Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

thời gian trong tác phẩm đoạn trường tân thanh, nhưng là ở các khía cạnh khác nhau

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.15 KB, 13 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Truyện Nôm là một thể loại văn học độc đáo của Việt Nam vì chúng
được viết bằng văn tự và thể thơ dân tộc. Trải qua mét quá trình phát triển lâu dài,
kể từ truyện Nôm đầu tiên Lạc xương phân kính quốc ngữ truyện tương truyền của
Đại Hưng hầu Nguyễn Thế Nghi (thế kỷ XVI) đến truyện cuối cùng Tõ Thức lấy
vợ tiên (1920) chúng ta đã có mét kho tàng truyện Nôm đồ sộ với khoảng trên dưới
100 tác phẩm. Vì vậy, nghiên cứu truyện Nôm là việc làm có ý nghĩa khoa học.
1.2. Trong số các truyện Nôm thì Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du là
mét trong những đỉnh cao. Vì vậy nghiên cứu tác phẩm này có ý nghĩa làm rõ được
đặc trưng thể loại. Với Đoạn trường tân thanh, truyện Nôm đã khẳng định một
cách thuyết phục sù phong phó về ngôn ngữ còng nh sù hoàn thiện thể loại truyện
Nôm trong văn học dân tộc.
1.3. Tõ trước đến nay, khi nghiên cứu Đoạn trường tân thanh, các nhà nghiên
cứu đã chú trọng cả hai mặt nội dung và nghệ thuật. Về nội dung, đã có nhiều ý
kiến thậm chí trái ngược nhau nhưng về nghệ thuật thì giới nghiên cứu đều công
nhận Nguyễn Du là bậc thầy và chưa có mét ai vượt qua được. Nghiên cứu nghệ
thuật Đoạn trường tân thanh có nhiều phương diện, song ở đây chúng tôi chỉ chọn
một khía cạnh nhá trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm là “thời gian”. Bởi thời
gian trong tác phẩm không chỉ thể hiện diễn biến của cốt truyện mà còn đóng vai
trò là môi trường để nhân vật bộc lộ tính cách. Hiểu thời gian trong Đoạn trường
tân thanh chúng ta sẽ hiểu được một vấn đề quan trọng về thế giới nghệ thuật
còngnh thi pháp của tác phẩm.
Với tư cách là giáo viên làm nhiệm vụ giảng dạy văn học, việc nghiên
cứu Đoạn trường tân thanh sẽ tạo điều kiện cho người viết có dịp

hiểu sâu thêm tác phẩm để giảng dạy được tốt hơn.
2. Lịch sử vấn đề
Kể từ khi ra đời đến nay, Đoạn trường tân thanh đã được công chúng và
các nhà nghiên cứu quan tâm. Đã có không Ýt các cuộc tranh luận xung quanh việc
tìm hiểu tác phẩm, thậm chí đã có nhiều ý kiến trái ngược nhau. Nhưng riêng về


vấn đề nghiên cứu “thời gian” trong tác phẩm thì phải đến giai đoạn sau 1975 mới
có những bài viết, những công trình, những luận văn đề cập đến.
Đáng kể nhất là cuốn Thi pháp Truyện Kiều của giáo sư Trần Đình Sử.
Trong đó, tác giả bàn đến và đóng góp những phát hiện mới về thời gian nghệ thuật
trong Đoạn trường tân thanh. Tác giả đã bàn đến sự xuất hiện trong tác phẩm dòng
thời gian định mệnh, dòng thời gian tâm trạng của nhân vật, thời gian sự kiện, thời
gian gấp khúc có tính liên tục, có nhịp điệu dồn dập, chống chéo, sự kiện này chưa
xong sự kiện kia đã tới, gối đầu lên nhau, chồng chất xô đẩy nhau khi tai họa cũng
như khi hạnh phúc.
Ở cuốn Tìm hiểu Truyện Kiều của Lê Quế cũng nói đến thời gian, nhưng ở
đây chủ yếu nói tới tuổi của chị em Kiều, thời gian và các sự kiện cụ thể xảy ra
trong cuộc đời Kiều vào ngày tháng năm nào và trong bao nhiêu lâu. Theo Lê Quế
tổng hợp và tính ra được “ Thời gian Thúy Kiều tiếp khách ở lầu xanh của Tú Bà là
4 năm 6 tháng, tõ 1 - 7 năm nàng 22 tuổi cho đến hôm gặp Thóc Sinh 1 - 1 năm
nàng 27 tuổi và toàn bộ thời gian mười lăn năm của Thúy Kiều gồm ba giai đoạn:
ở lầu xanh của Tú Bà 4 năm 6 tháng. Quan hệ với Thóc Sinh 3 năm 7 tháng 15
ngày. Hội ngộ với Giác Duyên 6 năm 10 tháng 15 ngày. Tổng cộng là 15 năm”.
[34- 109]
Gần đây nhất là cuốn 200 năm nghiên cứu bàn luận Truyện Kiều còng có
bài Thời gian hiện sinh trong Đoạn trường tân thanh của Lê Tuyên mà Lê Xuân
Lít đã sưu tầm và giới thiệu. Ở bài viết này tác giả chủ yếu đi

vào ba loại thời gian:
- Thời gian ngoại tại và sự chuyển vần.
- Thời gian nội tâm và dòng tâm lý, trong loại thời gian này thì lại được chia
thành những mảng nhỏ như: hiện hữu tính của thời gian tâm lý, hiện hữu tính và vị tri
tính trong tác phẩm, biến thể tính của thời gian hiện hữu.
- Thời gian xã hội và sự phối hợp giữa người cùng vò trô.
Tác giả kết luận “ thời gian hiện sinh trong Đoạn trường tân thanh chỉ là một
mối tương giao tất yếu và đương nhiên. Mối tương giao Êy đã đi từ ngoại giới đến

con người và tõ con người đạt đến một thể trung gian, tạo thành liên hệ giữa người và
vò trô. Thể trung gian Êy là xã hội đã biểu dương qua xã hội âm tính củaĐoạn trường
tân thanh như một gạch nối tiếp giao giữa vô ngã của ngoại giới và bản ngã sâu đậm
của con người” [ 924]
Ngoài ra còn có mét số luận văn thạc sĩ cũng đã đề cập đến thời gian trong
tác phẩm Đoạn trường tân thanh, nhưng là ở các khía cạnh khác nhau:
Cuốn luận văn Thời gian tù sự trong Truyện Kiều của Nguyễn Du của
Phùng Hữu Hải chủ yếu đi vào tìm hiểu thời gian tù sự và phương hướng vận dụng
lý thuyết thời gian tù sự vào trong Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du. Ởcuốn
luận văn này tác giả đã tìm hiểu được trình tự tù sự trong Đoạn trường tân
thanh gồm có trình tự tù sự bị đảo ngược (trình tự thời gian hồi tưởng) và trình tự
trần thuật có tính chất dự báo trước (dự cảm linh cảm).
Ngoài ra cuốn luận văn này còn tìm hiểu được tốc độ thời gian nghệ thuật
trong Đoạn trường tân thanh có thể biểu hiện bằng các hình thức như tỉnh lược,
ngừng nghỉ, hoạt cảnh và lược thuật.
Ở cuốn luận văn Mét sè phương tiện biểu thị ý nghĩa thời gian trong
Truyện Kiều của Nguyễn Du của Phạm Thị Thu Phương lại chủ yếu đi vào tìm hiểu
hình thức thời gian được biểu hiện bằng phương tiện tõ vùng và

mét sè cấu tróc cú pháp. Luận văn đi sâu tìm hiểu nội dung hai phương tiện tõ vùng
và mét sè cấu trúc để biểu thị các ý nghĩa thời điểm, thời lượng, tần suất
trong Đoạn trường tân thanh.
Tuy nhiên, các bài viết, các công trình này mới khảo sát mét sè mặt chủ
yếu của thời gian nghệ thuật trong Đoạn trường tân thanh cho phép ta nhận rõ cá
tính sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du mà chưa đi sâu nghiên cứu cụ thể về từng
loại thời gian.
Vì vậy tìm hiểu yếu tố “thời gian” để từ đó thấy được sự độc đáo, sáng
tạo và tài năng của Nguyễn Du khi vận dụng ngôn ngữ dân tộc vào sáng tạo văn
học là một vấn đề mới, cần thiết và được chúng tôi nghiên cứu một cách cụ thể.
3. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là yếu tố “thời gian” trong Đoạn
trường tân thanh của Nguyễn Du bao gồm: thời gian vò trô, thời gian sự kiện và
thời gian tâm lý
Về mặt văn bản, do tác phẩm được nhiều tác giả khảo đính, chú giải nên
giữa chúng có sự khác biệt. Để tiện việc nghiên cứu chúng tôi chọn văn bản Đoạn
trường tân thanh tương đối thông dụng do Đào Duy Anh khảo chứng, hiệu đính và
chú giải của NXB Văn học ấn hành năm 2002.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng thêm một số truyện Nôm khác để so sánh trong
quá trình thực hiện luận văn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp thống kê – phân loại: Chúng tôi tiến hành tìm những dòng
thơ có chứa các từ và cụm từ chỉ Thời gian. Đồng thời với việc thống kê, chúng tôi
tiến hành phân loại chúng. Những từ và cụm từ chỉ thời gian

bao gồm như: năm, tháng, mùa, ngày, buổi…. Từ kết quả thống kê, chúng
tôi có thể đưa ra những nhận định hợp lí về thời gian trong tác phẩm có tác dụng
như thế nào đối với ý đồ nghệ thuật của tác giả.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: chúng tôi tiến hành khảo sát, phân
tích những trường hợp cụ thể từng nhóm thời gian, từ đó rút ra kết luận cho từng
nhóm. Qua đó, cũng thấy được sự sáng tạo độc đáo của Nguyễn Du và tài năng
của ông trong việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc vào sáng tác văn học.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số phương pháp khác như: Hệ thống
húa, so sánh- đối chiếu trong quá trình làm luận văn.
5. Đóng góp mới của luận văn
- Đây là lần đầu tiên luận văn đưa ra bản thống kê tương đối đầy đủ về
“Thời gian” trong tác phẩm Đoạn trường tân thanh.
- Đây cũng là lần đầu luận văn tiến hành phân loại “Thời gian” trong tác
phẩm.
- Trên cơ sở thống kê và phân loại, luận văn bước đầu đánh giá cách sử dụng

“Thời gian” để phản ánh nội dung của tác phẩm.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn của chúng tôi gồm 3 chương:
Chương 1: Vài nét về thời gian, thêi gian nghệ thuật và thời gian nghệ
thuật trong Văn học Việt Nam Trung đại.
Chương 2: Các dạng thời gian và ý nghĩa của chóng trong Đoạn trường
tân thanh.
Chương 3: Các phương thức biểu hiện thời gian trong Đoạn trường tân
thanh
Cuối cùng là phần thư mục tài liệu tham khảo

PHẦN NỘI DUNG

Chương 1
VÀI NÉT VỀ THỜI GIAN,
THỜI GIAN NGHỆ THUẬT VÀ THỜI GIAN NGHỆ THUẬT TRONG VĂN
HỌC VIỆT NAM TRUNG ĐẠI

1. Thời gian và thời gian nghệ thuật:
1.1. Thời gian
Là khái niệm chỉ sự tồn tại của vật chất, gắn với sự việc, hoạt động, thời gian
luôn hoạt động không ngừng, không quay ngược lại và không tồn tại riêng biệt.
Nếu thời gian cơ học được đo bằng ngày, giờ, phỳt… mang tính chính xác,
không thay đổi thì qua cảm nhận của con người, thời gian có thể là "khoảng",
"chừng" hoặc cùng một đơn vị thời gian cơ học nhưng qua cảm quan của con
người có thể dài, ngắn, nhanh, chậm khác nhau.
Theo A.J.A.Gurevich. Khái niệm thời gian " thể hiện đầy đủ cảm quan và thế
giới của thời đại, hành vi của con người, ý thức của nú, nhịp của cuộc sống,
tháiđộ đối với sự vật" [13- 98]
Khái niệm thời gian không chỉ mang tính vật lí, cơ học mà còn mang tính chủ

quan của con người. Thời gian chỉ có thể đo được, cảm nhận được chứ không thể
nắm bắt và nhìn thấy được.
1.2. Thời gian nghệ thuật
Theo Trần Đình Sử, thời gian nghệ thuật là một yếu tố nghệ thuật của tác
phẩm " vừa là phương diện của đề tài, vừa là một trong những nguyên tắc cơ bảnđể
tổ chức tác phẩm[10- 887]
Theo Từ điển thuật ngữ văn học " Thời gian nghệ thuật là hình thức tồn tại
của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nú… Khác với thời gian
khách quan được đo bằng đồng hồ và lịch, thời gian nghệ thuật có

thể đảo ngược, quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể
dồn nén một khoảnh khắc dài trong chốc lát, có thể kéo dài cái chốc lát thành vô
tận. Thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự lặp
lạiđều đặn của các hình tượng đời sống được ý thức… tạo nên nhịp điệu trong tác
phẩm. Như vậy thời gian nghệ thuật gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng
nghệ thuật. Khi nào ngòi bút nghệ sĩ chạy theo diễn biến sự kiện thì thời gian trôi
nhanh, khi nào dừng lại để miêu tả chi tiết thì thời gian chậm lại…”[14-272,273]
Nhìn chung, thời gian nghệ thuật là một phạm trù nghệ thuật mang nhiều tính
chủ quan, ước lệ, thể hiện cảm quan của tác giả về thế giới và con người. Thời gian
trong tác phẩm thể hiện tính thẩm mĩ trong cách cảm nhận cuộc sống và tưtưởng
tác giả.
Thời gian nghệ thuật không đồng nhất với thời gian khách quan được đưa vào
tác phẩm. Thời gian nghệ thuật được sáng tạo, nhào nặn cho phù hợp với ý đồ sáng
tác, loại thể và phong cách tác giả. Điều này tạo sự đa dạng, sinh động cho thời
gian trong tác phẩm.
Thời gian nghệ thuật là yếu tố không thể thiếu để kết cấu tác phẩm, đồng
thời giúp cho việc liên kết các yếu tố trong tác phẩm được chặt chẽ hơn.
Thời gian nghệ thuật có đầy đủ các đặc trưng của thời gian, cũng vận động
theo ba chiều: quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhưng thời gian nghệ thuật không
nhất thiết phải tuân theo sự nghiêm ngặt của thời gian tự nhiên mà nú có thể dài,

ngắn, nhanh, chậm tựy theo cảm nhận chủ quan của tác giả. Có khi trăm năm chỉ
như thoáng chốc, như giấc mộng. Nhưng cũng có khi một giờ, một phút thậm chí
một giây lại dài vô tận. Thời gian dồn nén hay kéo căng ra là do ý đồ của tác giả
khi miêu tả, khắc họa.
Nếu Vạn Hạnh Quốc Sư quan niệm " Thân nhưđiện ảnh hữu hoàn vô"

(có nghĩa là " Thân như bóng chớp có rồi không") đời người là chốc lát,
thoáng qua, thì qua sự miêu tả của Nguyễn Du một đêm lại rất dài: "Đêm
thu đằngđẵng nhặt cài then mây".
Trong tác phẩm có thể bỏ qua một hoặc hai trong ba chiều vận động của thời
gian khách quan. Nếu thời gian tự nhiên luôn vận động phát triển không ngừng thì
trong tác phẩm có thể làm sống lại quá khứ hoặc hướng tới tương lai. Trong tác
phẩm, có thể cùng tồn tại ba dạng thời gian: quá khứ, hiện tại, tương lai.
Mỗi giai đoạn văn học, mỗi tác phẩm văn học có sự biểu hiện thời gian nghệ
thuật khác nhau, thể hiện sự đa dạng của yếu tố nghệ thuật này.
Chẳng hạn, chủ nghĩa lãng mạn phủ nhận trật tự thời gian khách quan. Các tác
giả thường quay về quá khứ, về cõi tiên, cõi mộng, trốn tránh thực tại. Bởi vậy thời
gian thường mơ hồ, mang tính siêu thực; thời gian được xây dựng thành thời gian
lý tưởng, trừu tượng của tác giả. Thời gian cũng có thể hướng tới tương lai nhưng
là tương lai xa xôi, ít có thực. Như vậy, khác với thời gian hiện thực khách quan,
thời gian nghệ thuật cho phép sử dụng các kiểu cảm thụ thời gian mang tính chủ
quan, thời gian nghệ thuật có thể trùng hợp với thời gian vật chất nhưng nú cũng
có thể thoát khỏi sự vận động một chiều của thời gian tự nhiên để chuyển tải
tư tưởng, cảm nhận của tác giả về thế giới, về đời sống xã hội. Thời gian trong tác
phẩm văn chương chỉ trở thành nghệ thuật khi nú trực tiếp tác động vào nhân vật,
vào môi trường mà ở đó diễn ra số phận của nhân vật và những biến động tâm
tưcủa nhân vật. Nú cùng với những yếu tố khác góp phần làm nổi bật chủ đề của
tác phẩm.
Thời gian nghệ thuật phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người trong từng
thời kỳ lịch sử, từng giai đoạn phát triển. Nú thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác

giả về phương thức tồn tại của con người trong thế giới,

làm cho người đọc hoặc hồi hộp chờ đợi, hoặc thanh thản vô tư, hoặc đắm
chìm vào quá khứ. Thiếu sự cảm thụ, tưởng tượng của người đọc, thời gian nghệ
thuật không xuất hiện. Như vậy, thời gian nghệ thuật là sản phẩm sáng tạo của tác
giả bằng phương tiện nghệ thuật. Nú thể hiện tài năng và cá tính sáng tạo của
người nghệ sĩ.
Vấn đề thời gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có hai mặt cơ bản: quan
niệm thời gian của nhà văn và tổ chức thời gian của tác phẩm. Quan niệm thời gian
của nhà văn được bộc lộ trực tiếp và phổ biến hơn là được bộc lộ một cách gián
tiếp qua cách tổ chức thời gian của tác giả. Đó là một trong những mặt hình thức
bên trong của tác phẩm. Nú có quan hệ chặt chẽ với ý thức nghệ thuật của nhà văn.
Tổ chức thời gian chính là cách xử lý thời gian, trong tác phẩm văn học của nhà
văn để tạo ra thời gian nghệ thuật theo ý đồ của tác giả.
Như vậy có thể nói, thời gian trong tác phẩm văn học là sự cảm nhận của tác
giả, nú đi vào nghệ thuật cùng với cuộc sống được phản ánh, nên nú là ý thức nghệ
thuật của nghệ thuật. Nhưng thời gian nghệ thuật không phải là một khái niệm trừu
tượng mà là một hình tượng nghệ thuật sinh động, nú không phải chỉ là cái dùng để
phản ánh mà còn là cái được phản ánh. Do đó thời gian nghệ thuật vừa mang
những đặc tính của thời gian hiện thực, thời gian khách quan – tức là nú có nhịpđộ,
có chiều hướng, có thể xác định được bằng các đại lượng…Vừa là một hình tượng
nghệ thuật nên nú có tính chất ước lệ nhất định. Đặc biệt trong Văn học trung đại,
tính chất ước lệ càng được thể hiện rõ. Ví dụ
“ Ba thu dọn lại một ngày dài ghờ”
( Truyện Kiều -
Nguyễn Du)
Hay câu: “Trời thu ba cữ duyềnh Tương một ngày”
(Truyện Hoa Tiên- Nguyễn Huy Tự)
Qua ví dụ này ta có thể nhận thấy các tác giả đó viết theo công thức


“Nhất nhật như tam thu hề” (một ngày dài tựa ba thu). Tuy nhiên cách miêu tả thời
gian đối với từng tác giả, tác phẩm cụ thể bao giờ cũng mang những nét đặc thù
riêng.
Vậy vấn đề thời gian đãđược Nguyễn Du xử lý như thế nào để tạo ra thời gian
và thời gian nghệ thuật trong tác phẩm Đoạn trường tân thanh.
2. Thời gian nghệ thuật trong Văn học Việt Nam trung đại
Gắn kết với không gian nghệ thuật là thời gian nghệ thuật. Thời gian nghệ
thuật phải hoà kết và thống nhất với không gian mới tạo ra tính thống nhất của tác
phẩm. Thời gian và không gian trong tác phẩm giống nh cặp bài trùng, yếu tố nọ
ràng giữ và quyết định yếu tố kia.
Thời gian nghệ thuật là một hiện tượng nghệ thuật, là kết quả sáng tạo của
người nghệ sĩ, nó góp phần không nhỏ vào việc tổ chức tác phẩm. Vì là con đẻ của
người sáng tạo nên thời gian nghệ thuật còng in đậm sắc thái chủ quan của nhà
văn. Mỗi tác phẩm có một kiểu thời gian, mỗi nhà văn thường nhạy cảm với mét
khung thời gian nhất định. Ta thấy bản chất chính là sự chảy trôi bất định, khi đi
vào tác phẩm văn học, dưới cảm quan thời gian riêng của người nghệ sĩ dòng thời
gian Êy thường được tổ chức lại. Vì thế, trong văn học ta vẫn thường bắt gặp kiểu
đảo lộn thời gian: Hiện tại – quá khứ – tương lai. Nh vậy thời gian nghệ thuật của
tác phẩm phải gắn liền với tính quan niệm về thời gian của nhà văn.
Còng nh không gian, thời gian nghệ thuật không đồng nhất với thời gian
vật lí, thời gian cơ học.
Trong Văn học Trung đại còn có khái niệm tính phi thời gian. Đây là mét
quan niệm thời gian của người trung đại. Phi thời gian có nghĩa là thời gian tuần
hoàn, nhịp nhàng, vòng quanh, khép kín theo kiểu
“ Sen tàn cúc lại nở hoa,
Sầu dài ngày ngắn đông đà sang xuân”…
(Truyện Kiều – Nguyễn Du)

Cứ như thế thời gian trôi di trong mét nhịp điệu chậm rãi, thong thả và
người ta không nhất thiết phải phân biệt rõ ràng, rạch ròi thời gian quá khứ hay

thời gian hiện tại.
Thời gian nghệ thuật trong Văn học Trung đại cũng nhằm bộc lộ chủ đề,
tư tưởng của tác giả và ở trong từng tác phẩm cụ thể lại được nhà văn sắp xếp thời
gian theo ý đồ nghệ thuật của mình. Trong phạm vi chương này chúng tôi chủ yếu
đi vào tìm hiểu cách thức miêu tả thời gian trong hai thể loại đó là tù sự và thơ,
thông qua việc phân tích sơ bộ về thời gian trong mét sè tác phẩm.
2.1. Thời gian nghệ thuật trong thơ ca Trung đại
2.1. 1. Nhận xét chung.
Thời gian, không gian là hình thức tồn tại của thế giới, của cuộc sống con
người. Không có gì có thể tồn tại ngoài thời gian, và không gian. Do vậy mọi cảm
nhận về tồn tại của con người đều gắn liền với cảm nhận không gian và thời gian,
con người cảm nhận thời gian tõ sù đổi thay của chính mình và thế giới xung
quanh [39- 193].
Lấy con người làm bản vị các nhà nho luôn cảm thấy lo lắng, bối rối trước
thời gian trôi nhanh vô tình.
“ Ngày tháng vùn vụt cùng dõng a,
Đắp đổi hết xuân rồi lại thu”
(Ly Tao –
Khuất Nguyên)
“Lấy thiên nhiên vò trô làm bản vị đạo gia chỉ thấy thiên nhiên vò trô là
vĩnh hằng, vô hạn, vô thủy, vô chung còn con người muôn vật đều ngắn ngủi,
hữuhạn, vô nghĩa” [39- 194]
Trong Văn học Trung đại thì sự cảm nhận thời gian con người ngắn ngủi,
chóng tàn với thời gian vò trô tĩnh tại, bất biến là hai chủ đế thời gian tiêu biểu. Ngoài
ra còn có thời gian lịch sử là sự hưng phế, đổi thay triều đại,

Quan niệm thời gian tĩnh tại tuần hoàn, bất biến là nét tiêu biểu của thời
gian trong thơ quy định mét sè hình thức thơ, kết cấu thơ, bút pháp thơ Trung đại
Việt nam.
Bên cạnh thời gian vò trô tĩnh tại, bất biến còn có thời gian lịch sử tương

quan với thời gian vò trô.
Theo quan niệm Trung đại mọi sự hưng, vong, thành, bại đều thuộc mệnh
trời, cho nên thời gian lịch sử gắn với thời gian vò trô một cách huyền bí, thời gian
lịch sử vừa có tính chất không gian hóa lại vừa trôi qua vô tình.
Tính trôi chảy của thời gian được biểu hiện qua đối lập “kim cổ. . . cái đó
qua là cái đó mất, cái không hiện hữu tạo nên một nỗi buồn trống trải, bâng
khuâng.
Việc cũ ngoái đầu còn đâu nữa
Đến dòng viễng cảnh dạ bâng khuâng
(Cửa bể Bạch Đằng – Nguyễn Trãi)
Bên cạnh thời gian tĩnh tại, bất biến như chứng nhân của mọi sự biến đổi,
thì trong thơ của Bà huyện Thanh Quan còng cho thấy cấu trúc thời gian như vắng
bóng thời tương lai lịch sử. “Nhà thơ đi tới cùng thực tế lịch sử, nhưng con mắt tâm
hồn luôn hướng vÒ mét viễn cảnh phía sau. [39- 207]
2.1. 3. Thời gian con người.
Trong Văn học Trung đại bên cạnh thời gian vò trô tuần hoàn bất biến còn
có thời gian con người.
Trong Văn học trung đại, thời gian con người đã được ý thức trước thực tế
tuổi tác, thọ yểu và sự bất lực của con người. Thời gian cá nhân làm nảy sinh các
đề thơ thương xuân, tích hoa…
Thời gian cá nhân được cảm thấy rõ nhất là thời gian của cá nhân xuất
chúng các anh hùng thời gian của họ quá ngắn ngủ trước thời gian vô hạn.

ở đây chỉ là thời gian sự kiện, thời gian triều đại và trong tác phẩm này
1. Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương 452
gian mốc cuộc đời, vừa có vai trò để tính mốc sự kiện. Xoay quanh quãng
35 Bi hoan mấy nỗi đêm chầy trăng cao 3140
“Đêm thu một khắc một chầy
Tú Bà tốc thẳng tới nơi,
Thnh xõy khúi bic, non phi búng vng

Lần lần thỏ bạc ác vàng ( dòng 1269)
GS. Trần Đình Sử cho rằng: các nhân vật trong Đoạn tờng tân thanh
khắc hoạ tính cách nhân vật bằng đời sống nội tâm qua hình tợng
thời
xuõn mi cú ý ngha. Tõm trng bõng khuừng nh cnh nh ngi ca
Ty theo cỏch nhỡn, tõm trng ca nhõn vt m thi gian cú th di,
(dòng 803 - 804)
(dòng 2857 - 2858)
hnh ng trong sut mi lm nm ú. Vỡ vy, trong on trng tõn
dựng õm thanh din t thi gian nh ting g, ting trng canh
1. o Duy Anh - t in Truyn Kiu, NXB KHXH, H
Ni, 1974
2. Li Nguyờn n - 150 thut ng vn hc, NXB i hc
Quc gia H
H Ni 1998.

×