Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

góp phần nghiên cứu một vài phương pháp ứng dụng trong tổng hợp pregnan từ phytostrerol thông qua androstendion

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 73 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN


VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN HOÁ HỌC




Lƣu Thị Kim Nhung


GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU MỘT VÀI PHƢƠNG PHÁP ỨNG DỤNG TRONG TỔNG
HỢP PREGNAN TỪ PHYTOSTEROL THÔNG QUA ANDROSTENDION





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC




Hà Nội - Năm 2011

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN


VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
VIỆN HOÁ HỌC



Lƣu Thị Kim Nhung


GÓP PHẦN NGHIÊN CỨU MỘT VÀI PHƢƠNG PHÁP ỨNG DỤNG TRONG TỔNG
HỢP PREGNAN TỪ PHYTOSTEROL THÔNG QUA ANDROSTENDION

Chuyên ngành: Hóa Hữu cơ
Mã số: 60 44 27


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Lưu Đức Huy


Hà Nội – Năm 2011

1

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN 4
1.1 Phương pháp cyanhydrin tổng hợp mạch bên pregnan 4

1.2 Phương pháp acetylen tổng hợp mạch bên pregnan 7
1.2.1 Ngưng tụ 17-cetoandrosten với acetylen 8
1.2.2 Chuyển hoá 17-etynylcacbinol đến dẫn xuất 17-etynylsteroid tương ứng `11
1.3 Tổng hợp mạch bên corticoid 16
1.3.1 Chuyển hoá nhóm 17-etynyl đến mạch bên corticoid 16
1.3.2 Chuyển hóa 20-cetopregnan đến mạch bên corticoid 20
1. 4 Tổng hợp 16β-metyl-17α-hydroxy pregnan 21
1.4.1 Đưa mảnh 17α-hydroxy-16β-metyl vào 20-cetopregnan 21
1.4.2 Đưa nhóm metyl vào vị trí 16β phân tử corticosteroid 23
Chương 2: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 26
2.1 Tổng hợp mạch bên pregnan áp dụng phương pháp cyanhydrin 30
2. 2 Tạo mạch bên corticoid sử dụng hợp chất đa hóa trị của iod PhI(OAc)
2
42
2. 3 Nghiên cứu chọn lựa lập thể tổng hợp 16β-metyl-17α-hydroxy pregnan 50
Chương 3: THỰC NGHIỆM 55
3. 1. Tổng hợp 17α-hydroxy-17β-cyanandrost-4-en-3-on (2) 55
3. 2. Tổng hợp 17α-hydroxy-3,3 (2,2-dimetyl propylen dioxy)-androst-5 -en-17β-
carbonitril (3) 55
3. 3. Tổng hợp 3,3-(2,2-dimetyl propylen dioxy)-17β-cyanandrost-5 ,16(17)-dien (4) 56
3. 4. Tổng hợp 3,3-(2,2-dimetyl propylen dioxy)-pregn-5, 16(17)-dien-20-one (5) 56
3. 5. Tổng hợp 3,3-(2,2-dimetyl propylen dioxy)-16α,17α-epoxy-pregn-5-en-20-one (6) . 57

2

3. 6. Tổng hợp 3,3-(2,2-dimetyl propylen dioxy)-16α,17α-epoxy-20,20-dimetyl acetal-
21-hydroxy- pregn-5-en
(7) 57
3. 7. Tổng hợp 16α,17α-epoxy-21-hydroxy –pregn-4-en- 3,20-dion ( 8 ) 57
3. 8. Tổng hợp 3,3-(2,2-dimetyl propylen dioxy)- 17α-hydroxy -pregn-5-en -20-one (10) 58

3. 9. Tổng hợp 3,20-bis-(1,2-etandinyl)-acetal-16α,17α-epoxy-pregn-5-en ( 11) 58
3. 10. Nghiên cứu phản ứng của 3,20-bis-(1,2-etandinyl)-acetal-16α,17α-epoxy-pregn-5-
en
( 11) với CH
3
MgBr 58
KẾT LUẬN 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO 61
PHỤ
LỤC 66

















3

MỞ ĐẦU

Hiện nay Việt Nam phải nhập khẩu tới 90% hoạt chất làm thuốc, 100% các
thuốc có gốc steroid và nền công nghiệp Hóa dược gần như là chưa có, do vậy giá
thuốc rất cao so với mức thu nhập của người dân.
Trước tình hình đó, Chính phủ Việt Nam đã phê duyệt Chương trình trọng
điểm quốc gia về Hoá - Dược từ 2007 đến 2015 có tính đến 2020, nhằm thúc đẩy
và tạo ra cú huých cho công nghiệp Hoá - Dược nước nhà phát triển. Tháng
10/2007, Đại hội Hoá - Dược diễn ra ở Hà Nội, Hội Hoá - Dược được thành lập, và
bàn bạc rất sôi nổi, hưởng ứng “Chương trình trọng điểm Hoá- Dược quốc gia”.
Phần lớn các ý kiến đều đồng nhất quan điểm cho rằng: Hiện nay, chương trình
Hoá - Dược Việt Nam muốn thành công vẫn phải ưu tiên đi vào các nguồn hợp chất
thiên nhiên như sterol đậu tương, flavonoid….[10].
Trước đây diosgenin và solasodin là nguyên liệu số 1 cho tổng hợp các loại
thuốc steroid. Tuy nhiên chúng phải gieo trồng trên đất nông nghiệp nhiều năm mới
có thu hoạch, do vậy giá thành cao. Từ lâu người ta đã ra sức tìm kiếm các nguồn
nguyên liệu rẻ tiền hơn. Các sterol thực vật (phytosterol) được chú ý đến nhiều nhất
vì chúng có trữ lượng rất lớn và có thể thu hồi được từ phế phụ thải công nghiệp
giấy, công nghiệp mía đường và công nghiệp dầu đậu tương. Điều này đã trở thành
hiện thực sau khi phát minh ra một số chủng vi sinh phân cắt chọn lựa mạch bên
các sterol đến các 17-cetosteroid: androstendion (AD), androstadiendion (ADD) và
9-hydroxyandrostendion (9-OH AD) [3, 4, 23, 99].
Một số công ty dược lớn trên thế giới “Apdzon’’ [60] và “Serl”[18] của Mỹ,
“Sering” [73] của LB Đức, “Mitsubisi” [49] của Nhật đã đưa ra thị trường một vài
dược phẩm đầu tiên được bán tổng hợp từ sterol thông qua 17-cetosteroid trung
gian [2].
Ở Việt Nam, từ những năm 1978-1980 đã có một số lượng lớn cán bộ khoa
học Viện Hoá học



Viện Khoa học và Công nghệ Việt nam (Viện KHVN


-

tên cũ)
và Viện Dược liệu -

Bộ Y tế ra sức tìm kiếm nguồn nguyên liệu diosgenin và
solasodin từ cây cỏ Việt Nam. Kết quả là sau nhiều năm điều tra sàng lọc không chỉ
ra được cây nào có thể làm nguyên liệu vì hàm lượng hoạt chất quá thấp. Cây

4

solanum di thực từ Liên Xô cũ vào Việt Nam trồng thử ở Lâm Đồng nhưng dần bị
thoái hoá. Một vài cây dioscorea lấy giống từ Mehico cho hàm lượng diosgenin khá
cao và ổn định. Vì vậy, Bộ Y tế đã có đề án quốc gia chiết xuất và chuyển hoá
diosgenin đến các loại thuốc steroid. Tuy nhiên, sau ba kế hoạch 5 năm vẫn chưa
đưa vào sản xuất một loại thuốc nào mà chỉ bán tổng hợp được một vài dẫn xuất
ban đầu theo quy trình cũ từ những năm 1950; từ 1990 đến nay đề tài này không
thấy được tiếp tục, có lẽ chính vì như trên đã nói thời thế đã thay đổi, sterol đang
bắt đầu lên ngôi.
Ở nước ta đang hoạt động một số nhà máy giấy cỡ lớn và đậu tương là một
nông sản quan trọng thứ 3 với sản lượng hàng trăm ngàn tấn/ năm. Do vậy thu hồi
sterol từ phế phụ thải của hai ngành sản xuất trên là một vấn đề thời sự có ý nghĩa
khoa học, kinh tế, xã hội và môi trường to lớn.
Ở Việt Nam từ 1990 đến nay nhóm nghiên cứu của Lưu Đức Huy và cộng sự
(Viện Hoá Học-Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã nghiên cứu nhằm hoàn
thiện một số phương pháp mới chuyển hoá sterol đến corticoid thông qua 17-
cetosteroid trung gian. Mục đích cuối cùng là đưa ra một sơ đồ mới hiệu quả tổng
hợp corticoid từ sterol thay thế cho các sơ đồ trước đây tổng hợp chúng dựa trên
nguyên liệu cũ không còn tương lai diosgenin và solasodin.

Năm 2006, lần đầu tiên Lưu Đức Huy và cộng sự Cuba đã công bố kết quả
chuyển hoá vi sinh rất hiệu quả phytosterol, nguyên liệu Việt Nam đến
androstendion (AD) và androstadiendion (ADD) [88].
Năm 2007, Bộ Khoa học  Công nghệ đã phê duyệt nhiệm vụ nghị định thư
hợp tác với Liên bang Nga “Nghiên cứu công nghệ vi sinh chuyển hoá phytosterol
đến androstendion (AD) và 9-hydroxy AD sử dụng trong công nghiệp Hoá-Dược”
do Lưu Đức Huy làm chủ nhiệm .
Vừa mới đây, Lưu Đức Huy và cộng sự Nga đã có công bố về công nghệ
chuyển hóa vi sinh phytosterol của Việt Nam đến AD và 9α-OH AD với hiệu suất
trung bình đạt 70% và 75÷80% tương ứng [98]. Công nghệ còn được nghiên cứu
cải tiến, nâng cấp nhờ áp dụng phương pháp xúc tác Immobil [38].

5

Về nguyên tắc khi nguyên liệu đầu là diosgenin hay solasodin, sau khi phân
cắt chọn lọc mạch nhánh ta đã có được mạch bên pregnan; khi chuyển sang sterol
ta nhận được 17-cetosteroid, tức là chưa có mạch bên pregnan. Như vậy, một trong
số các nhiệm vụ quan trọng nhất là xây dựng mạch bên pregnan. Trong số nhiều
phương pháp xây dựng mạch bên pregnan chúng tôi trình bày trong phần tổng
quan, phương pháp cyanhydrin và phương pháp acetylen tỏ ra có triển vọng ứng
dụng nhất.
Từ phytosterol trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi hạn chế nghiên
cứu các phương pháp chính sau:
1. Phương pháp cyanhydrin tạo mạch bên pregnan.
2. Phương pháp tạo mạch bên corticoid sử dụng hợp chất đa hóa trị của iod
PhI(OAc)
2
.

3. Phương pháp chọn lựa lập thể tổng hợp 16β-metyl-17α-hydroxy pregnan.

Thuộc về một chương trình rộng lớn hơn của nhóm ngiên cứu do Lưu Đức
Huy phụ trách, nghiên cứu tổng hợp các loại thuốc có gốc steroid đặc biệt là các
corticoid.















6

Chương 1: TỔNG QUAN
Tổng hợp corticosteroid, nói riêng 20-cetopregnan từ 17-cetoandrosten có
thể thực hiện bằng nhiều phương pháp sau đây [4, 6, 7, 8, 9].
1. Phương pháp cyanhydrin: 17-cetosteroid được ngưng tụ chọn lựa lập thể với
HCN; 17-cyano-17-hydroxyandrosten tạo thành được ankyl hoá bằng tác nhân
Grignard hay metyl liti.
2. Ứng dụng phản ứng Vittic, tức là tương tác 17-cetosteroid với Ilit photpho.
3. Ứng dụng phản ứng Knevenagel: ngưng tụ xúc tác bazơ 17-cetosteroid với hợp
chất có nguyên tử hydro linh động như metoxy-, este cyanoacetic, isocyanoacetat,
nitrometan v.v và tiếp theo, oxy hoá liên kết đôi C

17
=C
20
.
4. Ứng dụng phản ứng Reformatxki: tương tác 17-cetosteroid với este của axit
cacboxylic thế -halogen có mặt Zn và sau đó oxy hoá liên kết đôi C
17
=C
20
.
5. Phương pháp acetylen, tức là 17-cetosteroit được ngưng tụ với acetylen; 17-
etynyl-17-hydroxy-androsten tạo ra sẽ được chuyển hoá đến pregnan bằng những
phương pháp khác nhau. Con đường acetylen bắt đầu phát triển chỉ vào những năm
gần đây khi có được khả năng rõ ràng 17-etynyl hoá định hướng lập thể 17-
cetosteroid hay là epime hoá hiệu quả trung tâm C
17
của 17-etynyl-17-
hydrocyandrosten nhận được ban đầu trong phản ứng ngưng tụ acetylen. Điều đó
đã kích thích mối quan tâm ứng dụng phương pháp này vào thực tiễn và cần thiết
tổng kết lại các tư liệu tham khảo mà cho đến nay trong các tổng quan mới chỉ
được đề cập rời rạc ở phạm vi tổng hợp mạch bên pregnan [4, 6, 7, 9]. Trong tổng
quan này chúng tôi sắp xếp bố cục theo thời gian phát triển của phương pháp
chuyển hoá 17-cetoandrosten đến 20-cetopregnan, đặc biệt lưu ý tới các công trình
gần đây nhất.
1.1 Phương pháp cyanhydrin tổng hợp mạch bên pregnan
Phương pháp rất có ý nghĩa thực tiễn tổng hợp mạch bên pregnan là phương
pháp cyanhydrin, bao gồm tương tác của các hợp chất 17-cetosteroid với
acetocyanhydrin (hay HCN) và ankyl hoá tiếp theo hợp chất 17α-hydroxy-17β-

7


nitril vừa nhận được. Phương pháp cyanhydrin xây dựng mạch bên corticoid từ AD
và 9-OH AD có hàng loạt ưu điểm: tính chọn lọc cao của phản ứng hydrocyan
hoá vào nhóm 17-ceto, tác nhân acetocyanhydrin dồi dào, rẻ tiền . Trong tổng hợp
các pregnan từ AD chúng tôi đã chỉ ra tính hiệu quả cao của phản ứng này [72].
Phương pháp cyanhydrin xây dựng mạch bên pregnan trên cơ sở AD cũng đã được
đề xuất bởi các tác giả Nhật [44].
Trong patent của hãng Apdzon [36], phương pháp cyanhydrin được áp dụng
để mô hình hoá các dẫn xuất khác nhau của AD. Tuy nhiên việc sử dụng 9α-OH
AD là hợp chất đầu đã được tuyên bố nhưng chưa được mô tả trong các ví dụ. Đã
được biết để tránh chuyển vị không mong muốn với sự tham gia của nhóm 9-OH
bậc 3 [18], một cách tiện lợi sẽ chuyển hoá nó đến dẫn xuất ∆
9(11)
, chức này khá
bền vững hơn trong điều kiện các phản ứng tiếp theo. Hãng Mitsubishi của Nhật đã
đề xuất điều chế 17β-cyan-17α-hydroxy-AD hay là dẫn xuất ∆
9(11)
-AD bằng cách
hydrocyan .Tuy nhiên phản ứng của ∆
9(11)
-AD với acetoncyanhydin trong các điều
kiện đã được mô tả bởi tác giả xảy ra với sự tạo thành chỉ dẫn xuất không mong
muốn 17α-cyan-17β-hydroxy trong khi phản ứng với sự có mặt nhóm 9α-hydroxy ở
chính các điều kiện này chỉ cho đồng phân epime mong muốn 17β-cyan-17α-
hydroxy. Đồng phân epime 17β-cyan-17-hydroxy-∆
9(11)
có thể được nhận được
bằng cách đồng phân hóa 17α-cyan-17-hydroxy tương ứng được tạo thành ban
đầu bằng tác dụng, chẳng hạn natri cyanua hoặc là trietyl amoni hydrocyanua trong
dung môi ancol bậc thấp [49]. Tác giả patent [73] đã điều chế thành công đồng

phân epime 17β-cyan-17α-hydroxy xuất phát từ ∆
9
-AD với hiệu suất 93% trong
môi trường rượu /nước khi sử dụng phương pháp epime hoá mà bản chất của
phương pháp này là kết tủa dần dần đồng phân epime 17β-cyan bằng cách thay đổi
nồng độ nước.
O
O
O
H
O
C
N
O
H
C
N
O



8

Chuyển hoá xa hơn hợp chất 17β-cyan-17α-hydroxy- đến 20-cetopregnan đã
được thực hiện bằng tương tác các cyanhydrin tương ứng với các nhóm 3-ceto- và
17α-hydroxy đã được bảo vệ với metyl liti hay metyl magie bromua [37, 44, 74,
86].
Để tạo ra hợp chất ∆
16
- có thể sử dụng dẫn xuất 17α-cyan-17β-hydroxy

cũng như đồng phân 17β-cyan-17α-hydroxy của nó, và cũng như là hỗn hợp của
chúng. Ban đầu người ta este hoá nhóm 17-hydroxy của 17-cyanhydrin bằng cách
tương tác với metalsulfonylchlorid, sau đó 17-cyano-17-metalsulfonyloxysteroid
tạo ra được xử lí bằng tác nhân dehydrat hoá. Ankyl hoá tiếp theo ∆
16
-dehydro-17-
nitril bằng tác nhân Grignard cho phép chuyển hoá các dẫn xuất androstan đến 20-
cetopregnan với hiệu suất cao [22]. Phương pháp đã được hoàn thiện và áp dụng
đối với các trường hợp 3-acetoxy-∆
5
-17-cetoandrostan và AD [75].
Để điều chế 17-acetyl steroid từ 17-oxo-steroid có thể sử dụng các tác nhân
acetyl đặc biệt gọi là tác nhân acetyl che chắn làm thay đổi hoạt tính của nhóm
cacbonyl . Các nguyên tắc và ứng dụng của khái niệm này đã được xem xét lại bởi
D.Seebach [94], B.T.Grobel & D.Seebach [24]. Trong sự có mặt của các tác nhân
acyl che chắn bazơ mạnh dạng anion bền vững mà nó dễ phản ứng với cacbon
cacbonyl và tạo ra hợp chất trung gian dễ bị thủy phân thành nhóm acetyl dẫn tới
17-acetyl steroid khi phản ứng với 17-oxosteroid. Các tác nhân acyl che chắn có thể
được sử dụng để tạo ra mạch bên pregnan [39, 76]. Rất ưa dùng loại này là alkyl
hoặc các vinyl aryl ete, alkyl hoặc vinyl aryl thioete hoặc 1,1-trimetylendithio-etan.
Việc sử dụng các vinyl ankyl ete được minh họa bởi Baldwin & Cs [12, 13].
Phương pháp này có thể được áp dụng để chuyển hoá 9α-hydroxy-17-
cetosteroid đến 9α,17α-dihydroxy-20-ceto pregnan :
OH
C
CH
2
O
OH
C

CH
3
HO
BR
2
R
S
S (CH
2
)
3
R
O
R
R



9

Áp dụng có kết quả tốt phương pháp “tác nhân che chắn acyl” đối với
trường hợp 9-hydroxy steroid có vòng D chứa nhóm “X” là oxygen hoặc sulfua,
“R” là nhóm ankyl (1-6C) hoặc aryl; sau khi xử lý với axit nhận được 17-acetyl-
17β-hydroxy steroid tương ứng.
Để nhận được đồng phân epime 17-acetyl mong muốn có thể dehydrat hóa
nó đến 16,17-dehydro steroid tương ứng.
Các hợp chất 9α-hydroxy- steroid với nhóm chức 3-ceto và 17-hydroxy đã
được bảo vệ, nhóm 17β-cyano có thể được chuyển hóa tới hợp chất 17-(1-imio
etyl) mà không cần tách ra, được chuyển hóa tiếp theo tới các hợp chất 17β-acetyl
tương ứng [77].


CN
OR
1
C
OR
1
R
R
CH
3
O
R
CH
3
NH
OH


Các phương pháp khác xây dựng mạch bên corticoid là rất phức tạp, tốn kém
và không có triển vọng thực tiễn do hiệu suất thấp các sản phẩm mong muốn. Đó là
tổng hợp với việc ứng dụng phản ứng Vittic và mô hình hoá phản ứng này (Phản
ứng Khorner-Emmons) [19], tổng hợp với việc sử dụng phản ứng Knevenagel [82]
với việc sử dụng phản ứng Reformatsky [20, 79, 80, 81] hay là các phương pháp
khác đã biết [25, 82, 83, 84].
Để điều chế hợp chất với mạch bên corticoid từ 20-ceto steroid, đầu tiên tiến
hành 21-halogen hóa, sau đó nguyên tử halogen được thay thế bằng nhóm acetyl ,
cuối cùng nhóm acetyl này được thuỷ phân đến nhóm chức 21-hydroxy mong
muốn [90, 26, 58].
1.2 Phương pháp acetylen tổng hợp mạch bên pregnan


10

1.2.1 Ngưng tụ 17-cetoandrosten với acetylen
Etynyl hoá 17-cetosteroid ở điều kiện khống chế nhiệt động xảy ra từ phía 
của phân tử, tạo thành dẫn xuất 17-etynyl-17-hydroxy. Thông báo đầu tiên 17-
etynyl hoá 3-hydrocyandrostenon-17 bằng acetylen trong amoniac lỏng xuất hiện
vào năm 1937 [31, 32, 75, 77], cho đến những năm 1970 đã được xem như là sự
khẳng định vô luận về tính chất đặc thù lập thể của quá trình này, không phụ thuộc
vào điều kiện ngưng tụ acetylen. Theo một phương pháp cổ điển (Favorski) 17-
cetosteroid được xử lý bằng acetylen, có mặt bazơ (ancolat kali, liti diizopropylamit
v.v ); đồng thời các phản ứng với androstendion, androstandiendion xảy ra mà
không đụng chạm đến nhóm chức 3-ceto, cho hiệu suất cao (95



96%) 17-
etynylcacbinol [44, 50].


O
O
AD , ADD
CH CH ,
OH
95%
O
OH
C
CH




Thử nghiệm ở chính các điều kiện này, ngưng tụ với 9-OH AD phát hiện
thấy isome hoá bộ khung [37] và chỉ khi bảo vệ nhóm 3-ceto bằng phức chất
acetylen liti với etylendiamin [15, 17, 37] cho phép thực hiện chuyển hoá với hiệu
suất 30%.



11

Tính chất không bền vững của 9-OH AD [16] và do đó hiệu suất 17-
etynylandrost-4-en-9,17-diol-3-on thấp, hiện tại không thể xem hợp chất trung
gian này là có triển vọng trong tổng hợp corticosteroid thế ở các vị trí 9,11.
Một con đường lựa chọn khác tỏ ra đáng lưu ý hơn là ứng dụng phản ứng điều chế
17-etynyl hoá [98] androst-4,9(11)-dien-3,17-dion (
9
-AD) dễ kiếm trước đây
[51 55]. Ngưng tụ 
9
-AD với acetylen có mặt tert-butylat kali xảy ra với hiệu suất
90% và không đòi hỏi bảo vệ nhóm 
4
-3-ceto mà nhóm này được bảo vệ bằng cách
tạo thành enolat bền vững.

9
-AD
Lần đầu tiên vào năm 1979 Kanojia và cộng sự [34] đã chỉ ra khả năng điều

chế trực tiếp 17-etynylcacbinol bằng cách etynyl hoá trực tiếp 17-cetosteroid.
Trong trường hợp ngưng tụ ete-3-metylic estron với acetylen trong N-
metylpirolidon

/

KOH đã nhận được cùng với 17-etynylcacbinol như dự đoán
(mestranol), epime 17-etynylcacbinol (epimestranol) (87% và 13% tương ứng
theo đánh giá bằng sắc ký bản mỏng hay 7% epimestranol đã được tách ra bằng sắc
ký điều chế).
O
O
O
O
H
3
PO
4
OH
OH
HC
CH
C CH
O
O
O
O
OH
OH
HC

CH
LiC CLi(CH
2
)
2
(NH
2
)
2
C CH
C CH
C CH
C CH C CH
OH
OH
OH
OH
OH
OH
MeO
O
O
O
O
O
O
,t-BuOK
O
O
+

+
+
+
+

12

O
MeO
C CH
+
C CH
OH
OH
87%
13%
CH CH

Năm 1984, hãng Apdzon (Mỹ) đã “trình làng” phương pháp tổng hợp 17-
etinylcacbinol như sau [56]: 17-cetosteroid được ngưng tụ với nguồn acetylen
(C
2
H
2
, cacbuacanxi, kali hay những tác nhân khác sinh ra acetylen in situ), có mặt
bazơ mạnh (KOH, t-BuOK v.v ) và dung môi amin epime hoá (etylendiamin; 1,3-
propylendiamin; 1,2-diaminopropan; 1,2-diaminoxiclohexan v.v không dưới 5%);
đồng dung môi là THF, ete Et
2
O, dioxan đã khẳng định chắc chắn rằng vắng mặt

dung môi epime phản ứng xảy ra chỉ từ vùng  và chỉ tạo thành 17-
etynylcacbinol. Tuy nhiên, nếu để hỗn hợp phản ứng trong một khoảng thời gian
dài (2



4 ngày) có thể làm tăng thêm một lượng nhỏ sản phẩm 17-etynyl hoá.
Thêm dung môi epime (5%) làm thay đổi tỉ lệ 17-etynyl /

17-etynylcacbinol (tùy
thuộc vào chất đầu được sử dụng) từ 90

/

10 đến 75

/

25

(%). Với mục đích điều chế,
các tác giả đề nghị tiến hành phản ứng trong dung môi 100% amin, khi đó hiệu suất
17-etynylcacbinol đạt 50%. Thực tế, hãng Niu-zi-lan “Gist-Brocads” đã xây dựng
bằng phát minh “phương pháp đặc thù lập thể 17-etynyl hoá 14-hydroxy-17-
cetoandrostan”. Thêm vào đó, các tác giả khẳng định rằng: có mặt nhóm chức 14-
hydroxy trong phân tử không làm thay đổi hướng lập thể của phản ứng này [57].
Về nguyên tắc, phương pháp này ít khác biệt so với phương pháp trước đây, có
chăng khi đó để etynyl hoá đã sử dụng phức chất của acetylenua liti với
etylendiamin là một sản phẩm thương mại bền vững dạng bột dễ kiếm [17, 30]. Có
khả năng, chính yếu tố 17-etynylcacbinol được đưa ra khỏi môi trường phản ứng

(dioxan), do vậy hiệu suất rất cao (92%) là chi tiết quan trọng của sáng chế này mà
các tác giả đã không đặc biệt lưu ý đến.

13


Ở đây chúng tôi xét thấy có sự tương tự với phương pháp cyanhydrin tổng
hợp corticosteroid, khi đó 17-cyan hoá đặc thù lập thể 17-cetosteroid đạt được
bằng cách kết tinh chọn lựa trực tiếp 17-nitril epime từ môi trường phản ứng trong
điều kiện cân bằng nhiệt động [14, 45, 58-62]. Phương pháp điều chế chọn lựa 17-
cyanhydrin này đã được công bố 48 năm trước đây [21], nhưng chỉ những năm gần
đây mới được quan tâm thoả đáng vì các sản phẩm trung gian có thể được sử dụng
trong tổng hợp corticoid. Xem xét tính chất tương tự rõ ràng giữa phương pháp
cyanhydrin và ví dụ duy nhất hiện nay được dẫn ra ở trên 17-etynyl hoá 17-
cetosteroid, có thể giả thiết rằng hướng này có thể phát triển trong thời gian tới.
1.2.2 Chuyển hoá 17α-etynylcacbinol đến dẫn xuất 17β-etynylsteroid tương
ứng
Chuyển hoá 17-etynylcacbinol đến các hợp chất với nhóm 17-etynyl, là
nhóm chức hai nguyên tử C cần thiết để xây dựng mạch bên pregnan được thực
hiện nhờ hai con đường sau

: con đường thứ nhất bao gồm quá trình đề hydrat hoá
nhóm 17-hydroxy, tạo ra 
16
-enin; con đường thứ hai là epime hoá 17-
etynylcacbinol qua 17-este của chúng.
Trước nghiên cứu của Lưu Đức Huy và cộng sự [2], chưa được biết các thử
nghiệm epime hoá trực tiếp 17-etynylcacbinol đến 17-etynylcacbinol bỏ qua giai
đoạn 17-este hoá. Chỉ có bằng sáng chế chuyển hoá rượu 17-etynylic thành 17-
epime của nó trong điều kiện tổng hợp acetylen được thực hiện trong dung môi

amin epime hoá [56].
Vào những năm gần đây, trên một phông phát triển mạnh mẽ các phương
pháp khác nhau tổng hợp 20-cetopregnan từ 17-etynyl-17-hydroxyandrosten tỏ
ra có kết quả nhất là các phương pháp gián tiếp epime hoá thông qua 17-OR este
(R

= -SO
3
H, -COCF
3
, -NO
2
, v.v ) xúc tác muối kim loại và sau đó hydrat hoá
MeO
OH
O
OH
OH
O
OH
OH
H
LiC CLi(CH
2
)
2
(NH
2
)
2

C CH
C CH
14

14

nhóm 17-etynyl; đồng thời trong một số trường hợp cả hai giai đoạn này được kết
hợp làm một. Hướng này bắt đầu phát triển vào những năm 1970 từ những nghiên
cứu ít có ý nghĩa thực tiễn epime hoá 17-acetat-17-etynylcacbinol trên xúc tác
Al
2
O
3
, tuy nhiên cho ta khả năng có tính nguyên tắc thực hiện quá trình này [34,
35, 63, 65]. Ví dụ, mestranol acetat chỉ bị epime hoá 5% đến epimestranol, trong
khi đó cần lưu ý rằng 
4
-3-ceto-17-etynyl-17-acetat không bị đồng phân hoá và
sản phẩm chính là enin [35].

C
CH
OAc
MeO
Al
2
O
3
C CH
+

CH
CHO
+
C CH
OH
+
CH
3
C
CH
30 - 50%
5%
5%


Các tác giả cho rằng quá trình isome hoá xảy ra bằng cách tách nhóm acetat
trên bề mặt oxit nhôm lưỡng cực; các ion A & B tạo ra khi đó được bền hoá bằng
các cách sau

:


Vấn đề phát hiện ra quá trình C
17
- đồng phân hoá các acetat rõ ràng là lý do
thúc đẩy phát triển mạnh mẽ hướng nghiên cứu này với trọng tâm sử dụng 17-este
OH
OCOR
O
OR

Ag
+
, HCO
2
H
O
Hal
O
Hal
KHCO
3
MeOH
C CH
OAc
OH
CH
3
A
B
C CH
C CH C CH
C CH
C CH
CH
C
C
CHO
H

15


khác dễ dàng tách loại nhóm este (trifloacetat, mezilat, nitrat). Có một số bằng phát
minh, đặc biệt lưu ý đến giá trị thực tiễn là của hãng Sering- con đường một giai
đoạn chuyển hoá este nitro thành 17-hydroxy (metoxy-,acetoxy)-20-cetopregnan
[27, 65]. Theo phương pháp này, ví dụ 19-nor-17-etynyltestosterol được chuyển

hoá 70% hiệu suất đến 19-nor-17-hydroxyprogesterol bằng cách đun nóng este
nitro trong môi trường triamit của axit hexametyl photphoric (Et
3
N hay DMFA) và
axit muravic, có mặt muối thuỷ ngân. Giả thiết phản ứng xảy ra qua sự tạo thành
phức  với liên kết ba, làm đứt liên kết C
17
-O. Do vậy, tấn công tiếp theo của
nucleophil (ion formiat) được thực hiện từ vùng  ít bị cản trở hơn của phân tử. Khi
đó muối thuỷ ngân mang hai chức năng xúc tác: tạo khả năng không chỉ epime hoá
vào nguyên tử C
17
mà còn hydrat hoá liên kết ba. Sử dụng các nucleophil khác nhau
(HOAc, MeOH) cho phép nhận được 17-acetoxy- và 17-metoxy-20-cetosteroid
tương ứng, không luôn luôn cho hiệu suất định lượng (6% 17-acetoxyprogesteron
trong [65] và 40% trong [27]). Các muối bạc có tác dụng epime hoá tương tự, đồng
thời không hydrat hoá liên kết acetylen, dừng lại ở giai đoạn tạo thành 17-formiat-
17-etynylsteroid.


Tương tự về nguyên tắc, trong phương pháp sử dụng 17-trifloacetat thay
cho este 17-nitro. Theo các tác giả (Gedeon Rixter), 17-trifloacetat tỏ ra ưu việt
theo quan điểm công nghiệp cũng như điều chế, cho hiệu suất định lượng 17-
hydroxy- và 17-acetoxy-20-cetopregnan. Theo một phương pháp giả thiết 17-

trifloacetat-17-etynylcacbinol sau khi điều chế in situ, được đun nóng có mặt
O
O
O
OCOH
C CH
Hg
2+
,HCO
2
H
OCOH
O
NO
2
Ag
+
,HCO
2
H
OH
+
C
CH

16

muối thuỷ ngân và axit muravic hay acetic, dung môi là bazơ lưỡng cực hay là
không có proton [66]. Các tác giả xác nhận vắng mặt quá trình C
17

- epime hoá khi
xử lý tương tự 17-formiat, acetat hay là monocloacetat, tạo ra 17-pregnan

:
Phát triển tiếp tục hướng nghiên cứu này, hãng Sering đã chuyển hoá thành công
một giai đoạn 17-nitrat (triflo và tricloacetat)17-halogen-etynylcacbinol đến
17-hydroxy-21-halogen-20-cetopregnan [28, 67]. Khi đó phát hiện thấy tính chất
không chờ đợi của muối bạc hydrat hoá nhóm 17-halogen etynyl. Đạt được

mục


đích

này

bằng

cách

xử



các

este

vừa


nói

đến



trên

bằng 0,1



0,2 mol
AgNO
3
và HCO
2
H trong dung môi bazơ N-metylpyrolidon ở 20
0
C, sau đó khi cần
thiết người ta thuỷ phân 17-formiat vừa tạo thành. Ở đây, este nitro tỏ ra ưu việt
hơn; thử nghiệm không thành công khi chuyển hoá tương tự dẫn xuất benzoat.




R

=


NO
2
, COCF
3
, COCCl
3
, Hal = Br, Cl.
Cần nói đến phương pháp tương tự chuyển hoá định lượng este bis-
androstensulphit được tạo thành khi xử lý 17-etynylcacbinol với tionylclorua
trong pyridin đến 17-formiat-20-cetopregnan hay là 17-metoxy-20-cetopregnan
[64, 68]. Phản ứng xúc tác muối thuỷ ngân nghịch đảo cấu hình trung tâm C
17
, đồng
thời hydrat hoá nhóm acetylen xảy ra dễ dàng ở 10



35
0
C trong dung môi không có
proton và có mặt nucleophil (HCO
2
H, MeOH). Phương pháp này, cùng với các
phương pháp đã được mô tả ở trên là các phương pháp rất có triển vọng chuyển hoá
hai giai đoạn 17-etynylcacbinol đến 17-hydroxy-20- cetopregnan.

Hg
2+
,RCO
2

H
O
OCOR
OCOCF
3
O
82 95%

C
CH

17


Không thể không nhấn mạnh các phương pháp thành công nhất epime hoá
17-etynylcacbinol đến 17-etynylcacbinol qua 17-sulphonat và 17-nitrat [45],
[69, 99]. Chẳng hạn, 17-sulphonat mestranol bị epime hoá xúc tác muối Ag
+

trong THF ẩm thành epimestranol với hiệu suất cao lạ thường (95%) [99]. Quá
trình 
16
- tách loại không mong muốn metalsulphoaxit thực tế không đáng kể
(5%). Trong các điều kiện tương tự este 17-nitro-17-etynyl-
1,4
-androstadienon
cho 89% hiệu suất 17-hydroxy-17-etynylandrostenon [45]. Vai trò xúc tác epime
hoá có thể dùng các muối đồng hoá trị một [69].
Có hai quan điểm giải thích cơ chế nghịch đảo xúc tác kim loại trung tâm
C

17
của 17-este-17-etynylcacbinol. Quan điểm thứ nhất là giả thuyết đã được
nhắc đến ở trên [27] giả thiết tạo thành phức  giữa kim loại với các electron
acetylen và oxy của nhóm este. Khi đó liên kết C
17
-O bị đứt ra kích thích thế S
N
2
nhóm este bằng nucleophil từ phía  của phân tử ít cản trở không gian. Theo ý kiến
của các nhà khoa học Nhật [36], cơ chế này không giải thích được tại sao vắng mặt
hoàn toàn quá trình C
17
isome hoá khi xử lý tương tự este 17-nitro-17-
etynylcacbinol và như vậy cho phép nghĩ đến có khả năng hơn tạo thành 17-
cacbocation được bền hoá bởi kim loại và nucleophil tấn công từ vùng  theo cơ
chế S
N
1 : (M

=

Ag
+
, Cu
+
, Hg
+
, Hg
2+
).

Lưu Đức Huy và cộng sự [29] lần đầu tiên đã áp dụng thành công phản ứng
Nicholas [43] để epime hoá trực tiếp 17-etynylcacbinol bỏ qua giai đoạn este hoá.
Phương pháp tỏ ra là một phương pháp chung trong tổng hợp một lớp chất bất kỳ
O
O
OH
M
C CH
-
+
O
N
+
ONO
2
ONO
2
OH
+
C CH
C CH
C
CH
M
+
O
O
SO
2
O

O
OCOH
OMe
C CH
Hg
2+
,HCO
2
H
HCON(CH
3
)
2
Hg
2+
,MeOH
Al
2
O
3

18

17-X thế-17-etynylandrosten (X

=O-, N-, S-, Hal-, C-).
OH
C
CH
Co

2
(CO)
6
HBF
4
.Et
2
O
-78
o
C
C
CH
Co
2
(CO)
6
BF
4
HX
C
CH
Co
2
(CO)
6
OH(X)
C
CH
OH(X)

(NH
4
)
2
Ce(NO
3
)
6
(hoÆc Fe
3+
)
-10
o
C

1.3 Tổng hợp mạch bên corticoid
1.3.1 Chuyển hoá nhóm 17-etynyl đến mạch bên corticoid
17-etynylcacbinol dễ dàng bị hyđrat hoá xúc tác muối thuỷ ngân hoá trị hai
đến 20-cetosteroid (phản ứng Kutrerov) [29, 70]. C
21
-hydroxyl hoá 21-metyl-20-
cetosteroid tạo thành có thể thực hiện bằng nhiều phương pháp khác nhau đã biết
[22]. Một trong số các phương pháp chuyển hoá nhóm 17-etynyl đến mạch bên
corticoid là xử lý 17-etynylandrosten bằng N-bromacetamit trong dung dịch đệm
H
2
O-CH
3
COOH, sau đó chuyển hoá 21,21-dibrom-20-ceto đến 21-acetat tương
ứng với hiệu suất 50




70%, bằng cách đun nóng với KOAc trong dung môi phân
cực không có proton [42].
Các phương pháp hoàn chỉnh và thành công đã được thảo luận ở trên tổng
hợp 17-etynylandrosten thúc đẩy chúng ta tìm kiếm những phương pháp mới có
khả năng chuyển hoá nhóm 17-etynyl đến mạch bên corticoid. Vào năm 1985 đã
xuất hiện hai hướng nghiên cứu và cả hai đều dự kiến sử dụng các hợp chất hữu cơ
iod đa hoá trị [45, 71, 97]. Ở hướng nghiên cứu thứ nhất, 17-acetoxy-17-
etynylandrost-1,4-dien-3-on được chuyển hoá thành 17,21-diacetoxypregn-1,4-
dien-3,20-dion [45]. Giai đoạn chìa khoá là phản ứng xảy ra định lượng tạo thành
21,21-diiodua khi tương tác 17-etynyl-17-acetat với hỗn hợp iod

/ axit peracetic;
trong khi đó dẫn xuất 17-hydroxy của nó không phản ứng. Tuy nhiên, thế iod
bằng nhóm acetoxy trong 21,21-diiodua và monoiodua xảy ra khó khăn và có thể

19

đạt được chỉ khi xử lý tetrametyl amoniacetat

/ N-metylpyrolidon. Cần lưu ý rằng
sự tạo thành 21,21-diiodua trong các điều kiện này là ngoài dự đoán đối với các tác
giả có ý định áp dụng phản ứng được phát minh năm 1971 cho các steroid (Ogata
và Urasaki) [47].








ở đây:
i=CH
3
CO
3
H/ I
2
/ CH
3
CO
2
H.
ii=NaOAc/ Et
3
NOAc/ Me
2
CO.
Phản ứng iodacetoxyl hoá ankyl bằng acetylhypoiodua (AcOI) sinh ra in situ
khi tương tác I
2
với CH
3
CO
3
H trong CH
3
CO

2
H. Vic-acetoxyiodua tạo thành dễ
dàng bị thuỷ phân đến -oxyceton [100, 101]. Tiếc rằng hướng nghiên cứu đó
không có ý nghĩa thực tiễn trong trường hợp steroid. Ở đây, phản ứng xảy ra mà
không có sự tham gia của AcOI (tốc độ tạo thành nó từ CH
3
CO
3
H và I
2
có thể nhỏ)
và nhóm 17-acetat tham gia làm bền hoá điện tích dương ở trung tâm cacbocation.
C CH
O
OAc
i
ii
CH
3
CONHBr
HOAc
CHBr
2
OAc
(MeO)
3
P
O
OAc
95%

OAc
OAc
OAc
79%
Me
4
NOAc
KOAc/HCON(CH
3
)
2
O
O
O
Br
O
OAc
I
2
I

20



Phát triển tiếp tục các nghiên cứu theo hướng này cho thấy [102] việc sử
dụng nguồn AcOI khác (diacetoxyiodbenzen và I
2
trong CH
3

CO
2
H [100, 101]) khi
tương tác 17-epime-17-etynylandrost-4-en-17-ol-3-on và 17-acetat của chúng
không làm thay đổi tiến trình phản ứng, đồng thời trong trường hợp sau dẫn tới C
17

epime 21,21-dibromua tương ứng (17-etynylcacbinol trơ trong các điều kiện này).



Vắng mặt quá trình epime hoá vào C
17
trong cả hai dãy hoá lập thể gây nên
nghi ngờ đã được nêu lên ở [93] cơ chế tham gia của nhóm 17-acetat đòi hỏi khi
thừa nhận trạng thái chuyển tiếp A nghịch đảo một phần hay toàn bộ hoá lập thể
trung tâm C
17
trong phản ứng với 17-acetoxy-17-etynylandrost-4-en-3-on. Có
thể giả thiết nhóm acetat bên cạnh hoạt hoá liên kết acetylen quyết định nhanh hơn
ảnh hưởng điện tử của nhóm acetat còn lại. Cộng hợp nhanh chọn lựa vùng hai
phân tử AcOI vào liên kết ba và sau đó vào liên kết đôi trong hợp chất trung gian
kiểu B (với hoá lập thể ban đầu trung tâm C
17
, tạo ra 21,21-diiodua [102].
Ph
I
(OAc)
2
I

2
O
OAc
OAc
20
0
C
C CH
C O
/HOAc
I
2
CH
I
I
2
/CH
3
CO
3
H
H
2
O
R
C C R
OAc
R
C C R
R

HC C R
HO
O
OAc
OAc OAc
C
C
H
+
CH
C
O
O
+
C
C
OAc
H
H
O
O
OAc
OMe
C
C
hay lµ
A
B
C
I

I
I
I

21

Trong kế hoạch chuyển hoá một giai đoạn 17-etynylsteroid đến 21-
hydroxy-20-cetopregnan, chúng tôi đặc biệt lưu ý đến phản ứng Mercusev [103,
104] tương tác ankin với phenyliodosotrifloacetat (FIFA) có mặt nước. Cơ chế
phản ứng được trình bày như là tấn công electrophil phân tử FIFA vào liên kết ba.
Ban đầu muối phenyliodoni tạo thành A bị thuỷ phân tạo ra muối iodoni B,
muối này bị đồng phân hoá thành C . Muối C do tính chất không bền vững của các
muối iodoni dãy béo dễ dàng tự phân huỷ và thuỷ phân.
Theo [97] ứng dụng phản ứng này trong hoá học steroid cho phép thực hiện
chuyển hoá 53



60% hiệu suất 17-etynylcacbinol dãy estranoic (mestranol) đến
17-iso-20-cetopregnan tương ứng.

FIFA : PhI(OCOCF
3
)
2
.
Đây là ví dụ duy nhất được biết trước khi Lưu Đức Huy và cộng sự [2, 3, 4]
bắt đầu nghiên cứu ứng dụng phản ứng này trong chuyển hoá 17-etynylandrostan
đến 20-cetopregnan. Những kết quả nghiên cứu ban đầu của tác giả [2] đã chỉ ra
rằng con đường này tỏ ra hiệu quả trong tổng hợp chất S Reichstein (80%) và 11-

deoxy-16,17-epoxy corticosterol (43%). Tuy nhiên, có mặt các nhóm thế có thể
tích lớn ở vị trí 17- (ví dụ: -OMe) hay các nhóm chức khác nhau trong vòng C đều
ảnh hưởng âm lên hiệu quả của quá trình.
1.3.2 Chuyển hóa 20-cetopregnan đến mạch bên corticoid
Các hợp chất 20-cetopregnan nhận được từ phản ứng metyl hóa dẫn xuất
17- cetosteroid với HCN theo phương pháp cyanhidrin hoặc nhờ phản ứng hydrat
RO
OH
FiFA
CH
2
Cl
2
/CH
3
CN/H
2
O
80
0
C ,19h
OH
C
O
OH
R=Ac (53%)
R=Ts (60%)
C CH
H
2

O
R
C C R
OCOCF
3
A
R
C C R
R
C
R
OH
B
C
H
2
O
O
R
C
R
O
R
C C
R C
H
C
OCOCF
3
H

O
H
OH
R
C C
R
Ph
I
(OCOCF
3
)
2
I
Ph CF
3
CO
2
+
-
I
Ph CF
3
CO
2
+
-
I
Ph CF
3
CO

2
+
-

22

hóa nhóm etynyl theo phương pháp acetylen bằng HgSO
4
; có thể được chuyển hóa
mạch bên corticoid theo một trong hai phương pháp sau:
-Phương pháp truyền thống rất hiệu quả; thực hiện theo dãy phản ứng : 21-
iod hóa phản ứng của hợp chất nhận được với KOAc và cuối cùng thủy phân bằng
dung dịch KOH/H
2
O để nhận được 20-ceto-21-hydroxy (mạch bên corticoid) mong
muốn [22]. Sơ đồ:

X
Y
O
X
Y
O
I
X
Y
O
OAc
X
Y

O
OH

-Phương pháp mới thứ 2: sử dụng hệ oxi hóa Ph(IOAc)
2
/KOH/MeOH [40,
41]:

X
Y
O
X
Y
O
OH
Ph(IOAc)
2
/KOH/MeOH

Lưu Đức Huy và cộng sự [2] cũng đã thử nghiệm áp dụng thành công phản
ứng Moriarty [40, 41] để tiến hành 21-hydroxyl hoá trực tiếp một vài 17-
acetylsteroid sử dụng hệ xúc tác PhI(OAc)
2
/

KOH

/

MeOH. Cơ chế phản ứng được

giả thiết đi qua sản phẩm trung gian 20,21-epoxysteroid:
CH
3
O
X
Y
X
Y
X
Y
X
Y
O
OH
OH
OCH
3
OCH
3
O
OCH
3
PhI(OAc)
2
/KOH/MeOH
20
0
C, 2h
p-TSA/axeton
20

0
C; 1,5h

23


Hiện nay nhóm nghiên cứu này vẫn đang tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện
phản ứng Moriarty.
1. 4 Tổng hợp 16β-metyl-17α-hydroxy pregnan
1.4.1 Đưa mảnh 17α-hydroxy-16β-metyl vào 20-cetopregnan
Phương pháp bao gồm quá trình epoxit hoá bằng hydroperoxit trong môi
trường kiềm hợp chất ∆
16
-20-ceto pregnan, sau đó mở vòng chọn lựa lập thể bằng
metylmagiebromua là ưa dùng nhất cho phép đồng thời đưa các nhóm 17α-
hydroxy- và 16β-metyl vào phân tử 20-cetopregnan.
Dehydrat hoá nhóm 17α-hydroxy- đến sản phẩm 16(17)-dehydro tương ứng
có thể được thực hiện, ví dụ bằng hỗn hợp oxyclorua phospho và pyridin. Phương
pháp với việc este hoá sơ bộ nhóm 17-hydroxy bằng axit metyl sulfonic và xử lí
tiếp theo bằng kolidin là phương pháp lựa chọn. Khi đó trong cả hai trường hợp
nhóm 9α-hydroxy được bảo tồn. Tuy nhiên các điều kiện tiến hành phản ứng có thể
được thay đổi như sau, sẽ đồng thời tách loại cả hai nhóm hydroxy ở C-9 và C-17.
Phối kết hợp các phản ứng là phương án được ưu tiên trong trường hợp khi phản
ứng dehydrat hoá đến ∆
9(11)
. Giải phóng các nhóm bảo vệ C-3 và C-17 xảy ra đồng
thời với giai đoạn tổng hợp tiếp theo. Ví dụ xử lí bằng axit sulfuric 9α-hydroxy-
steroid đã bảo vệ các nhóm 3,3-etylendioxy và 17α-tetrahydropyranyloxy, chỉ một
giai đoạn cho hợp chất 17α-hydroxy-3-ceto-∆
9(11)

steroid.
Phương pháp đã được nghiên cứu rất tốt trên ví dụ dãy ∆
5
-21-deoxy-∆
16
-20-
cetopregnan. Các tác giả ngay từ ban đầu đã bảo vệ nhóm hydroxy của hợp chất 3β-
hydroxy-∆
5
bằng phương pháp este hoá. Hiển nhiên rằng nhóm bảo vệ este này
trong các điều kiện xúc tác kiềm là không bền vững. Bởi vậy trong trường hợp này
đòi hỏi phải tái tạo lại nó [95].

×