quốc tế hoá cao độ các lực lượng sản xuất dẫn đến
sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc. Như vậy có nghĩa là ngày nay không một nền kinh tế
nào có thể đứng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Tình hình đó đòi hỏi sự hợp tác ngày càng rộng tạo nên
thế tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển. Trong lịch sử phát
triển của xã hội có lẽ chưa bao giờ có một sự hợp tác để phát triển rộng rãi đan xen lồng ghép và nhiều
tầng lớp như hiện nay với sự hình thành nhiều tổ chức kinh tế lớn trong khu vực và thế giới như ASEAN,
WTO, AFTA, APEC…
21
Đối với các khu vực, Việt Nam nằm trong khu vực Đông Nam Á châu Á Thái Bình Dương, một khu vực
đựơc coi là có nền kinh tế năng động và có tốc độ tăng trưởng cao trên thế giói trong những năm gần đây.
Hầu hết các nước trong khu vực như Singapor, Thái Lan, Inđônêxia đều đã tiến hành nền KTTT được

mấy thập kỷ và một số nước đã trở thành các nước công nghiệp mới (NIC).
Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển vượt xa khá xa về mọi mặt đặc biệt là về kinh tế. Vì thế đã đặt
ra cho Việt Nam nhiều thách thức trong quá trình phấn đấu xây dựng và cải tiến nền KTTT định hướng
XHCN.
Vận dụng vào quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN và những thành tựu
đạt được
Giai đoạn 1986-1991
Đây là giai đoạn đầu chúng ta chuyển sang nền KTTT. Do chưa nhận thức đầy đủ những yếu tố cụ thể
ảnh hưởng đến nền kinh tế nên ta đã có một số chính sách chưa đúng. Một chính sách sai lầm trong giai
đoạn này là tập trung công nghiệp hoá - hiện đại hoá theo hướng ưu tiên cho công nghiệp nặng. Đây là
một sai lầm nghiêm trọng đã làm mất nhiều thời gian và tốn nhiều tiền bạc bởi lúc này với xuất phát điểm
và kinh tế rất thấp, cơ sở vật chất công nghệ còn lạc hậu thêm vào đó là thiếu vốn và thiếu đội ngũ các
nhà khoa học tài giỏi. Trong khi đó ta có đầy đủ các điều kiện để phát triển công nghiệp nhẹ. Sự khéo léo
cần cù của người Việt Nam sự ưu đãi của thiên nhiên khí hậu tạo nên một danh mục nông sản phong phú
và nhiều loại hình sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ. Với những điều kiện đó ta hoàn toàn có thể phát triển
những ngành công nghiệp nhẹ mà chỉ ít vốn như công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ mỹ nghệ…
Chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần nhưng trong giai đoạn này lượng hàng hoá của chúng
ta còn ít và chất lượng còn chưa tốt. Chính vì thế, hàng hoá sản xuất ra không có sức cạnh tranh trên thị
trường vì số lượng hàng hoá ít nên phần lớn vẫn phải nhập khẩu và chưa xuất khẩu được hàng hoá ra thị
trường thế giới.
Với điều kiện địa lý địa hình phức tạp, hệ thống giao thông vận tải còn yếu kém như trên chưa có những
chính sách phát triển kinh tế phù hợp với từng vùng, từng miền, chúng ta đã rơi vào tình trạng đầu tư phát
triển kinh tế tràn lan, không tập trung gây nên sự bất hợp lý giữa các vùng.
Cơ cấu giữa các thành phần kinh tế cũng là một vấn đề đang quan tâm. Trong giai đoạn này các thành
phần kinh tế mới như kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản Nhà nước chưa phát triển, chủ yếu vẫn là
thành phần kinh tế Nhà nước. Nguyên nhân của vấn đề này là do ta vẫn còn chậm đổi mới các hình thức
sở hữu tư liệu sản xuất đã có trong nền kinh tế bao cấp cũ và chưa có được những chính sách phù hợp để
kinh tế tư bản tư nhân và tư bản Nhà nước phát triển.
Tóm lại trong giai đoạn này mặc dù đã đạt được một số thành tựu, nền kinh tế đã từng bước ổn định và
phát triển, các cơn sốt do hậu quả của cơ chế quan liêu bao cấp đã dần vơi đi nhưng nền kinh tế Việt Nam

vẫn chưa bước hẳn ra sự khủng hoảng của những năm đổi mới.
Giai đoạn 1991-nay
Giai đoạn này do đã dần điều chỉnh phù hợp với những điều kiện, nhân tố cụ thể ảnh hưởng đến nền
KTTT nền kinh tế Việt Nam đã đạt được một số thành tựu đáng kể:
22
Điều đầu tiên cần nói đến là tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và tương đối ổn định. Giai đoạn 1986-1990,
GDP tăng trung bình là 3,9% thì giai đoạn này GDP tăng bình quân 8,2%. Cơ cấu giữa các thành phần
kinh tế và các ngành cũng hợp lý hơn. Hàng loạt công ty, doanh nghiệp tư nhân hoạt động trong mọi lĩnh
vực ra đời. Dịch vụ thương mại phát triển tưong đối mạnh đã tạo điều kiện cho sản xuất hàng hoá, làm
cho số lượng hàng hoá phong phú hơn và chất lượng không ngừng cải tiến. Giao thông vận tải được chú
trọng và sửa chữa và xây mới nên hàng hoá đã đến được các vùng sâu, vùng xa và miền núi.
Một thành tựu quan trọng hơn nữa là trong điều kiện kinh tế thế giới với sự cạnh tranh rất khốc liệt gây ra
sự phân cực giàu nghèo mạnh mẽ với nhiều cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, Đảng ta kịp thời rút
kinh nghiệm và đã có những đường lối, chính sách định hướng cho nền kinh tế phát triển theo định hướng
XHCN, hướng thị trường hàng hóa vào quỹ đạo cạnh tranh lành mạnh cùng phát triển. Chính vì vậy nền
KTTT của ta chẳng những không xảy ra khủng hoảng mà còn tránh được ảnh hưởng tiêu cực từ những
cuộc khủng hoảng ở các nước trong khu vực và thế giới cụ thể là cuộc khủng hoảng tiền tệ vào năm 1997.
Tuy nhiên nền kinh tế nước ta so với khu vực và thế giới vẫn là một nền kinh tế kém phát triển và cần có
nhiều biện pháp để phát triển để theo kịp các nước khác.
KTTT đã ra đời và phát triển qua nhiều giai đoạn và cho đến nay nó vẫn là kiể kinh tế xã hội tiến bộ nhất.
Trải qua các giai đoạn phát triển, KTTT ngày càng được hoàn thiện và được áp dụng trên nhiều quốc gia.
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam mặc dù mới ra đời cách đây hơn một thập kỷ nhưng cũng đã
trải qua nhiều thăng trầm, không ngừng vận động và luôn biến đổi dưới sự tác động của nhiều yếu tố cả
bên ngoài lẫn bên trong bản thân của nền kinh tế. Các yếu tố này vừa không ngừng có ảnh hưởng đến sự
phát triển của nền KTTT vừa chịu sự tác động của chính nền KTTT đó. Như vậy trải qua mỗi giai đoạn
lại hình thành nên những yếu tố mới khiến cho công cuộc xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng
XHCN ở Việt Nam ngày càng phức tạp, đòi hỏi phải có sự phân tích kỹ lượng chi tiết kịp thời từng yếu
tố. Chính vì vậy quan điểm lịch sử cụ thể luôn là quan điểm gắn liền với quá trình xây dựng nền KTTT
định hướng XHCN ở Việt Nam.
ii. Chúng ta vận dụng như thế nào?

Muốn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cần thực hiện đồng
bộ nhiều giải pháp:
Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần:
Thừa nhận trên thực tế còn tồn tại nhiều thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là một trong những điều
kiện cơ sở thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, nhờ đó mà sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của
mọi thành phần kinh tế.
Cùng với việc đổi mới, củng cố nền kinh tế Nhà nước và kinh tế hợp tác, thừa nhận việc khuyến khích
các thành phần kinh tế cá thể, tư nhân phát triển là nhận thức quan trọng về xây dựng chủ nghĩa trong thời
kỳ quá độ. Theo hướng đó mà khu vực kinh tế Nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể và các hình thức
kinh tế hỗn hợp khác đều được khuyến khích phát triển theo định hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tất cả
các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, tuy vị trí, quy mô, tỷ trọng, trình độ có khác nhau
nhưng tất cả đều là nội lực của nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Mở rộng phân công lao động, phát triển kinh tế vùng, lãnh thổ tạo lập đồng bộ các yếu tố thị
trường.
Phân công lao động là cơ sở của việc trao đổi sản phẩm. Để đẩy mạnh phát triển kinh tế hàng hoá, cần
phải mở rộng phân công lao động xã hội, phân công lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng
như từng địa phương, từng vùng theo hướng chuyên môn hoá, hợp tác hoá nhằm khai thác mọi nguồn lực,
23
phát triển mọi nghành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện có và tạo việc làm cho
người lao động. Cũng với mở rộng phân công lao động xã hội trong nước, phải tiếp tục quan hệ kinh tế
với nước ngoài nhằm gắn phân công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế nhờ đó mà thị
trường trong nước được mở rộng, tiềm năng về lao động, tài nguyên, cơ sở vật chất hiện có được khai
thác có hiệu quả. Thị trường được khai thông trên khắp mọi miền của đất nước, gắn liến với thị trường thế
giới. Cần phải tiếp tục phát triển mạnh thị trường hàng hoá và dịch vụ hình thành thị trường sức lao động
có tổ chức, quản lý chặt chẽ đất đai và thị trường nhà cửa, xây dựng thị trường vốn, từng bước hình thành
thị trường chứng khoán. Để khai thác có hiệu quả tiềm năng về vốn, sức lao động, công nghệ, tài nguyên,
thực hiện mở rộng phân công lao động xã hội, cần phải từng bước hình thành đồng bộ các loại thị trường
tiền tệ, vốn, sức lao động, chất xám, thông tun, tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng…Điều này sẽ đảm bảo
cho việc phân bố và sử dụng các yếu tố đầu vào, đầu ra của quá trình sản xuất phù hợp với yêu cầu của sự
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá
Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp chỉ có thể đứng vững trong cạnh tranh nếu thường xuyên
đổi mới công nghệ để hạ chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Muốn vậy phải đẩy mạnh công tác
nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học vào quá trình lưu thông hàng hoá.
So với thế giới trình độ công nghệ sản xuất của nước ta là còn thấp kém, không đồng bộ do vậy khả năng
cạnh tranh của hàng hoá chúng ta ở trong nước và ở nước ngoài là còn kém. Bởi vậy để phát triển kinh tế
hàng hoá chúng ta cần phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Hệ thống kết cấu hạ tầng cơ sở và dịch vụ hiện đại, đồng bộ cũng đóng vai trò quan trọng cho sự phát
triển kinh tế xã hội. Hệ thống đó ở nước ta đã quá lạc hậu, không đồng bộ mất cân đối nghiêm trọng nên
đã cản trở nhiều đến quyết tâm của các nhà đầu tư trong cả nước lẫn nước ngoài, cản trở phát triển hàng
hoá ở mọi miền đất nước. Vì thế cần gấp rút xây dựng và củng cố các yếu tố của hệ thống kết cấu đó.
Trước mắt, Nhà nước cần tập trung ưu tiên xây dựng nâng cấp một số yếu tố thiết yếu như đường sá, cầu
cống, bến cảng, sân bay, điện, nước, hệ thống thông tin liên lạc, ngân hàng dịch vụ bảo hiểm…
Giữ vững ổn định chính trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới các chính sách tài chính tiền tệ
giá cả.
Sự ổn định chính trị bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để phát triển, nó là điều kiện để các nhà sản xuất
kinh doanh trong nước và nước ngoài yên tâm đầu tư. Giữ vững ổn định chính trị ở nước ta hiện nay là
giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, tăng cường hiệu lực và hiệu quả quản lý của Nhà
nước, phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân.
Hệ thống pháp luật đồng bộ là công cụ rất quan trọng để quản lý nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
Nó tạo nên hàng lang pháp lý cho tất cả mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong
và nước ngoài. Với hệ thống pháp luật đồng bộ và pháp chế nghiêm ngặt, các doanh nghiệp chỉ có thể làm
giàu trên cơ sở tuân thủ pháp luật.
Đổi mới chính sách tài chính tiền tệ, giá cả nhằm mục tiêu thúc đẩy phát triển, huy động và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực, bảo đảm quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia, giảm lạm pháp nhằm đưa nền
kinh tế ổn định hơn.
Xây dựng và hoàn thiện hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô, đào tạo đội ngũ quản lý kinh tế và các nhà
kinh doanh giỏi:
Hệ thống điều tiết kinh tế vĩ mô phải được kiện toàn, phù hợp với nhu cầu kinh tế thị trường, bao gồm

điều tiết bằng các chiến lược và kế hoạch kinh tế, pháp luật chính sách và các đòn bẩy kinh tế, hành chính
24
giáo dục. khuyến khích hỗ trợ và cả răn đe, trừng phạt, ngăn ngừa, điều tiết thông qua bộ máy nhà nước,
các đoàn thể…
Mỗi cơ chế quản lý kinh tế có đội ngũ cán bộ quản lý kinh doanh tương ứng. Chuyển sang phát triển nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi chúng ta phải đẩy mạnh sự
nghiệp đào tạo và đào tạo lại đội ngũ quản lý kinh tế, cán bộ kinh tế, cán bộ kinh doanh cho phù hợp với
mục tiêu phát triển kinh tế trong thời kỳ mới. Đội ngũ đó phải có năng lực chuyên môn giỏi, tương ứng
mau lẹ với cơ chế thị trường, dám chịu trách nhiệm, chịu rủi ro và trung thành với con đường xã hôị chủ
nghĩa mà Đảng và nhà nước ta đã chọn. Song song với đào tạo và đào tạo lại thì cần có phưong hướng sử
dụng, bồi dưỡng, đãi ngộ đúng đắn với đội ngũ đó, nhằm kích thích hơn việc nâng cao trình độ nghiệp vụ,
bản lĩnh quản lý, tài năng kinh doanh của họ. Cơ cấu của đội ngũ cán bộ cần phải đựơc chú ý đảm bảo ở
cả phạm vi vĩ mô cũng như lẫn cả vi mô, cả cán bộ quản lý cũng như kinh doanh.
Thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Thực hiện có hiệu quả kinh tế đối ngoại chúng ta phải đa dạng hoá hình thức, đa dạng hoá đối tác. Phải
quán triệt nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau cũng không phân biệt chế
độ chính trị - xã hội. Cải cách cơ chế quản lý xuất khẩu, thu hút rộng rãi nguồn vốn đầu tư nước ngoài,
thu hút kỹ thuật, nhân tài và kinh nghiệm quản lý. Nếu chúng ta thực hiện chính sách đối ngoại tốt thì
chúng ta sẽ có rất nhiều cơ hội trong việc thu hút đầu tư nước ngoài bên cạnh đó còn có cơ hội tiếp thu
công nghệ hiện đại, những thành tựu khoa học kỹ thuật trên thế giới đồng thời cũng học hỏi được kinh
nghiệm kỹ năng quản lý của các nhà lãnh đạo Đây là một trong những điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế
của nước ta nhất là trong giai đoạn phát triển lên chủ nghĩa xã hội.
Giải quyết những hạn chế còn tồn tại của kinh tế thị trường
Thị trường Việt Nam hiện nay hoạt động còn yếu, nó chưa đủ mức độ để báo hiệu những cơ hội mới. Khu
vực tư nhân còn thiếu kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết để đáp ứng các tín hiệu về thời cơ mà họ nhận
được. Do có sự liên lạc có hiệu quả giữa Nhà nước và tư nhân là cần thiết làm cho các chiến lược phát
triển nền kinh tế nước nhà có thể thực hiện được.
Nhà nước ta cần xây dựng được hệ thống pháp luật hoàn chỉnh và có tính đồng bộ. Hệ thống pháp luật
cần được bổ sung và hoàn thiện trên các lĩnh vực: sử dụng, chuyển nhượng và cho thuê đất đai, thị trường

bất động sản, thị trường vốn…Bổ sung, điều chỉnh bộ luật thuế tránh chống chéo khuyến khích đầu tư
trong nước, xác định rõ thẩm quyền và trách nhiệm của cá nhân, xây dựng bộ luật thương mại, luật ngân
sách, luật hành chính Nhà nước…Cải cách gắn liền với đổi mới kinh tế là một nhân tố quyết định đảm
bảo nền kinh tế tăng trưởng nhanh và ổn định, bền vững ở nước ta.
Đổi mới cơ chế quản lý và sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước đồng thời xác định lại mục tiêu chiến lược
phát triển kinh tế xã hội phù hợp với kinh tế xã hội của nước ta trong thời đại ngày nay.
Những giải pháp nói trên tác động qua lại với nhau sẽ tạo nên sức mạnh thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá
của nước ta phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Về phần vận dụng: chủ yếu là vận dụng về phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
mọi người có thời gian thì viết thêm, còn không thì chỉ cần ghi các ý chính.
Câu 7: Phân tích nội dung nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn của triết học Mác –
Lênin; Vận dụng nguyên tắc này vào công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
 Phạm trù thực tiễn:
25

×