Tải bản đầy đủ (.doc) (52 trang)

đánh giá sự chấp nhận của test thử thai bán định lượng βhcg so với khám theo dõi thường quy sau phá phá thai nội khoa tại bệnh viện phụ sản trung ương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.62 KB, 52 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Phá thai nội khoa được thực hiện tại Việt Nam từ năm 1992 tại BV
Hùng Vương và 2001 tại BV PSTW. Phá thai nội khoa có tỷ lệ thành công
cao: 92% - 97% [2].
Tái khám theo dõi thường quy đối với phá thai nội khoa là cần thiết để
đỏnh giá thai đã sẩy hoàn toàn và cần cú thờm những chăm sóc tiếp theo.
(Schhaff &cs (2000); Creinin (2004): phần lớn không cần điều trị gỡ
thờm; chỉ 2-5% cần tiến hành thủ thuật hút thai do sẩy không trọn; chảy máu
nhiều: 1/1000).
Theo dõi thường quy có một số hạn chế: Tăng chi phí, mất thời gian,
giảm sự chấp nhận, tỷ lệ mất dấu cao: 20-30%. Mặt khác, câu hỏi phỏng vấn
chưa được chuẩn hóa; chưa đánh giá một cách có hệ thống để xác định khách
hàng cần trở lại tái khám vì vậy cần xây dựng quy trình theo dõi an toàn và
được chuẩn hóa thay cho việc tái khám thường quy là cần thiết.
Chúng tôi đưa ra phương pháp sử dụng phương thức thay thế gồm: Thử
thai bằng que thử thai và đỏnh giá qua điện thoại bằng bộ phỏng vấn tự trả lời
Đây là phương thức an toàn thay thế cho khám thường quy bởi người phụ
nữ có thể xác định được kết quả sau phá thai. Trong số phụ nữ phải quay lại
phòng khám: 82% phụ nữ nhận diện đúng cần hút lại hay điều trị nhiễm trùng
Test thử thai bán định lượng giúp xác định sẩy thai trọn: Đo lường hCG trong
huyết thanh tốn kém, nhiều cơ sở không thực hiện được, còn đo lường hCG
trong nước tiểu: rẻ, đặc hiệu.
Việc sử dụng test thử thai bán định lượng giúp việc sử dụng siêu âm
chẩn đoán giảm 40%. Nghiên cứu tại Việt Nam trên 300 phụ nữ: 97% nhận
1
diện đúng kết quả phản ánh nồng độ òhCG; 90% phụ nữ đọc kết quả trùng với
bác sỹ.
Ở Việt nam Chưa có một nghiên cứu hoàn thiện nào về phương thức
thay thế cho khám thường quy sau phá thai nội khoa, và đánh giá sự hài lòng
của bệnh nhõn với phương pháp này, vì vậy chúng tôi thực hiện đề tài “ Đánh
giá sự chấp nhận của test thử thai bán định lượng


β
hCG so với khám theo
dõi thường quy sau phá thai nội khoa tại BVPSTƯ ” với hai mục tiêu
chớnh:
1. Đánh giá hiệu quả của bộ câu hỏi tự trả lời và thử thai bán định lượng
β
hCG để phát hiện những trường hợp cần can thiệp bổ sung sau phá
thai nội khoa trong giai đoạn dưới 9 tuần.
2. Đánh giá khả năng chấp nhận của người cung cấp dịch vụ và khách
hàng với từng phương thức theo dõi sau phá thai nội khoa.
2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Các phương pháp phá thai đến 12 tuần:
1.1.1. Hút thai:
Hút thai là phương pháp được sử dụng nhiều nhất để phá thai đến 12
tuần. Có thể hút bằng máy hoặc hút bằng tay. Nhìn chung, phương pháp hút
thai được ưa chuộng hơn phương pháp nong và nạo, vì phương pháp này an
toàn, hiệu quả và dễ chịu hơn đối với khách hàng. Số tai biến cũng như tỷ lệ
tai biến nặng của phương pháp hút đều chỉ bằng một nửa so với phương pháp
nong và nạo [9]. Với phương pháp hút bằng máy, áp lực được máy hút tạo ra
có tác dụng hút rau và tổ chức thai qua ống hút vào trong một bình chứa. Khi
sử dụng phương pháp hút thai bằng tay, người cung cấp dịch vụ có thể lấy tổ
chức thai bằng cách sử dụng một bơm hút bằng tay với lực hút nhẹ.
1.1.2. Phương pháp nong và nạo:
Là thủ thuật nong cổ tử cung bằng dụng cụ, rồi gắp thai, rau và nạo sạch
buồng tử cung bằng thìa nạo. Do cần phải nong rộng cổ tử cung nên nguy cơ rách
CTC tăng lên. Tai biến của phương pháp này bao gồm: chảy máu, nhiễm trùng tiểu
khung, tổn thương CTC, thủng TC do nạo cao hơn do hút.
1.1.3. Phương pháp phá thai nội khoa:

Phá thai nội khoa là phương pháp dùng thuốc để chấm dứt thai nghén,
đã được các thầy thuốc nghiên cứu nhiều năm. Từ khi được tuyên bố và công
nhận chính thức là một phương pháp phá thai ở các nước phương Tây,
phương pháp phá thai bằng Mifepristone kết hợp với Misoprostol ngày càng
được các thầy thuốc và chị em phụ nữ hưởng ứng. Phương pháp phá thai này
có thể áp dụng cho tuổi thai từ 5 đến 9 tuần, kể từ ngày đầu tiên của kỳ kinh
3
cuối cùng. Tuổi thai có liên quan đến tỷ lệ thành công của phương pháp. Tuổi
thai càng lớn, tỷ lệ thất bại có tăng và nếu thai đến 9 tuần, cần thiết phải tìm
một phác đồ khác [6]. Hiệu quả cao nhất đạt được ở tuổi thai đến 7 tuần.
Phương pháp phá thai nội khoa đã cho người phụ nữ một sự lựa chọn mới để
chấm dứt thai nghén. Một số nghiên cứu mới đây cho thấy nhiều phụ nữ ưa
thích phương pháp phá thai nội khoa hơn phá thai ngoại khoa và khi được lựa
chọn, có nhiều phụ nữ đã lựa chọn phá thai nội khoa [1]. Phụ nữ lựa chọn phá
thai nội khoa cho biết phương pháp này có tính riêng tư hơn, người phụ nữ
được tự chủ hơn, phương pháp ít xâm hại hơn và có vẻ tự nhiên hơn phá thai
ngoại khoa. Các nhược điểm thường được nhắc đến gồm đau bụng, thời gian
ra máu, số lần thăm khám và thời gian phải chờ đợi tới khi kết thúc quá trình
sẩy thai nhiều hơn so với phá thai ngoại khoa.
Hiện nay có nhiều phác đồ được áp dụng để phá thai sớm, khác nhau về
liều dùng, đường dùng và khoảng cách dùng thuốc:
- Uống 200mg Mifepristone, sau 6-8 giờ đặt âm đạo 800 g
Misoprostol để chấm dứt thai nghén đến 7 tuần. Tỷ lệ thành công là 92% [10].
- Dùng 200mg Mifepristone kết hợp với 600 g Misoprostol uống sau
24 giờ trong phá thai đến 7 tuần. Tỷ lệ thành công là 94% [5].
- Dùng 200 Mifepristone đường uống, sau 48 tiếng đặt âm đạo 800 g
Misoprostol (4 viên 200 g) áp dụng cho thai đến 9 tuần, tỷ lệ thành công tới
96% [35].
- Ngày thứ nhất uống 200mg Mifepristone, sau 48 tiếng 400 g áp
dụng cho thai đến 7 tuần, tỷ lệ thành công là 94% [11].

- Chỉ sử dụng Misoprostol đường đặt âm đạo hoặc ngậm dưới lưỡi để phá thai
sớm đến 9 tuần. Tỷ lệ thành công từ 88 đến 90% [16].
4
1.2. Tổng quan về Mifepristone và Misoprostol:
1.2.1. Misoprostol:
1.2.1.1. Dược động học:
Misoprostol là dẫn chất tổng hợp có tác dụng tương tự prostaglandin
E1,Thuốc được trình bày dưới dạng viờn nộn cú hàm lượng là 200 g. 
* Hấp thu, phân phối, chuyển hoá, thải trừ:
Misoprostol hấp thu rất nhanh sau khi uống, tỷ lệ hấp thu trung bình là
88%, sau đó trải qua quá trình khử ester hoá rất nhanh tạo thành dạng acid tự do.
Misoprostol dạng acid là dạng có hoạt tính chủ yếu của thuốc. Nồng độ cao nhất
trong huyết tương là 30 phút sau khi uống hoặc 1-2 giờ sau khi đặt âm
đạo. Thuốc thải trừ chủ yếu qua thận, thải trừ hầu hết sau 24 giờ. Thời
gian bán huỷ là 20 - 40 phút.
0
0
50
100
150
200
250
300
350
60 120 180 240
©m ®¹o
uèng
n
å
n

g

®
é

a
x
Ý
t

M
i
s
o
p
r
o
s
t
o
l

t
r
o
n
g

h
u

y
Õ
t

t

¬
n
g
thêi gian (phót)
(
p
g
/
m
l
)
Hình 1.1: Phân bố nồng độ Misoprostol trong huyết tương
Thời gian hấp thu và thải trừ của MSP khác nhau phụ thuộc vào đường
dùng. Có thể dùng đường uống, ngậm trong má, ngậm dưới lưỡi, đặt âm đạo, hoặc
đặt vào trực tràng.
5
Dùng thuốc đường âm đạo thì nồng độ đỉnh trong huyết tương và nồng
độ trung bình trong huyết tương thường thấp hơn đường uống nhưng thời gian
tác dụng lại dài hơn.
1.2.1.2. Tên và công thức hoá học:
Tờn hoá học của Misoprostol (Cytotec) là: Methyl -11 (13E), 16
Dihydroxy-16 Methyl-9 oxypropst - 13 - Enoate [37] và công thức hoá học là
C
22

H
38
O
5
.
1.2.1.3. Tác dụng:
Misoprostol đầu tiên được dùng để điều trị và phòng ngừa viêm loét dạ
dày, tá tràng [3], sau đó được dùng trong sản khoa với tác dụng gây cơn co tử
cung và làm chín muồi CTC:
- Tác dụng làm chín muồi cổ tử cung của MSP trước khi làm thủ thuật
như nong nạo, soi buồng TC, làm giảm nguy cơ tổn thương CTC, đặc biệt ở
thì nong CTC giúp thủ thuật được tiến hành dễ dàng, an toàn, rút ngắn thời
gian làm thủ thuật.
Năm 1995, tại Hồng Kụng, Suk Wai Ngai và cộng sự đã nghiên cứu dùng
Misoprostol để làm mềm CTC trước khi nạo hút thai. 32 phụ nữ có thai từ 6 đến
12 tuần được uống Misoprostol trước khi làm thủ thuật 12 giờ. Độ mở CTC
trung bình sau dùng thuốc là 8,1 1,7 mm (đo bằng nong Hegar) [16]. 
- Tỏc dụng gây sẩy thai: MSP có tác dụng gây sẩy thai ở các tuổi thai
khác nhau. Tỷ lệ thành công phụ thuộc vào tuổi thai, liều lượng và cách dùng.
Có thể dùng MSP đơn độc hoặc kết hợp với Mifepristone.
- Tác dụng dự phòng và điều trị chảy máu sau đẻ:
+ Nghiên cứu của Brien và cộng sự năm 1998 đã công bố kết quả của
MSP dùng đường đặt trực tràng để điều trị cho 14 trường hợp chảy máu sau
6
đẻ không đáp ứng với điều trị bằng Oxytoxin và Ergometrin. Sau khi đặt
1.000 g  Misoprostol trong 3 phút, tất cả các trường hợp này đều không
chảy máu do tử cung co chặt và không phải dựng thờm một phương pháp
cầm máu nào khác [16].
- Tác dụng làm chín muồi CTC gây chuyển dạ [20] [21] được áp dụng
trong các trường hợp thai quá ngày sinh, thai bệnh lý, thiểu ối, vỡ ối non

Trong lĩnh vực sản phụ khoa, với các mục đích khác nhau, MSP được
sử dụng với những liều lượng rất khác nhau, liều dùng thay đổi trong khoảng
từ 25 g (để gây chuyển dạ) tới 200 - 300 g (làm chín muồi cổ tử cung) có 
thể đến tổng liều 2.400 g để gây sẩy thai. 
Về độc tính của Misoprostol: năm 1991 có một báo cáo ghi nhận trẻ bị
dị dạng có thể do dùng Misoprostol để gây sẩy thai thất bại. Khả năng gây
độc và gây dị dạng có thể do tác dụng co cơ tử cung gây thiếu máu cho thai
nhi. Ngộ độc MSP cần được điều trị tích cực bằng cách uống than hoạt. Nếu
do dùng thuốc đặt âm đạo cần lấy hết thuốc chưa tan hết và rửa sạch âm đạo.
Một ưu điểm của thuốc là giá rẻ, dễ bảo quản và dễ sử dụng. Liều độc của
thuốc chưa được xác định trên người. Những triệu chứng quá liều do dùng
thuốc là: Khó thở, co giật, nhịp tim chậm và hạ huyết áp.
1.2.1.4. Tác dụng phụ:
Những tác dụng phụ của Misoprostol gồm: Buồn nôn, nôn, tiêu
chảy, sốt, đau bụng, rột… Tuy nhiên các tác dụng phụ này thường nhẹ và
đáp ứng với các thuốc điều trị thông thường. So với các prostaglandin
khỏc thỡ Misoprostol ít tác dụng lên hệ tim mạch, hệ hô hấp nên có thể
dùng cho các bệnh nhân cao huyết áp và hen. Các tác dụng phụ thường
mất đi sau khi dùng thuốc từ 3 đến 5 giờ [19].
7
1.2.2. Mifepristone (Ru 486):
1. 2.2.1. Dược động học:
Mifepristone là một hormon steroid, chất này có tác dụng ngăn cản sự
hoạt động của progesteron và glucocorticoid, do tranh chấp mạnh mẽ với thụ
thể tiếp nhận của 2 chất này. Thử nghiệm sinh học trên động vật đã chỉ ra
rằng chất này có tác dụng kháng progestin và glucocorticoid.
Progesteron rất cần thiết cho sự hình thành và phát triển thai nghén. Vì
cơ chế này Mifepristone có thể gây sẩy thai.
Tờn hoá học là (11 - [4-(Dimethylanimo) Phenyl]-17-Hydroxyl -17[1-
Propynyl ] - (11 , 17 ) - Estra - 4,9  - dien - 3 One).

Công thức hoá học là : C
29
H
35
N
1
0
2
.
* Hấp thu, chuyển hoá và thải trừ:
Mifepristone được dùng theo đường uống. Nồng độ của Mifepristone
trong huyết tương đạt đỉnh cao nhất vào thời điểm 1 giờ sau khi uống. Liều
dùng của Mifepristone có thể thay đổi trong khoảng từ 50mg đến 800mg.
Sau khi uống Mifepristone được hấp thu vào máu, chuyển hoá tại hệ tuần
hoàn. Nghiên cứu trên khỉ người ta thấy rằng nếu dùng đường tiêm bắp thì
Mifepristone hấp thu vào máu rất chậm. Trên người để phá thai dùng đường
đặt âm đạo không phải là cách có hiệu quả. Độ thanh thải của Mifepristone
trên người là 30 lít/ ngày, thấp hơn so với Estrone Sulfat (160 lít/ ngày) và
thấp hơn nhiều so với Cortisol (200 lít/ ngày) [7]. Đây là 2 Steroid tự nhiên có
độ thanh thải thấp ở người. Điều này cần lưu ý khi dùng RU 486 để phá thai
thì cần phải lựa chọn liều nhỏ nhất có thể được và đặc biệt phải lưu ý trên
những người suy gan suy thận. Mifepristone không gắn kết với Globulin
Cortisol và Steroid sinh dục.
8
Sau khi dùng đường uống với liều từ 50 -800mg thì nồng độ Mifepristone
trong huyết thanh đạt cao nhất sau 1 giờ. Dùng với liều duy nhất 100mg hoặc
ít hơn thì thời gian bán huỷ là 20 – 25 giờ, sau đó là đào thải hoàn toàn. Nếu
dùng liều từ 200 – 800mg thì đầu tiên có sự phân bố lại thuốc trong cơ thể
kéo dài từ 6 – 10 giờ, sau đó dừng ở mức độ cao trong vòng 24 giờ. Nếu dùng
với liều cao như thế này không có sự khác biệt về nồng độ Mifepristone trong

huyết thanh trong vòng 48 giờ, trong thời gian này nồng độ Mifepristone
trong huyết tương dao động rất thấp . Đường đào thải chủ yếu của
Mifepristone là qua phân, qua nước tiểu (đường thận < 10%) [7].
1.2.2.2. Cấu trúc:
RU 486 có cấu trúc tương tự progesteron và glucocorticoid, nhưng do
thiếu nhóm Methyl ở vị trí C19 và 2 cacbon ở chuỗi bên vị trí C17, và có nối
đôi ở vị trí C9, C10. RU 486 là dẫn xuất của Norethindrone, nhưng khác ở
chỗ: 4- phenyl ở vị trí 11ỏ và chuỗi L – propynyl ở vị trí 17 ỏ. Chính ở vị trí
này làm tăng khả năng gắn của RU 486 vào thụ thể tiếp nhận của progesteron
mạnh hơn norethindrone. Cấu trúc hoá học của cỏc khỏng progestin thì tương
tự như Mifepristone [7].
* Dạng trình bày:
Thuốc được trình bày dưới dạng viờn nộn hàm lượng 200mg.
1.2.2.3. Sử dụng trong sản khoa:
Nhiều ứng dụng lâm sàng của Mifepristone được nghiên cứu nhưng
phần lớn là sử dụng để phá thai. Khi sử dụng đơn thuần trong giai đoạn đầu
thai nghén Mifepristone gây sẩy thai từ 60 -80%. Hiệu quả phá thai đạt đến
95% nếu dùng phối hợp Prostaglandin sau 48 giờ. Do có khả năng làm giãn
nở và mềm CTC nờn nú được sử dụng để chuẩn bị cho phá thai 3 tháng đầu
cũng như phá thai 3 tháng giữa [14].
9
RU 486 được chứng minh là có hiệu qủa tránh thai cao được dùng như
một biện pháp tránh thai khẩn cấp sau giao hợp . Mifepristone có tác dụng
tránh thai thông qua cơ chế làm hỏng niêm mạc cử cung ở liều thấp, mà ở
liều này không làm thay đổi húc mụn khỏc trong kỳ kinh [7]. RU 486 cũng
được thử nghiệm về các ứng dụng khác trong sản phụ khoa như điều trị lạc
nội mạc tử cung, u xơ tử cung…Bờn cạnh đó, thuốc cũng được sử dụng để
điều trị các bệnh khác dựa vào tác dụng kháng glucocorticoid như bệnh
Cushing, hay làm giảm áp lực nhãn cầu trong bệnh glocom …
1.2.2.4. Tác dụng phụ:

Có rất ít tác dụng phụ xảy ra sau khi uống Mifepristone thường gặp là:
Nôn, buồn nôn, đau bụng, ra máu âm đạo. Những tác dụng phụ này thường rất
nhẹ, ít khi có ra máu âm đạo. Nếu có ra máu âm đạo chỉ gặp với lượng rất ít.
1.3. Phá thai nội khoa
1.3.1. Tình hình phá thai bằng thuốc trên thế giới :
Phương pháp phá thai nội khoa làm tăng khả năng tiếp cận với dịch vụ
phá thai an toàn bởi vì các thầy thuốc có thể cung cấp biện pháp này ở những
nơi mà không sẵn có biện pháp phá thai ngoại khoa. Tháng 7 năm 1998, một
nhúm cỏc nhà nghiên cứu, nhân viên y tế, người ủng hộ tích cực cho phụ nữ,
nhà tài trợ và đại diện của các Bộ y tế đã họp tại Bellagio, Italy để thảo luận
về tiềm năng của biện pháp phá thai nội khoa trên trường quốc tế. Sau nhiều
cuộc tranh luận, nhóm đã đi đến nhất trí rằng phác đồ Mifepristone kết hợp
với prostaglandin thích hợp, có thể được cung cấp một cách an toàn, hiệu quả
và được phụ nữ ở các nước chấp nhận [1].
Phá thai bằng Misoprostol đơn thuần có nhiều hứa hẹn nhằm tăng
thêm sự lựa chọn phác đồ phá thai cho người phụ nữ. Nhiều nghiên cứu được
10
tiến hành để đánh giá tính hiệu quả của Misoprostol dùng đơn thuần trong thai
nghén 3 tháng đầu. Vì Misoprostol sẵn có ở thị trường, giá rẻ và dễ sử dụng
nên phụ nữ trên thế giới bắt đầu sử dụng Misoprostol để phá thai. Hầu hết các
nghiên cứu đã xác nhận tính hiệu quả của Misoprostol với liều 800g đặt âm
đạo, và lặp lại nhiều lần cho tới khi thai sẩy xong. Hàng triệu phụ nữ đã sử
dụng Misoprostol (cả đơn thuần lẫn kết hợp với Mifepristone) để chấm dứt
thai nghén một cách an toàn [16].
- Phương pháp phá thai nội khoa với Mifepristone đã được thực hiện tại
Pháp từ năm 1989. Khi sử dụng đơn độc Mifepristone có thể gây sẩy thai
khoảng 64 - 85%, ở tuổi thai đến 7 tuần. Trong nghiên cứu này sử dụng liều
lượng từ 140mg đến 1.600mg trong thời gian từ 1 đến 10 ngày [3]. Tuy
nhiên, khi kết hợp với Misoprostol, dùng sau hai ngày, tỷ lệ thành công có thể
tới 87% đến 97 % [3].

- Eric Schaff và cộng sự nghiên cứu trên 2.295 phụ nữ có thai đến 56
ngày. Các đối tượng được chia làm 3 nhóm.
+ Nhóm 1 và nhóm 2: Đặt âm đạo 800g Misoprostol cách 1 hoặc 2
ngày sau khi uống 200mg Mifepristone, tỷ lệ thành công là 98%.
+ Nhóm 3: Đặt âm đạo 800g Misoprostol cách 3 ngày sau khi uống
200mg Mifepristone, tỷ lệ thành công 96%.
Đau bụng và buồn nôn là 2 tác dụng phụ gặp nhiều nhất với tỷ lệ tương
đương ở cả 3 nhóm [9].
- Marc và cộng sự đã so sánh phác đồ phối hợp Mifepristone và
Prostaglandin để chấm dứt thai nghén cho tuổi thai đến 9 tuần với liều và
đường dùng khác nhau. Tỷ lệ thành công gây sẩy thai hoàn toàn trong khoảng
từ 94% đến 97,5% [24].
11
- Carbonell và cộng sự đã nhận thấy tiêu chảy là tác dụng phụ chủ yếu
của Misoprostol, chiếm tỷ lệ từ 50% đến 70% phụ nữ phá thai bằng
Misoprostol đơn độc. Các tác dụng phụ thông thường khác cũng được nêu ra
bao gồm: nôn, buồn nôn, sốt, ớn lạnh và đau đầu. Các tác dụng phụ này
thường nhẹ, không kéo dài. Nói chung không cần điều trị [8].
- Batya Elul và cộng sự nghiên cứu tại ấn Độ phương pháp chấm dứt thai
nghén cho tuổi thai đến 9 tuần bằng cách uống 600mg Mifepristone, sau 48 giờ
uống 400g Misoprostol, tỷ lệ thành công thay đổi tuỳ thuộc vào tuổi thai từ
91% đến 96% [7].
- Norman JE, Thong KJ, Baird DT đã tiến hành nghiên cứu so sánh việc
sử dụng Misoprostol kết hợp với Mifepristone để phá thai đến dưới 8 tuần với
việc sử dụng Misoprostol đơn thuần. Tỷ lệ thành công trong nhóm 1 cao hơn
trong nhóm 2 [17].
- Theo Tang.S.O và cộng sự năm 2003 thì 200 mg mifepristone cũng có
tác dụng như sử dụng 600 mg . Sử dụng phác đồ 200mg of mifepristone và
tiếp theo 24-48 giờ sử dụng 800μg misoprostol đường âm đạo cho tuổi thai
nhỏ hơn 9 tuần tuổi, tỷ lệ sảy thai hoàn toàn là 93,8%-98,2% với n=224 [22]

- Với nghiên cứu của Hamoda và cộng sự (năm 2003) cũng phá thai 9
tuần tuổi sử dụng 2 phác đồ loại 600 mg và 800 mg misoprostol thì tỷ lệ
thành công đạt tới 96-98% (n=96) [12].
- Jain Mishell và cộng sự sử dụng Misoprostol đơn thuần để phá thai dưới
8 tuần với tổng liều là 1600g cách 24 giờ 1 lần, tỷ lệ thành công từ 95 đến
97% phụ thuộc vào tuổi thai [15].
1.3.2. Tình hình phá thai bằng thuốc tại Việt Nam
Tại Việt nam, phương pháp phá thai nội khoa lần đầu được nghiên cứu
năm 1992, tại bệnh viện Hùng Vương. Đây là một nghiên cứu đồng thời được
12
thực hiện tại 17 Trung tâm trên thế giới, đối tượng là phụ nữ muốn phá thai có
tuổi thai đến 9 tuần kể từ ngày đầu tiên của kỳ kinh cuối cùng. Chị em được
hẹn khám theo dõi vào ngày thứ 14 và ngày thứ 43 sau khi dùng thuốc.
Nghiên cứu này nhằm so sánh tác dụng của hai liều 200mg và 600mg
Mifepristone với 400g Misoprostol dùng sau 48 giờ. Tỷ lệ thành công của
nhúm dựng 600mg Mifepristone là 89,3% tương đương với 88,1% của nhúm
dựng 200mg [8].
Nghiên cứu tiếp theo được thực hiện từ tháng 01/1995 đến tháng
4/1996. Đây là đề tài hợp tác với Hội đồng Dân số để tìm hiểu sự chấp nhận
của phụ nữ Việt Nam tại: Trung tâm BMTE/ KHHGĐ Hà Nội và Bệnh viện
Hùng Vương - Thành phố Hồ Chí Minh. Tỷ lệ thành công trong nghiên cứu
này là 96,1% [18]. Trong nghiên cứu này 393 chị em có thai dưới 57 ngày
được lựa chọn hoặc nạo hút thai hoặc dùng phương pháp nội khoa với liều
600mg của Mifepristone sau 48 tiếng uống 400g Misoprostol. Tác dụng
phụ của phá thai nội khoa như: Buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau bụng và thời
gian ra huyết âm đạo cao hơn so với thủ thuật nạo hút thai, tuy nhiên điều
này không ảnh hưởng đến sự chấp nhận với phương pháp này của phụ nữ Việt
Nam. Ra máu âm đạo kéo dài trong phá thai nội khoa đôi khi là mối lo ngại
cho chị em Kết luận của nghiên cứu này đưa ra nhận định phá thai nội khoa
là phương pháp an toàn, có thể chấp nhận được như một bổ sung cho sự lựa

chọn của phụ nữ Việt Nam, tỷ lệ thành công 96% có thể so sánh tương đương
với kết quả ở các nước phát triển. Tuy nhiên nghiên cứu này chỉ mới thực
hiện ở hai thành phố lớn, chưa đại diện được đặc thù của mạng lưới y tế cũng
như đặc điểm của chị em phụ nữ trên cả nước. Sau đó năm 1997, bệnh viện
Hùng Vương và Hội đồng Dân số đã tiến hành nghiên cứu để tìm hiểu tính thực
thi của một phác đồ đơn giản với 200mg Mifepristone và 400g Misoprostol.
13
Người phụ nữ có thể chọn uống thuốc tại cơ sở Y tế hoặc tại nhà. Tỷ lệ thành
công là 93% [8].
Một nghiên cứu được tiến hành năm 2001 phối hợp giữa tổ chức
PopCouncil và tổ chức Gynuity tại 7 cơ sở tuyến trung ương và tuyến tỉnh
(trong đó có bệnh viện PSTƯ) và một cơ sở tuyến huyện (Bệnh viện huyện
Hooc môn, TP Hồ Chí Minh) với liều 200 mg mifepristone đường uống và
400 microgam misoprostol đường uống sau dùng mife 2 ngày trên 1564 phụ
nữ [3] .
Kết luận từ nghiên cứu này là:
- Tuổi thai trong nghiên cứu này là tới 56 ngày (8 tuần tuổi) tại tất cả
các cơ sở tham gia nghiên cứu
- Tỉ lệ thành công của nghiên cứu là 89%
- Người phụ nữ được lựa chọn dùng misoprostol tại cơ sở y tế hoặc tại
nhà và 88.9% phụ nữ đã chọn sử dụng thuốc tại nhà.
Theo Nguyễn Thị Hồng Minh trong Luận văn chuyên khoa cấp II - 2004
[4] đã so sánh 2 phác đồ: phác đồ sử dụng 200 mg Mifepristone sau 48 tiếng
dùng 2 viên Misoprostol với phác đồ Misoprostol đơn thuần (sử dụng 4 viên
Misoprostol/lần x 3 lần , cứ 3 giờ một lần qua đường ngậm dưới lưỡi hoặc
đường âm đạo). Kết quả nghiên cứu cho thấy :
- Tỷ lệ thành công của phác đồ Mifepristone phối hợp Misoprostol là 98%.
- Tỷ lệ thành công của phác đồ Misoprostol đơn thuần là 89%.
- Về tính an toàn và tác dụng phụ của 2 phương pháp: tác dụng phụ của
phác đồ phối hợp Mifepristone và Misoprostol có tần suất ít hơn và không rõ

nét hơn với phác đồ Misoprostol đơn thuần
- Sự chấp nhận của người phụ nữ với 2 phác đồ phá thai nội khoa: ở
phác đồ 1 tỷ lệ chị em hài lòng cao hơn hẳn phác đồ 2 (98% so với 96%)
14
Năm 2007-2009 đề tài NCKH cấp Bộ hợp tác với Tổ chức Y tế thế giới
mang tờn“Thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên so sánh 2 liều dùng và 2 đường
dùng của Misoprostol để đình chỉ thai nghén sớm- Mã số A35148” sau hai
năm thực hiện phá thai bằng thuốc đến 63 ngày tuổi tại 3 cơ sở sản phụ khoa
lớn trên cả nước là Bệnh viện Phụ sản Trung ương, Bệnh viện Phụ sản Hà
Nội, Bệnh viện Từ dũ. Tổng số mẫu đề tài thực hiện là 463 trường hợp, phân
đều cho 3 nhóm tuổi thai<49 ngày tuổi, 50-56 và từ 57-63 ngày tuổi [4]. Đây
là một nghiên cứu thử nghiệm lõm sàng ngẫu nhiên có đối chứng sử dụng
200mg của mifepristone và tiếp theo 24 giờ sau đó sử dụng 2 loại phác đồ
hoặc 400μg hoặc 800μg misoprostol theo 2 đường âm đạo hoặc đường ngậm
dưới lưỡi.
Kết quả bước đầu tại Việt Nam cho thấy:
- Tỷ lệ thành công chung là từ 85% đến 95,2%
- Tỷ lệ thành công ở nhóm sử dụng phác đồ 800 μg misoprostol là 94,7
% cao hơn tỷ lệ 87,6% ở phác đồ 400 μg misoprostol
- Tỷ lệ thành công ở nhóm ngậm dưới lưỡi là 93,9 % cao hơn ở nhóm
đường âm đạo là 88,2 %
- Các tác dụng phụ khá tương đương ở cỏc nhúm (cao nhất là đau, rồi
đến ra máu âm đạo, )(tỷ lệ thai tiếp tục phát triển)
92% phụ nữ hài lòng với phương pháp này và tỷ lệ lựa chọn đường âm
đạo và dưới lưỡi như nhau, 72% thớch dựng thuốc ở cơ sở y tế.
1.4. Nghiên cứu các phương pháp thay thế
Tại nhiều cơ sở y tế, phá thai nội khoa đòi hỏi 2 đến 3 lần khám lại tại
cơ sở y tế. Lần khám thứ 3 hay khám theo dõi được thực hiện khoảng 7-14
ngày sau kho uống mifepristone. Tái khám theo dõi nhằm mục đích xác định
thai đã sẩy trọn chưa và cần thêm chăm sóc nào tiếp theo liên quan đến tai

biến của phá thai nội khoa hay không.
15
Tuy nhiên, có những chứng cứ cho thấy phần lớn những phụ nữ này
không cần điều trị gỡ thờm. Đa phần những phác đồ thường được sử dụng có
hiệu quả rất cao với tỷ lệ chỉ có từ 2-5% phụ nữ cần phải tiến hành thủ thuật
hút lại thai do sẩy thai không trọn [1], [2]. Số phụ nữ cần điều trị tiếp theo vì
những nguyên nhân khác cũng thấp. Chảy máu nhiều đến mức độ cần truyền
máu vô cùng hiếm, ít hơn 1 phần ngàn [3]. Tại Mỹ, nơi có hệ thống báo cáo
vận hành tốt, nhiễm trùng nặng, được định nghĩa là một viêm nhiễm cần
kháng sinh tỉnh mạch và/hay nhập viện cũng không thường gặp chỉ 2 trên
1000 lần sử dụng [4].
Mặc dù phá thai nội khoa có hiệu quả cao và an toàn, tái khám theo dõi
thường quy vẫn là một phần không thể thiếu của chăm sóc chuẩn trong hầu
hết các hệ thống phòng khám. Mặc dù vậy, lần tái khám thêm này có thể nâng
cao đáng kể chi phí và làm giảm sự chấp nhận phương pháp. Tại nhiều phòng
khám, siêu âm được thường quy sử dụng, điều này có thể sẽ gây tốn kém nhất
là cho những cơ sở có nguồn lực kém. Hơn nữa, đối với nhiều phụ nữ, việc đi
lại tái khám nhiều lần có thể làm giảm sự chấp nhận phá thai nội khoa. Trong
những nghiên cứu lâm sàng, phụ nữ thường kể số lần khám tại phòng khám là
một trong những lý do làm cho họ không chọn phá thai nội khoa [1]. Thật ra,
nhiều phụ nữ chọn phá thai nội khoa không trở lại khám theo hẹn lúc 2 tuần.
Trong nhiều hệ thống phòng khám, tỷ lệ mất dấu chiếm đến 20-30% trong
các bệnh nhân phá thai nội khoa sớm. Trong khi chưa có dữ liệu chính xác về
tỷ lệ phụ nữ không trở lại tái khám tại Việt Nam, chúng tôi ước tính tỷ lệ này
vào khoảng 10% không trở lại tái khám được. Hiện tại, các phòng khám áp
dụng một số biện pháp để liên lạc với những phụ nữ không thể trở lại tái
khám. Tuy nhiên, những câu phỏng vấn chưa được chuẩn hóa đồng thời chưa
thể đánh giá một cách có hệ thống để nhận diện có hiệu quả những khách
hàng cần trở lại để được theo dõi chăm sóc. Rõ ràng xây dựng một cách theo
16

dõi khác an toàn và được chuẩn hóa thay cho việc tái khám thường quy là cần
thiết nhằm làm giảm chi phí và tăng tính chấp nhận của một phương pháp
đơn giản khác.
Thay thế tái khám theo dõi thường quy phải đáp ứng 2 việc: xác định
được sẩy thai đã trọn và nhận diện khi nào cần đến tái khám vỡ cú biến
chứng. Một công cụ phải đảm bảo rằng cả những phụ nữ cần tái khám phải
trở lại phòng khám và những phụ nữ không cần chăm sóc thêm được giải
thích phương pháp đã hoàn tất. Những nghiên cứu ghi nhận có 2 biện pháp có
tính hứa hẹn để đáp ứng hai mục đích trên.
Thứ nhất, bản thân người phụ nữ phải có thể dự báo được kết quả sau
phá thai nội khoa. Một nghiên cứu trên 1000 phụ nữ ghi nhận phụ nữ xác định
việc tống suất túi thai rất chính xác trong quá trình phá thai nội khoa[1]. Một
nghiên cứu gần đây trên hơn 3000 phụ nữ xác nhận phụ nữ có thể xác định
quá trình đã hoàn tất hay chưa. Nghiên cứu so sánh khả năng của một test thử
thai có độ nhạy thấp, phối hợp với một bộ phỏng vấn tự trả lời đã được chuẩn
hóa thực hiện sau 1 tuần sử dụng misoprostol, nhằm xác định những phụ nữ
cần sự chăm sóc y tế tiếp. Bộ phỏng vấn hỏi phụ nữ có ghi nhận chảy máu
nhiều trong 2 ngày sau khi uống misoprostol, chị ấy cú cũn cảm giác mang
thai không, hay nếu chị có những triệu chứng đặc biệt của có thai (căng ngực,
buồn nụn/nghộn, tiểu nhiều lần hay dễ mệt/uể oải). Nghiên cứu đã minh
chứng một phác đồ dựa trên những thông tin trả lời của phụ nữ và kết quả của
test thử thai có thể sử dụng để nhận định rằng người phụ nữ này có cần trở lại
phòng khám để đánh giá thêm hay không. Hệ thống cung cấp dịch vụ sử dụng
phác đồ này có thể nhận diện chính xác tất cả bệnh nhân có thai còn phát triển
và hầu hết tất cả phụ nữ (82%) cần hút nạo lại hay điều trị nhiễm trùng theo
kinh nghiệm [1]. Kết quả của hai nghiên cứu này cho thấy đánh giá qua điện
thoại hay bộ phỏng vấn tự trả lời có thể là một phương thức an toàn thay thế
17
cho tái khám thường quy để xác nhận tình trạng sẩy thai và nhận diện những
phụ nữ có thể cần chăm sóc y tế thờm vỡ liên quan đến việc phá thai.

Thứ hai,Thử thai bán định lượng, như dBestđ có thể là một công cụ
quan trọng giúp phụ nữ và các bác sĩ lâm sàng xác định sẩy thai trọn. Nghiên
cứu đã chứng minh rằng sử dụng một phương thức so sánh trước-sau đo
lường hCG trong huyết thanh cũng nhận diện chính xác được thai còn phát
triển trong phá thai nội khoa hay không. Từ 2005, những khách hàng phá thai
nội khoa đã được theo dõi với test beta hCG (trong mẫu máu) như một cách
khác thay siêu âm thường quy [1]. Tuy nhiên, việc tiến hành xét nghiệm hCG
huyết thanh thì đắt và có thể không có tại một số nơi. Một nghiên cứu khác
cho thấy có sự tương quan giữa nồng độ hCG trong nước tiểu và trong huyết
thanh, điều này gợi ý cho việc sử dụng các test nước tiểu thay cho test huyết
thanh [1], [2].Thử thai bán định lượng đã được thử nghiệm tại Việt Nam và đã
chứng tỏ rất đặc hiệu để phát hiện những trường hợp cần chăm sóc thêm sau
khi phá thai nội khoa tại nhà. Số liệu ban đầu tại Việt Nam ghi nhận trong 145
phụ nữ khảo sát, 97% đã nhận diện phù hợp những test giả với các giá trị của
kết quả phản ánh nồng độ ò hCG. Thêm 94% trả lời đúng khi kết quả của họ
có 200 đơn vị ò hCG trở lên. Số liệu cho thấy 90% phù hợp trong giải thích
kết quả các test của bác sĩ và bệnh nhân. Trước nghiên cứu, bệnh viện hầu
như toàn bộ dựa vào siêu âm để đánh giá tình trạng sẩy thai khi theo dõi; tuy
nhiờn sau khi được giới thiệu Thử thai bán định lượng, việc sử dụng siêu âm
giảm đến 40%. Như vậy, một test bán định lượng có thể làm cho việc xây
dựng những phác đồ phá thai nội khoa trở nên thuận tiện hơn, cho phép phụ
nữ có thể thực hiện test thử thai tại nhà và gọi báo cho phòng khám kết quả
của họ.
Do phá thai nội khoa trong giai đoạn sớm của thai kỳ có hiệu quả cao
và tai biến thấp, tái khám theo dõi thường quy tại cơ sở y tế gây tốn kém và
18
mất thời gian. Do đó, việc phát triển và đưa vào sử dụng phác đồ đánh giá sau
phá thai nội khoa là cần thiết. Từ các cơ sở trên, nghiên cứu đánh giá “ Sự
chấp nhận của test thử thai bán định lượng βhCG so với khám theo dõi
thường quy sau phá thai nội khoa tại Việt Nam” đã được đề xuất với mục tiêu

đánh giá độ an toàn và tính khả thi của một phác đồ mới, thay thế cho việc tái
khám và siêu âm cho tất cả phụ nữ. Phác đồ thay thế này sử dụng hai kỹ thuật
mới đầy hứa hẹn: test thử thai bán định lượng và một bộ câu hỏi phỏng vấn
theo dõi được chuẩn hóa.
19
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Phụ nữ trong tuổi sinh sản, phá thai nội khoa tại bệnh viện sẽ được thu
nhận vào nghiên cứu này.
2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn
 Tình nguyện và có thể ký vào giấy cam đoan;
 Được bác sỹ đánh giá đủ điều kiện cho phá thai nội khoa (có tình trạng
sức khỏe tốt, có thai trong tử cung nhỏ hơn hay bằng 63 ngày vào ngày sử
dụng mifepristone)
 Đồng ý theo phác đồ nghiên cứu
 Đang sở hữu một điện thoại di động hay điện thoại bàn cá nhân
2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ
* Tuyệt đối
 Bệnh lý tuyến thượng thận.
 Điều trị corticoid toàn thân lâu ngày.
 Tăng huyết áp, hẹp van 2 lá, tắc mạch hoặc có tiền sử tắc mạch.
 Rối loạn đụng mỏu, sử dụng thuốc chống đông.
 Thiếu máu nặng.
 Dị ứng mifepriston hay misoprostol.
* Tương đối
 Đang cho con bú.
 Đang đặt dụng cụ tử cung (có thể lấy DCTC trước phá thai bằng thuốc).
 Đang viêm nhiễm đường sinh dục cấp tính (cần được điều trị).
20

2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Thử nghiệm lâm sàng có so sánh
2.2.2. Cỡ mẫu nghiên cứu
2
2
12/1
))1()1()1(2(
d
ppppZppZ
N
BAA
−+−+−
=

βα

p
A
: Tỷ lệ mất dấu và có vấn đề của phương pháp cũ ≈ 0,15
p
B
: Tỷ lệ mất dấu và có vấn đề của phương pháp mới ≈ 0,01
d= p
A
- p
B
= 0,14
08,0
2

01,015,0
2
=
+
=
+
=
BA
pp
p
2
2
)14,0(
)99,001,085,015,0645,192,008,0296,1( xxxx
N
++
=
= 94,6 ≈ 100 bệnh nhõn cho mỗi nhúm.
Tính toán cỡ mẫu, sẽ dựa trên các kết cục ít phổ biến nhất có liên quan
(thai còn phát triển sau phá thai nội khoa), giả thuyết ở mức khoảng 2.0% của
các trường hợp phá thai nội khoa (dựa vào các nghiên cứu trước của phác đồ
này ở các cơ sở ở đây). Để tính toán cỡ mẫu, chúng tôi giả thuyết rằng theo
dõi thường quy tại phòng khám như là chăm sóc chuẩn hiện hành, sẽ chẩn
đoán được 100% các thai kỳ còn phát triển.
Do đó, với độ mạnh của nghiên cứu là 80%, để có thể chứng minh
rằng một xét nghiệm thử thai bán định lượng kết hợp với một bảng kiểm tự trả
lời là trong khoảng 80-100% hiệu quả so với hiệu quả của chăm sóc chuẩn
trong việc phát hiện những thai kỳ còn phát triển (p = 0,08) trong mỗi nhánh
nghiên cứu. Như vậy, chúng ta cần phát hiện 100 thai đang phát triển hay 50
cho mỗi nhánh. Với tỉ lệ thai còn phát triển là 2%, nghiên cứu này cần

21
khoảng 100 phụ nữ hoặc 50 phụ nữ cho mỗi nhánh nghiên cứu. Cỡ mẫu này
cũng cho phép chúng ta vượt qua cỡ mẫu dành cho các điều trị bổ sung khác
liên quan đến phá thai nội khoa, phổ biến hơn thai còn phát triển sau phá thai
nội khoa sớm (ví dụ nạo hỳt vỡ sút cỏc sản phẩm của thụ thai hoặc chảy máu
kéo dài; sự sử dụng các thuốc co cơ tử cung bổ sung). Để tính toán về những
khả năng khác biệt trong tỉ lệ thai còn phát triển và mất theo dõi, chúng ta cần
một cỡ mẫu khoảng 100 phụ nữ hay 50 phụ nữ cho mỗi nhánh của nghiên cứu.
=> Tại Bệnh viện Phụ sản trung ương: 100 phụ nữ phù hợp tiêu chuẩn
2.2.3. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian: (từ tháng 1/7/2010 đến tháng 30/06/2011 )
Địa điểm: Đây là nghiên cứu đa trung tâm, thực hiện tại 2 địa điểm
nghiên cứu Bệnh viện Phụ sản Trung ương với tổng số mẫu là 100). Tại bệnh
viện Phụ sản trung ương sẽ thực hiện tại
- Trung tâm tư vấn sức khỏe sinh sản và kế hoạch hóa gia đình
- Phòng khám dịch vụ 56
2.2.4. Phương pháp thu thập số liệu
Nghiên cứu này thu nhận 100 phụ nữ. Những phụ nữ thích hợp cho phá
thai nội khoa sớm sẽ có cơ hội tham gia vào nghiên cứu. Những ai được chọn
tham gia vào nghiên cứu và phù hợp các tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ sẽ
nhận được đầy đủ thông tin về nghiên cứu và được yêu cầu viết hoặc ký giấy
thỏa thuận với đầy đủ thông tin. Những phụ nữ này có đủ thời gian và sự riêng
tư để suy xét về sự tham gia nghiên cứu của mình, nhân viên sẽ gặp mặt để trả
lời những thắc mắc của phụ nữ và giúp họ nếu họ có khó khăn trong việc chưa
hiểu rõ mẫu giấy thỏa thuận với đầy đủ thông tin.
Những phụ nữ bằng lòng và thỏa mãn những tiêu chí tham gia sẽ được
ngẫu nhiên phân vào một trong hai nhóm theo dõi. Đối tượng được ngẫu
22
nhiên phân nhóm bằng cách mở một phong bì đục được niờm kớn cú đánh số
thự tự kế tiếp. Phong bì được chuẩn bị trước bởi cơ quan tài trợ nghiên cứu,

Gynuity Health Projects tại Nữu Ước. Phong bì ngẫu nhiên được giữ tại
phòng khám phá thai của mỗi bệnh viện tham gia nghiên cứu). Khi một phụ
nữ thích hợp bằng lòng tham gia có mặt, nhân viên phòng khám sẽ mở phong
bì kế tiếp và phân phụ nữ vào nhóm nghiên cứu được ghi.
Nhóm 1: Phụ nữ được phân vào nhóm 1 sẽ nhận phương thức theo dõi
phá thai nội khoa thường quy. Phương thức thường quy bao gồm một lần trở
lại tái khám sau 2 tuần (khoảng 10-14 ngày) sau sử dụng mifepristone. Vào
lần tái khám tại bệnh viện, phụ nữ sẽ được khám phụ khoa và siêu âm nếu cần
thiết. Trong trường hợp phụ nữ không thể đến tái khám được, mỗi bệnh viện
theo cách thức thường quy của họ để liờn hệ với bệnh nhân, có nghĩa 1 lần cố
gắng liên lạc bằng điện thoại, gửi thư hay đến nhà. Mẫu a2 sẽ ghi lại kết quả
của tất cả các lần khám lâm sàng, tất cả các chăm sóc có liên quan đến phá
thai và kết cục của sẩy thai. Vào lần tái khám, phụ nữ sẽ được hỏi về sự chấp
nhận của phương thức theo dõi hiện tại và sở thích của họ trong tương lai.
Nhóm 2: Phụ nữ được phân vào nhóm 2 sẽ theo phương thức theo dõi
mới. Vào lần khám đầu tiên, phụ nữ sẽ được yêu cầu cung cấp một số điện
thoại để liên lạc. Phụ nữ cũng được yêu cầu thực hiện một test thử thai bán
định lượng tại phòng khám và kết quả lần thử này được ghi vào bệnh án
nghiên cứu. Sau khi sử dụng mifepristone, phụ nữ sẽ được cung cấp một test
thử thai thứ hai và bảng kiểm tra trả lời qua điện thoại.
Phụ nữ được hướng dẫn điền vào danh sách kiểm tra tại nhà và thực
hiện test thử thai tại nhà vào ngày được ấn định 1 tuần sau khi sử dụng
mifepristone. Bộ câu hỏi đánh giá sẽ cho biết nếu phụ nữ trả lời “cú” cho bất
kỳ câu hỏi nào, chị ấy cần trở lại phòng khám để tái khám. Vào một ngày ấn
định, phụ nữ sẽ được nhân viên phòng khám liên lạc bằng điện thoại. Chị ấy
sẽ được yêu cầu xác nhận đã thực hiện test thử thai và bộ câu hỏi kiểm tra
chưa và báo cáo kết quả của cả hai. Trong trường hợp phụ nữ chưa thực hiện
test thử thai khi được điện thoại, người cung cấp yêu cầu chị ấy thực hiện
23
ngay và gọi lại trong vòng 30 phút. Người cung cấp sẽ xem xét những câu trả

lời trong bảng kiểm của người phụ nữ và dựa vào đó thể xác định chị ấy có
cần trở lại tái khám không. Nếu có chỉ định hoặc người phụ nữ yêu cầu, lên
lịch hẹn tái khám cho chị ấy tại phòng khám nghiên cứu. Trong lần điện thoại
theo dõi này, người phụ nữ cũng được hỏi về việc đồng ý và chấp nhận
phương thức theo dõi mới này. Kết quả của lần phỏng vấn qua điện thoại này
sẽ được ghi vào mẫu 2. Nếu phụ nữ được yêu cầu trở lại phòng khám, kết quả
của tất cả những lần khám lâm sàng, những điều trị bổ sung liên quan đến sẩy
thai, và kết cục của phá thai sẽ được ghi vào mẫu 3. Nếu phụ nữ quyết định
trở lại phòng khám để tái khám thêm không theo hẹn, kết quả của những lần
khám này được ghi vào mẫu 3. Phụ nữ trong cả hai nhóm sẽ được tư vấn như
thường quy về những dấu hiệu báo động trong phá thai nội khoa như chảy
máu nhiều cần chăm sóc tức thời. Chúng tôi sẽ ghi nhận tất cả những điều trị
bổ sung có liên quan đến phá thai được thực hiện trong vòng 1 tháng sau lần
theo hẹn theo dõi vào mẫu 3 và 4 nếu cần.
Ngay sau kết thúc thu nhận đối tượng, các nhóm nghiên cứu tại 4 điểm
nghiên cứu sẽ có một cuộc thảo luận nhóm mục tiêu. Thảo luận nhóm mục
tiêu sẽ kéo dài khoảng 45 phút đến một giờ. Hướng dẩn thảo luận sẽ được
soạn thảo bằng tiếng Anh, dịch ra tiếng Việt và thảo luận sẽ được điều phối
bởi một điều phối viên người Việt. Trong lúc thảo luận người cung cấp sẽ
được hỏi về sự chấp nhận của họ và tính khả thi của phương thức theo dõi
mới này, sự thoải mái và tin tưởng của họ vào test thử thai bán định lượng và
họ có như quan ngại bao quát nào về nghiên cứu nầy không.
2.2.5. Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu sau khi được thu thập và làm sạch sẽ được nhập bàng Epi – info
15 và phân tích bằng SPSS.
Các thuật toán được sử dụng: Tỷ lệ phần trăm; Khi bình phương đối
với các biến liên tục.
24
Kết quả phân tích sẽ cung cấp: phần trăm phụ nữ quay lại để theo dõi,
phần trăm phụ nữ có thai còn đang tiến triển, phần trăm phụ nữ nhận điều trị

khác do các biến chứng sau phá thai nội khoa. Chúng tôi sẽ phân loại điều trị
sau theo dõi đối với thai còn đang tiến triển chia thành 3 nhóm dựa theo
những kết cục chủ yếu của phá thai nội khoa theo ưu tiên cấp cứu: điều trị thai
đang tiến triển, chỉ định nạo vì những lý do khác hơn là do thai còn đang tiến
triển hoặc điều trị theo kinh nghiệm nhiễm trùng, và những điều trị khác có
liên quan đến phá thai nội khoa (ví dụ như bổ sung thuốc co cơ tử cung, cấp
ibuprofen hoặc viên sắt như là một phần của xử trí theo dõi). Phân tích chính
sẽ so sánh các ca đã được nhận dạng trong hai nhánh của nghiên cứu thông qua
sử dụng test Chi-bỡnh phương, MC Nemar. Chúng tôi cũng sẽ so sánh sự chấp
nhận của hai phương pháp đối với người phụ nữ. Chúng tôi sẽ lập lưới tam giác
dữ liệu lâm sàng và sự chấp nhận với các kết quả các thảo luận của nhóm mục
tiêu với những người cung cấp tại bốn nơi tham gia trong nghiên cứu.
25

×