Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

những thay đổi trong huyết động và hô hấp trong gây mê trong mổ nội soi lồng ngực trên trẻ sơ sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (399.67 KB, 48 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay việc áp dụng kỹ thuật nội soi lồng ngực có hỗ trợ của máy quay
video (kỹ thuật VATS :Video Assisted Thoracic Surgery) ngày càng phát
triển và đã nhanh chóng trở thành một phương pháp hữu ích cho chẩn đoán và
điều trị có hiệu quả trong một số bệnh trong lồng ngực ở trẻ em cũng như trẻ
sơ sinh. Nội soi lồng ngực ở trẻ em đã được chứng minh là có ưu điểm hơn so
với đường mở ngực kinh điển do giảm thiểu chấn thương do phẫu thuật, đau
sau mổ ít hơn, giảm thiểu nguy cơ tử vong sau mổ, cho ăn sớm hơn, giảm
ngày giường tại hồi sức, giảm thời gian nằm viện sau mổ do đó giảm chi phí
phẫu thuật, đặc biệt giảm tỉ lệ biến dạng lồng ngực sau mổ. Chỉ định nội soi
lồng ngực trên bệnh nhân nhi ngày càng được mở rộng và linh hoạt ngay cả
đối với một số ca trước đây có chống chỉ định [11,15]
Bên cạnh sự phát triển của phẫu thuật, thay đổi trong kỹ thuật GMHS,
tìm hiểu và hiểu biết những thay đổi về sinh lý tuần hoàn, hô hấp cũng như
những ảnh hưởng tới các cơ quan khác trong cơ thể đó giúp người GMHS đạt
được những sự tiến bộ giúp cho nội soi lồng ngực ngày càng phát triển.
Ngoài những ưu điểm mà phẫu thuật nội soi mang lại, người GMHS phải
tính đến một số vấn đề phức tạp cũng như nguy cơ trong mổ đó là: kiểm soát
đường thở, suy hô hấp tiềm tàng trước mổ, thay đổi liên quan đến tư thế nằm
nghiêng, bơm CO2 vào khoang lồng ngực [16]
Vấn đề sinh lý bệnh hô hấp liên quan đến nội soi lồng ngực :
- Đõu tiên đó là mất cân bằng giữa tưới mỏu-thụng khớ khi bệnh nhân
nằm nghiêng và sau khi thông khí một phổi.
- Sau đó là ảnh hưởng rất lớn của việc bơm CO2 vào khoang lồng ngực
lên hô hấp do hạn chế hoặc mất hẳn thông khí phổi cựng bờn.
1
- Cuối cùng là sự hấp thu CO2 qua màng phổi gây tăng CO2 hệ thống.
Ảnh hưởng lên tuần hoàn ở trẻ em ít hơn người lớn:
- Nguyờn nhân chính là khi bơm hơi đã gây ra một áp lực dương vào
khoang lồng ngực dẫn đến giảm tiền ghỏnh, giảm thể tích tống máu, giảm
cung lượng tim và giảm huyết áp.


- Ảnh hưởng lên huyết động do tăng CO2 hệ thống: tăng nhịp tim và
tăng huyết áp.
Ở trẻ em vấn đề hạ thân nhiệt cũng được nhiều tác giả đề cập đến.
Ở Việt Nam nội soi lồng ngực để chẩn đoán và điều trị bệnh cho người
lớn đã và đang phát triển nhưng chưa có nhiều cơ sở thực hiện được kỹ thuật
nội soi lồng ngực trên trẻ nhỏ và trẻ sơ sinh, cũng chưa thấy nghiên cứu nào
trong lĩnh vực GMHS đưa ra những nghiên cứu trên đối tượng này.
Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Những thay đổi trong
huyết động và hô hấp trong gây mê trong mổ nội soi lồng ngực trên trẻ sơ
sinh”.Với mục tiêu:
1. Đánh giá sự thay đổi của PaO2 và PaCO2 trước, trong và sau bơm
CO2 vào khoang lồng ngực trong phẫu thuật nội soi lồng ngực ở
trẻ sơ sinh.
2. Đánh giá sự thay đổi các thông số hô hấp: tần số thở, thông khí
phút, EtCO2, áp lực trung bình đường thở trong mổ nội soi lồng
ngực ở trẻ sơ sinh.


2
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Một số khái niệm [13]:
- Trẻ sinh đủ tháng: là những trẻ được sinh ra có tuổi thai từ 37-42 tuần.
- Trẻ sinh non tháng: là những trẻ sinh ra có tuổi thai ≤ 37 tuần.
- Trẻ sinh già tháng là những trẻ sinh ra có tuổi thai ≥ 42 tuần.
- Mới sinh là 24 giờ đầu sau khi sinh.
- Thời kỳ sơ sinh là 28 ngày đầu tiên sau khi sinh.
- Nhũ nhi là thời kỳ từ 29 ngày sau sinh tới một năm tuổi
1.2. Gây mê cho mổ nội soi lồng ngực ở trẻ em.
1.2.1. Lịch sử phát triển. [8, 9]

Năm 1982, sự thành công của phẫu thuật cắt túi mật nội soi và sự ứng
dụng kỹ thuật nội soi ổ bụng kết hợp với máy quay video vào phẫu thuật lồng
ngực đã nhanh chóng trở thành một phương pháp điều trị có hiệu quả trong
phẫu thuật lồng ngực. Việc thực hiện kỹ thuật VATS (Video Assisted
Thoracic Surgery) đã thực sự phát triển trong mười năm qua và nội soi lồng
ngực có thể áp dụng để chẩn đoán hay điều trị hầu hết các bệnh trong lồng
ngực ở người lớn. Ngay từ những năm đầu của cuộc cách mạng này, các nhà
GMHS đã tự nhận thấy sự cần thiết phải có những thay đổi trong kỹ thuật gây
mê nhằm đưa ra biện pháp chăm sóc tối ưu cho bệnh nhân trong mổ. Yêu cầu
đặt ra là phải giảm thiểu hơi có trong đường tiêu hóa, duy trì đủ giãn cơ trong
suốt cuộc mổ, phối hợp với phẫu thuật viên từ việc đặt tư thế bệnh nhân, áp
lực bơm khí vào các khoang của cơ thể đến các tăng thì phẫu thuật để có được
trường mổ tốt nhất và ảnh hưởng lờn cỏc cơ quan là ít nhất. Sự ra đời của ống
nội khí quản hai nòng, sử dụng ống NKQ đơn cú búng chốn ở cuối (ống
3
Univent), hoặc sử dụng Fogarty mạch mỏu,… cho phép thông khí phổi từng
bờn đó đánh dấu một bước tiến bộ trong lĩnh vực GMHS giúp cho phẫu thuật
nội soi ngày càng phát triển.
Nhưng phải tới những năm 1990, khi công nghệ thực sự tiến bộ, dụng cụ
nội soi có kích thước nhỏ được đưa ra nhằm mục đích hạn chế tối đa cho bệnh
nhân những chấn thương phẫu thuật hay còn gọi là phẫu thuật can thiệp tối
thiểu (Minimal Access Surgery: MAS) thì phẫu thuật nội soi đã thực sự được
áp dụng trong chẩn đoán và điều trị bệnh ở trẻ nhỏ thậm chí là trẻ sơ sinh có
cân nặng thấp. Nhiều bệnh viện trẻ em các nước, số lượng của phẫu thuật nội
soi đã trở nên nhiều hơn số lượng của phẫu thuật mở truyền thống. Việc áp
dụng MAS vào những ca phẫu thuật phức tạp ở trẻ ngày càng nhiều, chỉ định
ngày càng rộng rãi. Một số trường hợp trước đây là chống chỉ định của MAS
thì bây giờ có tác giả lại cho rằng tốt hơn khi sử dụng MAS ví dụ như thất
phải hai đường ra, hen phế quản…. Các nhà gây mê nhi khoa ngày càng trở
nên thông thạo và có kinh nghiệm hơn, đưa ra kế hoạch gây mê an toàn nhăm

giúp cho trẻ được hưởng lợi ích tốt nhất từ phẫu thuật.

Hình 1.1. Biến dạng lồng ngực sau mổ teo thực quản bẩm sinh [5].
4
Tại sao mổ nội soi lồng ngực lại ngày càng phát triển [5] :
- Do xu thế của khoa học kỹ thuật.
- Giảm thời gian phẫu thuật.
- Giảm đau sau mổ.
- Giảm thời gian thở máy sau mổ.
- Giảm nguy cơ do thở máy kéo dài sau mổ.
- Giảm thời gian nằm viện.
- Giảm chi phí.
- Giảm di chứng biến dạng lồng ngực và hạn chế vận động.
Những thuận lợi trong gây mê cho phẫu thuật nội soi cho trẻ em bao gồm:
- Khả năng tự điều chỉnh của tim lớn (large cardiac reserve), không có
bệnh mạch vành hay bệnh mạch máu như người lớn vì vậy huyết động thay
đổi không nhiều khi bơm hơi lồng ngực hay ổ bụng như nhịp chậm, tăng hay
giảm huyết áp.
- Hiếm khi bị suy hô hấp mạn tính nên chịu đựng tốt hơn với bơm hơi
vào khoang màng phổi.
Những khó khăn trong gây mê cho phẫu thuật nội soi trẻ em là:
- Vị trí bệnh nhân thường ở giữa hoặc cuối bàn mổ do vậy khoảng cách
từ bệnh nhân đến mỏy mờ và người gây mê là rất lớn.
- Tư thế thường nằm ngang và nghiêng, thậm chí nằm sấp, phụ thuộc vào
vị trí cần phẫu tích trong mổ.
- Cần được bộc lộ tối ưu trường mổ với áp lực bơm hơi thấp yêu cầu
phải duy trì giãn cơ tốt trong suốt thời gian mổ.
5
- Duy trì thân nhiệt khó do bơm khí lạnh vào các khoang của cơ thể, và
mất nhiệt qua da ở trẻ rất lớn.

1.2.2. Những vấn đề được đặt ra trong gây mê cho phẫu thuật nội soi ở trẻ em
[10, 11]:
1.2.2.1. Chọn bệnh nhân:
- Cũng như thăm khám gây mê thông thường, hỏi tiền sử và khám lâm
sàng là vô cùng quan trọng. Tất cả những triệu chứng và xét nghiệm ngoài
giới hạn bắt buộc phải thông báo và cân nhắc, quyết định xem bệnh nhân có
thể chịu đựng được những tác động do bơm khí gây ra hay không.
- Hiện nay chỉ định của nội soi lồng ngực là rất thay đổi, có trường hợp
trước đây là CCĐ thì hiện nay có một số báo cáo đã thực hiện thành công kỹ
thuật này. Tuy nhiên phẫu thuật nội soi lồng ngực không được đặt ra đối với
các trường hợp:
• Hen phế quản nặng, có tổn thương phổi bên đối diện gây hạn chế
thông khí, …
• Rối loạn thông khí nặng.
• Bệnh lý thần kinh cơ, gù vẹo cột sống,
• Bệnh tim bẩm sinh cú tớm, ….
• Rối loạn đụng mỏu.
• Bệnh lý nội khoa khác cần được cân nhắc cụ thể trên từng trường hợp.
- Những bệnh nhi khỏe mạnh là ứng cử viên tốt cho MAS do khả năng tự
điều chỉnh của tim và phổi rất lớn, không có bệnh xơ vữa động mạch nên chịu
đựng tốt với sự thay đổi của tần số tim, huyết áp và cung lượng tim mà không
xảy ra các biến chứng như nhồi máu cơ tim hay đột quỵ Tuy nhiên từ 0 đến 6
6
tháng tuổi, tăng tần số tim là biện pháp duy nhất nhằm duy trì cung lượng tim
trước sự thay đổi tiền ghỏnh hay hậu gánh. Khả năng chịu đựng trước những
ảnh hưởng do bơm hơi vào khoang màng phổi kém hơn nhưng với áp lực bơm
hơi từ 4-6 mmHg đã được chứng minh là thành công thậm chí ở trẻ sơ sinh
non yếu. Hơn một thập kỷ qua, MAS đã được thực hiện thành công ở trẻ ngày
càng nhỏ thậm chí trọng lượng cơ thể chỉ có 900 gam, và được công nhận là
xu thế phẫu thuật chủ đạo.

- MAS cho phép trẻ tập thở sớm và tốt hơn, chức năng hô hấp sau mổ
tốt hơn, liều thuốc giảm đau họ morphin cần dùng sau mổ giảm cho phép rút
NKQ sớm hơn, giảm nguy cơ viêm phổi do thở máy và tránh phải lưu lại lâu
tại khoa hồi sức, ngược lại với phẫu thuật mở ngực cổ điển. Meehan và cộng
sự đã thực hiện nghiên cứu và đưa ra kết quả về tỉ lệ viêm phổi sau mổ trên
bệnh nhân mổ nội soi là 1.8% trong khi đối với bệnh nhân mổ mở là 40%.
1.2.2.2. Đặt tư thế bệnh nhân:
Trong phẫu thuật nội soi, phẫu thuật viên cần có một khoảng không tự
do tối đa để thực hiện các thao tác trong không gian ba chiều trong khi quan
sát bằng không gian hai chiều. Bệnh nhân thường được đòi hỏi di chuyển ra
giữa bàn mổ và xoay ngang 90o do vậy phải đảm bảo răng dây máy thở cung
như dây truyền dịch phải đủ dài, không bị căng, trỏnh kộo tuột kim luồn tĩnh
mạch và NKQ ra khỏi vị trí của nó. Hút NKQ trong mổ và tiêm thuốc cần
được lưu tâm.
Tránh dạng tay quá mức gây tổn thương thần kinh cũng là một thách
thức với MAS ở trẻ nhỏ. Bệnh nhân nằm nghiêng nhiều hay ít thậm chí nằm
sấp còn phụ thuộc vào vị trí cần phẫu tích, ở trung thất trước, giữa hay sau.
Vấn đề cần quan tâm ở đây là tránh bị gập NKQ.
1.2.2.3. Trong quá trình gây mê:
- Có thể khởi mê bằng đường tĩnh mạch hay dùng thuốc mê hơi.
7
- Thông khí qua mask cần búp búng với áp lực thấp tránh đưa khí vào dạ
dày và ruột. Đối với teo thực quản và thoát vị hoành, các tác giả khuyờn nờn
gây tê tại chổ và đặt NKQ mà không thông khí nhân tạo qua mask.
- Đặt sông dạ dày và hậu môn là rất cần thiết đối với trẻ sơ sinh do thể
tích khoang bụng hạn chế, cơ hoành thường bị đẩy lên cao, nên hạn chế hơi
trong đường tiêu hóa càng nhiều càng tốt.
- Tuyệt đối không dùng N2O do nguy cơ tắc mạch khí.
Hình 1.2.
Hình 1.3.

8
- Với NKQ không có búng chốn, nếu khí bị rò ra ngoài ở áp lực
+15cmH2O thì cần thiết phải đổi ống khác có đường kích lớn hơn 0.5mm vì
sẽ không đảm báo thông khí trong mổ.
- Làm ấm khí CO2, làm ấm dịch truyền, làm ấm và ẩm khí thở, hệ thống
sưởi bằng hơi ấm tránh tụt nhiệt độ.
- Hệ thống theo dõi ngoài điện tâm đồ, SpO2, EtCO2, NIBP, đo thân
nhiệt và dán ống nghe vùng trước tim, theo dõi huyết áp động mạch xâm nhập
liên tục cho phép theo dõi liên tục huyết áp của bệnh nhân đồng thời kiểm tra
khớ mỏu động mạch khi cần và điều chỉnh toan kiềm. Ngoài ra đo ALTMTW
và đặt sông bàng quang là cần thiết vì trẻ dễ có nguy cơ thiếu dịch cũng như
quá tải dịch. Cần phải sửa chữa tình trạng huyết động trước khi thiểu niệu xảy
ra. Nên đo nhiệt độ hậu môn vì nhiệt độ thực quản trong nội soi lồng ngực
không phản ánh đúng nhiệt độ trung tâm đặc biệt là trên trẻ nhỏ.
- Giãn cơ tốt đòi hỏi duy trì suốt cuộc mổ nhằm cung cấp phẫu trường tốt
nhất với áp lực bơm hơi nhỏ nhất và trỏnh khớ rò rỉ qua khe hở của trocar.
- Gây tê tại chỗ đặt trocar không được đặt ra với trẻ nhỏ do khó tránh khỏi
quá liều khi gây tê tất cả các điểm chọc trong khi kích thước dụng cụ nhỏ chỉ
3mm. Đặt catheter ngoài màng cứng để giảm đau cho phẫu thuật nội soi ngực ở
trẻ nhỏ còn nhiều bàn cãi do khả năng gây tổn thương tủy sống ở bệnh nhân
chưa đủ khả năng nhận thức về tình trạng cảm giác và vận động trước đó.
- Vết mổ nhỏ nhưng bệnh nhân lại chịu một đau khác do bơm khớ gõy
kéo căng và thay đổi vị trí của cơ hoành và trung thất. Khí lạnh bơm vào
khoang màng phổi được làm ấm nhanh chóng bởi nhiệt độ cơ thể, khớ khụ có
thể gây tổn thương các màng gây đau sau mổ và hạ nhiệt độ. Làm ấm và làm
9
ẩm CO2 trước khi bơm vào bệnh nhân, xả hết CO2 sau mổ sẽ làm mất đi
những tồn tại này.
- Một số nghiên cứu gần đây đưa ra bằng chứng dùng thuốc giảm đau
kháng viêm không steroid trước mổ, ức chế cyclooxygenase-2 (COX-2), làm

giảm đáng kể đau sau mổ gõy ra bởi kích thích phẫu thuật. Ức chế COX-2
(celecoxib) này ít có ảnh hưởng lên chức năng tiểu cầu vì vậy cũng ít lo ngại
về chảy máu như đối với kháng viêm giảm đau không steroid khác.
- Truyền dịch trong mổ: Do sự kết hợp của gây mê, tư thế bệnh nhân
cộng với áp lực dương trong khoang màng phổi làm giảm tiền gánh do đó gây
giảm đáng kể cung lượng tim và huyết áp, cần bù dịch thiếu hụt sớm hơn so
với các phẫu thuật mổ mở . Đặc biệt những trẻ có shunt trong tim rất nhạy
cảm với thiếu hụt khối lượng tuần hoàn cần phải bù thể tích tuần hoàn thiếu
hụt trước khi bơm CO2. Đối với phẫu thuật mở ngực kinh điển, trẻ thường
mất dịch qua vết mổ từ 4-8 ml/kg/giờ. Đối với phẫu thuật nội soi nói chung,
mất dịch ít hơn nhưng đánh giá chính xác là vô cùng khó, phải dựa vào tần số
tim, huyết áp, ALTMTW nếu có và lượng nước tiểu hàng giờ.
- Trong mổ nội soi, thường phải mất nhiều thời gian để khống chế chảy
máu hơn mổ mở. Máu chảy ớt khú quan sát do Hb hấp thu ánh sáng, đánh giá
lượng máu chảy trên không gian hai chiều cũng khó hơn và tìm chỗ chảy máu
cũng khó hơn thậm chí phải chuyển mổ mở để cầm máu.
1.2.2.4. Những tác động của nội soi lồng ngực ở trẻ em lên huyết động và hô hấp:
Trẻ sơ sinh dươis 4kg ít chịu đựng được với cô lập riêng từng bên phổi.
A.Gentili nghiên cứu từ năm 1996 đến năm 2003 trên 50 bệnh nhi mổ nội soi
lồng ngực thấy rằng với trẻ dưới 12 tháng tuổi, không có thông khí một phổi,
bơm CO2 vào khoang màng phổi với dũng 2L/phỳt và áp lực 4mmHg là đủ
gây xẹp phổi cựng bờn phục vụ cho phẫu thuật viên và không ảnh hưởng
10
nhiều lờn khớ mỏu và huyết động. Debnath Chatterjee, trường đại học Havard
nghiên cứu trên 5 bệnh nhân sơ sinh mổ thoát vị hoành nội soi, đặt NKQ theo
kinh điển, trong mổ cú lỳc áp lực bơm hơi tăng lên 8mmHg nhưng không xảy
ra biến loạn nhiều. Vấn đề đặt ra là:
+ Những thay đổi sau khi chuyển tư thế bệnh nhân.
+ Ảnh hưởng lên huyết động và hô hấp khi gây ra một áp lực dương
trong khoang màng phổi.

+ Thay đổi khớ mỏu khi bơm CO2 vào khoang màng phổi và thông khí
thế nào để duy trì các chỉ số trong giới hạn cho phép.
1.3. Đặc điểm giải phẫu và sinh lý của trẻ sơ sinh liên quan đến GMHS
[6, 13, 14].
1.3.1. Hình thể:
Trẻ sơ sinh có cân nặng bằng 1/20, chiều dài bằng 1/3, diện tích da
bằng 1/9 người lớn. Đầu chiếm 25% chiều dài cơ thể. Thân mình dài còn chân
tay thì ngắn. Tỉ lệ Surface/volume lớn gấp 70 lần người lớn.
1.3. 2. Tuần hoàn:
- Tuần hoàn phổi thay đổi ngay lập tức sau khi sinh gây ra bởi tiếng
khóc chào đời. Sức cản mạch phổi trước khi sinh cao là do xẹp và chứa đầy
dịch của phổi, co mạch phổi. Sau sinh, các phế nang từ chỗ chứa đầy dịch nay
được khí làm đầy, sức cản mạch phổi giảm xuống là cơ hội cho dòng máu lên
phổi tăng lên, tăng oxy hóa máu, áp lực riêng phần của O2 trong máu động
mạch tăng lên và của CO2 giảm xuống. Sức cản hệ thống tăng và chấm dứt
tuần hoàn thai nhi.
- Tăng đột ngột sức cản hệ thống làm giảm lượng máu về tim từ tĩnh
mạch chủ dưới, giảm áp lực nhĩ phải. Sức cản phổi nhanh chóng giảm xuống
11
là cơ hội cho tăng dòng máu lên phổi, tăng lượng máu về nhĩ trái và áp lực
nhĩ trái. Lỗ bầu dục, ống động mạch, động mạch và tĩnh mạch rốn không còn
được sử dụng và dần đóng lại. Sự đóng vĩnh viễn xảy ra sau vài tháng, tuy
nhiên lỗ bầu dục vẫn tồn tại ở 15-20% người trưởng thành. Ống động mạch
đóng chức năng 10-15 giờ sau sinh và đóng giải phẫu 4-6 tuần sau sinh.
Trong vài tuần đầu, lưu thông của dòng máu qua lỗ bầu dục và ống động
mạch quay trở lại gần giống như thời kỳ bào thai là rất dễ xảy ra khi có toan
húa mỏu, thiếu oxy, hạ thân nhiệt, hạ đường máu, hạ calci máu, quá tải dịch,
tăng áp lực động mạch phổi. Riêng đối với ống động mạch còn chịu ảnh
hưởng của PGE1. Động và tĩnh mạch rốn đóng lại rất sớm, không phụ thuộc
vào các yếu tố trên và trở thành các dây chằng.

- Thể tích mỏu lỳc sinh phụ thuộc vào thời điểm và kỹ thuật cắt rốn.
Thông thường trẻ sinh đủ tháng có 80-90 ml/kg, trẻ sinh non là 90-100 ml/kg.
Trong vòng 4 giờ đầu thể tích này có thể giảm tới 25% do mất nước.
- Cung lượng tim ngay sau khi sinh là 350-400 ml/kg/phỳt, sau 1 tuần
là 150-200 ml/kg/phỳt. Người lớn là 70 ml/kg/phỳt.
- Nhịp tim bình thường trong khoảng 100-170 lần/phỳt, có thể lên tới
200 lần/phỳt và thường là nhịp xoang. Cung lượng tim phụ thuộc rất lớn vào
tần số tim do khả năng tăng thể tích tống máu vô cùng hạn chế. Tại cơ tim,
phân bố của các sợi thần kinh phó giao cảm chiếm ưu thế, phân bố của các sợi
thần kinh giao cảm chưa hoàn thiện và dự trữ catecholamin thấp. Chính vì vậy
trẻ sơ sinh co xu hướng chậm nhịp tim đặc biệt là khi thiếu oxy. Khi bị thiếu
oxy mạch máu phổi co lại, kết quả là mở lại lỗ bầu dục, ống động mạch và
shunt phải- trái. Sức cản hệ thống cũng tăng lên do co mạch (ở người lớn là
giãn mạch), nhịp chậm (người lớn là tăng nhịp tim), hậu quả làm giảm cung
lượng tim. Nhịp tim dưới 100 lần/phỳt cần được cho atropin, giảm dưới 85
12
lần/phỳt được coi là ngừng tim và cần điều trị ngay với atropin và oxy 100%,
nếu không có đáp ứng thì phải cho adrenalin 5-10 mcg/kg. Nhịp nhanh có thể
do thiếu khối lượng tuần hoàn, bệnh tim hay phổi bẩm sinh, drug withdrawal,
hoặc cường giáp.
- Lúc mới sinh huyết áp là 50-65 mmH, và huyết áp ở chân cao hơn tay,
sau 9 tháng tuổi thì ngược lại. Trong 6 tuần đầu sau sinh cứ mỗi tuần huyết áp
lại tăng thêm 10 mmHg. Trẻ sơ sinh phụ thuộc rất nhiều vào nhịp tim để duy
trì cung lượng tim và huyết áp. Phản ứng co mạch để nâng huyết áp khi chảy
máu và thiếu khối lượng tuần hoàn kém hơn so với người lớn do đó con số
huyế táp tối đa là một chỉ thị tốt của khối lượng tuần hoàn và có thể dựa vào
đó để đưa ra chỉ định truyền dịch hoặc truyền máu. Huyết áp thấp và ngừng
tim xảy ra trong mổ thường là do thiếu thể tích máu lưu thông, quá liều thuốc
gây mê hoặc cả hai.
1.3.3. Hô hấp:

* Một số đặc điểm về giải phẫu:
- Đầu lớn so với kích thước cơ thể, cổ ngắn, khối cơ cổ kém phát triển.
- Lưỡi lớn so với thể tích khoang miệng nên trẻ sơ sinh bắt buộc phải
thở bằng mũi trong khi kích thước lỗ mũi nhỏ vì vậy đặt sông dạ dày qua mũi
là nên tránh.
- Nắp thanh quản lớn, mềm, hơi ra trước. Vị trí thanh quản cao, ngang
cổ 3 ở trẻ sinh non, ngang cổ 3-4 ở trẻ sinh đủ tháng và ở trẻ lớn là ngang
mức cổ 4-5.
- Vòng sụn nhẫn hẹp và là nơi hẹp nhất của khí quản và có kích thước
tương đương với lỗ mũi trước. Ở người lớn chỗ hẹp nhất của khí quản chính
là hai dây thanh.
13
- Đường kính khí quản nhỏ, khoảng 4mm tại sụn nhẫn. Khi niêm mạc
khí quản phù nề 1mm thì diện tích qua đó giảm 60-75% và sức cản tăng 16%
nhưng đối với người lớn thì diện tích qua đó chỉ giảm 44% và sức cản tăng
thêm 3%. Do vậy khi đặt nội khí quản cho trẻ sơ sinh thì hơi lỏng một chút
còn tốt hơn là khít chặt.
- Xương sườn nằm ngang, cơ liên sườn chưa phát triển và, xương ức và
lồng ngực mềm do chưa cốt húa nờn trong trường hợp thở gắng sức sẽ xảy ra
hiện tượng di động đảo ngược làm giảm độ giãn nở của phổi .
- Cơ hoành cao và di chuyển lên xuống như pớton. Đây là cơ hô hấp
quan trọng nhất nên bụng chướng do bất kỳ nguyên nhân nào cũng góp phần
làm giảm hô hấp.
- Số lượng tiểu phế quản tận là 20-50 triệu trong khi ở người lớn là 300
triệu. Số lượng phế nang vì thế cũng giảm theo cấp số nhân, cùng với đó là
kích thước phế nang cũng nhỏ hơn. Thể tích phổi nhỏ không cân xứng với
kích thước cơ thể và nhu cầu chuyển hóa cao. Để tăng thông khí phỳt thỡ
cỏch duy nhất là phải tăng nhịp thở. Thở gắng sức lại làm tăng sức cản phổi,
giảm compliance phổi và kết quả là tăng nhu cầu tiêu thụ oxy lên 15%.
- Cơ hoành và cơ liên sườn thiếu sợi cơ typ 1 (là sợi cơ oxy hóa cao, co

rút chậm, cơ có khả năng hoạt động bền bỉ) làm trẻ dễ bị mệt cơ hô hấp.
- Trong thời kỳ bào thai phổi không tham gia vào quá trình trao đổi khí.
Tiếng khóc chào đời là kết quả của cơ hoành hạ xuống đột ngột gây ra dũng
khớ mạnh tràn vào phổi, áp lực khi đó lên tới 80cmH2O, thắng được sức cản
đường thở và đưa khí tới phế nang. Chỉ trong vòng 5-10 phút đầu đời thể tích
lưu thông và thể tích cặn đã được thiết lập.Trong phế nang dịch được thay thế
bằng khí, lượng dịch còn lại được chuyển vào vòng tuần hoàn nhờ hệ thống
bạch huyết ở phổi và lượng surfactant khi đó. Thiếu surfactant, thường gặp ở
14
trẻ sinh non làm cho các phế nang xẹp lại, chức năng trao đổi khí giảm,giảm
độ giãn nở của phổi, tăng sức cản phổi, tăng công hô hấp và cuối cùng là suy
hô hấp.
- Vt: lúc mới sinh là 6 ml/kg, nhanh chóng tăng lên 15 ml/kg.
- Khoảng chết là 50% của total ventilation ở trẻ sinh non, trẻ sinh đủ
tháng con số này là 40% và bằng người lớn sau một tháng (30%).
- Thể tích cặn chức năng thấp, do độ giãn nở của phổi thấp, độ chun
giãn của thành ngực cao, nên trẻ rất nhanh thiếu oxy nhưng khởi mê bằng
thuốc mê hơi nhanh.
- Thông khí phút và thông khí phế nang so với cân nặng cao gấp 2-3 lần
người lớn do chuyển hóa cơ bản và nhu cầu tiêu thụ oxy cao. Thông khí phế
nang ở trẻ dưới một năm là 130-150 ml/kg/phỳt trong khi ở người lớn chỉ có
45-60 ml/kg/phỳt. Điều này giải thích tại sao FiO2 ở khí thở ra thay đổi rất
nhanh ở trẻ sơ sinh và nhũ nhi. Người lớn có thể tăng thông khí phút bằng tăng
Vt và tăng tần số thở nhưng trẻ sơ sinh, tăng Vt là rất hạn chế, chủ yếu dựa vào
tăng tần số thở. Trong khi tần số thở bình thường đã là 30-40 nhịp/phỳt, tỉ lệ
sợi cơ loại 1 thấp, dễ bị mệt cơ hô hấp nên giới hạn an toàn thấp.
- Thể tích cặn chức năng (FRC: Functional Residual Capacity) thấp. Tỉ
lệ MV/FRC ở người lớn là 1,5:1 trong khi trẻ sơ sinh là 5:1. FRC thấp, dự trữ
oxy phế nang thấp, thiếu oxy xảy ra rất nhanh khi ngừng thở. Thay đổi nhanh
FiO2 phản ánh Oxy trong phế nang và trong máu động mạch. RFC giảm trong

gây mê và còn tồn tại sau mổ. Trẻ càng nhỏ càng có nguy cơ giảm RFC. Khắc
phục tình trạng này bao gồm thở CPAP 5cmH2O, giảm áp lực ổ bụng bằng
đặt thông dạ dày.
15
- Đường thở có xu hướng dễ bị xẹp trong thì thở ra làm khí bị giữ lại
trong phổi. Sức cản đường thở cao liên quan đến kích thước đường thở nhỏ.
Độ giãn nở phổi thấp do tổ cức chun giãn kém phát triển.
- Tỉ lệ tĩnh mạch trộn là 20% trong khi người lớn là 5%. Trẻ sơ sinh
đáp ứng với tăng CO2 yếu hơn với thiếu oxy. Ngược lại, thiếu oxy làm giảm
đáp ứng của hô hấp với tăng CO2.
- Trẻ sơ sinh dễ có nguy cơ mắc bệnh võng mạc và xơ hóa phổi trong 2
tuần đầu đặc biệt là sơ sinh non tháng. Khuyến cáo đưa ra chỉ số SpO2 cho trẻ
sinh đủ tháng là 92% và đối với trẻ sinh non là 88%.
1.3.4. Thần kinh:
- Trong 3 tháng cuối của thời kỳ thai nghén hệ thần kinh TƯ trưởng
thành nhanh chóng thể hiện bằng sự xuất hiện một loạt các phản xạ như phản
xạ Moro, phản xạ Grasp, những milestones này thường dược sử dụng để đánh
giá sự phát triển của tâm thần kinh.
- Lúc mới sinh, khối lượng não chỉ chiếm 10% trọng lượng cơ thể, gấp
đôi sau 6 tháng và gấp ba sau một năm.
- Hàng rào mỏu nóo chưa phát triển và cơ chế đau chưa rõ ràng
- Nồng độ thuốc mê bốc hơi sử dụng cho trẻ sơ sinh đủ tháng thường
thấp hơn trẻ nhũ nhi, là do sự chưa trưởng thành của hệ TKTW, chưa hoàn
thiện của hàng rào mỏu-nóo. Chớnh vì vậy mà trẻ sơ sinh cũng tăng nhạy cảm
với các thuốc thuộc họ barbiturat và họ morphin. Đối với các thuốc giãn cơ,
do chưa hoàn thiện ở bản vận động thần kinh–cơ và đáp ứng với
acetylcholine chạy dọc theo suốt chiều dài của sợi thần kinh nên liều thuốc
giãn cơ không khử cực tương đương với liều của người lớn và liều của giãn
cơ khử cực cao gấp hai lần người lớn.
16

- Nguy cơ tắc nghẽn máu tĩnh mạch từ não trở về và tăng đột ngột
huyết áp động mạch gây vỡ mao mạch trong não và chảy máu não thất.
Nguyên nhân gây tăng đột ngột huyết áp có thể do ngạt, ngừng thở, thay đổi
áp lực thẩm thấu sau tiêm bolus natribicarbonat 8,4%, đường 10%, đau trong
mổ hoặc kích thích khi đặt NKQ sống. Chảy máu não thất là nguyên nhân lớn
gây tử vong ở trẻ sơ sinh.
1.3.5. Thân nhiệt:
- Kém có khả năng tự điều chỉnh thân nhiệt vì không có phản ứng run
cơ do chuyển hóa tỏ chức mỡ nâu cung cấp. Mỡ nõu cú ở cổ, giữa hai xương
bả vai, trung thất, quanh động mạch vú trong, quanh thận và tuyến thượng
thận. Trong môi trường lạnh, norepinephrine được tăng tiết, kích thích tổ chức
mỡ nâu chuyển hóa bằng cách giỏng húa triglycerides giúp tăng cung lượng
tim và sưởi ấm máu. Trong khi gây mê phản xạ này bị mất do đó làm ấm
không khí, máu và dịch truyền là rất quan trọng.
- Hạ thân nhiệt dẫn tới: toan chuyển hóa, tăng oxy hòa tan, shunt phải
trái, suy hô hấp, suy giảm ý thức và lâu tỉnh sau gây mê, kộo dỏi thời gian tác
dụng của thuốc, khó đáng giá thiếu khối lượng tuần hoàn, giảm surfactant,
loạn nhịp và suy tim. Duy trì thân nhiệt cho trẻ là một trong những yếu tố
được đặt lên hàng đầu đặc biệt là trẻ có cân nặng thấp. Hạ thân nhiệt do mất
nước qua da là chính, ngoài ra có thể do tăng thông khí. Trong 26-28 tuần, trẻ
có cân nặng thấp bị mất nước qua da có thể lên tới 60 ml/kg/ngày, đối với trẻ
sinh đủ tháng là 10 ml/kg/ngày.
1.3.6. Thận và chuyển hóa muối, nước:
- Mức lọc cầu thận lúc sinh chỉ bằng 30% người lớn, đạt 50% sau 10
ngày và 100% so với người lớn bình thường sau một năm.
17
- Lưu lượng máu tới thận chỉ bằng 5-6% cung lượng tim trong khi ở
người lớn là 20%. Nó chịu ảnh hưởng lớn của áp lực ổ bụng, dòng máu tới
thận giảm khi tăng áp lực ổ bụng tăng ví dụ như sau mổ omphalocele.
- Khả năng tái hấp thu nước và Na+ của ống thận kém làm giảm khả

năng cô đặc nước tiểu. Do đó trẻ sơ sinh dễ bị mất muối và nước. Bổ sung
muối là cần thiết ít nhất là trong 2 tuần đầu. Trẻ sinh đủ tháng cần bổ sung 2-3
mEq Na+/kg/ngày, trẻ sinh non có nhu cầu cao hơn, 30-35 tuần tuổi thai cần 4
mEq/kg/ngày và dưới 30 tuần tuổi thai cần 5 mEq/kg/ngày. Giữ nước và hạ
Natri máu hay gặp ở trẻ thở CPAP do tăng tiết vasopressin. Truyền dịch ưu
trương hay nhược trương đều gây ra phự nóo. Trẻ dễ thiếu dịch nhưng cũng
dễ bị quá tải dịch, quá tải dịch nặng sẽ gõy phự phổi, làm tồn tại ống động
mạch và suy tim xung huyết.
- Nồng độ protid và urờ mỏu thấp. Khả năng gắn kết của thuốc với
protein máu thấp làm cho nồng độ thuốc tự do trong huyết thanh cao.
- Chức năng thận chỉ hoàn thiện ít nhất sau 18 tháng tuổi. Nó ảnh
hưởng trực tiếp đến thải trừ thuốc do đó ảnh hưởng liều lượng cũng như
khoảng cách cho thuốc.
- Kali huyết thanh chỉ đưa ra một con số ước chừng do 98% lượng kali
của cơ thể năm trong tế bào. Toan gây tăng kali máu và kiềm gây hạ kali máu.
Rất nhiều thuốc làm ảnh hưởng đến nồng độ kali trong máu. Trong tất cả các
trường hợp thiểu niệu, vô niệu, sốc, toan, suy thận đều không được truyền
dung dịch chứa kali và thay thế vào đó là dung dịch mặn đẳng trương. Nhu
cầu từ 2-3 mEq/kg/ngày.
1.3.7. Vàng da:
Tăng bilirubin ở trẻ sơ sinh là một trong những vấn đề cần quan trọng
cần được lưu tâm. 60% trẻ sinh đủ tháng có vàng da sinh lý. Đối với trẻ sinh
18
đủ tháng khỏe mạnh thì vàng da sinh lý khụng gõy tác hại gì nhưng đối với trẻ
sinh non, có suy dinh dưỡng bào thai, hoặc có bệnh nặng kèm theo sẽ có
nhiều nguy cơ của bệnh vàng da nhõn nóo. Ở trẻ sinh đủ tháng, blirubin tăng
cao nhất vào ngày thứ ba sau sinh và giảm dần trong 4 tuần.
1.3.8. Máu và các tế bào máu:
- Lúc mới sinh, hemoglobin trong máu là 14-20 g/dl, trong đó huyết sắc
tố bào thai (HbF) chiếm 70-80%, lượng HbF giảm dần sau sinh và tới 6 tháng

tuổi thì con không đáng kể. HbF có ái lực với oxy cao hơn, vận chuyển được
nhiều oxy ở PaO2 thấp và lấy CO2 của tổ chức tốt hơn huyết sắc tố người lớn
(HbA). Trong vòng 2-3 tháng tuổi, hiện tượng hiếu máu sinh lý là do HbF dần
được thay thế bằng HbA, lúc này Hb chỉ vào khoảng 9-11 g/dl.
- Hemoglobin bình thường sau sinh là 14-20 g/100ml. 3-5% trẻ sinh đủ
tháng được chẩn đoán là đa hồng cầu (hematocrit > 65%), làm tăng sức cản
hệ thống, tăng sức cản phổi và làm giảm cung lượng tim. Sau đó hemoglobin
giảm xuống do tan máu và thiếu máu sinh lý xảy ra ở trẻ dưới 3 tháng tuổi,
vào thời kỳ này nhiều trẻ có Hb chỉ trong khoảng 8-10 g/dl. Số lượng bạch
cầu trong vòng 24 giờ đầu có thể tăng tới 21000 bạch cầu/ml, và giảm xuống
12000 bạch cầu /ml trong tuần đầu. Từ 1 tuần tuổi cho tới 4 tuổi số lượng
bạch cầu lympho chiến ưu thế. Chức năng của bạch cầu trung tính chưa
trưởng thành nên trẻ sơ sinh rất dễ bị nhiễm trùng.
1.3.9. Đông máu:
Tất cả trẻ sau sinh cần được tiêm dự phòng vitamin K tránh bệnh chảy
máu ( hemorrhagic disease of the newborn) do thiếu các yếu tố đụng mỏu phụ
thuộc vitamin K.
19
1.3.10. Dạ dày ruột:
Khi sinh, pH dạ dày gần với pH của nước ối, acid yếu. Trẻ sơ sinh bình
thường không có sự phối hợp nhịp nhàng giữa nuốt và trớ. Trào ngược của
dịch dạ dày là do nhu động thực quản yếu và chưa trưởng thành của cơ thắt
thanh quản thực quản. Cho tới 6 tháng tuổi thỡ cỏc phản xạ cần phải đạt được
gần như người lớn, trào ngược sau 6 tháng được coi là bệnh lý và có thể gây
tổn thương đường hô hấp.
1.3.11. Chuyển hóa đường:
- Trẻ sơ sinh có nhu cầu chuyển hóa cao, dự trữ năng lượng thấp, chức
năng gan nhưa phát triển nên dễ có nguy cơ hạ đường huyết và biểu hiện triệu
chứng ra ngoài như người lớn là không có. Dự trữ đường thấp, nhưng lại có
phản ứng tăng đường huyết trước những tác động của phẫu thuật nên truyền

dung dịch đường phải được theo dõi chặt chẽ.
- Hạ đường huyết khi dưới 45g/dl. Tăng đường huyết khi trên
125mg/dl. Tăng đường huyết thường là do thầy thuốc gây nên, nguy cơ tăng
áp lực thẩm thấu dẫn đến chảy máu não thất và lợi niệu thẩm thấu gây mất
nước và hạ Natri. Não, tim, dạ dày ruột sẽ bị tổn thương do thiếu máu khi
nồng độ đương huyết trên 200mg/kg.
1.4. Sinh lý thông khí một phổi [1, 4, 7, 10, 11, 16].
Trong phẫu thuật nội soi lồng ngực, có cô lập hay không có cô lập phổi
thì tại bên phổi phẫu thuật dưới ảnh hưởng của áp lực dương do bơm hơi vào
khoang ngoài màng phổi sẽ xảy ra hiện tượng xẹp phổi. Phản xạ tự nhiên của
hệ thống mao mạch phổi tại vùng phổi xẹp là co mạch tại chỗ gây tăng sức
cản mạch máu phổi và làm giảm dòng máu qua đó gọi là phản ứng co mạch
phổi do thiếu oxy (Hypoxic pulmonary vasoconstriction :HPV). Toàn bộ máu
20
tới những vùng phổi không được thông khí trở thành shunt trong phổi, trong
khi bình thường shunt trong phổi ở trẻ sơ sinh đã là 20%. Khi vùng phổi
không được thông khí chiếm từ 30-70%, trong tình trạng gây mê có thông khí
một phổi sẽ có sự khác biệt rất lớn về PaO2 giữa có HPV và không có HPV.
Trong thực tế thì khi vùng phổi thiếu oxy ở trong khoảng này, HPV sẽ giúp
làm tăng PaO2 từ mức nguy hiểm có thể gây loạn nhịp lên mức an toàn. HPV
là cơ chế tự bảo vệ của phổi nhằm bảo vệ PaO2 bằng cách giảm shunt qua
những vùng phổi kém thông khí, phân bố lại dòng máu tới vùng phổi không
bị xẹp, có áp lực oxy phế nang cao, tăng thông khí nhằm giúp cho tỉ lệ thụng
khớ/tưới mỏu (V/Q) về gần như bình thường.
Thay đổi trong phân phối dòng máu phổi, shunt trong phổi, trên bệnh
nhân thở máy thông khí hai phổi chuyển sang thông khí một phổi ở tư thế
nằm nghiêng. (Hinh 49-7 trang 1866 anesthesia for thoracic surgery).
Khi thông khí một phổi, lý tưởng nhất khi shunt chiếm 20% tổng dòng
máu lên phổi. Ở điều kiện huyết động ổn định, khi đó PaO2 đạt được vào
khoảng 280 mmHg với FiO2 100%.


Hình 1.4: Thay đổi tưới máu phổi dưới ảnh hưởng của HPV và
Isoflurane = 1MAC trong thông khí một phổi.
21
Các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ co mạch phổi trong gây mê [1]:
- Tình trạng thiếu oxy phế nang. Tất cả cỏc vựng phế nang của phổi đều
có thể khởi động cơ chế này khi thiếu oxy.
- V/Q thấp hay xẹp phổi.
- Các thuốc giãn mạch hệ thống có tác dụng trực tiếp lên co mạch phổi.
- Các thuốc mê bốc hơi làm giảm phản ứng co mạch phổi trong khi các
thuốc mê đường tĩnh mạch hầu như không làm giảm phản ứng này. Tuy
nhiên việc sử dụng các thuốc mê hơi sao cho khụng gõy tụt huyết áp,
giảm cung lượng tim thì hầu như sẽ không làm tăng thêm shunt trong
phổi một cách có ý nghĩa trong giai đoạn thông khí một phổi.
- Phản ứng co mạch phổi do thiếu oxy đạt mức tối đa khi PvO2 bình
thường và giảm xuống khi chỉ số này tăng hoặc giảm.
- Giảm FiO2 sẽ làm tăng sức cản thành mạch ở vùng phổi bình thường,
vì thế làm tăng sự di chuyển máu từ bên phổi lành sang bên phổi xẹp
hay làm tăng shunt ở phổi.
- Các thuốc co mạch dường như gây co mạch phổi ở vùng phổi lành vì
vậy cũng làm tăng dòng máu đến vùng phổi xẹp và làm tăng shunt
trong phổi.
- Nhược thán ức chế trực tiếp phản ứng co mạch phổi trong khi ưu thán
làm tăng phản ứng co mạch phổi.
- PEEP gây tăng sức cản của mạch phổi tại bên được thông khí vì vậy
làm tăng dòng máu lên phổi không được thông khí, làm tăng shunt
trong phổi.
22
Thuốc và một số yếu tố ảnh hưởng trên phản ứng co mạch phổi [7].
Ảnh hưởng

lên HPV
Tài liệu tham khảo.
Yếu tố bệnh nhân:
COPD
Xơ gan
Nhiễm khuẩn
Gắng sức
Tăng huyết áp
Thay đổi về sinh lý:
Toan
Kiềm
Ưu thán
Nhược thán
Sốt
Hạ thân nhiệt
Tăng áp lực nhĩ trái
Tăng PvO2
Giảm PvO2
Can thiệp trong mổ:
Nằm nghiêng
Nằm ngửa
Co kéo phổi (tác động
của phẫu thuật)
Pha loãng máu
Gây tê ngoài màng cứng
Almitrine
Ngửi NO
Thuốc mê hơi:
Nitrous Oxide
Halothane

Enflurane
Isoflurane
Desflurane
Sevoflurane
_
_
_
_
+
+
_
+
_
+
_
_
_
+
+
0
+
_
+
+
0
_
_
0
0
0

0
Peinado 2002
Nakos 1993
Reeves 1974
Favret 2006
Guazzi 1989
Nagendran 2006
Nagendran 2006
Balanos 2003
Balanos 2003
Nagendran 2006
Nagendran 2006
Nagendran 2006
Marshall 1983
Marshall 1983
Bardoczky 2000
Bardoczky 2000
Ishikawa 2003
Szegedo 2005
Nagendran 2006
Nagendran 2006
Nagendran 2006
Bindslev 1986
Nagendran 2006
Nagendran 2006
Nagendran 2006
Kerbaul 2001
Pruskowski 2007
23
Thuốc mê đường tĩnh mạch

Propofol
Propofol
Ketamine
Opioids
Thuốc giãn mạch
Nitroglycerin
Nitroprusside
Các chất chủ vận Adrenergic
Dopamine
Norepinephrine
Phenylephrine
Các thuốc khác
Methylprednisolone
Lidocain
PGE1
Salbutamol
+
0
0
0
_
_
0
_
+
0
+
_
+
Nagendran 2006

Pruskowski 2007
Nagendran 2006
Nagendran 2006
Hales 1978
Parson 1981
Marin 1979
Silove 1968
Doering 1997
Leeman 1988
Bindslev 1986
Weir 1975
Pillet 1998
Các nguyên nhân chính gây thiếu oxy trong thông khí một phổi:
- Thiếu oxy nguồn.
- Thông khí tại phổi không đủ.
- Ống NKQ không đúng chỗ.
- Tăng shunt trong phổi ngay sau khi bắt đầu thông khí một phổi.
- Co thắt phế quản, thường gặp khi gây mê chưa đủ sâu.
- Tụt huyết áp, giảm cung lượng tim, mất máu, tăng nhu cầu tiêu thụ oxy
như tỉnh, rét run.
24
Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Địa điểm và thời gian nghiên cứu:
Nghiên cứu dự kiến được tiến hành tại khoa gây mê hồi sức bệnh viện Nhi
trung ương từ tháng 1-2009 đến tháng 10-2009.
2.2. Đối tượng nghiên cứu và cỡ mẫu:
- Bệnh nhi có độ tuổi từ 0 đến 28 ngày tuổi.
- Có chỉ định mổ nội soi lồng ngực điều trị một số bệnh như teo thực

quản bẩm sinh, thoát vị hoành, PDA…
- Không có chống chỉ định bơm CO2 vào khoang màng phổi.
2.3. Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân:
- Cân nặng trên 2000g.
- Có chỉ định phẫu thuật nội soi lồng ngực.
- Không phân biệt giới tính.
- Được sự đồng ý của gia đình bệnh nhân.
2.4. Tiêu chuẩn loại trừ bệnh nhân:
- Cân nặng dưới 2000g.
- Bệnh tim bẩm sinh nặng cú tớm, cú tăng áp phổi nặng, đang thở máy
với FiO2 100% mà không cải thiện PaO2,
- Huyết động không ổn định, đang dùng các thuốc trợ tim hay vận mạch.
- Bệnh nhân thoát vị hoành có chỉ số oxy >40.
25

×