Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa- qua thực tiễn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.62 KB, 18 trang )

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường thủy nội địa- Qua thực tiễn Thành
phố Hà Nội

Thiều Thị Thúy Ngân

Khoa Luật
Luận văn Thạc sĩ ngành: Lý luận lịch sử nhà nước và pháp luật; Mã số: 60 38 01
Người hướng dẫn: GS.TS Nguyễn Đăng Dung
Năm bảo vệ: 2013

Abstract: Nghiên cứu các vấn đề lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nói
chung và pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội
địa nói riêng. Phân tích thực trạng quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa, từ đó thấy
được những bất cập, khó khăn cũng như vướng mắc trong thực tế thi hành áp dụng. Đề ra
phương hướng, giải pháp đổi mới, hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước ngày
càng phức tạp trong giai đoạn hiện nay.

Keywords: Luật hành chính; Vi phạm hành chính; Giao thông đường thủy; Pháp luật
Việt Nam

Content
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong hơn hai mươi năm đổi mới, thực hiện chủ trương, đường lối của đảng, pháp luật,
chính sách của nhà nước từ năm 1986, Việt Nam đã từng bước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế -
xã hội và đạt được những thành tựu to lớn về tăng trưởng kinh tế, xóa đói giảm nghèo và phát
triển bền vững. Nền kinh tế phát triển toàn diện và tích cực, tốc độ tăng trưởng khá cao và ổn
định, chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế ngày càng được cải thiện. Văn


hóa xã hội có tiến bộ nhiều mặt; công tác giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, giáo dục, y tế có
những bước phát triển mới cả về chiều rộng và chiều sâu; đặc biệt, lĩnh vực xóa đói, giảm nghèo
và lao động, việc làm được quan tâm đầu tư và đạt được những thành tựu rất quan trọng và đáng
khích lệ. Đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt.
Tuy nhiên trong xã hội còn rất nhiều vấn đề cần phải được giải quyết, thậm chí còn nan giải
hơn trước đây. Đó là tình trạng vi phạm pháp luật, đặc biệt trong lĩnh vực quản lý nhà nước
không hề có hướng thuyên giảm, thậm chí còn có khu vực bị gia tăng, tình trạng vi phạm hành
chính và xử phạt vi phạm hành chính ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra một cách không có kiểm
soát hay sự kiểm soát của nhà nước tỏ ra kém kiệu quả ở chỗ giới hạn của xử phạt vi phạm hành
chính hiện nay không giới hạn được.
Pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa nội địa
cũng là một bộ phận cấu thành của Luật Hành chính Việt Nam, có vai trò và ý nghĩa to lớn trong
việc đấu tranh phòng chống vi phạm hành chính- một loại vi phạm diễn ra tương đối phổ biến và
phức tạp hiện nay. Đặc biệt tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy
nội địa ở Việt Nam trong những năm gần đây diễn ra rất phức tạp. Số vụ tai nạn giao thông
đường thủy nội địa gia tăng có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ
các hành vi vi phạm hành chính. Vì vậy, tăng cường công tác đấu tranh phòng ngừa vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa là một nội dung rất quan trọng của hoạt
động quản lý nhà nước, là một yêu cầu tất yếu của Nhà nước và xã hội để lập lại an toàn giao
thông đường thủy nội địa. Những biện pháp hạn chế vi phạm hành chính, lập lại trật tự an toàn
giao thông đường thủy nội địa rất phong phú và đa dạng như hoàn thiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật,
hoàn thiện về pháp luật, tuyên truyền phổ biến và nâng cao trình độ hiểu biết của người
dân…Trong những biện pháp trên, hoàn thiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường thủy nội địa là một trong những biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu
quả công tác đấu tranh phòng, chống vi phạm pháp luật giao thông đường thủy nội địa nói riêng
và vi phạm pháp luật nói chung vì nó là cơ sở để tạo ra những ứng xử chuẩn mực, đúng đắn
trong việc tham gia giao thông của người dân. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này là rất cần thiết.
Đề tài "Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa - Qua thực
tiễn thành phố Hà Nội" góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam là đảm
bảo tính tương thích, từng bước hội nhập với pháp luật quốc tế, tạo những thuận lợi cơ bản, giảm

thiểu những rào cản về pháp lý trong quá trình Việt Nam tham gia và trở thành quốc gia thành
viên của các tổ chức quốc tế chủ yếu và quan trọng trong cộng đồng quốc tế. Giảm tình trạng
chồng chéo, trùng lặp, mâu thuẫn giữa các quy định trong hệ thống pháp luật về xử phạt vi phạm
hành chính hiện hành.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quan của đề tài "Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
thủy nội địa - Qua thực tiễn thành phố Hà Nội" góp phần vào việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật Việt Nam là đảm bảo tính tương thích, từng bước hội nhập với pháp luật quốc tế, tạo những
thuận lợi cơ bản, giảm thiểu những rào cản về pháp lý trong quá trình Việt Nam tham gia và trở
thành quốc gia thành viên của các tổ chức quốc tế chủ yếu và quan trọng trong cộng đồng quốc
tế. Giảm tình trạng chồng chéo, trùng lặp, mâu thuẫn giữa các quy định trong hệ thống pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính hiện hành;
2.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu tổng quát trên, đề tài thiết kế theo các mục tiêu cụ thể sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về pháp luật xử phạt vi phạm hành chính nói chung và pháp
luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa nói riêng.
- Phân tích thực trạng quy định pháp luật và thực trạng thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa, từ đó thấy được những bất cập, khó
khăn cũng như vướng mắc trong thực tế thi hành áp dụng.
- Đề ra phương hướng, giải pháp đổi mới, hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước ngày càng
phức tạp trong giai đoạn hiện nay.
3. Tính mới và đóng góp của đề tài
Luận văn là chuyên khảo nghiên cứu tương đối toàn diện về vấn đề xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa. Vì vậy, luận văn có những đóng góp khoa
học mới như sau:
Thứ nhất, đưa ra và luận giải được những nguyên nhân dẫn đến việc gia tăng vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.
Thứ hai, từ khó khăn và thực trạng trong việc thực hiện và áp dựng hệ thống pháp luật xử

phạt vi phạm hành chính nói chung và pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường thủy nội địa nói riêng phân tích được các nguyên nhân và vấn đề còn tồn tại.
Thứ ba, trên cơ sở khoa học và thực tiễn, đưa ra giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ
thống pháp luật và thực hiện pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường thủy nội địa.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu lĩnh vực pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường thủy nội địa bao gồm hệ thống các văn bản pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính về nội dung và thực tiễn thực hiện các quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
5. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài
Học viên đã tiếp cận một số công trình khoa học về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính được
công bố trong khoảng hơn 10 năm gần đây như:
- Nguyễn Văn Thạch (1997), Trách nhiệm hành chính, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Nhà
nước và Pháp luật.
- Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính - Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Đỗ Hoàng Yến (2002), "Tăng cường và đổi mới cơ chế kiểm tra, giám sát trong xử phạt vi
phạm hành chính", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (8).
- Viện Khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Bình luận khoa học Pháp lệnh Xử phạt vi
phạm hành chính năm 2002, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
- Quân Ngọc Anh (2010), Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực xây dựng,
Luận văn thạc sĩ Luật học.
- Trần Thị Lâm Thi (2010), Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực môi
trường, Luận văn thạc sĩ Luật học.
- Bùi Xuân Đức (2006), "Về vi phạm hành chính và hình thức xử phạt hành chính: những
hạn chế và giải pháp đổi mới", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (2).
- Đỗ Hoàng Yến (2007), "Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và việc xây dựng Bộ luật
Xử phạt vi phạm hành chính", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (5).
- Đỗ Hoàng Yến (2007), "Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính ở một số nước trên thế
giới", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (10).
- Nguyễn Ngọc Bích (2007), "Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính và những bất cập

trong quy định pháp luật hiện hành", Tạp chí Luật học, (8).
- Kim Long Biên (2007).Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hải quan ở nước ta hiện nay, Luận văn thạc sĩ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật phối hợp
đào tạo với Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
- Bùi Huy Tùng (2007), Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giáo dục, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Bộ Tư pháp (2007), Báo cáo đánh giá hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính, Hà Nội.
- Bộ Tư pháp, Cơ quan phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) - Dự án VIE/02/015 (2008), Kỷ
yếu Hội thảo: Định hướng xây dựng Luật Xử phạt vi phạm hành chính, Quảng Ninh, 08-
09/5/2008.
- Trương Khánh Hoàn (2008), "Bất cập của các quy định về biện pháp khắc phục hậu quả
trong xử phạt vi phạm hành chính", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (31, 32).
- Các Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội,
Trường Đại học Luật Hà Nội.
Các công trình trên là tài liệu tham khảo quan trọng cho luận văn thạc sĩ này.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp lịch sử: Xem xét pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính theo từng thời kỳ.
Mỗi giai đoạn sẽ có pháp luật phù hợp. Từ đó tìm ra quy luật của sự phát triển pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Luận văn kế thừa, tổng kết lại những kết quả của các
công trình nghiên cứu về xử phạt vi phạm hành chính. Tuy nhiên, đây không phải là sự sao chép
vì đã có sự sắp xếp theo kết cấu khác theo góc nhìn của tác giả.
Phương pháp so sánh: So sánh pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường thủy nội địa của nước ta trong từng giai đoạn; So sánh pháp luật xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy với lĩnh vực khác.
Các phương pháp của xã hội học pháp luật: Phân tích cơ sở xã hội của việc xử phạt vi phạm
hành chính.
Phương pháp của thống kê xã hội học: Từ những kết quả thống kê, điều tra, khảo sát về thực
trạng vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy

nội địa để đề ra những giải pháp hợp lý.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy
nội địa.
Chương 2: Tình hình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội
địa (qua thực tiễn thành phố Hà Nội)
Chương 3: Kiến nghị phương hướng hoàn thiện pháp luật và thực hiện pháp luật xử lý vi
phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường.

Chương 1
PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO
THÔNG ĐƢỜNG THỦY NỘI ĐỊA

1.1. Vị trí, vai trò của giao thông, vận tải đƣờng thủy Việt Nam
Giao thông vận tải có tầm quan trọng đặc biệt với nền kinh tế quốc dân. Tuy bản thân giao
thông vận tải không tạo giá trị vật chất, song nó xúc tiến quá trình tái sản xuất mở rộng, đưa
nguyên liệu đến nơi sản xuất và sản phẩm đến người tiêu thụ. Bời vậy, giao thông vận tải là một
trong những thành phần quan trọng không thể thiếu của nền kinh tế quốc dân.
Giao thông vận tải thủy bao gồm giao thông vận tải biển và giao thông vận tải thủy nội địa.
Đường biển đống vai trò quan trọng trong giao lưu quốc tế, đáp ứng ngày càng tăng yêu cầu
cung cấp năng lượng, nguyên vật liệu cho các ngành công nghiệp hàng đầu của đất nước, là đầu
mối trong giao lưu, trao đổi kinh tế, văn hóa với các quốc gia khác. Giao thông vận tải thủy nội
địa được tiến hành trên các sông, kênh rạch, các hồ nước, vùng nước nội thủy.
Vận tải thủy nội địa, với những tính chất ưu việt riêng có, nó chuyên chở chủ yếu là quặng,
than, vật liệu xây dựng, lương thực, phân bón v.v… được coi là hàng hóa đặc trưng cơ bản của
nước công nghiệp hóa. Vận tải thủy nội địa lại vận chuyển được các loại hàng cồng kềnh, siêu
trường, siêu trọng mà các loại hình vận tải khác khó có thể đảm nhận được. Đồng thời, vận tải
thủy nói chung, thủy nội địa nói riêng có giá thành vận chuyển thấp, chi phí đầu tư xây dựng cơ

bản ít tốn kém, duy tu bảo dưỡng công trình cũng đơn giản hơn. Đặc biệt, vận tải thủy nội địa có
mức độ bảo đảm an toàn khá lớn, ít xảy ra sự cố, thường chiếm từ 2 - 2,5% tai nạn, sự cố trong
tổng số tai nạn, sự cố của các loại hình giao thông vận tải khác.
Vì vậy, bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường thủy nói chung và đường thủy nội địa nói
riêng là yêu cầu tất yếu, khách quan. Là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống tổ
chức nhà nước, chính quyền địa phương, hệ thống chính trị.
1.2. Khái niệm vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đƣờng thủy nội địa
1.2.1. Khái niệm
Trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa định nghĩa về vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường thủy nội địa cũng đã được ghi nhận trong văn bản pháp luật. Tại Khoản 2
Điều 1 Nghị định 60/2011/NĐ-CP quy định:
"Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa là những hành vi của tổ
chức, cá nhân vi phạm quy định của pháp luật về giao thông đường thủy nội địa một cách cố ý
hoặc vô ý mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm
hành chính, bao gồm:
a) Vi phạm quy định về quản lý và bảo vệ công trình thuộc kết cấu hạ tầng giao thông đường
thủy nội địa;
b) Vi phạm quy định về phương tiện thủy nội địa;
c) Vi phạm quy định về thuyền viên, người lái phương tiện;
d) Vi phạm quy định về quy tắc giao thông và tín hiệu của phương tiện;
đ) Vi phạm quy định về hoạt động của cảng, bến thủy nội địa và vận tải đường thủy nội địa".
Như vậy, vi phạm hành chính trên đường thủy là hành vi của cá nhân, tổ chức cố ý hoặc vô ý
vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước thuộc lĩnh vực đường thủy hoặc xảy ra
trên đường thủy nội địa nhưng chưa đến mức là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị
xử phạt hành chính.
Thông qua khái niệm về vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa nêu
trên, chúng ta thấy vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa phản ánh
những đặc điểm sau:
Một là: Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động áp dụng pháp luật về vi phạm hành chính.

Việc tiến hành xử phạt vi phạm hành chính đòi hỏi phải đúng trình tự, thủ tục đã được pháp luật
quy định. Kết quả xử phạt vi phạm hành chính phải được thể hiện bằng quyết định xử phạt vi
phạm hành chính có hiệu lực pháp luật.
Hai là: Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động cưỡng chế nhà nước do các chủ thể có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính tiến hành và được đảm bảo bằng quyền lực nhà nước.
Ba là: Mục đích của xử phạt vi phạm hành chính là nhằm truy cứu trách nhiệm một hành vi
vi phạm hành chính, qua đó buộc chủ thể vi phạm hành chính phải gánh chịu một biện pháp
cưỡng chế hành chính tương ứng với hành vi vi phạm của mình.
Bốn là: Đối tượng tác động của xử phạt vi phạm hành chính là cá nhân hoặc tổ chức đã thực
hiện vi phạm hành chính.
1.1.2 . Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
thủy nội địa
Thứ nhất: Mặt khách quan
Dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường thủy nội địa là hành vi vi phạm hành chính. Nói cách khác, hành vi mà tổ chức, cá nhân
thực hiện là hành vi xâm phạm các quy tắc quản lý nhà nước về giao thông đường thủy nội địa
đã bị pháp luật hành chính ngăn cấm hay không thực hiện những việc mà pháp luật bắt buộc chủ
thể phải làm.
Thứ hai: Mặt chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm là dấu hiệu bên trong của vi phạm hành chính và thể hiện ở yếu tố
lỗi của người vi phạm. Lỗi là dấu hiệu cơ bản của trong cấu thành mọi vi phạm hành chính. Hành
vi lỗi được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Thứ ba: Mặt chủ thể
Chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính là cá nhân, tổ chức có năng lực chịu trách
nhiệm hành chính theo quy định của pháp luật hành chính.
Thứ tư: Mặt khách thể
Gồm các hành vi vi phạm quy định về kết cấu hạ tầng giao thông đường thủy nội địa; Các
hành vi vi phạm quy định về phương tiện tham gia giao thông đường thủy nội địa; Các hành vi vi
phạm quy định về người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường thủy nội địa; Các
hành vi vi phạm quy định về vận tải đường thủy nội địa; Các hành vi vi phạm khác liên quan đến

giao thông đường thủy nội địa.
1.3. Nội dung của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đƣờng thủy nội địa
1.3.1. Nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội
địa
Thứ nhất, nguyên tắc kịp thời, nhanh chóng, triệt để
Thứ hai, chỉ bị xử phạt vi phạm hành chính khi có hành vi vi phạm hành chính do pháp luật
quy định.
Thứ ba, một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần.
Thứ tư, nguyên tắc xử lý công minh
1.3.2. Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính và các biện pháp khắc phục hậu quả
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
1.2.3.1 Các hình thức xử phạt vi phạm hành chính
a. Hình thức xử phạt chính:
• Hình thức phạt tiền
Đây là hình thức xử phạt phổ biến có tính chất kinh tế được áp dụng với đa số hành vi vi
phạm trong giao thông đường thủy nội địa. Phạt tiền là việc tước bỏ của cá nhân, tổ chức vi
phạm một khoản tiền nhất định để sung quỹ nhà nước. Mức xử phạt tiền trong xử phạt vi phạm
hành chính trong giao thông đường thủy nội địa theo Nghị định 60/2011 được quy định mức tối
thiểu là 10.000 đồng và mức tối đa là 40.000.000 đồng. Khi áp dụng hình thức phạt tiền, mức
tiền phạt cụ thể đối với một hành vi vi phạm hành chính là mức trung bình của khung tiền phạt
quy định đối với hành vi đó; nếu vi phạm có tình tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm
xuống thấp hơn mức trung bình nhưng không được giảm quá mức tối thiểu của khung tiền phạt;
nếu vi phạm có tình tiết tăng nặng thì mức tiền phạt có thể tăng lên cao hơn mức trung bình
nhưng không được vượt quá mức tối đa của khung tiền phạt.
• Hình thức phạt cảnh cáo
Cảnh cáo được áp dụng với những cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình
tiết giảm nhẹ hoặc đối với mọi hành vi vi phạm hành chính do người chưa thành niên từ đủ 14
tuổi đến dưới 16 tuổi thực hiện. Cảnh cáo được quyết định bằng văn bản.
b. Hình thức xử phạt bổ sung

• Tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động, bằng, chứng chỉ chuyên môn hoặc chứng chỉ
hành nghề khác về pháp luật giao thông đường thủy nội địa có thời hạn hoặc không thời hạn;
• Tịch thu tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính.
1.2.3.2. các biện pháp khắc phục hậu quả trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
• Buộc khôi phục lại tình trạng ban đầu đã bị thay đổi do vi phạm hành chính gây ra hoặc
buộc tháo dỡ công trình xây dựng trái phép.
• Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường, lây lan bệnh do vi
phạm hành chính gây ra.
• Buộc tiêu hủy vật phẩm gây hại cho sức khỏe con người, vật nuôi và cây trồng
1.2.5. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội
địa
1.2.5.1. Các chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường thủy nội địa
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp (3 cấp) -
quy định tại Điều 33 Nghị định 60/2011/NĐ-CP.
Thẩm quyền xử phạt của lực lượng Công an nhân dân- quy định tại Điều 34 Nghị định
60/2011
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của thanh tra giao thông đường thủy nội địa- quy
định tại Điều 35 Nghị định 60/2011/NĐ-CP
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Giám đốc cảng vụ đường thủy nội địa- quy
định tại Điều 36 Nghị định 60/2011/NĐ-CP
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Bộ đội biên phòng- quy định tại Điều 37 Nghị
định 60/2011
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính của Cảnh sát Biển- quy định tại Điều 38 Nghị định
60/2011/NĐ-CP
1.2.5.2. Phân định thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
thủy nội địa
a. Xác định thẩm quyền xử phạt theo thẩm quyền quản lý
Là nguyên tắc cho phép phân định thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính giữa hệ thống Ủy
ban nhân dân các cấp và các cơ quan chuyên ngành. Trong bộ máy hành chính của Nhà nước ta,

Ủy ban nhân dân các cấp là cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền chung trên đơn vị lãnh thổ
tương ứng. Hoạt động cũng như chức năng, nhiệm vụ của Ủy ban nhân dân không bó hẹp trong
phạm vi một ngành hay một lĩnh vực cụ thể nào. Còn cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành là
những cơ quan có thẩm quyền riêng trên từng lĩnh vực quản lý nhà nước cụ thể. Từ địa vị pháp lý
như vậy, nên Pháp lệnh cũng như Nghị định 60/2011/NĐ-CP quy định cụ thể Chủ tịch ủy ban nhân
dân các cấp có thẩm quyền xử phạt đối với các hành vi vi phạm xảy ra trên địa bàn địa phương mình
quản lý. Đối với các chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính trong giao thông
đường thủy nội địa như Công an, thanh tra giao thông… thì có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông. Việc quản lý nhà nước trong xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa có phạm vi rất rộng lớn và chủ thể tham gia quản lý nhà
nước cũng rất đa dạng nhưng không phải chủ thể nào cũng có thẩm quyền mà chỉ là những chức
danh được quy định trong Nghị định 60/2011 mới có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.
b. Xác định thẩm quyền xử phạt theo mức tối đa của khung hình phạt
Nội dung của nguyên tắc này là trong trường hợp áp dụng hình thức phạt tiền, thẩm quyền
xử phạt được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung hình phạt quy định đối với từng hành vi
vi phạm cụ thể. Theo nguyên tắc này, trong trường hợp thụ lý xem xét trách nhiệm hành chính
của một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính, để xác định xem mình có thẩm
quyền xử phạt hay không, người áp dụng pháp luật chỉ cần xem xét từng hành vi vi phạm hành
chính cần xử phạt thuộc chức danh của mình hay không, mà không phải băn khoăn nếu tổng số
tiền phạt được tổng hợp khi ban hành quyết định xử phạt vượt quá thẩm quyền xử phạt của mình.
c. Xác định thẩm quyền xử phạt theo hình thức xử phạt và mức phạt
Nguyên tắc xác định thẩm quyền này có ý nghĩa thực tiễn với việc xác định đúng chức danh
có thẩm quyền xử phạt để xử lý trường hợp một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành
chính, vì mỗi hình thức xử phạt và mức phạt với mỗi hành vi có thể thuộc những chức danh khác
nhau. Do đó, xác định thẩm quyền trong trường hợp này phải căn cứ vào hình thức và mức xử
phạt dự liệu sẽ áp dụng đối với từng hành vi vi phạm.

Chương 2
TÌNH HÌNH XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH

TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƢỜNG THỦY NỘI ĐỊA
(QUA THỰC TIỄN Ở THÀNH PHỐ HÀ NỘI)
2.1. Thực trạng quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đƣờng thủy nội địa
2.1.1. Thời hiệu xử phạt
Căn cứ vào Điều 6 Nghị định 60/2011 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường thủy nội địa:
"Điều 6. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
1. Thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa là
một năm, kể từ ngày hành vi vi phạm được thực hiện. Nếu quá thời hạn nêu trên thì không xử phạt
nhưng vẫn áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 3 Điều 5 Nghị định này.
2. Trong thời hạn một năm, tổ chức, cá nhân lại vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường thủy nội địa hoặc cố tình trốn tránh, cản trở việc xử phạt thì không áp dụng thời
hiệu quy định tại khoản 1 Điều này; thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính được tính lại kể từ
thời điểm thực hiện hành vi vi phạm mới hoặc thời điểm chấm dứt hành vi trốn tránh, cản trở
việc xử phạt.
3. Đối với cá nhân đã bị khởi tố, truy tố hoặc đã có quyết định đưa ra xét xử theo thủ tục tố
tụng hình sự, nhưng sau đó có quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án mà hành vi vi
phạm đó là hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt vi phạm hành chính; trong thời hạn ba
ngày, kể từ ngày ra quyết định đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án, người đã ra quyết định phải gửi
quyết định cho người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính; trong trường hợp này, thời
hiệu xử phạt vi phạm hành chính là ba tháng, kể từ ngày người có thẩm quyền xử phạt vi phạm
hành chính nhận được quyết định đình chỉ điều tra hoặc đình chỉ vụ án và hồ sơ vụ vi phạm".
2.1.2. Thẩm quyền xử phạt
Nghị định 60/2011/NĐ-CP cũng như Nghị định 09/2005 (đã hết hiệu lực) quy định rất nhiều
chủ thể có thẩm quyền xử phạt vi phạm giao thông. Và trong đó có rất nhiều vị trí lãnh đạo cũng
như thẩm quyền xử phạt vi phạm rất lớn như: Chủ tịch ủy ban nhân dân các cấp, Chánh thanh tra
sở giao thông vận tải, Cục trưởng cục cảnh sát giao thông đường thủy nội địa họ là những người
không trực tiếp thực hiện những việc liên quan đến quy trình xử phạt hành chính, hầu như chỉ
tham gia vào giai đoạn cuối là kí quyết định để ban hành. Bên cạnh đó, các chức danh trực tiếp

thực hiện nhiệm vụ tại hiện trường thì có thẩm quyền xử phạt quá thấp. Bởi thẩm quyền xử phạt
bị giới hạn bởi nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt "…Trong trường hợp phạt tiền, thẩm
quyền xử phạt được xác định căn cứ vào mức tối đa của khung tiền phạt qui định đối với từng
hành vi cụ thể ".
2.1.3. Hình thức xử phạt vi phạm phạm hành chính trong giao thông đường thủy nội địa
a. Hình thức xử phạt cảnh cáo
Đây là hình thức áp dụng đối với các vi phạm có mức độ nguy hiểm cho xã hội thấp, chủ yếu
mang tính giáo dục. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay hình thức phạt cảnh cáo hành chính chỉ
dừng mức độ quy định như hiện nay thì việc áp dụng hình thức xử phạt này còn nhiều điều đáng
phải bàn. Bởi lẽ điều kiện áp dụng phạt cảnh cáo được quy định chung chung trong Nghị định về
xử phạt vi phạm hành chính trong giao thông đường thủy nội địa cũng như trong Pháp lệnh mà
không quy định một cách chi tiết cụ thể. Vi phạm lần đầu thì có thể hiểu được nhưng thế nào là
vi phạm nhỏ, có tình tiết giảm nhẹ thì chưa được giải thích. Bên cạnh đó, ranh giới giữa hình
thức xử phạt cảnh cáo và hình thức phạt tiền theo thủ tục đơn giản chưa rõ ràng.
b. Hình thức xử phạt tiền
c. Hình thức phạt bổ sung
Căn cứ vào khoản 2 Điều 5 Nghị định 60/2011/NĐ-CP hình thức phạt bổ sung bao gồm:
Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề có thời hạn hoặc không thời hạn; Tịch thu
tang vật, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính. Hình thức xử phạt này đồng thời
mang tính phòng ngừa, ngăn chặn và tính cưỡng chế làm bất lợi về lợi ích vật chất và tinh thần.
2.1.4. Trình tự, thủ tục xử phạt vi phạm hành chính trong giao thông đường thủy nội địa
Trình tự xử lý vi phạm hành chính là các bước tiến hành để xử lý một hành vi vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật. Trình tự xử lý vi phạm hành chính gốm: Phát hiện hành vi vi
phạm, đình chỉ, ngăn chặn hành vi vi phạm; xử phạt vi phạm the thủ tục đơn giản hoặc lập biên
bản vi phạm hành chính; quyết định xử phạt vi phạm hành chính; thi hành quyết định xử phạt vi
phạm hành chính; giải quyết khiếu nại về xử phạt vi phạm hành chính và lưu giữ hồ sơ xử phạt vi
phạm hành chính.
 Thủ tục đơn giản
Thủ tục đơn giản sẽ được áp dụng trong trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ
10.000 đồng đến 100.00 đồng. Đây là thủ tục được áp dụng đối với những vi phạm hành chính

có tính chất đơn giản, vi phạm lần đầu, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Tuy nhiên, trên thực tế có
nhiều trường hợp vi phạm giao thông có tính chất đơn giản, vi phạm lần đầu, có nhiều tình tiết
giảm nhẹ nhưng việc xử phạt vẫn phải lập biên bản vi phạm như "Hành vi không kẻ, kẻ không
đúng quy định hoặc để mờ, che khuất biển ghi số lượng người được phép chở trên phương tiện bị
phạt từ 200-300 nghìn đồng". Trong trường hợp này, dù tính chất vi phạm rất đơn giản, có nhiều
tình tiết giảm nhẹ nhưng vẫn phải lập biên bản và gửi lên cấp trên. Điều này đã không đồng nhất
với Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính
 Thủ tục có lập biên bản
Đối với loại thủ tục xử phạt này, quy định xử phạt còn rườm rà, phức tạp. Khi phát hiện hành
vi vi phạm (trừ trường hợp xử phạt theo thủ tục đơn giản) thì hầu hết phải lập biên bản xử phạt,
nếu phải tạm giữ phương tiện, thì phải lập biên bản tạm giữ sau đó cấp có thẩm quyền ra quyết
định tạm giữ phương tiện trong thời hạn nhất định tùy từng vi phạm. Sau đó người có thẩm
quyền ra quyết định xử phạt, người vi phạm phải mang biên bản đó đến Kho bạc Nhà nước để
nộp phạt, sau đó họ lại phải quay lại cơ quan đã ra quyết định xử phạt chứng minh mình đã nộp
phạt để lấy lại giấy tờ, phương tiện. Quá trình này nhanh thì giải quyết xong trong ngày còn trong
trường hợp tạm giữ phương tiện thì cũng phải tính hàng tuần.
2.1.5. Phương thức nộp phạt
Theo Nghị định 60/2011/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 100/2008 đã cho phép trừ tiền phạt
vi phạm giao thông vào tài khoản cá nhân: "Cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm hành chính
được nộp tiền phạt bằng cách trừ vào tài khoản của mình tại ngân hàng". Tuy nhiên, phần lớn
người vi phạm về an toàn giao thông không có tài khoản tại ngân hàng khiến quá trình xử phạt,
nộp phạt qua tài khoản rất khó khăn và bất cập. Thêm nữa, trong quá trình triển khai thực tế, giữa
cơ quan có thẩm quyền xử phạt với hệ thống ngân hàng, kho bạc chưa liên thông với nhau nên
đến nay việc áp dụng trên thực tế chưa có tính khả thi cao. Ngoài ra, việc thu, nộp tiền xử phạt
vẫn phải tuân theo quy định của Pháp lệnh về xử phạt vi phạm hành chính.
2.1.6. Xác định yếu tố của vi phạm hành chính
 Quy định đối với việc quản lý và bảo vệ công trình thuộc kết cấu hạ tầng giao thông đường
thủy nội địa:
 Quy định về phương tiện thủy nội địa:
 Vấn đề nữa đối với việc xác định yếu tố vi phạm hành chính:

2.1.7. Quy định về tạm giữ phương tiện giao thông
Đối với chủ các phương tiện bị tạm giữ: Phương tiện giao thông vốn là công cụ lao động rất
quan trọng. Việc tạm giữ những phương tiện đó sẽ gây khó khăn cho công việc sản xuất, kinh
doanh của người dân, và do đó, gây ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập của họ.
Tác hại đối với nền kinh tế: Trong thời gian bị thu giữ, một phần thiệt hại đối với nền kinh tế
gây ra từ việc giảm năng suất lao động của người dân do bị thiếu một công cụ quan trọng trong
hoạt động sản xuất kinh doanh.
Tác hại đối với xã hội: Sự lạm dụng việc tạm giữ các phương tiện giao thông nói trên đã cơ
hội cho tiêu cực phát triển. Người dân sẽ tìm mọi cách để chạy chọt, nhờ vả nhằm lấy phương
tiện ra khỏi nơi tạm giữ trước thời hạn và các "cò mồi " xuất hiện
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về xử phạt vi phạm pháp luật trong lĩnh vực giao
thông đƣờng thủy nội địa
Theo kết quả báo cáo tình hình công tác hàng năm của Phòng cảnh sát giao thông đường
thủy của Công an Thành phố Hà Nội:
Năm 2009: lực lượng cảnh sát giao thông đường thủy đã kiểm tra và xử lý 5.033 trường hợp
vi phạm, phạt 1.822.459.000 đồng, xử lý 76 trường hợp khai thác cát trái phép, và ra quyết định
đình chỉ 19 bến khách vi phạm.
Năm 2010: lực lượng cảnh sát giao thông đường thủy đã kiểm tra và xử lý 4.419 trường hợp
vi phạm, phạt 3.408.435.000 đồng, xử lý 295 trường hợp khai thác cát trái phép, và ra quyết định
đình chỉ 12 bến khách vi phạm, 36 bến vật liệu xây dựng.
Năm 2011: lực lượng cảnh sát giao thông đường thủy đã kiểm tra và xử lý 4.453 trường hợp
vi phạm, phạt 4.049.225.000 đồng, xử lý 378 trường hợp khai thác cát trái phép.
Sáu tháng đầu năm 2012: lực lượng cảnh sát giao thông đường thủy đã kiểm tra và xử lý
2.319 trường hợp vi phạm, phạt 1.763.300.000 đồng.
Qua kết quả tổng kết trên của phòng cảnh sát giao thông đường thủy ta thấy số tiền phạt vi
phạm tăng lên, chứng tỏ tình hình vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội
địa tại địa bàn Hà Nội rất nhiều và phức tạp. Các lỗi chủ yếu là:
Không có giấy đăng ký phương tiện, không có chứng chỉ nghiệp vụ, không có chứng chỉ
huấn luyện an toàn cơ bản, không có bằng, phương tiện thiếu dụng cụ cứu sinh, cứu đắm, chở
quá số người quy định, chở ô tô cùng với khách….

Vi phạm hành lang đê điều để tập kết, trung chuyển vật liệu xây dựng còn xảy ra nhiều, các
phương tiện giao thông chở vật liệu xây dựng quá tải hoạt động trên các tuyến đê dễ gây tình
trạng sạt lở.
Việc khai thác cát trái phép dưới lòng sông gây thất thoát tài nguyên khoáng sản, làm thay
đổi dòng chảy, sạt lở bờ sông.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến những tồn tại, yếu kém nêu trên, trong đó có một nguyên
nhân rất quan trọng là do công tác quản lý nhà nước về Trật tự an toàn giao thông đường thủy
nội địa của các ngành, các cấp còn bị buông lỏng, yếu kém và bất cập. Hiện nay, còn nhiều địa
phương chưa xây dựng và tổ chức thực hiện quy hoạch phát triển giao thông vận tải đường thủy
nội địa; chưa quy hoạch hệ thống cảng, bến thủy nội địa, các khu vực khảo sát thăm dò khai thác
tài nguyên cát, sỏi, nuôi trồng, đánh bắt thủy sản, họp chợ, làng chài nên rất khó khăn cho công
tác quản lý nhà nước về Trật tự an toàn giao thông trên đường thủy nội địa. Công tác tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã được tiến hành nhưng chưa thường xuyên và hiệu quả
không cao. Việc phối hợp giữa các ngành, các cấp chính quyền địa phương chưa chặt chẽ và đề
cao trách nhiệm theo đúng quy định của pháp luật. Mặt khác, các văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành vẫn còn một số quy định không phù hợp hoặc chưa đầy đủ, gây khó khăn cho việc tổ
chức thực hiện trong thực tiễn, nhất là trong lĩnh vực quản lý nhà nước về kết cấu hạ tầng giao
thông, quản lý phương tiện, người điều khiển phương tiện và quản lý vận tải thủy nội địa
Chương 3
KIẾN NGHỊ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
GIAO THÔNG ĐƢỜNG THỦY NỘI ĐỊA
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đƣờng thủy nội địa.
3.1.1. Phù hợp với thực tế, nhu cầu khách quan của sự phát triển kinh tế- xã hội của đất
nước.
3.1.2. Đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản pháp luật và hội nhập với pháp
luật quốc tế.
3.1.3. Bảo đảm quyền tự do, dân chủ, quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức vi phạm
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực giao thông đƣờng thủy nội địa.
3.2.1. Đối với hình thức xử phạt
3.2.2. Quy định về biện pháp ngăn chặn- tạm giữ phương tiện giao thông
3.2.3. Thủ tục xử phạt
3.2.4. Đối với phương thức nộp phạt
3.2.5. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính
3.2.6. Cần tăng cường trong công tác quản lý nhà nước về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa
Tiếp tục rà soát các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước, của các Bộ, ngành và Ủy ban
nhân dân các địa phương đã ban hành có liên quan đến lĩnh vực quản lý nhà nước về giao thông
đường thủy nội địa, kịp thời đề xuất bổ sung, sửa đổi hoặc ban hành mới cho phù hợp với thực tế.
Công tác phối hợp giữa các bộ và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có chức năng quản lý nhà nước
về trật tự an toàn giao thông đường thủy nội địa cần phải chặt chẽ và thường xuyên hơn nữa trên
cơ sở phân công, phân cấp trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng, tránh trùng dẫm và hạn chế thấp nhất
những sơ hở trong công tác quản lý.
3.2.7. Tăng cường công tác tuần tra kiểm soát của các chiến sĩ công an đường thủy để
nhanh chóng kịp thời phát hiện các hành vi vi phạm hành chính.
3.2.8. Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giao
thông đường thủy nội địa.
3.2.9. Vi phạm hành chính có tính phổ biến nên cần quan tâm xử phạt nghiêm đối với vi
phạm hành chính hơn là xử phạt mọi vi phạm hành chính.
3.2.10. Các hình thức xử phạt đối với vi phạm hành chính không nhằm mục đích trừng
trị mà nhằm giáo dục người vi phạm và toàn xã hội
3.2.11. Bổ sung nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính
3.2.12. Bổ sung hình thức xử phạt vi phạm hành chính, xác định lại tính chất của các
hình thức đó
3.2.13. Sửa đổi, bổ sung các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo xử
phạt vi phạm hành chính theo hướng bảo vệ quyền con người

KẾT LUẬN

Đấu tranh phòng chống các vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm pháp luật hành chính
nói riêng luôn là nhiệm vụ trọng yếu của nhà nước ta. Trong bối cảnh hiện nay, hệ thống pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và trong lĩnh vực giao thông đường thủy nói riêng
chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. điều chỉnh bằng luật (hay pháp lệnh) cụ thể đến chi tiết tất
cả các loại vi phạm hành chính to nhỏ, đều rất khó phản ứng kịp với biến động của thực tiễn,
bằng nghị định thì có thể nhanh hơn, nhưng thực tiễn đã chứng tỏ vẫn rất bất cập. Từ khi Luật
Giao thông đường thủy nội địa năm 2004 có hiệu lực thi hành thì Nghị định 09/2005, nay được
thay thế bằng Nghị định 60/2011/NĐ-CP cũng được ban hành, quy định về hành vi vi phạm,
hình thức, mức xử phạt, thẩm quyền và thủ tục xử phạt đối với tổ chức, cá nhân vi phạm. Nghị
định này được xây dựng trong hoàn cảnh tình hình trật tự an toàn giao thông đường thủy có
những diễn biến phức tạp, tình trạng lấn chiếm luồng chạy tàu thuyền và hành lang bảo vệ luồng
giao thông cản trở hoạt động giao thông vận tải; bến thủy nội địa hoạt động không phép, không
đủ điều kiện an toàn để hoạt động còn chiếm tỷ lệ cao, riêng bến chở khách ngang sông (đò) còn
1036/2427 bến chưa được cấp phép (42%), bến dọc sông còn 132/248 bến (34%) chưa được cấp
phép, phương tiện thủy nội địa không đăng ký, đăng kiểm và người điều khiển phương tiện
không có bằng, chứng chỉ chuyên môn nhưng vẫn tham gia hoạt động giao thông còn phổ biến.
Tình trạng tàu, thuyền chở quá tải, quá số người quy định vẫn xuất bến… Đó là những nguy cơ
đang tiềm ẩn xảy ra tai nạn giao thông trên đường thủy nội địa. Thực tế trong thời gian vừa qua
đã xảy ra một số vụ tai nạn giao thông đường thủy đặc biệt nghiêm trọng, gây thiệt hại lớn về
người, như vụ đắm đò ở Chôm Lôm, Nghệ An làm chết 19 em học sinh (năm 2006), vụ đắm đò ở
Quảng Hải, Quảng Trạch, Quảng Bình làm chết 42 người (năm2009).
Trước thực tế này, pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
thủy nội địa cần phải được hoàn thiện theo hướng đồng bộ với hệ thống pháp luật, phải đáp ứng
được yêu cầu của việc ngăn chặn, xử lý, răn đe các hành vi vi phạm, phải đảm bảo tính khách
quan, phù hợp với yêu cầu quản lý, quá trình áp dụng trong thực tế, đảm bảo sự công bằng, cũng
như quyền và lợi ích hợp pháp của người vi phạm. Với các nội dung đề cập tại luận văn này, chỉ
đề cập tới các quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội
địa, để từ đó làm cơ sở cho việc tổng hợp và đề xuất những nội dung nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa.
Giải quyết và xử phạt những vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội

địa đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ, trong đó giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật từ Pháp
lệnh cho đến các văn bản hướng dẫn, sao cho tránh chồng chéo, đặc biệt, cần hoàn thiện Luật xử
phạt vi phạm hành chính để đưa vào thực tiễn, làm cơ sở vững chắc, là một loại nguồn pháp luật
quan trọng trong quá trình xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội
địa. Bên cạnh đó, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động của lực lượng công an nhân dân, cũng
như thanh tra đường thủy nội địa trực tiếp tham gia vào làm nhiệm vụ mà chức vụ lãnh đạo thấp
để tránh tình trạng việc giải quyết xử phạt bị dồn lên cấp trên. Thực hiện cải cách hành chính,
đơn giản hóa các thủ tục xử phạt, tạo điều kiện thuận lợi cho cả người thi hành công vụ và người
bị xử phạt. Đồng thời với việc hoàn thiện pháp luật, chúng ta cũng phải đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong giao thông đường thủy nội địa,
để pháp luật đi vào thực tế một cách sâu sắc nhất.
Để chứng minh cho những nhận xét trên đây, luận văn đã cố gắng phân tích, kiến giải những
quy định chưa phù hợp với pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong giao thông đường thủy
nội địa, để từ đó đưa ra phương hướng hoàn thiện.


References
1. Quân Ngọc Anh (2009), Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực
xây dựng, liên hệ qua thực tế ở thành phố Hà Nội, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Luật- Đại
học Quốc gia Hà Nội.
2. Bộ Công an (2010), Thông tư số 41/2010/TT-BCA quy định chi tiết thi hành một số điều của
Nghị định số 70/2006/NĐ-CP ngày 24/7/2006 và Nghị định số 22/2009/ NĐ-CP ngày
24/2/2009 về việc quản lý tang vật, phương tiện bị tạm giữ theo thủ tục hành chính trong
Công an nhân dân, Hà Nội.
3. Bộ Giao thông vận tải (2012), Thông tư số 15/2012/TT-BGTVT quy định về trang bị và sử
dụng áo phao cứu sinh, dụng cụ nổi cứu sinh cá nhân trên phương tiện vận tải hành khách
ngang sông, Hà Nội.
4. Bộ Giao thông vận tải - Bộ Công an (2012), Thông tư liên tịch số 37/2012/TTLT-BGTVT-
BCA hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định 60/2011/NĐ-CP ngày 20/7/2011 của
chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội

địa, Hà Nội.
5. Chính phủ (2005), Nghị định số 09/2005/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa, Hà Nội.
6. Chính phủ (2006), Nghị định số 70/2006/ NĐ-CP quy định việc quản lý tang vật, phương
tiện bị tạm giữ theo thủ tục hành chính, Hà Nội.
7. Chính phủ (2008), Nghị định số 128/2008/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của
pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002 và pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều
của Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2008, Hà Nội.
8. Chính phủ (2010), Nghị định số 34/2010/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ, Hà Nội.
9. Chính phủ (2011), Nghị định số 60/2011/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường thủy nội địa, Hà Nội.
10. Công an thành phố Hà Nội (2009), Báo cáo tổng kết tình hình, kết quả công tác năm 2009,
Hà Nội.
11. Công an thành phố Hà Nội (2010), Báo cáo tổng kết tình hình, kết quả công tác năm 2010,
Hà Nội.
12. Công an thành phố Hà Nội (2011), Báo cáo tổng kết tình hình, kết quả công tác năm 2011,
Hà Nội.
13. Công an thành phố Hà Nội (2012), Báo cáo tổng kết tình hình, kết quả công tác sáu tháng
đầu năm 2012, Hà Nội.
14. Nguyễn Minh Cường, Một số vấn đề về vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý và bảo
vệ rừng, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Luật- Đại học Quốc gia Hà Nội.
15. Nguyễn Đăng Dung (2006), "Sự cần thiết khách quan của quyền lập quy của Chính phủ",
Nghiên cứu lập pháp, (9), tr. 10-14.
16. Nguyễn Đăng Dung (2008), "Bản tính tùy tiện của Nhà nước", Nhà nước và pháp luật, (11),
tr. 3-9, 46.
17. Nguyễn Sĩ Dũng (2007), Thế sự - Một góc nhìn, Nxb Tri thức, Hà Nội.
18. Bùi Tiến Đạt (2008), Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính: lý luận và thực tiễn, Luận
văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
19. Nguyễn Minh Đức (2009), "Một số bất cập và hướng hoàn thiện pháp luật xử lý vi phạm

hành chính", Nghiên cứu lập pháp, 9(146).
20. Gorshumov D.N. (2006), "Những yếu tố tâm lý - xã hội trong thực thi pháp luật", Nghiên
cứu lập pháp, (7), tr. 14-17.
21. Hoàng Hoa (1997), Những vấn đề cơ bản về xử phạt vi phạm hành chính: những thủ tục cần
thiết cho mọi người dân, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
22. Trương Khánh Hoàn (2008), "Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính - Thực trạng và hướng
hoàn thiện", vnclp.gov.vn, ngày 02/10.
23. Trần Minh Hương (2005), "Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật và xử lý vi
phạm hành chính", Luật học, (5), tr. 17-24.
24. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và
pháp luật, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
25. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
26. Quốc hội (2005), Luật giao thông đường bộ, Hà Nội
27. Quốc hội (2005), Luật giao thông đường thủy nội địa, Hà Nội.
28. Nguyễn Văn Thâm - Võ Kim Sơn (2002), Thủ tục hành chính: lý luận và thực tiễn, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Vũ Thư (2000), Chế tài hành chính - lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Trường Đại học Luật Hà Nội (2005), Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
31. Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
32. Bùi Huy Tùng (2007), Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giáo
dục, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội.
33. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (1995), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
34. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.
35. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung),
Hà Nội.
36. Ủy ban Thường vụ Quốc hội (2008), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính (sửa đổi, bổ sung),
Hà Nội.

37. Viện khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Bình luận khoa học Pháp lệnh xử phạt vi phạm
hành chính 2002, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
38. Viện Nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát triển (2010), Xử lý Vi phạm hành chính ở
Việt Nam, Hội thảo khoa học quốc tế, Hà Nội.
39. Viện nghiên cứu chính sách, pháp luật và phát triển - PLD Việt Nam (2011), Hoàn thiện pháp
luật xử phạt vi phạm hành chính Việt Nam, Hà Nội.
40. Nguyễn Cửu Việt (2008), Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.


×