Tải bản đầy đủ (.doc) (77 trang)

ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 2010 – 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (605.35 KB, 77 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN
------------
CHUYÊN ĐỀ
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP
ĐỀ TÀI:
ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN GIAI ĐOẠN 2010 – 2015
Giáo viên hướng dẫn
:
PGS.TS PHẠM VĂN VẬN
Họ và tên sinh viên
:
NGUYỄN THỊ XUÂN
Lớp
:
KINH TẾ PHÁT TRIỂN 48A
Khoá
:
48
Hệ
:
CHÍNH QUY
HÀ NỘI, NĂM 2010
LỜI CAM ĐOAN
Em tên là : NGUYỄN THỊ XUÂN
Lớp : Kinh tế phát triển 48A
Chuyên ngành : Kinh tế phát triển
Khoa : Kế hoạch và Phát triển
Khóa : 48
Hệ : Chính quy


Trong thời gian thực tập tại Trung tâm nghiên cứu dân số lao động và việc làm,
Viện Khoa học – Lao Động và Xã Hội, dưới sự hướng dẫn tận tình của PGS.TS
Phạm Văn Vận và sự giúp đỡ của các anh chị trong trung tâm, em đã hoàn thành
chuyên đề thực tốt nghiệp của mình với đề tài: “ Định hướng và giải pháp giải quyết
việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010 – 2015”.
Em xin cam đoan bản chuyên đề này là công trình nghiên cứu của riêng em
trong quá trình thực tập, không sao chép luận văn nào. Nếu em vi pham em xin hoàn
toàn chịu trách nhiệm.
Em xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, ngày ... tháng ... năm 2010.
SV thực hiện
Nguyễn Thị Xuân
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
LỜI MỞ ĐẦU
Sự bùng nổ dân số những năm 80 của thế kỷ trước dẫn đến những năm qua dânn
số đặc biệt là số người bước vào độ tuổi lao động của các nước đang phát triển tăng
nhanh và Việt Nam cũng không nằm ngoài số đó. Đến những năm gần đây thì quy
mô dân số ở nước ta cũng vẫn tăng lên (năm 2008 dân số là 86,16 triệu người; năm
2009 là 85,54 triệu người). Trong khi đó, số người ra khỏi tuổi lao động lại không
nhiều dẫn đến sự gia tăng cao lực lượng lao động trong nền kinh tế. Cùng đó, cuộc
khủng hoảng tài chính thế giới bắt đầu ở Mỹ vào khoảng tháng 12 năm 2007 và lan
rộng toàn thế giới tạo nên một nền kinh tế với nhiều bất ổn. Một trong những vấn đề
đó chính là giải quyết việc làm vì quy mô nền kinh tế có thể bị thu hẹp lại. Theo tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO) cho biết nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt với tỷ
lệ thất nghiệp cao nhất trong vài thập kỷ: tính đến tháng hai năm 2009 tỷ lệ thất
nghiệp Mỹ đã tăng lên đến 8,1% mức cao nhất kể từ hai năm năm trở lại đây trong
lịch sử phát triển của nước này. Cùng với thời gian này, tỷ lệ thất nghiệp Việt Nam là
6,53%. Sau gần hai mươi năm thực hiện chủ trương đổi mới về quản lý kinh tế của

Đảng và Nhà nước, nước ta cũng đã gặt hái được nhiều thành tựu quan trọng trong
phát triển kinh tế và xã hội. Nhưng trong hoàn cảnh kinh tế xã hội hiện nay việc chủ
động trong xây dựng và thực hiện kế hoạch, đi trước đón đầu những vấn đề xã hội
phát sinh giải quyết có hiệu quả các chính sách và công tác xã hội là rất cần thiết.
Thực hiện tốt các chính sách và công tác xã hội, góp phần giữ vững ổn định xã hội là
nhân tố quan trọng thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế của từng tỉnh, từng
địa phương. Muốn thực hiện tốt trong cả nước thì Nhà nước ta trước hết phải phân
cấp thực hiện tốt ở các địa phương, các tỉnh, các ngành sau đó đến tổng thể chung
toàn nước.
Thực hiện Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và Nghị Quyết Đại
hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVI về phát triển kinh tế xã hội tỉnh đến năm
2015, phấn đấu đưa Thái Nguyên thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao một
bước rõ rệt về đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo tiền đề cơ bản để Thái
Nguyên trở thành tỉnh Công nghiệp trước năm 2020. Trong điều kiện kinh tế hiện nay
của toàn tỉnh, việc giữ vững kế hoạch đề ra, thay đổi các biện pháp thực hiện cho phù
hợp với xu thế kinh tế mà tỉnh cùng cả nước đang đối mặt. Giải quyết việc làm cho
người dân trong tỉnh là vấn đề mà các nhà lãnh đạo của chính quyền địa phương và
người dân quan tâm hơn nữa trong điều kiện kinh tế hiện nay.
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
1
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
Em chọn đề tài: “ Định hướng và giải pháp giải quyết việc làm trên địa bàn
tỉnh Thái Nguyên giai đoạn 2010 – 2015”.
Đề tài bao gồm có ba phần:
Phần I: Cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết việc làm cho lao động
Phần II: Thực trạng về việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Phần III: Các giải pháp và định hướng giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên.
Mục tiêu của đề tài
Tập trung vào đánh giá về biến động của việc làm trên địa bàn tỉnh, những tác

động của phát triển kinh tế xã hội đến việc làm hay người lao động trong tỉnh. Những
tác động của số lượng và chất lượng của người lao động đến tìm việc làm cho người
dân.
Các giải pháp tỉnh đã thực hiện để nâng cao chất lượng lao động, tạo nhiều việc
làm cho tỉnh: những kết quả và hạn chế.
Các giải pháp định hướng trong thời gian tới tỉnh thực hiện để giảm tỷ lệ thất
nghiệp, nâng cao đời sống của người dân thông qua chính sức lao động của người lao
động là làm việc.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Địa bàn: Tỉnh Thái Nguyên
Thời gian đánh giá thực trạng phát triển: 2005 – 2009
Định hướng phát triển cho giai đoạn 2010 – 2015.
Phạm vi nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
Trong thời gian thực tập ở Trung tâm nghiên cứu dân số lao động, việc làm của
Viện Khoa học Lao động Xã hội – Bộ Lao Động Thương Binh và Xã hội, dưới sự
giúp đỡ của các cô chú, các anh chị trong phòng và đồng thời dưới sự hướng dẫn tận
tình của PGS.TS Vũ Văn Vận, em đã hoàn thành chuyên đề thực tập với đề tài: “
Định hướng và giải pháp giải quyết việc làm trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên giai đoạn
2010 – 2015.”
Em xin chân thành cám ơn thầy giáo và các anh chị đã giúp em hoàn thành bài
viết này! Với nội dung bài viết còn nhiều thiếu sót, mong được góp ý của thầy giáo
và các cô chú, các anh chị, các bạn để em hoàn chỉnh bài viết tốt hơn.
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
2
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM
1.1. TỔNG QUAN VỀ DÂN SỐ, LAO ĐỘNG VÀ VIỆC LÀM.
1.1.1. Các khái niệm
1.1.1. 1. Dân số

Trên nhiều phương diện khác nhau mối quan hệ giữa dân số và phát triển được
biểu hiện rất rõ. Nhưng mối quan hệ nổi bật nhất là mối quan hệ giữa dân số - lao
động – việc làm. Và khi đặt trong hoàn cảnh của các nước nghèo thì mối quan hệ này
lại càng có ý nghĩa. Đối với Việt nam một nước có thể nói điều kiện là chậm phát
triển, có mức gia tăng dân số nhanh, quy mô dân số đông, nguồn lao động lớn thì việc
tìm hiểu về dân số, lao động, việc làm là rất cần thiết - đây là bước đầu để hiểu rõ
hơn về sự phát triển của đất nước.
Sơ đồ1: Mối quan hệ giữa dân số - lao động – việc làm.
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
Dân số
Dân số trong độ tuổi lao động
( 15-59 tuổi)
Dân số ngoài độ tuổi lao động
( <15 tuổi, >60 tuổi)
Ds hoạt động
kinh tế
Ds dưới tuổi lđ
(0-14 tuổi)
Ds làm
việc
trong
nền
ktqd
Ds trên tuổi lđ
(trên 60 tuổi)
Ds không hoạt
động kinh tế
Ds thất
nghiệp


đang
tìm
việc
Ds
không
có nhu
cầu
làm
việc
Ds làm
việc
gia
đình
Ds là
học
sinh,
sinh
viên
Ds là
người
tàn tật,
bệnh
nặng....
Lực lượng lao động Lực lượng lao động
dự trữ
Nguồn lao động
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
Theo cách hiểu đơn giản nhất: Dân số là tập hợp những người sống trên lãnh thổ
nào đó. Trong đó, bao gồm các chỉ tiêu về quy mô dân số hay tổng số là bao nhiêu

người, chỉ tiêu về tốc độ tăng dân số hay đó chính là sự gia tăng dân số về quy mô
theo thời gian. Và chỉ tiêu cuối cùng là cơ cấu dân số: cơ cấu theo giới tính, cơ cấu
theo độ tuổi ( như mối quan hệ ở sơ đồ trên là chia theo cơ cấu theo độ tuổi). Dân số
là cơ sở để hình thành lực lượng lao động của xã hội. Sự biến động của dân số là kết
quả của quá trình nhân khẩu học và có tác động trực tiếp hoặc gián tiêp đến quy mô,
cơ cấu cũng như sự phân bố theo không gian của dân số trong độ tuổi lao động. Tổng
dân số của một quốc gia theo cơ cấu độ tuổi chia thành dân số trong độ tuổi lao động
và dân số ngoài độ tuổi lao động.
Dân số trong độ tuổi lao động là tât cả những người đang trong độ tuổi lao động
theo quy định của pháp luật của từng nước. Ở các nước khác nhau tuổi lao động được
quy định hoàn toàn khác nhau.
Ở Việt nam, căn cứ vào điều 6 của Bộ Luật Lao động của nước Cộng Hòa
XHCN Việt Nam đã sửa đổi và bổ sung năm 2002 quy định độ tuổi lao động ở nước
ta là từ đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi đối với nữ và từ đủ 15 tuổi đến đủ 60 tuổi đối với
nam.
Dân số ngoài độ tuổi lao động là những người có tuổi nằm ngoài (trên hoặc
dưới) độ tuổi lao động theo quy định của pháp luật. Và dân số nằm trong nhóm tuổi
này không phải là không tham gia hoạt động kinh tế. Có rất nhiều hoàn cảnh, nhiều lý
do mà dân số trong nhóm tuổi này vẫn phải hoạt động kinh tế sớm hơn hoặc muộn
hơn so với tuổi mà pháp luật quy định. Ở Việt Nam, lực lượng dân số này còn chiếm
một tỷ lệ tương đối nhiều trong lực lượng lao động của nền kinh tế quốc dân.
Trong nhóm tuổi dân số trong độ tuổi lao động chia thành dân số hoạt động kinh
tế và dân số không hoạt động kinh tế.
Dân số hoạt động kinh tế là tất cả những người (kể cả trong và ngoài độ tuổi lao
động) đang tham gia hoặc đang tích cực tham gia vào một ngành hay lĩnh vực hoạt
động nào đó trong nền kinh tế quốc dân trong một khoảng thời gian nhất định. Và nó
bao gồm hai bộ phận:
- Những người có việc làm (đang làm việc).
- Những người không có việc làm (thất nghiệp), nhưng có nhu cầu làm việc và
đang tích cực đi tìm việc làm trong khoảng thời gian xác định của cuộc tổng điều tra

dân số.
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
Dân số không hoạt động kinh tế bao gồm những người không tham gia lao động
vì có những lý do sau:
- Tàn tật, mất sức lao động (không có khả năng lao động)
- Học sinh, sinh viên đang đi học ở các trường PTTH, các lớp dạy nghề, trung
học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học...
- Những người làm việc nhà, không tách rõ lợi ích, thù lao chỉ trong phạm vi
hộ gia đình. ( thu nhập của họ không được tính vào GDP của đất nước).
- Những người được hưởng lợi tức hoặc một khoản thu nhập nào đó mà không
phải làm việc như: đầu tư cho thuê nhà, tài sản, tiền nhuận bút...
1.1.1.2. Nguồn lao động
Về nguyên tắc: Nguồn lao động là bộ phận dân số trong đó tuổi lao động và có
khả năng lao động. Bao gồm dân số đang làm việc trong nền kinh tế và dân số thất
nghiệp, đang tìm việc. Đây chính là bộ phận quan trọng trong dân số, đóng vai trò tạo
ra của cải vật chất và tinh thần cho xã hội để phát triển nền kinh tế.
Trên thực tế: Nằm trong nguồn lao động ngoài dân số trong độ tuổi lao động
còn có cả những dân số nằm ngoài độ tuổi lao động cũng tham hoạt động kinh tế. Ở
nước ta, dân số đã nằm ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn tham gia vào hoạt động
kinh tế của nền kinh tế quốc dân cũng tương đối còn nhiều như: các trẻ em chưa đủ
tuổi vị thành niên nhưng vẫn lao động do hoàn cảnh gia đình khó khăn hoặc do mồ
côi cha mẹ phải tự nuôi sống bản thân, những người thâm niên trong các ngành, các
lĩnh vực kinh tế muốn cống hiến tiếp sức lực để làm giàu đất nước.
Đó là những khái niệm cơ bản nhất về dân số và nguồn lao động, từ đó là cơ sở
hiểu rõ hơn những người có việc làm (tạo ra thu nhập cho nền kinh tế quốc dân) và
những người không có việc làm (không đóng góp vào GDP của nền kinh tế) thuộc
vào thành phần nào của tổng dân số cả nước.
1.1.1.3. Việc làm

• Khái niệm
Trong mối quan hệ dân số - lao động – việc làm thì việc làm là yếu tố cuối cùng
quyết định đến sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mục đích hướng tới của con
người trong xã hội để tồn tại và phát triển là có việc làm. Vậy hiểu việc làm như thế
nào, con người trong mối quan hệ việc làm như thế nào luôn là dấu hỏi lớn ?
Trong thời kỳ nguyên thủy với nền sản xuất giản đơn thì việc làm của con người
là sự kết hợp sức lao động với tư liệu sản xuất nhằm biến đổi đối tượng lao động theo
mục đích lao động của mình. Các hoạt động như săn bắn, hái lượm.... là hoạt động
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
tạo ra của cải, là việc làm mà con người hoạt động để phục vụ đời sống của bộ tộc.
Trong xã hội nước ta quản lý nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung đã
có những quan niệm về việc làm như sau: Việc làm là những công việc đòi hỏi người
làm việc đó phải có một chuyên môn nhất định nào đó để tạo ra một thu nhập nhất
định. Và theo cách hiểu đó, người có việc là những người thuộc biên chế Nhà nước
hoặc là những người làm việc trong hợp tác xã.
Hiện nay, nước ta với nền kinh tế đã chuyển sang một nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần, với nhiều tư duy thay đổi thì quan niệm về việc làm cũng đã thay
đổi một cách căn bản. Theo Bộ Luật Lao động năm 1994 của nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam khẳng định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra thu nhập và
không bị pháp luật ngăn cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Theo quy định của pháp luật của mỗi nước đã quy định thì các hoạt động trong
nền kinh tế được xác định là việc làm bao gồm các hoạt động sau:
- Làm các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc bằng hiện vật
- Những công việc tự làm để thu lợi ích cho bản thân hoặc tạo thu nhập cho gia
đình nhưng không được trả công (bằng tiền hoặc bằng hiện vật) cho công việc đó.
Với một nền kinh tế nhiều thành phần và công việc được tạo ra trong nền kinh
tế nhiều thành phần đó rất phong phú, đa dạng thì cách hiểu về việc làm theo những
quy định của pháp luật sẽ giới hạn, ngăn ngừa những việc làm có hại cho cộng đồng

và xã hội. Nhưng cũng khác với thời kỳ nguyên thủy phải bó buộc trong một hai công
việc của bộ tộc thì trong nền kinh tế hiện nay người lao động được phép tự do tìm
kiếm cho mình một hoặc nhiều hơn một công việc cho phép, tự do kinh doanh, tự do
tạo việc làm, tự do liên kết và tự do thuê mướn lao động theo quy định của pháp luật
mà Nhà nước đã quy định để tạo việc làm, tạo thu nhập đáp ứng những nhu cầu của
bản thân và nhu cầu của xã hội.
• Phân loại việc làm
Có rất nhiều căn cứ khác nhau để phân chia việc làm ra thành các loại để phù
hợp với cơ cấu của nền kinh tế. Căn cứ vào thời gian thực hiện công việc, tổ chức
Lao động Quốc tế (ILO) đã phân chia việc làm thành các loại:
- Căn cứ vào khoảng thời gian có việc làm thường xuyên trong một năm thì việc
làm có hai loại là việc làm ổn định và việc làm tạm thời. Trong đó, người có việc làm
ổn định là những người làm việc trong khoảng thời gian là từ 6 tháng trở lên trong
một năm và tiếp tục làm việc đó trong nhiều năm tiếp theo về sau. Việc làm tạm thời
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
là những người làm việc trong khoảng thời gian ít hơn 6 tháng trong một năm và làm
công việc đó không liên tục.
- Căn cứ vào khối lượng thời gian, mức độ thu nhập trong việc thực hiện một
công việc cụ thể nào đó chia thành việc làm chính và việc làm tạm thời. Việc làm
chính mang lại thu nhập chính thức cho người lao động và cũng trong khoảng thời
gian dài, nhất định. Việc làm tạm thời cũng mang lại khoản thu nhập cho người lao
động nhưng khoản thu nhập đó không thường xuyên hoặc có thường xuyên nhưng
không kéo dài trong năm.
- Căn cứ vào số giờ thực hiện làm việc trong một tuần việc làm chia thành việc
làm đủ thời gian và việc làm không đủ thời gian.
Như ở nước ta, làm việc trong khu vực Nhà nước, làm việc theo giờ hành chính
là làm đủ 8 tiếng trong một ngày từ 7h30’ đến 12h sáng, từ 1h30’ đến 5h. Người lao
động phải thực hiện đúng quy định đi làm đủ giờ, đúng giờ thì là làm việc đủ thời

gian và làm việc không đủ số giờ trên là làm việc không đủ thời gian.
1.1.2.Tổng quan về thị trường việc làm.
1.1.2.1. Cung việc làm.
Cung việc làm là mối quan hệ giữa lượng cung việc làm với giá cả của lao động,
với giả thiết là các yếu tố khác không thay đổi.
Trong nền kinh tế, cung việc làm được tạo ra nhiều hay ít phụ thuộc vào các đơn
vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước, tư nhân và của hộ gia đình (chính những người
lao động). Khi việc làm tăng lên là các doanh nghiệp thuê mướn lao động nhiều hơn,
việc thuê mướn nhiều hay ít lại phụ thuộc vào việc người tiêu dùng mua hàng hóa và
dịch vụ nhiều hay ít của họ sản xuất ra. Nhu cầu thuê mướn lao động cũng như cầu
về các đầu vào khác của quá trình sản xuất ( đất đai, nhà xưởng, máy móc, vốn, công
nghệ..) là cầu phát sinh, xuất phát từ mong muốn của khách hàng. Vì thế, người sử
dụng lao động thuê nhiều hay ít phụ thuộc vào cầu sản phẩm, điều kiện hoàn cảnh
của từng tổ chức, từng doanh nghiệp và của nền kinh tế dẫn đến cung việc làm nhiều
hay ít biến động theo. Ngoài ra, khi quyết định tạo ra thêm một hay nhiều việc làm,
cả hai bên người lao động và người sử dụng lao động cần chú trọng đến số lượng lao
động, chất lượng lao động để xác định giá cả sức lao động và các quyết định về quan
hệ lao động như điều kiện làm việc, các chế độ khuyến khích, chính sách tiền lương,
bảo hiểm... Số lượng việc làm trong nền kinh tế có tăng lên hay không là phụ thuộc
vào quyết định thuê lao động của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Giả sử trong một
doanh nghiệp mục đích cuối cùng là tối đa hóa lợi nhuận và là một tác nhân không
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
làm thay đổi đến các giá cả thị trường thì doanh nghiệp đó tối đa hóa lợi nhuận bằng
cách là thuê “ đủ và đúng” số lượng vốn và lao động cần thiết. Và mức độ thuê này
khác nhau trong dài hạn và trong ngắn hạn. Ngắn hạn là một khoảng thời gian mà
doanh nghiệp không thể thay đổi quy mô nhà xưởng hoặc thay đổi thiết bị máy móc
nên lượng vốn của đơn vị là cố định ở một mức K nào đó. Cung việc làm ngắn hạn
cho biết những thay đổi về số việc làm (hay số lao động cần thuê) của đơn vị sản xuất

khi tiền công thay đổi và vốn được giữ nguyên. Trong dài hạn, doanh nghiệp có thể
tối đa hóa lợi nhuận bằng cách thay đổi cả số lượng lao động thuê và lượng vốn đầu
tư vào nhà xưởng, thiết bị. Vì ngoài việc thay đổi số lượng lao động, lượng vốn của
doanh nghiệp còn thay đổi dẫn đến kết quả sản xuất khác nhau và từ đó cung việc
làm cũng khác nhau.
1.1.2.2. Cầu việc làm
Mỗi người lao động ở thời điểm khác nhau của cuộc đời đều phải tự quyết định
có làm việc hay không làm việc, nếu làm việc thì làm việc cho ai và với thời gian bao
lâu? Đó chính là biểu hiện của cầu việc làm ở mỗi thời điểm nhất định.
Cầu việc làm là mối quan hệ giữa lượng cầu việc làm với giá cả của lao động
trong điều kiện các yếu tố khác không thay đổi. Nó được thể hiện ở số lượng, chất
lượng con người hoặc ở thời gian của những người tham gia và mong muốn tham gia
lao động trên thị trường lao động.
Cầu việc làm là yếu tố xuất phát từ chính người lao động và những người mong
muốn làm việc. Cầu việc làm thay đổi như thế nào là phụ thuộc vào quy mô, tốc độ,
cơ cấu dân số, số lượng lao động, chất lượng lao động và thời gian làm việc. Khi quy
mô dân số càng lớn sẽ tạo ra nguồn lực sẵn sàng cung cấp sức lao động cho xã hội
càng lớn. Trong quy mô dân số yếu tố cấu thành lên đường cầu việc làm là dân số
hoạt động kinh tế có việc làm hay chính là tỷ lệ tham gia lực lượng lao động quyết
định cầu việc làm về số lượng. Khi tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động càng tiến
gần đến 100% chính là tạo ra cầu việc làm càng lớn, thu hút nguồn nhân lực càng lớn.
Tuy nhiên, phần lớn những người có việc làm (làm việc được trả công) đều được tính
vào lực lượng lao động mà không cần biết họ làm việc bao nhiêu giờ trong ngày hoặc
trong năm. Thời gian làm việc khác nhau của người lao động sẽ tạo lên cầu việc làm
cà cung thời gian lao động là khác nhau. Với một khoảng thời gian nhất định có sự
đánh đổi giữa thời gian làm việc và thời gian nghỉ ngơi. Theo “ mô hình lựa chọn làm
việc – nghỉ ngơi tân cổ điển” nếu nghỉ ngơi nhiều, chúng ta sẽ sống mà không có
những tiện nghi. Còn nếu làm việc, chúng ta sẽ có tiền để mua hàng hóa như mong
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
8

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
muốn và phải từ bỏ thời gian nghỉ ngơi của mình. Vậy quyết định làm việc của con
người phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như sự tăng lương và thu nhập thực tế trên thị
trường hay sự thay đổi sở thích, hành vi nghề nghiệp hứng thú và hoàn cảnh gia đình.
Khi quyết định đi làm thì người lao động mong muốn có được một mức tiền lương và
đó là mức tiền lương giới hạn. Người lao động sẽ không làm việc nếu như tiền lương
trên thị trường (là mức lương mà người chủ sẵn sàng trả) thấp hơn tiền lương giới
hạn (là mức lương người lao động muốn có để chấp nhận việc làm). Như vậy, cầu
việc làm là yếu tố do người lao động và những người mong muốn có việc làm quyết
định, trái lại với cung việc làm là yếu tố do các đơn vị sản xuất kinh doanh tạo GDP
cho nền kinh tế quyết định. Sự vận động giữa hai yếu tố này như thế nào và đem lại
kết quả gì, có như sự mong muốn của các nhà lãnh đạo, của người lao động không?
1.1.2.3. Giải quyết việc làm và thất nghiệp.
• Giải quyết việc làm.
Sự vận động giữa cung việc làm và cầu việc làm phù hợp với nhau thì người
dân có việc làm và trở thành lực lượng lao động, nếu sự vận động đó khác đi và lệch
với nhau là hiện tượng thất nghiệp xảy ra. Với tất cả hoạt động và các chính sách liên
quan đến dân số, đến nguồn lao động mà Nhà nước và người dân cố gắng thực hiện
tốt đều có mục tiêu là giải quyết việc làm cho dân số. Điều đó có nghĩa là hướng tới
có việc làm đầy đủ cho người lao động, đảm bảo thu nhập ổn định, tiến đến nâng cao
mức sống cho người lao động và dần dần nâng cao chất lượng việc làm để sử dụng
một cách có hiệu quả nhất nguồn lực của đất nước.
Căn cứ vào khái niệm và phân loại việc làm ở trên, theo đó có 3 nhóm người khi
giải quyết việc làm là: nhóm người đủ việc làm, nhóm người thiếu việc làm và nhóm
người thất nghiệp. Trong đó, có hai nhóm người là nhóm người đủ việc làm và nhóm
người thiếu việc làm là vẫn có việc làm nhưng những người lao động này có được
làm việc theo nhu cầu, theo khả năng hay theo hoàn cảnh là phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố, điều kiện như: năng lực của người lao động, môi trường làm việc, khả năng
về các yếu tố đầu vào của sản xuất....Nhóm người thất nghiệp là nhóm người không
có việc làm nhưng đang mong muốn có việc làm.

- Người đủ việc làm: là những người có số giờ làm việc trong một tuần lễ, có số
giờ lớn hơn hoặc bằng 40 giờ nhưng cũng có những người làm việc ít hơn 40 giờ
nhưng đồng thời họ lại làm lớn hơn số giờ quy định. Đối với một quốc gia, số người
có đủ việc làm đạt được một số tối đa là điều mong muốn, điều luôn luôn hướng tới.
Trên thực tế thì mỗi quốc gia đều phấn đấu đạt được số người có đủ việc làm càng
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
gần với con số của nguồn lao động bao nhiêu thì càng giảm được nạn thất nghiệp bấy
nhiêu. Mục tiêu phấn đấu nhằm đạt được sự thỏa mãn nhu cầu việc làm và thu nhập
tương đối cao, ổn định cho người lao động.
Tỷ lệ người có đủ việc làm được xác định bằng cách lấy số người có đủ việc
làm so với dân số hoạt động kinh tế, lấy theo tỷ lệ phần trăm.
- Người thiếu việc làm: là những người mà trong khoảng thời gian trước cuộc
tổng điều tra một tuần có tổng số giờ làm việc nhỏ hơn giờ quy định và có nhu cầu
làm thêm giờ. Đây chính là tình trạng người lao động không sử dụng hết thời gian
quy định và nhận được thu nhập thấp hơn so với nhu cầu của người lao động từ công
việc đang làm đó khiến họ có nhu cầu làm thêm công việc khác vào khoảng thời gian
đó để tăng thu nhập.
Tỷ lệ người thiếu việc làm được xác định bằng cách lấy số người hoặc số thời
gian (ngày, giờ,...) thiếu việc làm (không đủ việc làm) trong năm chia cho toàn bộ lực
lượng lao động hoặc tổng quỹ thời gian (ngày, giờ...) cần làm việc theo quy định
trong năm đó.
Nhóm người thất nghiệp được đề cập chi tiết hơn đến phần sau. Vậy giải quyết
việc làm gồm hoạt động tác động đến cung cầu lao động và mối quan hệ giữa cung
cầu lao động. Đồng thời với sự kết hợp các hoạt động từ ba phía: Nhà nước, doanh
nghiệp và chính những người lao động nhằm mở rộng cung việc làm, nâng cao sự
phù hợp của cầu việc làm và các yếu tố của thị trường, từ đó Nhà nước giúp đỡ rồi
tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, cho người lao động tự tạo việc làm cho chính
mình và cho những người khác.

• Thất nghiệp
Hoàn toàn ngược lại với những người được giải quyết việc làm như trên thì
trong xã hội còn lại những người không có việc làm hoặc việc làm không ổn định. Và
chính sự vận động không phù hợp giữa cung và cầu việc làm mà tạo ra những người
thất nghiệp. Những người thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động có khả
năng lao động, mong muốn lao động nhưng không có việc làm.
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
Hình 1.1: Cân bằng thị trường việc làm.
Trong đó: S: Đường cung
D: Đương cầu
E: Điểm cân bằng thị trường – Cầu việc làm phù hợp với cung việc làm.
LA: Lượng cầu việc làm
LB: Lượng cung việc làm
W: Tiền lương
Khi ở mức tiền công W1 thì dư thừa cung việc làm và thiếu cầu việc làm, đó là
quy mô nền kinh tế được mở rộng và không có thất nghiệp. Ở mức tiền công Wo thì
cung cầu việc làm vận động phù hợp với nhau tại điểm cân bằng Eo, không có dư
thừa, cũng không có thất nghiệp. Trên thực tế không tồn tại điểm Eo, chỉ là tương đối
với việc làm của từng nước, từng địa phương. Còn ở mức tiền công W2 thì là dư thừa
nhu cầu việc làm và thiếu cung việc làm, xuất hiện tình trạng thất nghiệp và lượng
thất nghiệp là (Lb – La).
Có hai loại thất nghiệp: là thất nghiệp hữu hình và thất nghiệp trá hình.
Thất nghiệp hữu hình được hiểu theo đúng nghĩa thất nghiệp: là những người
trong độ tuổi lao động có khả năng lao động nhưng không có việc làm và đang có
nhu cầu tìm việc làm. Thực tế chỉ đo được tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị hay chỉ xảy ra
thất nghiệp hữu hình trên thị trường lao động thành thị chính thức nên gọi là tỷ lệ thất
nghiệp thành thị. Ở nước ta, tỷ lệ này thường lớn hơn 5%, so với hai thị trường còn
lại trong nước thì đây là tỷ lệ thấp nhất nhưng so trên cùng thị trường thành thị với

các nước khác thì Việt Nam vẫn có tỷ lệ thất nghiệp cao như Trung Quốc tỷ lệ này là
2%, Singapo là 2,3%... Trên thị trường thành thị các đơn vị tạo ra việc làm (hay là
cung việc làm) là các đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ có quy mô lớn thuộc của cả
Nhà nước và của tư nhân. Nhờ tận dụng được lợi thế chuyên môn hóa, sản xuất kinh
doanh ổn định, sử dụng công nghệ hiện đại mà đòi hỏi những người lao động phải có
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
D
E
A B
L
W
W1
W0
L0La Lb
S
W2
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
trình độ cao để làm những công việc chuyên môn hóa rõ ràng nên mức giá cả lao
động luôn cao hơn mức giá cả thị trường. Mà cầu việc làm trên thị trường này thể
hiện rất rõ là cao do tính chất là trung tâm của một quốc gia để ổn định nền kinh tế.
Do đó, cung việc làm nhỏ hơn cầu việc làm mà dẫn đến không có điểm cân bằng trên
thị trường và xảy ra hiện tượng thất nghiệp hữu hình.
Thất nghiệp trá hình: gồm bán thất nghiệp và thất nghiệp vô hình. Bán thất
nghiệp là những người nhìn bề ngoài là có việc làm nhưng thời gian lao động ít hơn
số giờ quy định, dẫn đến thu nhập thấp như: thất nghiệp trong nông thôn vì tính chất
thời vụ, thất nghiệp do không có đủ vốn trong sản xuất kinh doanh, có việc làm
nhưng làm với số lượng thời gian ngắn do tình hình sức khỏe không cho phép làm
việc nhiều.... Trên thị trường nông thôn, cung việc làm ở các nước đang phát triển co
giãn ít, ít biến động hơn so với các nước phát triển. Thứ nhất là do tình hình ruộng

đất ở các nước là hầu như cố định, không biến đổi. Thứ hai là sự phát triển các ngành
nghề phi nông nghiệp ở nông thôn không mạnh. Trong khi đó, cầu việc làm lại co
giãn lớn, thường xuyên biến đổi vì lý do vẫn tồn tại từ rất lâu là dân số ở khu vực
nông thôn luôn có tốc độ tăng dân số tự nhiên cao, dân số tăng nhanh và lực lượng
lao động cũng tăng nhanh theo. Còn lý do nữa là hiện nay trong quá trình công
nghiệp hóa nông thôn không những làm giảm dòng di dân ra thành thị mà còn xuất
hiện hiện tượng di dân đảo. Vậy cầu việc làm luôn lớn hơn cung ở việc làm nhưng
điểm cân bằng ở thị trường này thấp hơn điểm cân bằng chung của thị trường lao
động xã hội. Và chính điểm cân bằng này đã phản ánh rằng người dân chia việc ra để
làm chứ thị trường nông thôn không cần nhu cầu lao động lớn nên không có hiện
tượng thất nghiệp hữu hình mà tồn tại bán thất nghiệp.
Và cuối cùng là thất nghiệp vô hình là những người có việc làm, thời gian làm
việc đầy đủ nhưng khối lượng giải quyết được công việc không được nhiều. Thất
nghiệp này thường tồn tại trong khu vực Nhà nước, các công chức hoặc thu nhập thấp
hoặc có việc làm nhưng làm việc không đúng chuyên môn. Việt nam có tỷ lệ thất
nghiệp trá hình còn khoảng 30%, một con số cũng khá cao so với các nước khác
trong khu vực và thế giới. Nhà nước Việt Nam cùng các doanh nghiệp trong nước
hay chính người lao động đang cố gắng giảm con số này xuống một cách tương đối.
Tỷ lệ thất nghiệp được xác định bằng cách lấy số người thất nghiệp trên tổng dân số
hoạt động kinh tế. Hiện tượng thất nghiệp này xảy ra trên thị trường bán thành thị
(hay thị trường thành thị không chính thức). Các đơn vị tạo ra cung việc làm trên thị
trường này là gồm các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh và dịch vụ có quy mô
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
nhỏ nhưng phải được pháp luật thừa nhận. Các đơn vị này có lợi thế về quy mô kinh
tế giản đơn, thị trường dễ dàng gia nhập và rút lui, thay đổi hoạt động kinh tế thường
xuyên theo thị trường nên khả năng ứng phó với thị trường tốt, linh hoạt. Chính vì lý
do đó mà các đơn vị sản xuất đóng vai trò đặc biệt quan trọng để thực hiện chương
trình giải quyết việc làm rất tốt, người dân cũng có thể tự tạo việc làm để giải quyết

vấn đề thu nhập cho người lao động. Nó phù hợp với nhu cầu của lực lượng lao động,
phù hợp với trình độ tay nghề của người lao động. Cung cầu việc làm luôn vận động
có xu thế ăn khớp với nhau, cung việc làm là yếu tố chi phối cầu việc làm. Điểm cân
bằng có xu thế chuyển về điểm cân bằng thị trường xã hội nên mọi người đều có việc
làm nhưng vẫn có hiện tượng thất nghiệp là thất nghiệp vô hình. Lực lượng lao động
làm việc ở thị trường này là những người thất nghiệp hữu hình ở thị trường chính
thức chuyển sang, những người lao động ở thị trường nông thôn di dân ra thành thị và
những lực lượng lao động lần đầu tiên gia nhập vào thị trường lao động như các sinh
viên mới tốt nghiệp... Ở các nước đang phát triển có khoảng 50% lao động sống ở thị
trường không chính thức này và ở Việt nam là khoảng 60% lao động.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm
1.2.1. Các điều kiện về tự nhiên.
Nhu cầu có việc làm bắt nguồn từ đòi hỏi của sản xuất và việc sản xuất có quy
mô ngày càng được mở rộng thì nhu cầu tạo việc làm sẽ càng lớn. Muốn mở rộng sản
xuất để phát triển kinh tế xã hội phải dựa vào những tiền đề vật chất, đây là nhân tố
tiên quyết ảnh hưởng đến tạo việc làm. Điều kiện tự nhiên của một quốc gia, một
vùng, một tỉnh hay một khu vưc được hình thành một cách tự nhiên từ hàng nghìn,
hàng vạn năm trước đây, không hề theo mong muốn của con người. Với mỗi một
quốc gia, một vùng, một lãnh thổ đều có những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự
nhiên cho sự phát triển. Trên thế giới có nước rất giàu tài nguyên thiên nhiên, đất đai
rộng lớn, độ màu mỡ tự nhiên, thuận lợi cho việc phát triển các ngành sản xuất, thu
hút lao động như Liên Xô cũ. Các điều kiện tự nhiên sẵn có trở thành các nguyên
liệu, nhiên liệu... phục vụ cho sản xuất và đời sống, như dầu lửa có nhiều ở Ả Rập
phải được khai thác từ đáy biển, quặng vàng và các loại khoáng sản quý hiếm phải
được lấy ra khỏi lòng đất, qua tinh chế mới có ích cho cuộc sống. Bên cạnh đó cũng
có những quốc gia không được ưu đãi về thiên nhiên, rất nghèo về tài nguyên, đất đai
chật hẹp thường xuyên xảy ra các sự cố bất lợi cho sản xuất, cho cuộc sống con
người như động đất, núi lửa, bão lụt...như đất nước Nhật Bản, Việt Nam cũng là
nước được rất nhiều ưu thế về tài nguyên thiên nhiên, rừng vàng biển bạc nhưng cũng
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A

13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
thường xuyên phải chịu cảnh bão lũ, nước lớn ở các vùng miền Trung gây khó khăn
cho người dân sinh sống ở khu vực đó. Các điều kiện tự nhiên chỉ là điều kiện thuận
lợi để tạo việc làm khi quốc gia đó biết cách khai thác và sử dụng đúng mục đích
đem lại lợi ích lớn hơn cho quốc gia. Trong thực tế, như đất nước Nhật Bản rất nghèo
về tài nguyên thiên nhiên nhưng có công nghệ hiện đại, máy móc tiên tiến, phương
pháp quản lý hiện đại đã tạo ra nhiều việc làm và việc làm có chất lượng cao, nâng
cao đời sống của người dân. Vì thế, để tạo ra việc làm còn phụ thuộc vào rất nhiều
các yếu tố khác nhau của quốc gia đó.
1.2.2. Các điều kiện về phát triển kinh tế.
Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến toàn diện và mọi mặt trong nền kinh tế
( sự phát triển đồng thời giữa lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực xã hội trong nền kinh tế).
Thì tạo việc làm tác động vào cả hai mặt của sự phát triển kinh tế.
1.2.2.1. Về tăng trưởng kinh tế.
Việc làm vừa là kết quả vừa là điều kiện cho tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh
tế của một quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định qua thời gian dài, có những
tiền đề cho sự tăng trưởng vững chắc thì nhu cầu việc làm tăng lên, từ đó tạo ra nhiều
công ăn việc làm cho xã hội. Ngược lại, trong nền kinh tế có sự suy thoái, lạm phát cao
thì nhu cầu về việc làm cũng giảm xuống theo, dẫn đến tình trạng thất nghiệp của một bộ
phận dân cư. Vậy tăng trưởng kinh tế và việc làm có mối quan hệ thuận chiều với nhau.
Phân tích tác động của việc làm tới tăng trưởng kinh tế ta thấy:
- Đối với tổng cầu: AD = C + I + G + X – M
Trong đó: C: Tiêu dùng
I: Đầu tư
G: Tiêu dùng của Chính phủ
X: Xuất khẩu
M: Nhập khẩu
Xét trong nền kinh tế, có việc làm đã tạo ra thu nhập cho người lao động và làm
tăng tiêu dùng của họ. Trong dài hạn, thì thu nhập tăng lên liên tục mà tiêu dùng ở

mức đủ với nhu cầu của người tiêu dùng thì họ sẽ làm tăng nhu cầu tiết kiệm lên, và
là nguồn gốc để tăng đầu tư. Với số lượng việc làm tăng lên, với nhiều đối tượng mà
Chính phủ cần quan tâm đến để giải quyết việc làm thì chi tiêu của Chính phủ cho
các đối tượng này cũng có thể tăng lên hoặc là giảm đi theo một mối quan hệ thích
hợp. Vậy trong ngắn hạn tổng cung chưa kịp thay đổi, sự gia tăng việc làm làm tổng
cầu tăng lên (với điều kiện khác không thay đổi). Để đo được mức độ tác động của
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
việc làm đến tăng trưởng kinh tế sử dụng chỉ tiêu hệ số co giãn việc làm theo GDP.
Hệ số này cho biết cứ 1% tăng trưởng của GDP thì cho biết được có bao nhiêu phần
trăm việc làm được tăng lên. Ở nước ta, trong thời kỳ 1991 – 2000, tính trung bình cứ
tăng 1% tỷ trọng của khu vực phi nông nghiệp trong tổng GDP thì sẽ tạo ra được
287,6 nghìn việc làm trong khu vực này. Đến thời kỳ 2001 – 2009 thì tỷ lệ này là 1%
và 402,15 nghìn việc. Con số tăng gần gấp đôi so với thời kỳ trước là do tốc độ tăng
trưởng kinh tế trong các năm sau cao hơn các năm trước.
- Đối với tổng cung: AS: Y= (K, L, TFP)
Trong đó: K: Vốn đầu tư
L: Lao động
TFP: Yếu tố năng suất tổng hợp
Nhìn thấy ngay trong hàm sản xuất, lao động là một yếu tố đầu vào của quá
trình sản xuất, được xác định bằng số lượng nguồn lao động của mỗi quốc gia (có thể
tính bằng đầu người hay thời gian lao động). Khi việc làm tăng lên thì đòi hỏi nhiều
lao động tăng hay chất lượng lao động cũng tăng lên theo và quy mô sản xuất của các
đơn vị sản xuất được mở rộng thì nguồn vốn, đầu tư tăng lên làm tổng cung tăng lên.
Việc làm phản ánh kết quả của đầu tư cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ
và tăng trưởng kinh tế. Khả năng thu hút lao động tạo việc làm của mọi nền kinh tế
phụ thuộc rất nhiều vào mô hình tăng trưởng được áp dụng. Mô hình nào sử dụng
nhiều yếu tố đầu vào là vốn để phát triển các ngành trọng điểm, hay mô hình nào sử
dụng nhiều yếu tố đầu vào là lao động tận dụng lợi thế nguồn nhân lực dồi dào, giá

nhân công rẻ và mô hình nào sử dụng kết hợp đồng đều hai yếu tố vốn và lao động
đều nhằm một mục đích là tăng trưởng kinh tế cao hơn và ổn định trong thời gian dài.
Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi
vật chất của lao động gọi là vốn nhân lực. Chính là các yếu tố năng suất tổng hợp như
các lao động có kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị
phức tạp, những lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế.
Hiện nay, ở các nước đang phát triển đóng góp vào tăng trưởng kinh tế bởi các yếu tố
về quy mô, số lượng lao động, yếu tố vốn nhân lực còn ở vị trí thấp do trình độ và
chất lượng lao động ở các nước này còn thấp. Việt nam giai đoạn 2003 – 2006 yếu tố
vốn đóng góp vào tăng trưởng kinh tế là 52,73%, lao động là 19,07% và yếu tố TFP
là 28,20% - lao động vẫn góp phần trăm là thấp nhất so với hai yếu tố còn lại, nhưng
về yếu tố TFP đã có sự tăng lên đáng kể so với thời kỳ trước 1998 – 2002 là 22,60%.
1.2.2.2. Về chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
Theo cách hiểu đơn giản nhất về chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình tạo ra
sự thay đổi trong các yếu tố cấu thành các thành phần kinh tế, đó là: số lượng các
ngành kinh tế được hình thành (có ba nhóm ngành là: nông nghiệp, công nghiệp, dịch
vụ), tỷ trọng của mỗi ngành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân (về GDP, GO, L,
K...) và cuối cùng là vị trí, sự tác động qua lại giữa các ngành trong nền kinh tế với
nhau. Kết quả cuối cùng là cơ cấu ngành chuyển từ dạng này sang dạng khác ngày
càng hiện đại hơn.
Trong quá trình phát triển kinh tế, cơ cấu kinh tế của mỗi quốc gia đều có sự
chuyển đổi theo một xu hướng chung là tỷ trong nông nghiệp có xu hướng giảm đi,
trong khi đó tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng lên.
Trong tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng vốn cao hơn sẽ tăng lên
và tỷ trọng các ngành sản xuất sản phẩm có dung lượng lao động cao sẽ giảm dần.
Qua đó mà việc làm cũng sẽ thay đổi theo sự chuyển đổi cơ cấu này, việc làm trong
lĩnh vực các ngành công nghiệp, dịch vụ cũng tăng lên do sự chuyển dịch cơ cấu lao

động giữa các ngành.
Theo quy luật tăng năng suất lao động của Fisher (năm 1935): Ngành nông
nghiệp dưới tác động của khoa học công nghệ là ngành dễ thay thế lao động nhất,
đồng thời nhu cầu về hàng hóa nông sản giảm đi nên lực lượng lao động nông nghiệp
giảm đi. Nhưng về việc làm thì không có sự biến động nhiều vì các lực lượng lao
động còn lại trong ngành nông nghiệp lại giải quyết lao động dư thừa mang tính thời
vụ bằng cách đa dạng hóa sản, tăng vụ, xen canh, tăng thêm các chủng loại sản
phẩm... làm giảm tình trạng bán thất nghiệp.
Ngành công nghiệp dưới tác động của khoa học công nghệ thì lao động trong
ngành khó thay thế hơn, cầu tiêu dùng hàng hóa không có xu hướng giảm nhưng tăng
chậm dần đều. Do đó, lao động trong ngành công nghiệp không giảm đi và có xu
hướng tăng chậm dần. Trong khi việc làm trong ngành có xu hướng tăng lên do tăng
quy mô mở rộng sản xuất và đòi hỏi những công nhân có trình độ tay nghề cao, bắt
đầu xuất hiện hiện tượng thiếu lao động làm áp lực về lao động tăng và tiền lương
thực tế tăng.
Ngành dịch vụ dưới tác động của khoa học công nghệ thì lao động là khó thay
thế nhất, cầu tiêu dùng hàng hóa tăng dần lên. Cả lao động và việc làm đều có xu
hướng tăng dần lên. Ở nước ta, hệ số co giãn việc làm trong khu vực dịch vụ cao gấp
3 lần khu vực nông nghiệp, khu vực công nghiệp – xây dựng cao gấp 1,5 đến 2 lần so
với khu vực nông nghiệp. Điều này cho thấy vai trò giải quyết việc làm của các hoạt
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
động phi nông nghiệp. Và xu hướng chuyển dịch ở nước ta đang đi đúng xu thế và
hợp lý.
1.2.2.3. Về mặt tiến bộ xã hội.
Tiến bộ xã hội mà trung tâm là vấn đề phát triển con người được xem là tiêu
thức đáng giá mục tiêu cuối cùng của phát triển. Việc làm là kết quả của tăng trưởng
kinh tế thì giải quyết việc làm cho người dân càng nhiều thì làm tăng trưởng kinh tế
tăng lên hay thu nhập bình quân đầu người càng cao và chỉ số về HDI càng cao. Đầu

tiên, khi người lao động có việc làm ổn định và những người mong muốn làm việc có
được việc làm thì tạo ra GDP cho nền kinh tế, tạo ra thu nhập cho chính bản thân
đảm bảo được vấn đề tài chính, giảm thiểu được những rủi ro gặp phải trong cuộc
sống. Tiếp đến, mở rộng khả năng lựa chọn cho con người ( theo quan điểm của Liên
Hiệp Quốc) đó là: tạo cơ hội cho con người tăng cường năng lực phát triển con
người, năng lực về sức khỏe, thị lực, tuổi thọ..., năng lực về trí lực như trình độ văn
hóa, chuyên môn, chuyên sâu..., các năng lực theo xu thế xã hội. Cuối cùng là tạo
điều kiện con người vận hành năng lực của mình trong các hoạt động kinh tế - xã hội,
con người làm chủ được cuộc sống và chủ động tìm kiếm việc làm, nắm bắt các cơ
hội việc làm.
1.2.3. Các điều kiện về chính sách của Nhà nước về lao động và việclàm.
Việc làm còn phụ thuộc vào chính sách và sự quan tâm của Chính phủ đối với
các vấn đề này. Trong mỗi thời kỳ, các cơ chế chính sách của Chính phủ quốc gia,
của chính quyền địa phương, các quy định của doanh nghiệp sẽ đề ra những chính
sách cụ thể, tạo hành lang pháp lý cho phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, mở rộng
hoặc thu hẹp việc làm của lĩnh vực này, ngành này hay lĩnh vực khác. Chính sách và
cơ chế của Nhà nước cũng trực tiếp hoặc gián tiếp khuyến khích các chủ sử dụng lao
động để tạo việc làm thu hút lao động đặc thù hay hạn chế mức độ sa thải và ngăn
ngừa việc sa thải đồng loạt. Các chính sách kinh tế vi mô, vĩ mô, đổi mới kinh tế
chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần đã làm thay đổi cơ
cấu lao động, thay đổi cơ cấu nền kinh tế. Bộ luật Lao động của nước CHXHCN Việt
Nam có hiệu lực từ ngày 01/01/1995 với 198 điều đã tạo thành nền tảng cho khung
khổ pháp lý của thị trường lao động ở nước ta. “Người lao động có quyền làm việc
cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và bất kỳ chỗ nào mà pháp luật không cấm”.
Điều 13 còn ghi rõ: “Giải quyết việc làm, đảm bảo cho mọi người có khả năng lao
động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của Nhà nước, của các doanh nghiệp
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển

và toàn xã hội”. Bộ luật Lao động được coi là công cụ pháp luật quan trọng nhất để
điều chỉnh cung cầu việc làm trên thị trường.
1.2.4. Các điều kiện khác.
Ngoài các yếu tố mang tính chất căn bản luôn tác động tới việc làm như điều
kiện tự nhiên, điều kiện phát triển kinh tế xã hội, các chính sách của Nhà nước, doanh
nghiệp... thì còn có rất nhiều các yếu tố khác cũng tác động tới cung cầu việc làm
như: quy mô và sự phân bố dân số - nguồn nhân lực hay vấn đề toàn cầu hóa và hội
nhập đem lại những cơ hội có thêm nhiều việc làm. Đặc biệt nổi rõ nhất đó là vấn đề
về sự phát triển của khoa học công nghệ cũng là nhân tố tác động đến hoạt động sản
xuất của con người. Việc ứng dụng khoa học công nghệ đã và đang tác động đến rất
nhiều nước trên thế giới nhằm tạo ra các ngành nghề mới với quy mô rộng lớn và đa
dạng về chủng loại hơn. Ứng dụng khoa học kỹ thuật làm tăng năng suất lao động,
người lao động và các sản phẩm tạo ra chứa hàm lượng chất xám cao hơn tức là làm
giảm số suất việc làm nhưng cũng làm mở mang thêm nhiều ngành nghề góp phần
mở rộng quy mô việc làm cho xã hội.
1.3. Sự cần thiết giải quyết việc làm cho lao động
1.3.1. Giải quyết việc làm cho LLLĐ là tác động tới phát triển kinh tế.
Như đã tìm hiểu ở trên việc làm tác động đến phát triển kinh tế một cách trực
tiếp và gián tiếp đối với một quốc gia, một tỉnh, một vùng. Ngược lại, phát triển kinh
tế cũng tác động lại vấn đề giải quyết việc làm, người có việc làm và người không có
việc làm. Khi tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thì việc làm của người lao động được ổn
định và ngày càng nâng cao hơn về chất lượng công việc, việc làm mới được tạo ra
nhiều hơn, những người không có việc làm sẽ giảm. Khi việc làm được giải quyết tốt với
những người thất nghiệp thì tốc độ tăng trưởng cao, xu hướng chuyển dịch cơ cấu nền
kinh tế phù hợp với điều kiện đất nước. Do đó, để có tốc độ tăng trưởng kinh tế của quốc
gia thì việc giải quyết việc làm cho những người không có việc làm, giúp người có việc
làm không ổn định giờ ổn định mang lại thu nhập ổn định là rất cần thiết cho sự tồn tại
và sự phát triển của chính quốc gia đó.
1.3.2. Giải quyết việc làm cho LLLĐ làm giảm bớt các tệ nạn xã hội.
Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì đời sống xã hội của con người ngày

càng nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp hơn. Và đáng lo ngại nhất là các tệ nạn xã hội
cũng xuất hiện nhiều hơn, dưới nhiều hình thức hơn. Nếu như người dân không có
việc làm thì thời gian rảnh rỗi của họ tăng lên rất nhiều. Những mặt tiêu cực thường
đi kèm như suy nghĩ về làm liều, hoàn cảnh bắt buộc, xô đẩy những con người này
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
vào con đường cờ bạc, nghiện hút, mại dâm... và là đối tượng dễ dàng tham gia gây
ra các tệ nạn xã hội, gây ra những bất ổn cho cuộc sống, cho người dân sống cùng
những con người này. Nếu những người dân có thời gian nhàn rỗi này giảm xuống
một cách đáng kể nhờ có công ăn việc làm phù hợp với sức lao động của họ thì lực
lượng lao động tăng lên, lao động có mục tiêu để phấn đấu vươn tới, không có những
suy nghĩ và hành động tiêu cực làm giảm một cách đáng kể các tệ nạn xã hội.
1.3.3. Giải quyết việc làm cho LLLĐ góp phần xóa đói giảm nghèo.
Việc làm tăng lên là chìa khóa để giảm nghèo, giúp họ có cuộc sống ổn định và
nâng cao đời sống của chính bản thân của người lao động. Thu nhập bình quân đầu
người tăng lên khi có việc làm, đảm bảo cho họ những nhu cầu tối thiểu nhất và ngày
càng tăng nhu cầu lên giúp họ thoát khỏi cảnh đói nghèo, giảm tỷ lệ hộ nghèo xuống.
Theo số liệu điều tra mới nhất, tỷ lên hộ nghèo của Thái Nguyên theo chuẩn mới là
26,85% tương đương với 68.277 hộ, trong đó tỷ lệ hộ nghèo nông thôn là 32,33% và
tỷ lệ nghèo thành thị là 10,07%. Phần lớn số hộ nghèo sinh sống tại những huyện
thuộc miền núi, vùng sâu, vùng xa (huyện Võ Nhai là có tỷ lệ lớn nhất là 52,44%,
Đại Từ là 31,84%, Định Hóa là 41,63%...). Chính vì thế tạo việc làm cho những
người dân ở miền núi, vùng sâu, vùng xa là cần thiết để giảm tỷ lệ đói nghèo của các
huyện xuống. Đồng thời góp phần thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa thành thị và
nông thôn. Mặc dù mức chênh lệch thu nhập giữa 20% dân số có thu nhập cao nhất
và 20% dân số có thu nhập thấp nhất của tỉnh còn khá cao khoảng 8,4 lần nhưng tổng
thu nhập của người dân trong tỉnh năm 2007 đã tăng lên 1,5 lần so với năm 2005.
Đây là dấu hiệu tốt để các nhà lãnh đạo tiếp tục các biện pháp xóa đói giảm nghèo, và
tạo việc làm cho người dân.

SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VIỆC LÀM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
GIAI ĐOẠN 2005 – 2009
2.1. Giới thiệu tổng quan vể tỉnh Thái Nguyên.
2.1.1. Các điều kiện tự nhiên – xã hội.
2.1.1.1. Vị trí địa lý.
Tỉnh Thái Nguyên là một trung tâm chính trị, kinh tế củ khu Việt Bắc nói riêng
và của vùng trung du miền núi đông bắc nói chung, là cửa ngõ giao lưu kinh tế xã hội
giữa vùng trung du miền núi với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Phía Bắc tiếp giáp với tỉnh
Bắc Kạn, phía tây giáp với các tỉnh Vĩnh Phúc, Tuyên Quang, phía Đông giáp với các
tỉnh Lạng Sơn, Bắc Giang và phía Nam tiếp với thủ đô Hà Nội (cách 80km). Với diện
tích tự nhiên là 3541,1 km2 chiếm 1, 08% diện tích và 1,34% dân số cả nước. Về mặt
hành chính, theo QĐ của kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX: sau khi chia tỉnh ra thì
Thái Nguyên gồm có bảy huyện: Phố Yên, Phú Bình, Đông Hỷ, Võ Nhai, Định Hóa,
Đại Từ, Phú Lương, một thành phố là Thái Nguyên và một thị xã Sông Công, với
tổng số 180 xã, phường và thị trấn, trong đó có 14 xã vùng cao, 106 xã vùng núi còn
lại là các xã đồng bằng và trung du.
Với vị trí rất thuận lợi về giao thông, cách sân bay Nội Bài 50 km, cách biên
giới Trung Quốc 200 km, cách trung tâm Hà Nội 75 km và cảng Hải Phòng 200 km.
Vì thế tỉnh là điểm nút giao lưu thông qua hệ thống đường bộ, đường sắt, đường sông
hình rẻ quạt kết nối với các tỉnh thành, đường quốc lộ 3 nối Hà Nội và Bắc Kạn, cửa
khẩu Việt Nam với Trung Quốc.
2.1.1.2. Điều kiện về khí hậu
Theo số liệu của Tổng cục Khí tượng thủy văn, lượng mưa trung bình hàng năm
của tỉnh vào khoảng 1500 – 2500 mm, lượng mưa cao nhất vào tháng chín và thấp
nhất vào tháng một. Nhiệt độ trung bình chêch lệch giữa tháng nóng nhất và tháng
lạnh nhất là 13,7 độ C. Tổng số giờ nóng trong năm dao động từ 1300 – 1750 giờ và

phân phối tương đối đều cho các tháng trong năm. Khí hậu chia làm hai mùa rõ rệt:
mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 10 (lượng mưa khá lớn, tổng lượng mưa tự nhiên vào
khoảng 6,4 tỷ m3/năm và tập trung khoảng 87% lượng mưa vào các tháng này) và
mùa khô từ tháng 10 đến tháng 5. Mùa đông chia thành ba vùng rõ rệt: vùng lạnh
nhiều nằm ở phía bắc huyện Võ Nhai, lạnh vừa gồm các huyện Định Hóa, Phú Lương
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp Khoa Kế Hoạch – Phát Triển
và phía nam Võ Nhai, cuối cùng là vùng ấm gồm các huyện Đại Từ, thành phố Thái
Nguyên, Đồng Hỷ, Phú Bình, Phổ Yên và thị xã Sông Công. Được thiên nhiên ưu đãi
về khí hậu và địa hình, tỉnh có nhiều khả năng để phát triển nông lâm nghiệp và công
nghiệp.
2.1.1.3. Đặc điểm về tài nguyên thiên nhiên
• Tài nguyên đất.
Diện tích tự nhiên không lớn nhưng cấu trúc địa tầng của Thái Nguyên khá phức
tạp, có nhiều nguồn gốc khác nhau. Tính phong phú của các giới hệ tầng quyết định
rất lớn tới chất lượng đất và sự phong phú của các loại khoáng sản của Thái Nguyên.
Tổng diện tích đất tự nhiên là 354.104,39 ha, trong đó:
- Đất núi chiếm 43,83% diện tích tự nhiên, có độ cao trên 200m, diện tích
rừng tự nhiên là 102.190 ha, diệnt tích rừng trồng khoảng 44.450 ha. Đây là một lợi
thế to lớn cho việc phát triển rừng nguyên liệu phục vụ chế biến gỗ nhân tạo, chế
biến làm nguyên liệu giấy.
- Đất đồi chiếm khoảng 24,57% diện tích tự nhiên, đây là vùng đất xen kẽ
giữa nông và lâm nghiệp. Loại đất này phân bố chủ yếu ở vùng như Đại Từ, Phú
Lương,... với độ cao từ 50-200m, có độ dốc từ 5-20m, cây hàng năm chủ yếu là cây
chè. Tỉnh là vùng đất thích hợp để phát triển loại cây chè đặc biệt là chè Tân Cương –
đặc sản từ lâu nổi tiếng trong và ngoài nước. Toàn tỉnh có 15.000 ha chè (đứng thứ
hai trên cả nước sau tỉnh Lâm Đồng). Ngoài sản xuất lương thực, tỉnh còn có diện
tích tương đối lớn để quy hoạch các đồng cỏ, phát triển mạnh chăn nuôi đai gia súc,
chăn nuôi bò sữa. Cây ăn quả của tỉnh hiện nay có trên 15000 ha phát triển các loại

cây như vải, mơ, nhãn, cam, quýt...
 Tài nguyên nước.
Nguồn nước của Thái Nguyên chủ yếu do hệ thống sông ngòi cung cấp với hai
sông chính là sông Công và sông Cầu:
- Sông Công có lưu vực 951 km2 bắt nguồn từ vùng núi Ba Lá của huyện
Định Hóa chạy dọc theo chân núi Tam Đảo, nằm trong vùng mưa lớn nhất của tỉnh.
Dòng sông được ngăn lại ở Đại Từ tạo thành hồ Núi Cốc có mặt nước rộng khoảng
25 km2 với sức chứa lên tới 210 triệu m3 nước. Với lợi thế dòng sông có thể chủ
động điều hòa dòng chảy, tưới tiêu cho 12 ngàn ha lúa hai vụ màu, cây công nghiệp
và cung cấp nước sinh hoạt cho thành phố và thị xã sông Công.
- Sông Cầu nằm trong hệ thống sông Thái Bình có lưu vực 6030 km2, bắt
nguồn từ chợ Đồn chảy theo hướng Bắc – Đông Nam. Hệ thống của con sông có khả
SV: Nguyễn Thị Xuân Lớp: Kinh tế phát triển 48A
21

×