Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

163 Xây dựng cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (679.53 KB, 92 trang )

- 1 -
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
trang 1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
trang 3
1.1 Khái niệm tỷ giá trang 3
1.2 Các loại tỷ giá trang 4
1.2.1 Phân loại theo đối tượng trang 4
1.2.2 Tỷ giá thực và tỷ giá danh nghóa trang 5
1.2.3 Tỷ giá kinh doanh ngoại tệ trang 6
1.3 Các cơ chế điều hành tỷ giá trang 7
1.3.1 Hệ thống tỷ giá cố đònh trang 7
1.3.2 Hệ thống tỷ giá thả nổi trang 7
1.3.3 Hệ thống tỷ giá hỗn hợp giữa cố đònh và thả nổi trang 8
1.3.4 Các chế độ tỷ giá hiện hành trang 9
1.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ giá trang 13
1.4.1 Quan hệ cung cầu trang 13
1.4.2 Mức độ lạm phát trang 14
1.4.3 Lãi suất ngân hàng trang 15
1.4.4 Thu nhập tương đối trang 16
1.4.5 Kiểm soát của Chính phủ trang 16
1.4.6 Kỳ vọng trang 17
1.4.7 Những nhân tố khác trang 17
1.5 Ảnh hưởng của tỷ giá đến nền kinh tế trang 18
1.5.1 Tỷ giá hối đoái và ngoại thương trang 18
1.5.2 Tỷ giá hối đoái và sản lượng, công ăn việc làm, lạm phát trang 19
1.6 Kinh nghiệm điều hành của các quốc gia trang 20
1.6.1 Kinh nghiệm điều hành tỷ giá ở Trung Quốc trang 20
1.6.2 Kinh nghiệm điều hành tỷ giá ở Thái Lan trang 21


1.6.3 Kinh nghiệm điều hành tỷ giá ở Chi Lê trang 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA VIỆT
NAM
2.1 Giai đoạn tỷ giá cố đònh trang 23


- 2 -
2.1.1 Giai đoạn trước năm 1989 trang 23
2.1.2 Giai đoạn 1989-1992 trang 28
2.2 Giai đoạn điều chỉnh theo tỷ giá liên ngân hàng trang 33
2.2.1 Từ 1993-1999 trang 33
2.2.2 Giai đoạn từ tháng 02/1999 đến nay trang 38
2.3 Nhận xét & yêu cầu hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam
2.3.1 Ưu nhược điểm trang 42
2.3.2 Yêu cầu hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá trang 45
CHƯƠNG 3 XÂY DỰNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA VIỆT
NAM
3.1 Mục tiêu của chính sách tỷ giá trang 51
3.2 Lộ trình thực hiện cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam trong gia đoạn 2005-
2015
3.2.1 Trong trung hạn (2005-2010) trang 54
3.2.2 Trong dài hạn trang 55
3.3 Những giải pháp hổ trợ cho lộ trình trang 57
3.3.1 Vận dụng dự báo tỷ giá trang 57
3.3.2 Chính sách lãi suất trang 58
3.3.3 Phối hợp các chính sách tài chính tiền tệ trang 59
3.3.4 Các giải pháp khác trang 66
KẾT LUẬN trang 68
PHỤ LỤC
TÀI LIỆU THAM KHẢO









- 3 -
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong một nền kinh tế thò trường mở, thương mại quốc tế trở thành phổ biến,
việc thanh toán giữa các quốc gia với nhau phải sử dụng tiền tệ của nước này hay
nước khác. Để thực hiện việc chuyển đổi tiền tệ như vậy, các quốc gia phải dựa
vào tỷ giá hối đoái.
Như chúng ta đã biết, tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vó mô chủ yếu
để điều tiết cán cân thương mại quốc tế theo mục tiêu đã đònh trước của một quốc
gia. Việc thay đổi tỷ giá sẽ ảnh hưởng đến các lónh vực, các doanh nghiệp có thu
chi ngoại tệ từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế... Tỷ giá hối đoái không chỉ
có tác động đến giá cả hàng hóa trong nước, mà còn tác động rất lớn xuất nhập
khẩu hàng hóa, cũng như đến xuất nhập khẩu tư bản (vốn). Vì vậy, nó tác động
đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Với những tác động lớn như vậy của tỷ giá đến nền kinh tế làm cho các nhà
quản lý nhà nước ở mọi quốc gia đều muốn quản lý, điều tiết tỷ giá, sử dụng tỷ
giá như một công cụ điều tiết nền kinh tế theo những mục tiêu kinh tế-xã hội đã
vạch ra.
Đối với nước ta, một nước đang trong giai đoạn tăng trưởng và phát triển,
tiến tới hội nhập càng đòi hỏi phải xác đònh một chính sách tỷ giá hối đoái thích
hợp để có thể khuyến khích, tận dụng nguồn lực sản xuất trong và ngoài nước,
thúc đẩy các hoạt động thương mại, du lòch, kiều hối... góp phần tích cực cho phát
triển kinh tế, cho sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước.

Đối tượng & phạm vi nghiên cứu của đề tài: Những vấn đề lý luận và thực
tiễn về tỷ giá hối đoái và cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam trong thời gian
qua, đồng thời nghiên cứu kinh nghiệm sử dụng tỷ giá hối đoái trong xây dựng và
phát triển kinh tế của một số nước trên thế giới.


- 4 -
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng, duy vật lòch sử cùng với các phương pháp tổng hợp, phân tích, so
sánh, đối chiếu... đồng thời kết hợp với các học thuyết kinh tế hiện đại, kinh
nghiệm điều hành tỷ giá hối đoái của một số nước, từ đó đưa ra phương hướng
hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá của nước ta.
Vì vấn đề tỷ giá là một vấn đề phức tạp nên nội dung của đề tài chỉ giới hạn
nghiên cứu tỷ giá ở góc độ: Lựa chọn chế độ tỷ giá và Điều chỉnh tỷ giá.
Nội dung nghiên cứu chủ yếu của đề tài bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về tỷ giá hối đoái.
- Chương 2: Thực trạng về cơ chế điều hành tỷ giá ở Việt Nam.
- Chương 3: Lộ trình thực hiện cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái của Việt Nam
trong giai đoạn 2005-2015.
Ý nghóa khoa học & thực tiễn của đề tài: Qua việc nghiên cứu lý luận về
tỷ giá, học hỏi kinh nghiệm điều hành của các nước khác nhau trên thế giới, cùng
với thực tiễn điều hành tỷ giá ở Việt Nam trong những năm qua, tìm ra những tồn
tại, vướng mắc và đưa ra biện pháp khắc phục nhằm hoàn thiện cơ chế điều hành
tỷ giá của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay để có thể sử dụng hiệu quả hơn
công cụ điều tiết này thúc đẩy kinh tế phát triển. Đồng thời, đưa ra lộ trình thực
hiện cơ chế điều hành tỷ giá cho Việt Nam từ nay đến năm 2015.
Với sự cố gắng và mong muốn hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu nhưng đề tài
không tránh khỏi những hạn chế và sai sót. Rất mong nhận được sự chỉ dẫn và
đóng góp của q Thầy Cô và bạn bè.





- 5 -
CHƯƠNG 1

TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI
1.1 KHÁI NIỆM TỶ GIÁ
Đã từ lâu việc trao đổi mua bán không chỉ giới hạn trong phạm vi một nước
mà có sự tham gia của nhiều quốc gia khác nhau. Khi đó, các quan hệ thanh toán,
tín dụng trong giao dòch ngoại thương giữa các bên đòi hỏi phải sử dụng đơn vò
tiền tệ của một trong hai nước nhưng cũng có thể là đồng tiền của nước thứ ba. Vì
vậy, vấn đề chuyển đổi đồng tiền nước này sang tiền nước khác để xác đònh giá
trò giao dòch, thanh toán có ý nghóa rất quan trọng. Muốn thực hiện việc chuyển
đổi đó phải dựa vào một mức qui đổi xác đònh, hay nói cách khác là phải dựa vào
tỷ giá hối đoái.
Tùy theo từng thời kỳ và phương pháp tiếp cận người ta đưa ra nhiều khái
niệm khác nhau về tỷ giá.
Theo quan điểm cổ điển thì tỷ giá hối đoái là tỷ lệ so sánh ngang giá (ngang
giá vàng) giữa đồng tiền của hai nước. Còn theo quan điểm kinh tế hiện đại, tỷ giá
hối đoái là giá mà người ta phải trả khi mua hoặc bán một ngoại tệ.
Và trên thò trường ngoại hối, tỷ giá là giá cả của tiền tệ nước này được tính
bằng đơn vò tiền tệ nước khác.
Như vậy, tỷ giá hối đoái là sự so sánh mối tương quan giá trò giữa hai đồng
tiền với nhau; hay đó là giá chuyển đổi của một đồng tiền nước này trong quan hệ
so sánh với các đồng tiền khác.
Còn ở Việt Nam, theo mục 8/ điều 4, nghò đònh số 63/1998 của Chính phủ:
“Tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vò tiền tệ nước ngoài tính bằng đơn vò tiền tệ
của Việt Nam”.
Chúng ta đònh nghóa tỷ giá theo quan điểm hiện đại, tỷ giá là giá cả, là số

tiền mà chúng ta phải trả (nhận được) khi chúng ta mua (bán) một ngoại tệ nào
đó. Cách đònh nghóa này dựa vào phương pháp yết giá trực tiếp lấy ngoại tệ là


- 6 -
đồng yết giá, còn nội tệ là đồng đònh giá hay nói khác hơn là lấy ngoại tệ làm một
đơn vò để so sánh với số lượng tiền tệ trong nước.
Ví dụ: Ngày 23/05/2005, tại Việt Nam 1USD = 15.845 VND
1AUD = 11.884 VND
1EUR = 19.776 VND
1GBP = 28.792 VND
1HKD = 2.018 VND
1SGD = 9.474 VND
1.2 CÁC LOẠI TỶ GIÁ
Có nhiều loại tỷ giá khác nhau tùy theo cách phân loại
1.2.1 Phân loại theo đối tượng
-
Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do Ngân hàng Trung ương của mỗi nước công
bố, nó phản ánh chính thức về giá trò đối ngoại của đồng nội tệ. Trên cơ sở tỷ giá
chính thức cộng hay trừ biên độ để có thể ấn đònh tỷ giá mua, bán ngoại tệ.
Tỷ giá chính thức được dùng để tính thuế xuất nhập khẩu, trả nợ nước ngoài
và các hoạt động có liên quan. Nó làm cơ sở để các ngân hàng thương mại xác
đònh tỷ giá mua bán ngoại tệ. Nó còn là tỷ giá chuẩn để hình thành các tỷ giá trên
thò trường.
Tỷ giá chính thức là công cụ mạnh mẽ để điều chỉnh các hoạt động của nền
kinh tế đặc biệt trong lónh vực ngoại thương.
-
Tỷ giá thò trường: là loại tỷ giá được hình thành trên thò trường ngoại tệ một
cách công khai và hợp pháp. Tỷ giá thò trường bò chi phối bởi quan hệ cung cầu về
ngoại hối. Trong tỷ giá thò trường phân biệt hai loại tỷ giá:


y
Tỷ giá mở cửa: tỷ giá được công bố vào lúc thò trường giao dòch ngoại hối
mở cửa hoạt động.


- 7 -

y
Tỷ giá đóng cửa: tỷ giá hình thành vào thời điểm cuối cùng của phiên giao
dòch ngoại tệ, đây là tỷ giá phản ánh quan hệ cung cầu về ngoại tệ trên thò trường
ngoại hối.
1.2.2 Tỷ giá thực và tỷ giá danh nghóa
- Tỷ giá hối đoái danh nghóa là khái niệm đo lường giá cả tương quan của hai
đồng tiền. Tỷ giá danh nghóa chính là giá của một đồng tiền được biểu thò thông
qua đồng tiền khác mà không đề cập đến tương quan sức mua hàng hóa và dòch
vụ giữa chúng. Tỷ giá hối đoái danh nghóa gồm tỷ giá hối đoái niêm yết trên các
thò trường hối đoái thế giới, tỷ giá chính thức công bố tại các Ngân hàng, tỷ giá thò
trường tự do không nằm trong kiểm soát của Nhà nước (tỷ giá không chính thức).
- Tỷ giá hối đoái thực được điều chỉnh bởi tương quan giá cả trong nước và
giá cả ngoài nước. Khi tỷ giá danh nghiã tăng hay giảm không có nghóa là gia
tăng hay sụt giảm sức cạnh tranh thương mại quốc tế. Nhưng tỷ giá hối đoái thực
đại diện cho khả năng cạnh tranh quốc tế của một quốc gia.
Tỷ giá hối đoái thực là tương quan giữa giá cả của hàng mậu dòch và giá cả
của hàng phi mậu dòch.
Tùy theo phương pháp yết giá tiền tệ của từng quốc gia, tỷ giá hối đoái thực
được tính như sau:

y
Yết giá gián tiếp: Nội tệ là đồng yết giá, ngoại tệ là đồng đònh giá. Phương

pháp này thường được dùng ở một số nước như Anh, Mỹ, Úc... Khi đó, công thức
tính tỷ giá hối đoái thực:
RER =
*CIP
CIP x NER1

Trong đó:
NER1: Tỷ giá danh nghóa tính bằng số đơn vò ngoại tệ trên số đơn vò nội tệ
CPI: Mức giá trong nước
CPI*: Mức giá nước ngoài


- 8 -

y
Yết giá trực tiếp: Ngoại tệ là đồng yết giá còn nội tệ là đồng đònh giá.
Phương pháp này được sử dụng ở các nước còn lại và dó nhiên ở nước ta cũng
dùng phương pháp yết giá này (như đã đề cập trong phần 1.1). Ta có công thức
tính tỷ giá thực như sau:
RER =
CPI
*CPI x NER2

Trong đó:
NER2: Tỷ giá danh nghóa tính bằng số đơn vò nội tệ trên số đơn vò ngoại tệ
CPI: Mức giá trong nước
CPI*: Mức giá nước ngoài
Như vậy, trong trường hợp này nếu mức giá hàng hóa trong nước bằng với
mức giá hàng hóa nước ngoài, thì tỷ giá thực sẽ bằng với tỷ giá giao ngay trên thò
trường, nghóa là tỷ giá danh nghóa sẽ bằng với tỷ giá thực. Còn nếu mức giá hàng

hóa trong nước lớn hơn mức giá hàng hóa nước ngoài thì tỷ giá thực sẽ nhỏ hơn tỷ
giá giao ngay trên thò trường và ngược lại.
1.2.3 Tỷ giá kinh doanh ngoại tệ
Đó là tỷ giá do các ngân hàng, các tổ chức được phép kinh doanh ngoại tệ
công bố gồm: tỷ giá mua và tỷ giá bán, trong các loại đó có phân biệt tỷ giá tiền
mặt, tỷ giá chuyển khoản.
Ngoài ra, còn tồn tại nhiều loại tỷ giá trong giao dòch kinh doanh ngoại tệ
như:
- Tỷ giá điện hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối trong đó ngân hàng chuyển
tiền bằng điện. Tỷ giá này nhanh chóng và chính xác, là cơ sở để xác đònh các
loại tỷ giá khác.
- Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán trong đó ngân hàng chuyển tiền bằng thư,
tỷ giá thư hối thường thấp hơn tỷ giá điện hối.
- Tỷ giá giao ngay (Spot): tỷ giá áp dụng cho ngày hôm nay nhưng giao dòch
ngoại tệ trong vòng 2 ngày sau đó.


- 9 -
- Tỷ giá kỳ hạn (Forward): tỷ giá áp dụng cho ngày giao dòch ngoại tệ trong
tương lai sau ngày thỏa thuận giao dòch từ 1-12 tháng.
- Tỷ giá chéo: là tỷ giá giữa hai đồng tiền được xác đònh thông qua một đồng
tiền khác làm trung gian.
Công thức tính: A/B = A/C * C/B
Ví dụ: 1USD = 15.750 VND và 1AUD = 12.000 VND, thì
USD/AUD = USD/VND * VND/AUD = USD/VND * 1/ AUD/ VND
= 15.750/ 12000= 1,3125
1.3 CÁC CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ
Không phải ngay từ đầu các cơ chế điều hành tỷ giá được xác đònh và hình
thành (Phụ lục1) mà chúng đã trãi qua nhiều biến cố cũng như nhiều thay đổi, và
được phân chia như sau.

1.3.1 Hệ thống tỷ giá cố đònh
Trong một hệ thống tỷ giá hối đoái cố đònh, tỷ giá hối đoái được giữ không
đổi hoặc chỉ được phép cho dao động trong một phạm vi rất hẹp. Nếu một tỷ giá
hối đoái bắt đầu dao động quá nhiều, các chính phủ có thể can thiệp để duy trì tỷ
giá hối đoái trong vòng giới hạn của phạm vi này.
Trong môi trường tỷ giá hối đoái cố đònh, nhiệm vụ quản lý của các công ty
đa quốc gia trở nên dễ dàng hơn vì không cần quan tâm nhiều đến sự biến động
của tỷ giá. Nhưng ngược lại chính phủ lại gặp nhiều khó khăn trong việc điều
hành và quản lý tỷ giá.
1.3.2 Hệ thống tỷ giá thả nổi
Tỷ giá thả nổi tự do là tỷ giá mà mức của nó được hình thành tự phát trên thò
trường, do quan hệ cung cầu quyết đònh, bò tác động bởi thay đổi mức giá, các mức
lãi suất khác nhau và tăng trưởng kinh tế, không có sự can thiệp của chính phủ.
Như vậy, theo hệ thống này, các công ty đa quốc gia phải dành nhiều thời
gian cho việc tính toán và quản lý các rủi ro do dao động tỷ giá. Còn Chính phủ


- 10 -
chỉ tham gia thò trường ngoại hối với tư cách là một thành viên bình thường, có
nghóa là Chính phủ có thể mua vào hoặc bán ra một ngoại tệ nào đó phục vụ cho
mục đích của Chính phủ chứ không nhằm mục đích can thiệp lên tỷ giá.
Cơ chế này có nhưng ưu điểm:
- Chế độ tỷ giá thả nổi cách ly những tác động dây chuyền của quốc gia này
với quốc gia khác. Các vấn đề một nước gặp như lạm phát, thất nghiệp... không
nhất thiết sẽ lây nhiễm sang các nước khác trong môi trường tỷ giá hối đoái thả
nổi tự do. (Phụ lục 2)
- Một lợi điểm khác của tỷ giá thả nổi tự do là các ngân hàng trung ương
không bò đòi hỏi phải liên tục duy trì tỷ giá hối đoái trong biên độ đã đònh. Vì vậy,
họ không bò buộc phải thực hiện một chính sách can thiệp có thể tạo nên những
tác động không thuận lợi đối với nền kinh tế chỉ để kiểm soát tỷ giá.

Hơn nữa, các chính phủ có thể thực thi những chính sách mà không cần bận
tâm là các chính sách đó có duy trì được tỷ giá trong biên độ quy đònh hay không.
Nếu tỷ giá không được phép thả nổi, các nhà đầu tư sẽ đầu tư vốn của mình
vào bất cứ nước nào có lãi suất cao nhất. Điều này có thể sẽ làm cho chính phủ
của các nước có lãi suất thấp hạn chế vốn của các nhà đầu tư đem ra khỏi nước
mình. Như vậy, sẽ có nhiều hạn chế dòng vốn và hiệu quả của thò trường tài chính
bò giảm sút.
1.3.3 Hệ thống tỷ giá hỗn hợp giữa cố đònh và thả nổi
Là tỷ giá thả nổi nhưng có sự can thiệp của Chính phủ để tác động đến tỷ giá
hối đoái phục vụ chiến lược chung của nước mình.
Trong chế độ tỷ giá thả nổi tự do, Chính phủ giữ thái độ thụ động, để cho thò
trường quyết đònh giá trò đồng tiền nước mình. Trên thực tế ít có nước nào thả nổi
tự do mà trái lại họ can thiệp bằng những công cụ tài chính, dự trữ ngoại tệ, chính
sách kinh tế, kể cả giải pháp hành chính....


- 11 -
Loại hình tyœ giá này hiện đang được áp dụng ơœ hầu hết các nước, tuy nhiên
mức độ điều tiết cuœa mỗi nước mỗi khác với những đặc trưng đa dạng phù hợp với
đặc điểm của từng quốc gia. Đến nay nó tồn tại dước các hình thức sau.
1.3.4 Các chế độ tỷ giá hiện hành
c Thả nổi hoàn toàn (Free Float, Independently Float)
Nhà nước không can thiệp vào thò trường ngoại hối, tỷ giá hối đoái do cung
cầu thò trường quyết đònh. Khi xảy ra biến động, tỷ giá sẽ tự điều chỉnh thông qua
cung cầu thò trường. Trên thực tế không có quốc gia nào trên thế giới có chế độ tỷ
giá thả nổi hoàn toàn.
d Thả nổi có quản lý không xác đònh đường đi tỷ giá (Managed float without
pre-announced path)
Trong chế độ tỷ giá này, Ngân hàng Trung ương thỉnh thoảng can thiệp vào
thò trường ngoại hối. Nếu can thiệp trực tiếp, sẽ làm thay đổi cơ cấu của dự trữ

ngoại tệ (tuỳ thuộc vào can thiệp hữu hiệu hay vô hiệu). Nếu can thiệp gián tiếp,
dự trữ ngoại tệ sẽ không thay đổi.
e Vùng mục tiêu (Target Zone)
Ngân hàng Trung ương xác đònh một biên độ danh nghóa cố đònh để tỷ giá
hối đoái dao động. Nếu thò trường đẩy tỷ giá ra ngoài biên độ, thì Ngân hàng
Trung ương sẽ can thiệp để đưa tỷ giá trở về phạm vi biên độ ban đầu. Độ rộng
của biên độ sẽ xác đònh mức độ thả nổi hoặc mức độ cố đònh mà hệ thống hối
đoái nước đó đang theo đuổi. Chẳng hạn trước đây, theo qui đònh của cơ chế tỷ giá
hối đoái trong Cộng đồng châu Âu, nếu quốc gia nào có biên độ là +/-2.25% thì
hệ thống tỷ giá nước đó được xem là cố đònh, còn biên độ trong khoảng +/-25% thì
hệ thống tỷ giá đó được xem như thả nổi.
Chế độ vùng mục tiêu có một lợi thế là kết hợp ưu điểm của cả chế độ tỷ giá
thả nổi và cố đònh. Khi hệ thống hoạt động trong biên độ, tỷ giá hối đoái theo
vùng mục tiêu có thể đóng vai trò hấp thụ những đột biến đối với nền kinh tế.


- 12 -
Ngoài ra, việc qui đònh biên độ còn tạo ra độ tin cậy đối với hệ thống vì vậy làm
tăng yếu tố kỳ vọng và giảm rủi ro do đột biến gây ra.
Tuy nhiên, chế độ tỷ giá theo vùng mục tiêu rất dễ bò tấn công bởi đầu cơ tỷ
giá, đặc biệt là khi biên độ qui đònh quá hẹp, khi các biến số thực của nền kinh tế
và các chính sách vó mô trong nước không còn phù hợp với biên độ. Việc qui đònh
lại biên độ nhiều lần có thể làm suy giảm lòng tin vào chính sách tỷ giá của quốc
gia và tạo ra sự bất ổn kinh tế.
f Biên độ hạ dần (Sliding Band)
Đây là chế độ tỷ giá theo vùng mục tiêu có thể điều chỉnh được. Ngân hàng
Trung ương tuy không cam kết bảo vệ biên độ cho trước nhưng vẫn can thiệp từng
thời kỳ để điều chỉnh biên độ khi cần thiết. Vì vậy, các nền kinh tế có tỷ lệ lạm
phát cao có thể áp dụng chế độ tỷ giá này bằng cách xác đònh biên độ và điều
chỉnh nhằm tránh tỷ giá hối đoái lên quá cao. Tuy vậy, khó xác đònh biên độ hợp

lý, tạo ra tình thế không chắc chắn chính sách tùy ý mà Ngân hàng Trung ương
phải đi theo.
g Biên độ dòch chuyển dần (Crawling Band)
Trong chế độ tỷ giá hối đoái theo biên độ dòch chuyển, Ngân hàng Trung
ương xác đònh một biên độ luôn dòch chuyển theo 2 cách:
- Xác đònh biên độ dòch chuyển “nhìn về phía sau” tức là biên độ được xác
nhận dựa trên sự chênh lệch lạm phát trong quá khứ.
- Xác đònh biên độ dòch chuyển “nhìn về phía trước” tức là dựa trên tỷ lệ lạm
phát kỳ vọng trong tương lai, hoặc biên độ được sử dụng theo một mức nào đó mà
Ngân hàng Trung ương nhắm đến.
Ngân hàng Trung ương xác đònh biên độ mà không cần phải nhiều lần điều
chỉnh để đạt đến vò trí cân bằng trung tâm. Tuy nhiên, biên độ nhìn về phía sau có
thể dẫn đến lạm phát cao hơn, còn biên độ nhìn về phía trước có thể làm cho tỷ
giá hối đoái được đònh quá cao do đồng tiền được đònh vượt giá trò thực của nó.



- 13 -
h Chế độ tỷ giá cố đònh có dòch chuyển dần theo biên độ (Crawling Peg)
Đây là chính sách tỷ giá hối đoái được xem là giải pháp để phá giá từng
bước đồng tiền của một quốc gia. Ngân hàng Trung ương ấn đònh một mức tỷ giá
cố đònh đồng thời cho phép thò trường giao dòch với một biên độ cộng trừ, dao
động từ hẹp đến rộng tùy theo mức độ phá giá đồng tiền.
Trong chế độ tỷ giá hối đoái này, ngân hàng Trung ương có thể sử dụng
nhiều chỉ tiêu kinh tế để ấn đònh tỷ giá danh nghóa. Thông thường, chế độ tỷ giá
cố đònh theo biên độ dòch chuyển dùng để giảm lạm phát như trong trường hợp
biên độ “nhìn về phía sau”. Ngoài ra, tỷ giá danh nghóa luôn được điều chỉnh theo
kiểu “nhích dần” từng bước và tổng mức điều chỉnh sau khi được xác đònh sẽ được
chia ra nhiều tỷ lệ khác nhau và được điều chỉnh dần xuyên suốt trong một thời
kỳ. Chẳng hạn, nếu Ngân hàng Trung ương có kế hoạch phá giá VND 6% trong

một năm thì có thể chia thành 12 tháng, mỗi tháng điều chỉnh 0,5%.
Chế độ cố đònh điều chỉnh dần là một trong những hình thức của chế độ tỷ
giá hối đoái cố đònh, vì vậy giúp kiểm soát lạm phát hiệu quả và tạo ra tâm lý an
toàn, tin tưởng.
Tuy nhiên, chế độ này cũng bộc lộ nhược điểm:
- Nếu dự trữ ngoại tệ không đầy đủ thì tỷ giá cố đònh này có thể sụp đổ do
không đủ khả năng bảo vệ mức điều chỉnh mà Ngân hàng Trung ương xác đònh
trước.
- Rất dể tiêu hao ngoại tệ để bảo vệ mục tiêu điều chỉnh.
- Đường đi của tỷ giá được xác đònh trước, thường là đúng theo kỳ vọng nên
thường tạo ra tâm lý găm giữ ngoại tệ, tạo áp lực thiếu hụt ngoại tệ trên thò
trường.
i Chế độ tỷ giá cố đònh có điều chỉnh (Fixed but adjustable Rate)
Tuy chính thức cố đònh tỷ giá nhưng Ngân hàng Trung ương sẽ không đưa ra
cam kết nào để duy trì tỷ giá cố đònh đã công bố. Ngoài ra, Nhà nước cũng không
thông qua chính sách tài chính tiền tệ để đảm bảo rằng các chính sách tài chính


- 14 -
này sẽ phục vụ cho mục đích cố đònh tỷ giá. Vì vậy, Nhà nước có thể can thiệp
vào tỷ giá khi thấy cần thiết để duy trì ổn đònh các mục tiêu kinh tế vó mô khác.
Do tính chất can thiệp khi thấy cần thiết nên Hệ thống tỷ giá cố đònh có điều chỉnh
tuy cố đònh nhưng vẫn có thể linh hoạt.
Trong chế độ này, áp lực thò trường có thể tạo nguy cơ lạm phát khi điều
chỉnh lại tỷ giá. Ngoài ra, thò trường sẽ không đoán được tín hiệu hoạt động can
thiệp của Chính phủ.
j Chế độ tỷ giá với cơ chế hội đồng tiền tệ (Currency Board)
Trong chế độ này, Hội đồng tiền tệ (thay cho Ngân hàng Trung ương) cố
đònh tỷ giá theo “một ngoại tệ neo” và cam kết trong dài hạn bảo vệ tỷ giá theo
luật đònh đã thông qua trước, ngay cả phải hy sinh các mục tiêu tiền tệ khác. Bên

cạnh đó, Nhà nước còn đảm bảo khả năng chuyển đổi đồng tiền nước mình để lấy
“nogại tệ neo” theo tỷ giá cố đònh vào bất cứ lúc nào. Để làm được điều này, Nhà
nước phải có lượng ngoại tệ đủ mạnh, tối thiểu phải tương với tổng tiền mặt đang
lưu thông trong nước.
Cơ chế này là giải pháp tốt nhất để kiềm chế lạm phát đối với quốc gia có tỷ
lệ lạm phát phi mã. Nền kinh tế theo cơ chế này sẽ có lãi suất thấp, đây là yếu tố
quan trọng kích thích đầu tư phát triển kinh tế.
Vì mục tiêu của chế độ này là cố đònh tỷ giá nên các quốc gia sẽ phải trả giá
đối với các mục tiêu kinh tế khác. Hội đồng tiền tệ lập ra để thay thế Ngân hàng
Trung ương nên một số chức năng quan trọng của Ngân hàng Trung ương không
còn nữa, chẳng hạn như chức năng “người cho vay cuối cùng” đối với ngân hàng
thương mại.
k Chế độ tỷ giá đô-la hóa toàn diện (Full Dollarization)
Trường hợp cực độ của hội đồng tiền tệ là đô-la hóa toàn diện. Nhà nước từ
bỏ nội tệ và thay thế bằng một ngoại tệ mạnh, thường là đô-la Mỹ nên gọi là đô-
la hóa và cam kết đi theo chế độ tỷ giá đô-la hóa trong dài hạn. Như vậy, nhà


- 15 -
nước không còn quyền tự chủ trong chính sách tiền tệ và càng không thể can thiệp
vào chính sách tiền tệ của Mỹ.
Mức độ linh hoạt điều chỉnh tỷ giá hối đoái cũng có thể được sắp xếp theo
thứ tự từ (1) đến (9) như trên, và tỷ giá càng cố đònh thì việc điều hành tỷ giá càng
trở nên khó khăn và ngược lại.

Theo báo cáo của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế thì xu hướng tỷ giá hối đoái hiện
nay là “đi về hai cực” và nhóm theo chế độ tỷ giá trung dung có xu hướng ngày
càng giảm đi và tiến về hai cực, tức là hoặc đi về cố đònh tỷ giá hoặc thả nổi tỷ
giá. Xu hướng này không chỉ xảy ra đối với các nền kinh tế hội nhập cao mà xảy
ra đối với hầu hết các quốc gia.

1.4 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ BIẾN ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ
Trong giai đoạn hiện nay, tỷ giá hối đoái rất nhạy cảm với tình hình kinh tế
chính trò xã hội, nó thường xuyên biến động, biến động hàng ngày, hàng giờ và nó
chòu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố: tốc độ lạm phát, tình hình cung cầu ngoại tệ,
lãi suất ngân hàng, chính sách kinh tế, kể cả các sự kiện chính trò xã hội, thiên
tai.... đặc biệt là chỉ số của nước Mỹ.
1.4.1 Quan hệ Cung Cầu
Khi có sự thay đổi trong lượng cung ứng hoặc lượng cầu về ngoại tệ của quốc
gia có nghóa là đường cầu hay đường cung ngoại tệ sẽ bò dòch chuyển, từ đó tạo
lập một tỷ giá hối đoái cân bằng mới trên thò trường ngoại hối.
Có rất nhiều nhân tố tác động đến sự thay đổi cung cầu ngoại tệ: xuất nhập
khẩu, đầu tư, dự trữ ngoại hối, can thiệp của chính phủ....
Cung ngoại tệ có nguồn gốc từ xuất khẩu, từ việc nước ngoài đầu tư vào thò
trường trong nước và mua tài sản trong nước. Cầu ngoại tệ xuất phát từ nhu cầu
nhập khẩu, từ việc đầu tư ra nước ngoài và mua tài sản của nước ngoài. Trong
điều kiện kinh tế thò trường, tỷ giá được hình thành là tỷ giá tại đó cung và cầu
ngoại tệ cân bằng trên thò trường tiền tệ. Nếu nhập khẩu của một quốc gia tăng,
nghóa là nhu cầu về ngoại tệ tăng lớn hơn cung ngoại tệ khi đó giá ngoại tệ sẽ


- 16 -
tăng khi những điều kiện khác không đổi. Ngược lại, nếu xuất khẩu gia tăng làm
cho cung ngoại tệ tăng lên lớn hơn cầu ngoại tệ thì giá ngoại tệ sẽ giảm.
Hình 1: Ảnh hưởng của Cung-Cầu đến sự hình thành tỷ giá







P
Q
D’
S
D
S’
1.50
1.60
1.55



Bên cạnh hoạt động xuất nhập khẩu còn có những chính sách thuế, chính
sách bảo hộ. Do đó, chỉ cần một trong những chính sách này có sự thay đổi cũng
dẫn đến sự thay đổi trong cung cầu ngoại tệ, từ đó dẫn đến sự thay đổi trong tỷ
giá. Chẳng hạn, khi Chính phủ gia tăng thuế đối với hàng nhập khẩu sẽ làm cho
giá hàng nhập khẩu gia tăng, trong điều kiện mặt hàng này co giản theo giá sẽ
dẫn đến nhu cầu đối với hàng hóa này giảm. Việc giảm nhu cầu hàng nhập khẩu
có nghóa là giảm nhu cầu về ngoại tệ, cho nên giá của đồng ngoại tệ sẽ giảm đi
hay nói khác hơn là đồng nội tệ tăng giá.
Ngoài ra, khi Chính phủ có nhu cầu gia tăng dự trữ ngoại hối quốc gia sẽ làm
cho nhu cầu ngoại tệ tăng, từ đó tỷ giá sẽ tăng và ngược lại.
1.4.2 Mức độ lạm phát
Dùng lý thuyết ngang giá sức mua, ta có thể đánh giá tác động có thể có của
lạm phát với tỷ giá hối đoái. Lý thuyết ngang giá sức mua (Phụ lục 3) cho rằng tỷ
giá hối đoái cân bằng sẽ điều chỉnh cùng một mức độ chênh lệch trong tỷ lệ lạm
phát của hai nước.


- 17 -

1.4.3 Lãi suất ngân hàng
*
Lãi suất tương đối: Thay đổi lãi suất tương đối tác động đến đầu tư chứng
khoán nước ngoài, và chính sự thay đổi này lại ảnh hưởng đến cung và cầu tiền và
vì thế ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Giả đònh rằng lãi suất của Mỹ tăng trong khi
lãi suất của Anh không thay đổi. Khi đó, các công ty Mỹ có khả năng sẽ giảm nhu
cầu của họ đối với đồng bảng Anh vì giờ đây lãi suất của Mỹ hấp dẫn hơn một
cách tương đối so với lãi suất của Anh, và vì thế có ít đầu tư vào các khoản ký gởi
tại ngân hàng Anh. Tuy nhiên, giờ đây lãi suất của Mỹ hấp dẫn hơn đối với các
công ty Anh với khoản tiền vượt trội nên cung bảng Anh (bởi các công ty Anh) sẽ
tăng khi họ thiết lập nhiều khoản ký gởi hơn vào ngân hàng Mỹ. Do một sự
chuyển dòch vào bên trong của đường cầu bảng Anh và sự dòch chuyển ra phía
ngoài của đường cung bảng Anh nên tỷ giá cân bằng sẽ giảm.
Hình 2: Ảnh hưởng của Lãi suất đến sự hình thành tỷ giá
S
D
D’

S’

1.50
1.55
Giá trò đồng bảng Anh
Số lượng đồng bảng Anh









*
Lãi suất thực: Nếu lãi suất cao có thể thu hút dòng vốn nước ngoài đầu tư
vào các chứng khoán có lãi suất cao thì lãi suất cao này có thể phản ánh dự kiến
lạm phát cao. Vì lạm phát cao có thể đặt áp lực giảm giá lên đồng tiền của nước
đó nên không khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài trong việc đầu tư vào các
chứng khoán đònh danh bằng đồng tiền này. Vì vậy cần phải xem xét đến lãi suất
thực, đó là lãi suất danh nghóa đã điều chỉnh theo tỷ lệ lạm phát.


- 18 -
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghóa - Tỷ lệ lạm phát
Chúng ta thường so sánh lãi suất thực giữa các quốc gia để đánh giá những
biến động của tỷ giá hối đoái vì nó kết hợp giữa lãi suất danh nghóa và tỷ lệ lạm
phát mà cả hai nhân tố này đều ảnh hưởng đến tỷ giá. Khi các nhân tố khác
không đổi, sẽ có một tương quan cao giữa chênh lệch lãi suất thực của hai quốc
gia với tỷ giá của hai đồng tiền của hai nước đó.
1.4.4 Thu nhập tương đối
Nhân tố thứ tư tác động đến tỷ giá hối đoái là mức thu nhập tương đối. Giả
đònh rằng thu nhập của Mỹ tăng đáng kể trong khi thu nhập của Anh vẫn không
thay đổi. Điều này sẽ tác động lên đường cầu bảng Anh, đường cung bảng Anh và
tỷ giá cân bằng. Đường cầu bảng Anh sẽ dòch chuyển ra phía ngoài phản ánh một
sự gia tăng trong thu nhập của Mỹ và vì thế làm tăng nhu cầu về hàng hóa Anh
của người Mỹ, trong khi đó đường cung bảng Anh không thay đổi. Vì vậy tỷ giá
cân bằng của đồng bảng Anh sẽ tăng lên.
Hình 3: Ảnh hưởng của Thu nhập tương đối đến sự hình thành tỷ giá








Giá trò đồng bảng Anh
D’

D
S
1.55
1.60
Số lượng đồng bảng Anh

1.4.5 Kiểm soát của Chính phủ
Nhân tố thứ năm ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái là kiểm soát của Chính phủ.
Chính phủ của nước ngoài có thể tác động đến tỷ giá qua nhiều cách khác nhau


- 19 -
như: áp đặt những rào cản về ngoại hối, rào cản về ngoại thương, can thiệp vào
thò trường ngoại hối và tác động đến những biến động vó mô như lạm phát, lãi suất
và thu nhập quốc dân. Nếu lãi suất của Mỹ tăng tương đối so với lãi suất Anh,
phản ứng dự kiến là cung bảng Anh sẽ tăng lên để đầu tư và hưởng lãi suất cao ở
Mỹ. Nhưng nếu chính phủ Anh áp đặt thuế cao lên thu nhập khi đầu tư nước ngoài
thì điều này có thể không làm giảm tỷ giá của bảng Anh so với đô-la.
1.4.6 Kỳ vọng
Nhân tố thứ sáu tác động đến tỷ giá hối đoái là kỳ vọng của thò trường vào tỷ
giá tương lai. Giống như các thò trường tài chính khác, thò trường ngoại hối phản
ứng lại với các thông tin trong tương lai có liên quan đến tỷ giá. Chẳng hạn, tin về
gia tăng lạm phát tiềm ẩn ở Mỹ có thể làm những nhà đầu cơ bán đồng đô-la vì

cho rằng đô-la sẽ giảm giá trong tương lai. Điều này sẽ gây áp lực làm giảm giá
đồng đô-la ngay lập tức. Trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính châu Á, nhiều
ngân hàng thương mại trên thế giới đã bán tháo các đồng tiền các nước châu Á để
mua những đồng tiền khác vì họ đánh giá rằng đồng tiền các nước châu Á được
đánh giá cao hơn giá trò thật của chúng. Hành vi này đã gây sức ép giảm giá đồng
tiền của các nước châu Á và các ngân hàng thương mại đã bò một số người chỉ
trích là đã hành động làm tăng thêm sự yếu kém của các đồng tiền này.
1.4.7 Những nhân tố khác
Khi tỷ giá được thả nổi thì nó rất nhạy cảm với những sự kiện kinh tế, chính
trò, xã hội, chiến tranh, kể cả yếu tố tâm lý, cụ thể như các nhân tố: chỉ số thất
nghiệp, chỉ số bán lẽ, kết quả của hội nghò G7, EU, ASEAN, sản lượng công
nghiệp, GDP, GNP, phát hành trái phiếu của Chính phủ....
Chẳng hạn, nguyên nhân làm cho tỷ giá giữa VND và USD gia tăng vào cuối
năm 2004 là do USD có dấu hiệu mạnh trở lại so với các đồng tiền chủ đạo khác
trên thò trường ngoại hối quốc tế, với sự kỳ vọng vào một số chỉ tiêu kinh tế Mỹ:
tăng trưởng, thất nghiệp, thâm hụt ngân sách, sức mua của người tiêu dùng... có
dấu hiệu hồi phục theo chiều hướng tích cực. Bên cạnh đó, lãi suất chủ đạo của
Cục dự trữ liên bang Mỹ – FED đối với USD hai lần được điều chỉnh tăng trong


- 20 -
tháng 7 và tháng 8/2004, từ mức 1,0%/ năm lên 1,25% và 1,50%/năm, làm cho
giới đầu tư tin tưởng vào sự tiếp tục tăng giá của đồng USD. Nguyên nhân thứ 2 là
do tâm lý người dân lo ngại lạm phát gia tăng khi chỉ số tăng giá tiêu dùng hết
tháng 8/2004 được công bố là 8,3%, mức tăng cao nhất trong 10 năm gần đây.
Ngoài ra là tâm lý về việc đồng tiền có mệnh giá 100.000 đồng bằng chất liệu
polymer được đưa ra lưu thông từ đầu tháng 9/2004; giá vàng cũng có hướng tăng
nhẹ nên người dân có xu hướng lựa chọn USD cho các nhu cầu cất giữ, gửi tiết
kiệm...
1.5 ẢNH HƯỞNG CỦA TỶ GIÁ ĐẾN NỀN KINH TẾ

Tỷ giá hối đoái là một công cụ kinh tế vó mô chủ yếu để điều tiết cán cân
thương mại quốc tế theo mục tiêu đã đònh trước của một quốc gia.

Việc thay đổi tỷ
giá sẽ ảnh hưởng đến các lónh vực, các doanh nghiệp có thu chi ngoại tệ từ đó ảnh
hưởng đến toàn bộ nền kinh tế... Tỷ giá hối đoái không chỉ có tác động đến giá cả
hàng hóa trong nước, mà còn tác động rất lớn đến xuất nhập khẩu hàng hóa, cũng
như đến xuất nhập khẩu tư bản (vốn). Vì vậy, nó tác động đến toàn bộ nền kinh tế
quốc dân.
1.5.1 Tỷ giá hối đoái và ngoại thương
Vào năm 2000 với mức tỷ giá 1USD =14.000VND một chiếc xe máy với giá
6000USD nhập khẩu sẽ được tính tương đương thành tiền Việt Nam là 84 triệu
đồng. Đến năm 2002, với tỷ giá 1USD = 15.000VND thì cũng chiếc xe máy đó chỉ
có thể nhập khẩu và bán với giá 90 triệu đồng; Ngược lại, 1tấn gạo với chi phí sản
xuất 3,5triệu đồng thì vào năm 2000 có thể thu lãi với giá xuất khẩu trên
250USD/tấn, nhưng với tỷ giá năm 2002 (cùng điều kiện các yếu tố khác không
đổi) thì ta có thể xuất khẩu có lãi với giá chỉ trên 234USD. Từ đó, nếu các yếu tố
khác là không đổi, thì khi tỷ giá tăng từ 1USD = 14.000VND lên 1USD =
15.000VND (USD tăng giá hay VND giảm giá) đã làm cho hàng nhập khẩu trở
nên đắt hơn còn hàng xuất khẩu trở nên rẻ hơn, từ đó có thể làm giảm nhập khẩu
và tăng xuất khẩu. Chúng ta sẽ có kết quả ngược lại nếu USD mất giá và VND
tăng giá.


- 21 -
Như vậy, khi tỷ giá tăng, tức giá trò đồng nội tệ giảm nên giá cả hàng hóa
xuất khẩu tính bằng tiền nước ngoài giảm, sức cạnh tranh của hàng hóa đó trên thò
trường thế giới sẽ tăng lên có tác dụng đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Đồng thời
việc tỷ giá tăng làm cho giá hàng hóa nhập khẩu tăng lên dẫn đến hạn chế nhập
khẩu. Ngược lại, khi tỷ giá giảm, nghóa là giá trò đồng nội tệ tăng thì có tác động

giảm xuất khẩu và tăng nhập khẩu hàng hóa.
Khi tỷ giá thay đổi cũng có tác động điều tiết việc di chuyển tư bản từ quốc
gia này sang quốc gia khác. Việc di chuyển tư bản trên thế giới nhằm mục đích là
tìm kiếm lợi nhuận và tránh rủi ro. Do vậy, nếu tỷ giá giảm, trong trường hợp
người ta dự đoán tỷ giá không tiếp tục giảm nữa thì tư bản nhập khẩu sẽ gia tăng
và tư bản xuất khẩu sẽ giảm. Nếu tỷ giá tăng, trong điều kiện dự đoán nó không
tiếp tục tăng nữa thì tư bản xuất khẩu sẽ tăng và tư bản nhập khẩu sẽ giảm.
1.5.2 Tỷ giá hối đoái và sản lượng, công ăn việc làm, lạm phát
Với mức tỷ giá 1USD =14.000VND của năm 2000 thấp hơn mức 1USD =
15.000VND của năm 2002, tức tiền Việt Nam mất giá và nếu giả đònh mặt bằng
thế giới là không đổi, thì không chỉ có xe máy nhập khẩu tính bằng tiền Việt Nam
tăng giá mà tất cả các sản phẩm nhập khẩu đều rơi vào tình trạng tương tự, trong
đó có cả nguyên vật liệu, máy móc cho sản xuất. Nếu tất cả các yếu tố khác trong
nền kinh tế là không đổi, thì điều này tất yếu sẽ làm cho mặt bằng giá cả trong
nước tăng lên. Nếu tỷ giá tiếp tục gia tăng qua các năm có nghóa là lạm phát đã
tăng. Nhưng bên cạnh đó, đối với các lónh vực sản xuất chủ yếu dựa vào nguồn
lực trong nước, thì sự tăng giá của hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh
tranh cho các lónh vực này, giúp phát triển sản xuất và từ đó có thể tạo thêm công
ăn việc làm, giảm thất nghiệp, sản lượng quốc gia có thể tăng lên. Và ngược lại
nếu đồng Việt Nam tăng giá khi các yếu tố khác không đổi thì lạm phát sẽ giảm,
khả năng cạnh tranh của các lónh vực sản xuất trong nước cũng có xu hướng giảm,
sản lượng quốc gia có thể giảm, thất nghiệp có thể tăng lên...(Phụ lục 4)




- 22 -
1.6 KINH NGHIỆM ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA CÁC QUỐC GIA
1.6.1 Kinh nghiệm điều hành tỷ giá ở Trung Quốc: Chính sách tỷ giá ở nền
kinh tế chuyển đổi.

Quá trình chuyển đổi chế độ tỷ giá ở Trung Quốc có thể chia thành 4 giai
đoạn:
- Từ năm 1949-1979: Trong thời kỳ này, nền kinh tế Trung Quốc quản lý
theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, Chính phủ thực hiện quản lý tập trung đối với
hoạt động ngoại hối, áp dụng chế độ tỷ giá cố đònh và tỷ giá này do Ngân hàng
nhân dân Trung Quốc công bố.
- Từ năm 1980-1990: Cùng với cải cách kinh tế năm 1979, chế độ tỷ giá
được thay đổi theo hướng gia tăng yếu tố thò trường. Bên cạnh tỷ giá chính thức do
Ngân hàng nhân dân Trung Quốc công bố, còn có tỷ giá mua bán trên thò trường.
Mặc dù tỷ giá chính thức được điều chỉnh nhiều lần nhưng tỷ giá trên thò trường
ngoại tệ luôn có xu hướng cao hơn tỷ giá chính thức.
- Từ năm 1991 Trung Quốc hướng tới chuyển đổi chế độ tỷ giá cố đònh sang
chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Tuy nhiên, tỷ giá chính thức vẫn ít được áp dụng
hơn tỷ giá thò trường. Từ năm 1993, thò trường ngoại hối giữa các doanh nghiệp
phát triển mạnh và hơn 80% sử dụng tỷ giá của thò trường. Sự sai lệch giữa tỷ giá
chính thức và tỷ giá thò trường gây ra những tác động tiêu cực, lượng ngoại tệ do
dân cư nắm giữ rất lớn trong khi dự trữ ngoại hối của quốc gia còn hạn chế.
- Từ năm 1994 Trung Quốc có nhiều chuyển biến lớn trong việc điều hành
chỉnh sách tỷ giá: đưa tỷ giá chính thức lên mức cân bằng với tỷ giá thò trường để
thống nhất hai tỷ giá và thực hiện chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý, tạo điều kiện
cho việc chuyển đổi đồng Nhân dân tệ.
Từ năm 1994 đến nay, Trung Quốc vẫn áp dụng cơ chế tỷ giá thả nổi có
quản lý của Nhà nước. Ngân hàng nhân dân Trung Quốc chủ yếu sử dụng biện
pháp kinh tế thông qua việc mua bán ngoại tệ trên thò trường để điều chỉnh tỷ giá
ở mức độ phù hợp.


- 23 -
Như vậy, quá trình chuyển đổi chế độ tỷ giá của Trung Quốc gắn liền với
công cuộc cải cách nền kinh tế và có xu hướng ngày càng gia tăng yếu tố thò

trừơng.
1.6.2 Kinh nghiệm điều hành tỷ giá ở Thái Lan
Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực châu Á năm 1997 mà Thái
Lan là nơi đầu tiên giảm giá đồng tiền của mình.
Nhằm kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, Thái Lan đã dùng chính
sách phá giá nhẹ đồng THB vào tháng 05 năm 1981 và tháng 11 năm 1984.
Nhưng cũng từ đó đến khi cuộc khủng hoảng xảy ra thì tỷ giá của THB so với
USD gần như cố đònh, chỉ dao động quanh 25THB/USD. Tuy nhiên, xuất khẩu của
Thái Lan chiếm hơn 70% GDP hàng năm, lại tập trung vào một số mặt hàng chủ
lực, cán cân thương mại thâm hụt từ 10% năm 1990 lên 60-70% so với xuất khẩu
năm 1997. Nền kinh tế Thái Lan bắt đầu sa sút từ cuối năm 1995, tốc độ tăng
trưởng giảm, thâm hụt tài khoản vãng lai cao, nợ nước ngoài tăng. Thò trường
chứng khoán suy sụp từ cuối năm 1996, các nhà đầu cơ quốc tế lại tấn công vào
đồng THB làm cho giá trò đồng THB giảm mạnh. Đến ngày 02/07/1997 chính phủ
Thái Lan tuyên bố thả nổi đồng THB. Đến cuối năm 1997, nợ nước ngoài của
Thái Lan lên đến 88 tỷ USD và dự trữ ngoại tệ tụt xuống còn 28 tỷ USD.
Đây là bài học trong việc đưa ra một chính sách tỷ giá thích hợp, hạn chế tối
đa những tác hại đến nền kinh tế bởi vì chính sách tỷ giá ảnh hưởng đến xuất
nhập khẩu, tổng sản phẩm quốc dân cũng như tốc độ phát triển kinh tế của một
quốc gia.
1.6.3 Kinh nghiệm điều hành tỷ giá ở Chi Lê
Nếu so sánh giữa hai lựa chọn chế độ tỷ giá neo cứng và thả nổi, chế độ tỷ
giá hối đoái neo cứng có thể làm tăng đáng kể ngoại thương, khuyến khích xuất
khẩu, tạo ra một mức neo danh nghóa và tránh hiện tượng đầu cơ. Trong khi đó,
chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi tạo ra mức độ độc lập tiền tệ cao hơn, tạo ra cơ chế
điều chỉnh tự động đối với các cú sốc thương mại từ bên ngoài và tránh được
những sự tấn công mang tính chất đầu cơ.


- 24 -

Chile áp dụng chế độ neo tỷ giá nhích dần lên (crawing peg) trong những
năm 80 để thúc đẩy tăng trưởng qua xuất khẩu và duy trì chế độ này cho đến khi
nổ ra khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở châu Á.
Khi nổ ra khủng hoảng tài chính ở châu Á, các điều kiện thương mại ở Chile
trở nên xấu đi, nợ khu vực doanh nghiệp tư nhân tăng lên đáng kể và thâm hụt
cán cân vãng lai. Chile đã thực hiện các biện pháp ổn đònh tình hình, và khi tình
hình được ổn đònh Chile quyết đònh thả nổi đồng tiền của mình. Chile đặt mục tiêu
ưu tiên giữ lạm phát ở mức 3% và việc thả nổi tỷ giá này đã tạo ra sự linh hoạt
hơn và minh bạch hơn trong chính sách tiền tệ.
Qua tìm hiểu kinh nghiệm về chính sách tỷ giá của các nước, ta nhận
thấy rằng:
- Lựa chọn chế độ tỷ giá hối đoái của mỗi nước tuỳ thuộc vào điều kiện thực
tế của nước đó. Các chính phủ có thể áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái hỗn hợp hay
độc lập, có thể thực thi một chế độ tỷ giá hối đoái cố đònh trong một vài năm, sau
đó có thể thả nổi rồi trở lại cố đònh hay bán thả nổi.... Nó tuỳ thuộc vào độ tự do
hóa tài chính, tự do hóa thương mại, năng lực kinh tế của mỗi nước cũng như mục
tiêu phát triển của quốc gia.
- Thành công của một chế độ tỷ giá ở nước này không nhất thiết sẽ thành
công ở nước khác. Nó tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước và năng lực
vận hành cơ chế, chính sách của Chính phủ của mỗi nước.
- Điều hành chế độ tỷ giá gắn liền với các biện pháp can thiệp của Chính
phủ, như việc dựa hẳn vào quy luật thò trường hay sử dụng nhiều biện pháp hành
chính. Nếu sử dụng quá nhiều biện pháp hành chính thì quy luật thò trường bò bóp
méo và sẽ làm nảy sinh một chế độ đa hối suất mà đặc trưng là một tỷ giá cố đònh
hoặc bán thả nổi hợp pháp trên thò trường chính thức và một tỷ giá thả nổi bất hợp
pháp trên thò trường chợ đen.





- 25 -
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ CƠ CHẾ
ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM


Từ nhiều năm qua, song song với tiến trình đổi mới của đất nước nói chung
và cơ chế quản lý kinh tế nói riêng, cơ chế quản lý tỷ giá hối đoái ở Việt Nam
cũng đã có những thay đổi quan trọng để phù hợp với hiện trạng của nền kinh tế.
Có thể nghiên cứu cơ chế điều hành tỷ giá của Việt Nam theo những giai đoạn
sau:
2.1 GIAI ĐOẠN TỶ GIÁ CỐ ĐỊNH
2.1.1 Giai đoạn trước năm 1989
Trước năm 1989, nước ta thực hiện chính sách tỷ giá cố đònh, giá cả ngoại tệ
do Ngân hàng Nhà nước quyết đònh và hầu như cố đònh theo thời gian. Trong thời
gian đó, ở nước ta tỷ giá hối đoái cố đònh được ấn đònh rất cao, vừa không phản
ánh đúng quan hệ cung cầu trên thò trường ngoại hối, vừa không phản ánh đúng
giá trò của đồng tiền nội tệ. Có thể nói tỷ giá hối đoái của đồng tiền Việt Nam lúc
bấy giờ chỉ là hệ số quy đổi để các công ty thương mại quốc doanh lập kế hoạch
và tính toán nội bộ. Vì vậy mới xuất hiện hiện tượng có nhiều tỷ giá khác nhau: tỷ
giá mậu dòch, tỷ giá phi mậu dòch, tỷ giá kết toán nội bộ, và các tỷ giá trên thò
trường tự do theo quan hệ cung cầu.
- Tỷ giá mậu dòch (tỷ giá chính thức):
Tỷ giá này lần đầu tiên được xác đònh giữa đồng Việt Nam và Nhân dân tệ
(CNY) của Trung Quốc vào ngày 25/11/1955 là 1CNY=1470 VND. Đó là tỷ giá
được xác đònh trên cơ sở giá bán lẽ của 34 mặt hàng ở Hà Nội và Bắc Kinh cùng
một số tỉnh biên giới hai nước Việt Nam, Trung Quốc, với mục đích giải quyết nhu
cầu thanh toán giữa hai nước trong giai đoạn kháng chiến chống Pháp.
Đến ngày 31/05/1956 Việt Nam và Liên Xô ký kết hiệp đònh về tỷ giá chính
thức giữa đồng Việt Nam và đồng SUR dựa trên cơ sở tính chéo tỷ giá VND/CNY
và tỷ giá CNY/SUR. Vào thời điểm này 1CNY= 2SUR, do đó 1SUR=735 VND.



×