Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Phân tích yếu tố lời thoại tác phẩm kịch Hồn Trương Ba ra hàng thịt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.75 KB, 20 trang )

Nhóm 11:
Bài tập nhóm: PHÂN TÍCH YẾU TỐ LỜI THOẠI TRONG TÁC PHẨM
KỊCH “HỒN TRƯƠNG BA, DA HÀNG THỊT” CỦA LƯU QUANG VŨ
I. Khái niệm
1. Khái quát chung về văn học kịch
- Khái niệm “văn học kịch” được sử dụng nhằm xác định bản chất, chức năng, đặc
trưng tạo thành đời sống văn học của kịch bản. Kịch bản là bản kịch gốc mà người
ta dựa vào để dựng thành vở diễn trên sân khấu.
- Kịch bản văn học vừa thuộc nghệ thuật sân khấu vừa thuộc nghệ thuật ngôn từ.
Nó giống như có hai cuộc sống:
+ Là vở diễn sân khấu, nó sống với công chúng khán giả
+ Là tác phẩm văn học, nó sống với công chúng độc giả
Trải qua hàng nghìn năm, sàn diễn lộ thiên ngoài trời chuyển vào nhà hát bài trí
theo kiểu nội thất, nhờ đó “lời” vượt lên trước “trò” và kịch bản ngôn từ dần dần
thoát khỏi sự ràng buộc chặt chẽ của sân khấu để nhập vào đại gia đình chung của
văn học nghệ thuật. Khi đó kịch bản không chỉ được xem là bản gốc biểu diễn trên
sân khấu mà còn được xem là tác phẩm văn học có thể dùng để đọc.
- Không nên đồng nhất kịch và kịch bản văn học. Nói đến kịch là nói đến
một loại hình của nghệ thuật sân khấu mang tính chất tổng hợp bao gồm
nhiều hoạt động của diễn viên, đạo diễn, hóa trang, ánh sáng, âm thanh
Kịch bản văn học chỉ là một yếu tố, dù đó có thể là một trong những yếu tố
đầu tiên và quan trọng nhất của kịch.
Là một trong 3 loại chính của văn học, kịch bản trước hết tự nó phải là một tác
phẩm hoàn chỉnh và độc lập, thể hiện đầy đủ những đặc điểm của một tác
phẩm văn học. Tuy nhiên, kịch bản văn học được viết ra chủ yếu là để diễn trên
sân khấu trước một tập thể khán giả trong một thời gian nhất định nên nghệ thuật
sân khấu quy định hết sức chặt chẽ quá trình sáng tác kịch bản văn học của nhà
văn. Sự quy định đó có thể được thể hiện ở nhiều mặt. Trước hết là về dung lượng
phản ánh của kịch bản văn học. Nhà văn không thể xây dựng kịch bản với một thời
gian quá dài với nhiều nhân vật qua những không gian rộng lớn như trong tiểu
thuyết. Ngoài ra, nhân vật còn phải "sân khấu hóa" tất cả những gì được miêu tả.


Những sự kiện, diễn biến của cốt truyện phải được xây dựng thế nào cho phù hợp
với việc thể hiện một cách trực tiếp trên sân khấu thông qua hành động, ngôn ngữ
của diễn viên. Như vậy, có thể nói, kịch bản là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh
nhưng đồng thời gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật sân khấu. Chính nghệ thuật này đã
quy định những đặc điểm của kịch bản văn học.
2. Đặc trưng thể loại của văn học kịch
 Các đặc trưng cơ bản của văn học kịch:
- Kịch tính là đặc trưng nổi bật nhất của kịch
- Cốt truyện kịch tập trung cao độ
- Tính chất xác định của tính cách là đặc điểm cơ bản của nhân vật kịch
- Lời thoại là hành động và là phương tiện biểu hiện tính cách.
 Trong bài này chúng tôi chỉ tập trung phân tích yếu tố lời thoại trong văn bản
kịch:
- Trong kịch không có nhân vật người kể chuyện và vì thế, kịch bản văn học không
có ngôn ngữ người kể chuyện. Cho nên về cơ bản, kịch bản văn học chỉ có một
thành phần lời nói. Đó là lời các nhân vật được truyền đạt bởi những diễn viên
đống vai các nhân vật ấy. Lời của các nhân vật gọi là “thoại”, gồm ba dạng: Đối
thoại, độc thoại và bàng thoại.
+ Đối thoại: Là lời các nhân vật nói với nhau. Vì văn bản kịch chủ yếu là sự liên
kết một chuỗi các đối thoại nên đây là thành phần lời văn quan trọng nhất, giữ vị trí
then chốt tạo nên cấu trúc của kịch bản văn học.
+ Độc thoại: Là lời nhân vật nói với chính mình. Trong kịch, lời độc thoại mang
tính ước lệ bởi lời độc thoại là lời nội tâm. Trong kịch lời độc thoại thường rất
mạch lạc.
+ Bàng thoại: Là lời nhân vật nói riêng với khán giả. Đang đối thoại với nhau bỗng
một nhân vật tiến lên phía trước hướng về khán giả nói vài câu để giải thích một
cảnh ngộ, một tâm trạng hay điều bí mật nào đó. Và nói như thế, nó mặc nhiên
xem như những nhân vật khác không nghe thấy lời nói đó. Cho nên lời bàng thoại
thể hiện rõ nhất tính chất trò diễn đầy ước lệ của ngôn ngữ kịch.
- Đặc điểm của lời thoại kịch: Ngoài tính hình tượng, tính chính xác, tính hàm súc,

tính hệ thống…như ngôn ngữ văn học nói chung, lời thoại của kịch còn có đặc
điểm – thoại cũng là hành động đầy kịch tính. Trong kịch không chỉ riêng lời đối
thoại, mà ngay cả lời độc thoại cũng có những đặc điểm của hành động. Chẳng hạn
sau những đoạn độc thoại trong các vở kịch nổi tiếng như: Vua Ơdip, Vua Lia,
Hamlet, Lơ Xit,…bộ mặt tâm lí của nhân vật lại có sự thay đổi hoặc tiến triển.
II. Yếu tố lời thoại trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu
Quang Vũ
1. Giới thiệu vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
Trong làng kịch nói Việt Nam, có lẽ ai cũng biết đến Lưu Quang Vũ - một hiện
tượng đặc biệt của sân khấu kịch trường những năm 80 của thế kỉ XX. Tuy có tài ở
nhiều lĩnh vực như viết truyện ngắn, soạn kịch, làm thơ, vẽ tranh nhưng ông
được xem là một trong những nhà soạn kịch tài năng nhất của nền văn học nghệ
thuật Việt Nam hiện đại. Trong các vở kịch của Lưu Quang Vũ, đáng chú ý nhất là
vở "Hồn Trương Ba, da hàng thịt". Bằng nghệ thuật xây dựng nội tâm độc đáo, vở
kịch đem đến cho người đọc nhiều vấn đề tư tưởng sâu sắc qua nhân vật Trương
Ba trong thân xác anh hàng thịt.
“Hồn Trương Ba, da hàng thịt” là vở kịch được Lưu Quang Vũ viết năm 1981,
công diễn lần đầu tiên năm 1984, sau đó được diễn lại nhiều lần trong và ngoài
nước. Từ cốt truyện dân gian, Lưu Quang Vũ đã xây dựng lại thành một vở kịch
nói hiện đại và lồng vào đó nhiều triết lí nhân văn về cuộc đời và con người. Trong
tác phẩm, Trương Ba là một ông lão gần sáu mươi, thích trồng vườn, yêu cái đẹp,
tâm hồn thanh nhã, giỏi đánh cờ. Chỉ vì sự tắc trách của Nam Tào gạch nhầm tên
mà Trương Ba chết oan. Theo lời khuyên của "tiên cờ" Đế Thích, Nam Tào, Bắc
Đẩu "sửa sai" bằng cách cho hồn Trương Ba được tiếp tục sống trong thân xác của
anh hàng thịt mới chết gần nhà. Nhưng điều đó lại đưa Trương Ba và một nghịch
cảnh khi linh hồn mình phải trú nhờ vào người khác. Do phải sống tạm bợ, lệ
thuộc, Trương Ba dần bị xác hàng thịt làm mất đi bản chất trong sạch, ngay thẳng
của mình. Ý thức được điều đó, Trương Ba dằn vặt, đau khổ và quyết định chống
lại bằng cách tách ra khỏi xác hàng thịt. Cuối cùng Trương Ba trả lại xác hàng thịt
và chấp nhận cái chết. Qua các cuộc đối thoại của Trương Ba, tác giả dần tạo nên

một mạch truyện dẫn dắt người xem hiểu sâu hơn về Trương Ba.
2. Yếu tố lời thoại trong “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
Trong một vở kịch yếu tố lời thoại là chiếc chìa khóa vàng để đi sâu khám phá tính
cách, nội tâm nhân vật. Từ đó chúng ta hiểu được tư tưởng mà nhà viết kịch muốn
gửi gắm. Do vậy, khi phân tích “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” không thể không
nhắc đến yếu tố lời thoại. Xét trên góc độ văn bản kịch, yếu tố lời thoại ở đây được
thể hiện chủ yếu qua đối thoại và độc thoại. Riêng về bàng thoại – lời của nhân vật
giao tiếp với khán giả - thì không xuất hiện trong văn bản kịch này. Vậy nên trong
bài phân tích này chúng tôi đề cập đến yếu tố đối thoại và độc thoại để từ đó có thể
hiểu sâu sắc giá trị tư tưởng cũng như nghệ thuật của tác phẩm.
2.1. Yếu tố lời đối thoại
Đối thoại là lời của các nhân vật nói với nhau. Kịch bản chủ yếu là sự liên kết một
chuỗi các đối thoại nên đây là thành phần lời văn quan trọng nhất, giữ vị trí then
chốt tạo nên cấu trúc của kịch bản văn học.
Trong bài viết này chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu lời đối thoại giữa hồn
Trương Ba với các nhân vật trong vở kịch theo các mối quan hệ: hồn Trương Ba -
xác hàng thịt, hồn Trương Ba - những thành viên trong gia đình, hồn Trương Ba -
những người dân trong làng, hồn Trương Ba - các nhân vật trên thiên giới. Đây là
các thành phần lời chủ yếu tạo nên các xung đột kịch: xung đột cá nhân, xung đột
gia đình, xung đột xã hội.
2.1.1. Lời đối thoại giữa hồn Trương Ba - xác hàng thịt
Sau một thời gian hồn Trương Ba sống trong xác hàng thịt, rất nhiều mâu thuẫn đã
nảy sinh. Dường như trong xác hàng thịt, Trương Ba đã trở thành một con người
khác. Hồi VII của vở kịch là quá trình hồn Trương Ba muốn tách ra khỏi xác hàng
thịt và là lúc mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm.
Đầu tiên, hồn Trương Ba và xác hàng thịt tranh luận về sức mạnh của thể xác (tư
tưởng hồn - xác đối lập). Hồn Trương Ba tức tối, phẫn nộ và khinh bỉ thể xác, phủ
nhận sức mạnh của thể xác “không có tiếng nói, mày chỉ là xác thịt âm u, đui mù”,
“không có tư tưởng, không có cảm xúc”, cho rằng những nhu cầu của xác thịt là
thấp hèn. Hồn Trương Ba khẳng định một cách đầy tin tưởng và tự hào về sự

“trong sạch” trong tâm hồn mình. Trái lại, xác hàng thịt mỉa mai, giễu cợt, gọi hồn
Trương Ba là cái “linh hồn mờ nhạt khốn khổ”. Xác hàng thịt tự tin trước sức
mạnh ghê gớm của mình, át cả linh hồn cao khiết của Trương Ba, đưa ra dẫn chứng
cụ thể, giàu sức thuyết phục để khẳng định sức mạnh của mình, khiến Trương Ba
bối rối: “Có đấy! Xác thịt có tiếng nói đấy! Ông đã biết tiếng nói của tôi rồi, đã
luôn luôn bị tiếng nói ấy sai khiến. Chính vì âm u, đui mù mà tôi có sức mạnh ghê
gớm, lắm khi át cả cái linh hồn cao khiết của ông đấy!”
Tiếp đến hồn Trương Ba và xác hàng thịt tranh luận về vai trò của thể xác (tư
tưởng hồn – xác là một, xác chi phối hồn). Xác hàng thịt khẳng định mình là “cái
bình để chứa đựng linh hồn”, tự hào về vai trò của thể xác trong việc thoả mãn
những nhu cầu của linh hồn, phê phán, chế giễu sự coi thường của linh hồn trước
những nhu cầu của thể xác và đấu tranh cho những nhu cầu chính đáng của mình
rồi lại ve vuốt, đề nghị hồn Trương Ba trở về sống hoà hợp với mình. Xác hàng thịt
chủ động đặt nhiều câu hỏi phản biện, lí lẽ giảo hoạt; trở thành kẻ thắng thế, xác
hàng thịt buộc Trương Ba phải quy phục mình. Hồn Trương Ba yếu thế, một mặt
tức tối trước những lí lẽ ti tiện của xác hàng thịt; mặt khác bối rối, lúng túng,
không thể phản bác những ý kiến đó cuối cùng chấp nhận trở lại xác hàng thịt
trong nỗi đau khổ, tuyệt vọng. Hồn Trương Ba bị động, kháng cự yếu ớt, đuối lí,
tuyệt vọng và trở thành người thua cuộc.
Như vậy cuộc đối thoại giữa hồn và xác đã thể hiện mâu thuẫn trong chính bản
thân nhân vật Trương Ba từ khi “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo”, đẩy
xung đột kịch lên đỉnh điểm: Trương Ba thấy mình bị tha hóa: hồn trong sạch ngay
thẳng đang bị cái thể xác thô lỗ, ranh mãnh, ve vãn, chế nhạo, cám dỗ. Có lúc hồn
phải thỏa hiệp với những đòi hỏi bản năng của xác. Bây giờ không còn thích đánh
cờ - một thú vui trí tuệ, thanh cao. Những nước cờ không còn phóng khoáng mà
tủn mủn vô hồn. Không còn là người có bàn tay khéo léo nữa mà là một kẻ vụng
về. Bên trong một đường, bên ngoài một nẻo. Ý thức được điều đó nên hồn càng
thêm đau khổ. Đây là sự đau khổ vì không làm chủ được bản thân. Đây cũng là nỗi
đau khổ của con người khi phải sống trong hoàn cảnh không phù hợp với mong
ước của mình, không phải là chính mình.

Ở đây, Lưu Quang Vũ đã tạo ra một tình huống nghệ thuật đặc sắc, giàu tính biểu
tượng. Đó là xung đột giữa cái phàm tục với cái thanh cao, giữa nội dung và hình
thức, giữa linh hồn và thể xác. Đây cũng là xung đột dai dẳng giữa hai mặt tồn tại
trong một con người. Tác giả xây dựng những nhân vật có tính cách đa diện, phức
tạp và sống động qua lời thoại giàu tính cá thể và hành động kịch logic, có sự phối
hợp nhịp nhàng giữa hành động bên ngoài và hành động bên trong. Lời thoại trong
hồi VII gồm 13 lời của hồn, 13 lời của xác, ngôn ngữ kịch vừa có màu sắc mỉa
mai, dí dỏm, vừa mang tính chất triết lí nghiêm trang, phù hợp với tính cách nhân
vật. Qua đó triết lí nhân sinh từ cuộc đối thoại hiện lên rõ nét: linh hồn và thể xác
là hai mặt tồn tại không thể thiếu trong một con người, cả hai đều đáng trân trọng.
Một cuộc sống đích thực chân chính phải có sự hài hoà giữa linh hồn và thể xác.
Tác giả một mặt phê phán những dục vọng tầm thường, sự dung tục của con người,
mặt khác ông vạch ra quan niệm phiến diện, xa rời thực tế khi coi thường giá trị
vật chất và những nhu cầu của thể xác. Con người cần có sự ý thức chiến thắng bản
thân, chống lại những nghịch cảnh số phận, chống lại sự giả tạo để bảo vệ quyền
sống đích thực và khát vọng hoàn thiện nhân cách.
2.1.2. Lời đối thoại giữa Trương Ba với những thành viên trong gia đình
Từ khi sống nhờ xác hàng thịt, hồn Trương Ba bị tha hóa nhiều: tát con trai tóe
máu mồm máu mũi bằng bàn tay, bằng sức mạnh và sự tàn bạo của xác hàng thịt.
Hồn Trương Ba khác hẳn ngày xưa, làm vườn thì thô vụng, làm “gãy tiệt cái mầm
non” của cây cam, đã “giẫm lên nát cả cây sâm quý mới ươm”, đã “làm gãy cả nan,
rách cả giấy, hỏng mất cả cái diều đẹp” của cu Tị.
Từ ngày mang xác hàng thịt, hồn Trương Ba sống trong bi kịch, trải qua nhiều dằn
vặt, đau khổ. Vợ Trương Ba muốn bỏ đi để ông được thảnh thơi với cô vợ người
hàng thịt: “ông đâu còn là ông, đâu còn là Trương Ba làm vườn ngày xưa”. Người
vợ vị tha, nhẫn nhịn, hết mực yêu thương chồng nay mang tâm trạng đau khổ tột
cùng vì chứng kiến sự đổi thay của chồng. Nỗi đau hiện tại còn kinh khủng hơn
giây phút bà tiễn thân xác chồng khỏi thế gian. Hồn Trương Ba ngơ ngác, thảng
thốt và rơi vào trạng thái thẫn thờ, tê xót qua một loạt lời thoại ngắn, toàn câu hỏi:
“Sao bà lại nói thế?”, “Đi đâu?”, “Sao lại đến nông nỗi này?”, “Thật sao?”,

“Không được.”
Với cái Gái - người luôn yêu thương gắn bó với ông hết mực, đêm nào cũng khóc,
nâng niu từng chút kỉ niệm của ông nên phản ứng dữ dội khi xác hàng thịt sống
trong nhà mình và nhận là ông nó. Nó nói những lời lẽ tàn nhẫn, phũ phàng chối
bỏ, xua đuổi Hồn Trương Ba: “Tôi không phải cháu của ông”, “Ông nội tôi chết
rồi. Nếu ông nội tôi hiện về được, hồn ông nội tôi sẽ bóp cổ ông.” Tâm hồn trẻ thơ
vốn trong trẻo, chỉ có hai màu sáng tối, kiên quyết không chấp nhận cái xấu, cái ác.
Hồn Trương Ba run rẩy trước những lời nói của cháu nhỏ, thêm một lần nữa chúng
xoáy khoét vào nỗi đau thăm thẳm của ông, để ông cảm nhận thấm thía bi kịch bị
chính những người thân yêu chối bỏ.
Con dâu luôn thấu hiểu và cảm thông với hồn Trương Ba “thầy khổ hơn xưa nhiều
lắm”, “thương hơn” nay nhận thức một sự thật đau đớn: “làm sao để giữ thầy ở lại,
hiền hậu, vui vẻ, tốt lành như thầy của chúng con xưa kia”. Trước những lời lẽ
chân thực của con dâu, hồn Trương Ba “lạnh ngắt như tảng đá”, hoàn toàn tuyệt
vọng.
Người con trai vốn tính thực dụng, trước kia đã mâu thuẫn với bố nay Trương Ba
trong cảnh hồn xác bất nhất thì xung đột lại càng gay gắt hơn. Anh con trai muốn
lợi dụng thân xác bố mình đang mang hòng kiếm chác, lừa đảo: “Hôm qua thầy là
thầy, hôm nay thầy ở trong thân Anh hàng thịt, tôi đối với thầy vẫn thế thôi…Mà
tôi nghĩ thầy đổi thân xác thế càng hay! Thậm chí tôi còn mong được như thầy.
Thử hình dung mà xem: Bọn lái buôn trên tỉnh, bọn quan nha lính tráng chúng đã
nhẵn mặt tôi rồi, khó giở trò gì với chúng được, bỗng dưng một hôm nào đó từ mặt
mũi tới người ngợm tôi thay đổi hoàn toàn, tôi ra bộ một anh lái buôn ngờ nghệch
mới mang hàng quý từ phương xa đến, thể nào chúng cũng mắc lỡm với tôi, tôi sẽ
vét túi được cả những thằng keo kiệt nhất!” Thế nhưng hồn Trương Ba “mượn thân
anh hàng thịt, nhất quyết không phải để làm những việc như anh nói” là lừa lọc,
gian trá mà là “để sống, để được sống.” Đó là suy nghĩ trái ngược nhau về quan
niệm sống của hai cha con: một người chạy theo vật chất bất chấp thủ đoạn, một
người sống với sự thanh cao của tâm hồn và kiên quyết bảo vệ nó đến cùng. Nhưng
trước những lời lẽ xúc phạm của con mình, hồn Trương Ba đã không kiềm chế

được bản thân và tát con trai tóe máu mồm máu mũi bằng bàn tay, bằng sức mạnh
và sự tàn bạo của xác hàng thịt. Chính hồn Trương Ba cũng không bảo vệ được sự
thanh cao của tâm hồn.
Bốn lượt đối thoại đi qua đẩy bi kịch của Hồn Trương Ba lên tới chót đỉnh. Những
người thân thiết nhất cũng không chấp nhận nổi tình trạng hồn xác bất nhất của
chồng, cha, ông mình. Con người Phương Đông vốn coi mái nhà và quan hệ ruột
thịt là nền tảng tinh thần. Mất nó, con người gần như mất tất cả, rơi vào trạng thái
đơn độc, chống chếnh. Đối thoại với những người thân mới cho nhân vật nhận cảm
thấm thía tình trạng của bản thân, để đi đến hành động giải thoát quyết liệt. Nhà
văn không đưa đối thoại với người con trai (lúc này đã bị đồng tiền cám dỗ, sinh ra
thói con buôn vụ lợi) vào hồi VII mà để Hồn đối thoại với vợ, cháu gái, con dâu –
những người yêu thương, gắn bó với Trương Ba nhất để dẫn dắt Trương Ba đến
nhận thức sâu sắc về tình trạng tuyệt vọng không lối thoát của bản thân mình.
2.1.3. Lời đối thoại giữa hồn Trương Ba với những người dân trong làng
Khi rơi vào nghịch cảnh trớ trêu hồn mình nhập vào xác hàng thịt, hồn Trương Ba
phải phân bua với dân làng mà cụ thể là vợ hàng thịt, hai người lái lợn, lý trưởng
và Trưởng Hoạt. Dựa vào lời đối thoại giữa hồn Trương Ba với các nhân vật này,
có thể thấy sự phản ứng của dân làng - xã hội thu nhỏ: người thì tin trong xác hàng
thịt là Trương Ba thật, người thì dửng dưng không quan tâm.
Hai người lái lợn ban đầu hoảng sợ, nửa tin nửa ngờ nhưng sau một thời gian thì
cũng phải chấp nhận đó thực sự là hồn Trương Ba trong xác hàng thịt. Tên lý
trưởng tỏ ra không quan tâm là hồn ai, xác ai, hắn cho rằng “Vui thật, hôm nay vui
thật! Có thế chứ: Phải biết dựa vào nhau ăn ở cho biết điều là thông đồng bén giọt
cả! Ông núp vào thân một anh hàng thịt chứ mười anh hàng thịt ta cũng che chở
được! Phải, thế mà hay! Có độ dăm bảy kẻ đội lốt người khác như ông Trương Ba
đây thì thầy Lý tha hồ uống rượu. Ờ giá mà cả làng cả tổng cả thiên hạ này đều hồn
nọ lốt kia nhỉ?”
Người duy nhất tỏ ra vui mừng sau khi biết chắc chắn trong xác hàng thịt là hồn
Trương Ba - Trưởng Hoạt - người bạn cờ lâu năm của Trương Ba đã ràn rụa nước
mắt: “Bác Trương! Bác Trương! Bác không chết đấy chứ? Bác về với tôi đây rồi

phải không bác?” Nhưng sau đó Trưởng Hoạt lại thất vọng vì người bạn thân bao
lâu của mình đã thay đổi kể cả trong việc đi từng nước cờ: “Người đàng hoàng
không ai đòi ăn nước ấy! (Thất vọng) Vâng, tôi thua. Nhưng bác Trương ạ, tôi
không hiểu nổi. Lối đánh của bác khác hẳn ngày xưa. Thoạt trông thì thấy cách vào
cờ của bác vẫn như xưa, nhưng sau thì… Chẳng còn cái khoáng hoạt, dũng mãnh
thâm sâu ngày trước. Cách tiến cách thủ của bác bây giờ vụn vặt, tủn mủn thô phũ.
Mà cái nước ăn vừa rồi nói xin lỗi bác nó bần tiện làm sao!” Trưởng Hoạt phải thốt
lên rằng “Bác thay tâm đổi tính thật rồi, bác Trương Ba ạ!”
Vợ hàng thịt sau khi tin hồn Trương Ba sống trong xác chồng mình thì lại nảy sinh
khao khát muốn hồn Trương Ba thực sự trở thành chồng mình. Bà vợ hàng thịt
không phải ghét bỏ con người cũ của chồng mình, mà chỉ là từ khi gặp được hồn
Trương Ba người vợ ấy mới biết được mình đã thiếu những gì, mình muốn những
gì. Vợ hàng thịt nói: “Em cảm tạ trời phật đã cho hồn ông nhập vào hình vóc quen
thuộc này! Em không ao ước gì hơn nữa!Người chồng toàn vẹn của em đây! Người
em đã từng mong đợi xưa kia đây! Anh đừng e ngại nữa, em là của anh Thương
em đi, yêu em đi! Anh! Đôi cánh tay này đã bao lần ghì chặt lấy em đến nỗi em
phát sợ nhưng bây giờ đã khác trước, anh nhỉ?” Trước những lời nỉ non, quyến rũ
của vợ hàng thịt, hồn Trương Ba dường như đã xiêu lòng trong phút chốc, nhưng
rồi sực tỉnh khi nhớ tới người vợ thật sự của mình và thảng thốt kêu lên sợ hãi
“ trời ơi, ta đang làm gì thế này? Không! Không. Cái đốm sáng mong manh nào
trong ta vừa chợt loé lên? Vái linh hồn yếu ớt của ta, hãy trở lại với ta, Trương
Ba…ta là Trương Ba Mình ơi! Tôi đã làm gì? Bà nó ơi!” Trương Ba không chỉ
gặp mâu thuẫn trong chính gia đình của mình mà còn khó xử với cả gia đình người
hàng thịt.
Hồn Trương Ba hoàn toàn bơ vơ, lạc lõng trong ngôi làng quen thuộc của mình khi
phải sống trong xác hàng thịt. Cái xã hội thu nhỏ ấy đã chấp nhận hồn Trương Ba
nhưng dường như lại không phải như vậy. Hồn Trương Ba sống cạnh những người
gần gũi với mình nhưng lại vô cùng xa cách, không thể hòa hợp.
2.1.4. Lời đối thoại giữa hồn Trương Ba với Đế Thích
Các nhân vật Nam Tào, Bắc Đẩu, Đế Thích là những nhân vật nắm giữ quyền sinh

sát trong tay, tạo ra mâu thuẫn đồng thời cũng đứng ra giải quyết mâu thuẫn. Lời
đối thoại của hồn Trương Ba với nhân vật này tập trung chủ yếu ở hồi VII - hồi mở
nút giải quyết xung đột trong vở kịch. Thông qua nhân vật Đế Thích, tác giả đã gửi
gắm những quan niệm về hạnh phúc, sự sống và cái chết.
Đế Thích đưa ra đề xuất để Trương Ba được sống bằng cách để hồn Trương Ba
nhập vào xác cu Tị. Đây là một cách tồn tại “dễ thở” hơn, “dễ chịu” hơn. Đế Thích
không hiểu được những suy nghĩ của Trương Ba và cho rằng “con người trần giới
các ông thật kì lạ”. Đây là vị thần tiên quyền phép biến hóa, yêu mến Trương Ba
nhưng rốt cuộc vẫn mang tầm nhìn, điểm nhìn xa lạ, không thể thấu hiểu những
suy nghĩ trần thế.
Lựa chọn của hồn Trương Ba “không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo
được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn” thể hiện triết lý nhân sinh sâu sắc. Hồn và
xác luôn thống nhất hài hòa trong một con người. Không thể có linh hồn thanh
khiết trong một thể xác dung tục, tội lỗi. Khi con người bị vấy bẩn bởi những dục
vọng bản năng thì đừng chỉ đổ lỗi cho xác thân, tự vỗ về, ngụy biện bằng linh hồn
cao khiết siêu hình. Thái độ sống cần có của con người là phải dũng cảm, dám đối
mặt, thừa nhận những sai lầm của bản thân, để không bao giờ trốn chạy. Câu hồn
Trương Ba nói “Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên,
đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản
là cho tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!” đã khẳng định
cuộc sống thật đáng quí nhưng sống nhờ, sống gửi, sống chắp vá, không được là
mình thì thật vô nghĩa. “Sống” đơn thuần chỉ là đời sống thực vật, “sống như thế
nào” – sống “toàn vẹn” mới là đời sống của một con người. Để có được ý nghĩa
chân chính đó quả không dễ dàng.
Chi tiết cu Tị chết đã đẩy bi kịch đến chỗ “mở nút”. Hồn Trương Ba tưởng tượng
ra giả cảnh khi nhập xác đứa bé, bao nhiêu phiền toái khác do sự vênh lệch hồn xác
sẽ xảy ra, nghĩ đến nỗi đau của người thân cu Tị khiến hồn Trương Ba nhận thức
tỉnh táo, quyết định sáng suốt: xin cho cu Tị sống lại, để mình chết hẳn. Lời của
hồn Trương Ba dày đặc, không còn cái ngập ngừng, yếu thế như trong đối thoại
với xác mà tự tin, chủ động bày tỏ. Quá trình đưa ra quyết định dứt khoát “chết

hẳn”, hồn Trương Ba đã thực hiện cuộc phục sinh tâm hồn mình. Người ta lại thấy
một hồn Trương Ba nhân hậu, vị tha, giàu tình thương. Hồn Trương Ba nhận thức
được ý nghĩa đích thực của cuộc sống: Cuộc sống đáng quí biết bao, nhưng sống
mà không được là mình, “sống giả tạo” thì chẳng có lợi cho ai ngoài “bọn khốn
kiếp” đục nước béo cò.
Ngoài những lượt đối thoại trên, trong vở kịch còn xuất hiện nhiều lời đối thoại
giữa các nhân vật khác với nhau như: Nam Tào - Bắc Đẩu - Đế Thích, vợ Trương
Ba - Đế Thích, vợ Trương Ba - vợ hàng thịt, nhưng những lượt đối thoại này thì
không tác động nhiều đến việc tạo ra xung đột kịch. Đoạn kết của vở kịch gợi mở
nhiều ý nghĩa nhân sinh qua đối thoại của cái Gái và cu Tị: “cây na này ông nội tớ
trồng đấy”; qua hành động vùi hạt na xuống đất: “Cho nó mọc thành những cây
mới. Ông nội tớ bảo vậy. Những cây sẽ nối nhau mà lớn khôn. Mãi mãi.” Hình ảnh
đứa trẻ ngây thơ, trong trắng gieo trồng hạt giống mới biểu trưng cho sự nối tiếp,
sinh sôi bất tử của hồn Trương Ba, vẻ đẹp Trương Ba – thanh khiết, vẹn nguyên.
Cái chết hẳn về thể xác là sự hoàn nguyên kì diệu cho tâm hồn. Trương Ba đang
sống một cuộc sống khác: sự sống bất diệt trong trái tim những người thân. Mặc dù
giờ đây Hồn Trương Ba không có thân xác trú ngụ, chỉ là bóng chập chờn mờ ảo,
vô hình lại là lúc sự hiện diện của Trương Ba nhiều nhất, thường trực nhất. Ý nghĩa
sự sống nhiều khi không phải ở sự tồn tại sinh học mà ở chính sự hiện diện của ta
trong suy nghĩ, nỗi nhớ của những người thương yêu. Vẻ đẹp tâm hồn có đời sống
dài lâu và bất tử so với thể xác. Tâm hồn cao khiết của Trương Ba vẫn còn có mặt
trong mỗi hoài niệm, mỗi cuộc đời đang sống.
Tiểu kết:
Qua sự phân tích yếu tố lời đối thoại trong “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”, ta có
thể thấy tầm quan trọng của lời đối thoại đối với thể loại kịch văn học: Lời đối
thoại mang tính hành động, nó có khả năng giúp người diễn lựa chọn thái độ, hành
động khi diễn. Thông qua lời đối thoại, các nhân vật được cọ xát, từ đó thúc đẩy
hình thành nên xung đột kịch. Cuộc đối thoại để tạo nên mâu thuẫn thường dựa
trên cấu trúc của cặp đối nghịch như: tấn công và phản đòn, thăm dò và lảng tránh,
vu vạ và biện minh, chất vấn và chối cãi, đe dọa và coi thường, cầu xin và từ

chối, tạo nên đặc trưng nổi bật nhất của kịch là tính kịch tính. Như vậy, độc thoại
giữ vai trò then chốt trong việc cấu tạo nên cấu trúc của kịch văn bản văn học.
2.2. Yếu tố lời độc thoại
Có thể nói yếu tố độc thoại bắt đầu xuất hiện với tần số cao kể từ khi hồn của
Trương Ba sống trong thân xác của anh hàng thịt tức là kể từ khi bi kịch của
Trương Ba bắt đầu. Trong các cuộc đối thoại với người thân (vợ, con trai, con dâu,
cháu gái) và với xác hàng thịt, chúng ta không chỉ tập trung vào lời đối thoại mà
cần tinh ý quan tâm đến những lời độc thoại của nhân vật.
Sau khi được sống lại và trở về với thân xác của anh hàng thịt, hồn Trương Ba đã
hết sức ngỡ ngàng, bàng hoàng khi biết mình mang thân xác của một người hoàn
toàn khác. Đây cũng là một quy luật tâm lí hết sức tự nhiên của con người: “Bức
quá, ngột quá! Tôi ở đâu thế này, mấy người kia là ai? Quái, tôi ở đâu thế này?” ,
“Không! Không phải tôi! Không phải . Không! Không phải tôi! Cái mặt của tôi
đâu rồi?Chân tay của tôi đâu rồi? Tôi là Trương Ba cơ mà! Người này không phải
tôi! Nhưng …nhưng mình đang ở đây Rõ ràng mình là mình đây, có là ai khác
đâu! Ai làm mặt mũi người ngợm tôi thành ra thế này?”
Những lời độc thoại này góp phần thể hiện sự ngỡ ngàng đến hoảng hốt trước sự
nhập thân không ăn khớp của hồn và xác: Hồn Trương Ba lại ở trong xác hàng thịt.
Nó là điềm báo mở đầu cho một chuỗi những bi kịch sẽ xảy ra sau này, cũng là
điểm mở đầu cho những tư tưởng, triết lí mà Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm.
Trước khi diễn ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác, nhà viết kịch đã để cho Hồn
Trương Ba "ngồi ôm đầu một hồi lâu rồi vụt đứng dậy" với một lời độc thoại đầy
khẩn thiết:
"- Không. Không! Tôi không muốn sống như thế này mãi! Tôi chán cái chỗ ở
không phải là của tôi này lắm rồi! Cái thân thể kềnh càng, thô lỗ này, ta bắt đầu sợ
mi, ta chỉ muốn rời xa mi tức khắc!Nếu cái hồn của ta có hình thù riêng nhỉ, để nó
tách ra khỏi cái xác này, dù chỉ một lát".
Từ lời độc thoại này có thể thấy: Hồn Trương Ba đang ở trong tâm trạng vô cùng
bức bối, đau khổ với những câu cảm thán ngắn, dồn dập mang tính chất phủ định
dứt khoát “Không. Không!” cùng với ước nguyện khắc khoải “Ta chỉ muốn rời xa

mi tức khắc!”. Hồn bức bối bởi không thể nào thoát ra khỏi cái thân xác mà hồn
ghê tởm cái thân xác kềnh càng thô lỗ khiến hồn “chán cái chỗ ở không phải là của
tôi này lắm rồi!”. Từ đó hồn Trương Ba đau khổ bởi mình không còn là mình nữa.
Thông thường chỉ khi nào con người mất hết niềm tin, đã quá tuyệt vọng thì mới
chán ngán bản thân mình đến mức muốn thoát khỏi bản thân mình. Nếu Chí Phèo
chán ngắt bản thân đến mức chửi rủa chính người đã sinh ra mình thì ở đây hồn
Trương Ba không chỉ chán chính cái xác của mình mà còn muốn xa lánh và vĩnh
viễn xa rời cái xác âm u, đui mù đó. Chỉ ước ao “tách ra khỏi cái xác này dù chỉ
một lát”
Chỉ qua lời độc thoại trên ta thấy được nỗi đau khổ, dằn vặt của hồn Trương Ba khi
phải sống nhờ trên thân xác của người khác mà không được sống đúng với chính
bản thân mình, bên trong một đằng bên ngoài một nẻo. Phải chăng đây cũng chính
là thông điệp mà Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm đến với độc giả.
Trong hồi VII, hồn Trương Ba đã có rất nhiều những lời đối thoại với vợ, với con
và với cháu,…Nhưng dù là cuộc đối thoại nào thì cũng không ai hiểu Trương Ba
ngay cả với người con dâu luôn yêu thương và cảm thông cho bố. Niềm hi vọng
cuối cùng vào những người thân của Trương Ba cũng sụp đổ. Mỗi nhân vật bằng
cách nói riêng, giọng nói riêng của mình đã khiến hồn Trương Ba cảm thấy không
thể chịu nổi. Nỗi cay đắng với chính bản thân mình cứ lớn dần lớn dần, muốn đứt
tung, muốn vọt trào. Nhà viết kịch đã để cho hồn Trương Ba còn lại trơ trọi một
mình với nỗi đau khổ, tuyệt vọng lên đến đỉnh điểm, một mình với những lời độc
thoại đầy chua chát nhưng cũng đầy quyết liệt: "Mày đã thắng thế rồi đấy, cái thân
xác không phải của ta ạ Nhưng lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất phục mày và tự
đánh mất mình?”, "Chẳng còn cách nào khác!”, “Mày nói như thế hả?”, “Nhưng có
thật là không còn cách nào khác?”, “ Có thật không còn cách nào khác?”, “Không
cần đến cái đời sống do mày mang lại! Không cần!”. Qua lời độc thoại này, hồn
Trương Ba đã bắt đầu công nhận sự thắng thế của xác: “Mày đã thắng thế rồi đấy,
cái thân xác không phải của ta ạ, mày đã tìm được đủ mọi cách để lấn át ta…”
Nhưng hồn còn tự vấn một cách đầy xót xa “Lẽ nào ta lại chịu thua mày, khuất
phục mày và tự đánh mất mình?”. Tiếp đó hồn còn tự phản lại lí luận của xác: “Có

thật không còn cách nào khác? Không cần đến cái đời sống do mày mang lại!
Không cần” . Lúc này hồn Trương Ba với thái độ kiên quyết, dũng cảm đã dứt
khoát phủ nhận đời sống không được là chính mình do xác mang lại…
Nếu độc thoại ở màn đầu tiên, Trương Ba hiện lên trong trạng thái dằn vặt đau khổ
thì ở màn độc thoại này, nỗi đau càng xa xót nhưng nhân vật không còn trăn trở về
tình trạng Hồn – Xác bất nhất mà đã có một thái độ chủ động dứt khoát dẫn đến
hành động quả quyết “đến bên cột nhà, lấy một nén hương châm lửa, thắp lên” và
cầu khẩn Đế Thích xuất hiện. Để có được hành động quả quyết đó là cả một quá
trình diễn biến hết sức phức tạp, đấu tranh gay gắt giữa hồn và xác. Đôi lúc tưởng
chừng như “hồn” sẽ thất bại trong cuộc đấu tranh ấy nhưng chính những dòng độc
thoại này trong chương VII đã là giọt nước tràn li khiến “hồn” có thêm dũng cảm
để tách hoàn toàn ra khỏi cái xác vốn không phải là của mình.
Trước khi vĩnh viễn rời khỏi cuộc đời , Trương Ba đã có những lời độc thoại cảm
động: “ Còn một lúc nữa U thằng Cả có về kịp không? Thế là anh sắp không phải
mang hồn tôi nữa rồi, thân thể anh hàng thịt ạ! Đã có lúc , không hiểu stôi ghét
giận anh nhưng giờ đây khi sắp rời khỏi anhao tôi bỗng thấy ngậm ngùi. Ba tháng
mang hồn tôi, thân anh gầy hẳn đi mà hồn tôi thì cũng suýt nữa suy sụp tan nát cả.
ta chia tay nhau vậy. Anh sẽ về gặp lại chị vợ anh Người đàn bà ấy cũng lạ thật!
Anh cho tôi gửi lời chào chị ấy. Chị ấy có nhớ gì tới tôi không? Anh có thay đổi
tâm tính đi không để chị ấy đỡ khổ. Giờ thì chị ấy sẽ đòi anh thay đổi tâm tính
đấy”…
Như vậy khi quyết định rời bỏ thể xác của hàng thịt, rời bỏ thứ không thuộc về
mình, hồn Trương Ba cảm thấy thanh thản, nhẹ nhõm. Đoạn độc thoại trên hay
chính là phần mở nút cho câu chuyện, cũng chính là ý nghĩa nhân sinh mà nhà thơ
– nhà viết kịch gửi gắm cho người đời: Câu hỏi muôn thuở - sống là quan trọng
nhưng sống như thế nào còn quan trọng hơn. Cuộc sống chỉ có ý nghĩa khi dám
mạnh dạn sống là chính mình, khi tâm hồn và thể xác hòa làm một. Qua tất cả
những lời độc thoại đó, nhà văn gửi gắm những thông điệp, triết lí nhân sinh: Ý
nghĩa sự sống nhiều khi không phải ở sự tồn tại sinh học mà ở chính sự hiện diện
của ta trong suy nghĩ, nỗi nhớ của những người thương yêu. Nếu như “hồn” cứ

phải sống trong thân xác không phải của mình, chịu sự chi phối của thân xác ấy mà
dần đánh mất đi nét thanh cao của chính mình thì liệu có còn đẹp trong mắt của
những người thân? Vẻ đẹp ấy không bao giờ đơn thuần chỉ là vẻ đẹp của tâm hồn,
đừng bao giờ biện bạch tâm hồn là tất cả mà trên hết vẻ đẹp ấy là sự dung hòa của
cả thể xác và tâm hồn. Tuy vậy, vẻ đẹp tâm hồn có đời sống dài lâu và bất tử so với
thể xác. Tâm hồn cao khiết của Trương Ba vẫn còn có mặt trong mỗi hoài niệm,
mỗi cuộc đời đang sống: “vẫn ở liền ngay bên bà đây, ngay trên bậc cửa nhà ta,
trong ánh lửa bà nấu cơm, cầu ao bà vo gạo, trong cái cơi bà đựng trầu, con dao bà
giẫy cỏ… Không phải mượn thân ai cả, tôi vẫn ở đây, trong vườn cây nhà ta, trong
những điều tốt lành của cuộc đời, trong mỗi trái cây cái Gái nâng niu”.
Những lời đối thoại giữa hồn Trương Ba với xác hàng thịt, có người còn xem đó là
những lời độc thoại. Hiểu trên khía cạnh này ta thấy được tầm tư tưởng lớn lao của
Lưu Quang Vũ. Cuộc đối thoại hồn – xác hay chính là những xung đột, giằng xé
nội tâm trong chính bản thân mỗi con người. Lưu Quang Vũ không chỉ khái quát
được xung đột giữa hồn Trương Ba với cái thân xác không thuộc về mình – xác
hàng thịt mà còn nâng lên thành xung đột nội tâm căng thẳng trong chính mỗi
người. Nói như Nguyễn Minh Châu, đó là xung đột giữa thiên thần và ác quỷ, phần
rồng phượng và rắn rết,…thanh cao trong sạch và xấu xa đen tối.
Tóm lại, chỉ cần lấy dẫn chứng hai lời độc thoại của hồn Trương Ba ta có cái nhìn
khái quát về yếu tố lời thoại (xét trên khía cạnh độc thoại) trong vở kịch. Những lời
độc thoại đã góp phần thể hiện sâu sắc nỗi dằn vặt, bức bối, đau khổ đến tuyệt
vọng khi không được sống là chính mình. Qua những lời độc thoại này, chúng ta
thấy được ý nghĩa triết lí sâu sắc : Con người chỉ có thể hạnh phúc khi được là
chính bản thân mình, đừng bao giờ đánh giá phần hồn hay phần xác quan trọng
hơn mà phải chăm chút cho cả phần hồn và phần xác, nghĩa là phải có sự thống
nhất giữa bên ngoài và bên trong, giữa thể xác và tâm hồn, giữa suy nghĩ và hành
động. Ngoài ra, vở kịch còn đề cập đến một vấn đề cũng không kém phần bức xúc,
đó là tình trạng con người phải sống giả, không dám và cũng không được sống là
bản thân mình. Đấy là nguy cơ đẩy con người đến chỗ bị tha hóa do danh và lợi.
Tư tưởng ấy không chỉ đúng với một người, một thời mà nó còn nguyên giá trị với

mọi thời đại.
III. Vai trò yếu tố lời thoại trong “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”
Có thể nói tài năng kịch của Lưu Quang Vũ được thể hiện rõ nhất trong việc xây
dựng lời thoại. Lời thoại có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc khắc họa hình
tượng nhân vật, thể hiện quan điểm xã hội đồng thời thể hiện quan điểm triết lí của
tác giả:
- Đối với nhân vật:
+ Lời thoại kịch góp phân xây dựng được những nét cơ bản về ngoại hình, tính
cách của nhân vật. Lẽ dĩ nhiên ngôn ngữ của Trương Ba, của Đế Thích, của cái
Gái, của con dâu,…khác nhau, do đó tính cách của những nhân vật này cũng sẽ
khác nhau
+ Lời thoại kịch góp phần định hướng cách thức để nhân vật thể hiện vai diễn của
mình trên sân khấu. Chẳng hạn, khi hồn Trương Ba đang đau khổ, vò đầu bứt
tai….đòi hỏi người diễn viên cần thể hiện được nét mặt u sầu, buồn bã thể hiện sự
giằng xé trong nội tâm của nhân vật.
- Lời thoại kịch góp phần thể hiện quan điểm xã hội. Trong vở kịch , quan điểm ấy
được nói lên thông qua những nhân vật như người con dâu, vợ, lí trưởng, Trưởng
Hoạt… Người sống thực dụng như lí trưởng, hai tên lái lợn, thậm chí là người con
trai của Trương Ba thì lại đề cao phần xác, sống để thỏa mãn mọi thứ bản năng của
phần xác: ăn, tính dục, tiền tài, danh lợi Người biết lí lẽ như vợ Trương Ba, con
dâu, Trưởng Hoạt thì không thể chấp nhận phần xác lệch lạc mà đề cao và hướng
tới cái phần cao khiết của tâm hồn. Đó chính là cách sống của những con người
trong xã hội đương thời, là bộ mặt xã hội Việt Nam trước thời kì đổi mới - mắc
nhiều sai lầm, có những cái sai mà không thể sửa hoặc sửa thì cũng chỉ là sự chắp

- Bên cạnh đó lời thoại kịch góp phần đắc lực cho việc thể hiện tư tưởng của tác
giả. Đặt tác phẩm trong bối cảnh ra đời của nó ta càng thấy rõ giá trị tư tưởng mà
Lưu Quang Vũ gửi gắm. Khi tất cả mọi người đều coi trọng phần hồn, lí tưởng hóa
cái bên trong thì Lưu Quang Vũ lại khác, kịch gia khẳng định con người không thể
sống thiếu phần xác cũng như hai mặt của một tờ giấy chỉ có thể có ý nghĩa khi

thống nhất được với nhau. Con người phải có sự hòa hợp giữa linh hồn và thể xác,
giữa suy nghĩ và hành động. Có thể nói triết lí này đã trở thành một lẽ sống cao đẹp
mà con người thời đại nào cũng cần hướng tới.
Với việc xây dựng lời thoại, Lưu Quang Vũ đã góp phần làm nên thành công cho
vở kịch, đưa vở kịch trở thành một trong những tác phẩm kịch lớn và có giá trị của
thời đại.

×