Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

nghiên cứu so sánh một số chỉ tiêu hoá sinh ở bệnh nhân viêm gan mạn và bênh nhân sơ gan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.22 KB, 27 trang )

Đặt vấn đề
Các bệnh lý về gan trong những năm gần đây có chiều hướng gia tăng,
chiếm tỷ lệ cao trong mô hình bệnh tậtvà làm ảnh hưởng rất lớn đến sức khẻo
và tính mạng của con người. Đặc biệt ở các nước đang phát triển như nước ta,
các bệnh viêm gan virut A, B, C, D, xơ gan do rượu, ung thư gan… ngày càng
nhiều. Vì vậy việc chẩn đoán chính xác, theo dõi và tiên lượng các bệnh gan
là rất cần thiết. Cùng với các thông số hoá sinh đã được sử dụng trong chẩn
đoán cácb ệnh gan mật nh: Protein, Albumin, Bilirubin, AST, ALT… chúng
tôi tìm hiểu giá trị của enzym gamma glutamyl transferase (GGT) trong các
bệnh lý về gan.
GGT khu trú trên màng bào tương của các tế bào. Ở gan người lứon
enzym này tập trung tại các tiểu quản mật trong nhu mô gan, đặc biệt là phần
bờ của các tế bào biểu mô đường mật [8]. Ở người khoẻ mạnh, chỉ một lượng
nhỏ GGT tan trong tế bào gan, còn phần lớn gắn với màng, đặc biệt ở các
tếbào biểu mô tiểu quản mật và phân tiểu thuỳ trung tâm xoang của màng tế
bào gan và màng biểu mô của ống mật chủ. GGT trong huyết thanh có nguồn
gốc từ gan. Mặc dù một số cơ quan khác cũng có GGT, nhưng sự tăng GGT
không liên quan đến gan mật là không đáng kể và hiếm gặp [7].
Gan là cơ quan tham gia nhiều quá trình chuyển hoá của cơ thể, nên
trong tế bào gan có sự định khu khá phong phú các enzym, có loại có cả ở hai
nơi, vì vậy để đánh giá mức độ tổn thương tế bào cũng như qui mô tổn thương
dựa vào sự có mặt và mức độ tăng hoạt tính của enzym huyết thanh. Các xét
nghiệm enzym huyết thanh đánh giá các rối loạn chức năng gan cho phép
chẩn đoán xác định ở hầu hết các trường hợp. Vấn đề là nên chọn enzym nào
nếu nghi ngờ bệh về gan. Như đặc tính đều đặc hiệu cho gan, trong đó mỗi
enzym đại diện cho một loại tổn thương khác nhau của tế bào gan, do đó mỗi
enzym tăng cao đều phản ánh một tình trạng bệnh lý gan. Để cùng các bác sĩ
lâm sàng tìm hiểu về GGT, mét enzym gắn màng trong bệnh lý gan, chúng tôi
thực hiện đề tài này với mục tiêu:
1. Tìm hiểu sự biến đổi của enzym GGT trong một số bệnh gan
mật.


2. Tìm hiểu mối tương quan giữa GGT với các chỉ số Bilirubin, AST,
ALT trong các nhóm bệnh nhân viên gan mạn và bệnh nhân xơ
gan.
Tổng quan
Gan là cơ quan lớn nhất của cơ thể, đóng vai trò tích cực trong quá trình
chuyển hoá các chất. Gan là nơi tổng hợp và phân ly các chất để cung cấp cho
toàn bộ cơ thể. Gan có nhiều chức năng: tuần hoàn (dự trữ máu, chuyển máu
từ hệ tĩnh mạch cửa sang hệ tuần hoàn chung); huyết học (tạo máu ở thời kỳ
bào thai, sản xuất yếu tố đông máu: fibrrinogen, prothombin, …); bài tiết mật
xuống ruột, bảo vệ và khử độc; chuyển hoá glucid, lipid, protid, với hệ số
enzym rất là phong phú. Bệnh lý hệ thống gan mật gây rối loạn nhiều chức
phận của cơ thể.
1. Chức năng hoá sinh của gan
1.1. Chức năng chuyển hoá glucid
Gan có chức năng glycogen, đóng vai trò trung tâm trong điều hoà
đường huyết: tổng hợp glycogen dự trữ chơc thể và phân ly glycogen thành
glucose tù do vào máu để đưa đến các cơ quan khác sử dụng. Tại gan có quá
trình tân tạo glucose: tổng hợp glucose và glycogen từ nhiều nguồn khác
nhau: các monosacarid khác, các acid amin sinhđường, pyruvat, lactat. Ứng
dụng có nghiệm pháp Galactose - niệu để thăm dò chức năng gan.
1.2. Chức năng chuyển hoá lipid
Gan là nơi duy nhất sản xuất muối mật để nhũ tương hoá lipid, tạo điều
kiện thuận lợi cho việc tiêu hoá và hấp thụ lipid của thức ăn. Sau khi được
tieu hoá và hấp thu, dù đi theo con đường tĩnh mạch hay bạch mạch, lipid đều
qua gan, rồi từ đó đi các mô dự trữ và các mô khác.
- Quá trinh beta oxy hoá acid béo bão hoà xảy ra rất mạnh ở gan. Sản
phẩm là acetylCoA tham gia quá trình tổng hợp choletsterol và tạo ra các thể
cetonic. Thể cetonic hình thành ở gan rồi vào máu và đến các tổ chức, ở đây thể
cetonic quay trở lại thành acetylCoA để tổ chức sử dụng, đặc biệt là não và thận.
- Quá trình tổng hợp lipid trong gan, tuy không mạnh như mô mỡ nhưng

có nhiều điểm quan trọng: gan tổng hợp pipid cho gan, tổng hợp các
lipoprotein cho máu và acid tù do cho máu. Gan là nơi chủ yếu tổng hợp
phospholipid, quá trình tổng hợp này đóng vai trò quan trọng trong sự vận
chuyển mỡ ra k hái gan tránh ứ đọng mỡ trong gan. Nh vậy nếu chức năng
gan bị giảm dẫn đến giảm lipid huyết thanh và ứ đọng mỡ ở gan.
1.3. Chức năng chuyển hoá protid.
Gan tổng hợp protein cho gan và cho máu. Gan tổng hợp toàn bộ
albumin và một phần globulin cho huyết thanh, gan tổng hợp fibrinogen,
ferritin, và prothombin. Khi gan suy thì protein, albumin giảm, tỷ lệ các
globulin bị rối loạn biểu hiện trên sự thay đổi điện di và các phản ứng lên
bông. Gan cung cấp các acid amin tù do cho máu để cung cấp cho các cơ
quan khác tổng hợp protein.
Gan chứa nhiều acid glutamic và các enzym trao đổi amin nh AST
(SGOT) và ALT (SGPT), vì vậy quá trình trao đổi và khử amin xảy ra rất
mạnh ở gan. Khi gan bị tổn thương các enzym transaminase tăng cao trong
huyết thanh, hoạt tính các enzym này trong huyết thanh. Gan là nơi duy nhất
tổng hợp ure hoàn chỉnh. Khả năng tổng hợp ure của gan rất lớn, nếu ta cắt
4/5 gan đi thì 1/5 phần còn lại vẫn tổng hợp ure bình thường.
1.4. Chức năng tạo mật
Gan chuyển bilirubin tù do thành bilirubin liên hợp, tái tạo bilirubin từ
urobilinogen (tái hấp thu từ ruột). Gan là nơi duy nhất tổng hợp acid mật từ
cholesterol và tổng hợp muối mật từ các acid mật. Tế bào gan tạo mật, mà
thành phần hữu cơ chính là sắc tố mật, muối mật và cholesterol. Mật được
chuyển vào ống mật lớn ngoài gan và vào túi mật để duy trì. Nhiều bệnh lý gan
mật có rối loạn tạo thành các thành phần của mật và sự vận chuyển mật dẫn
đến những thay đổi từ bilirun máu, urobilinogen nước tiểu, stercobilinogen
(urobilinogen) phân, sắc tố mật nước tiểu và muối mật nước tiểu.
1.5. Chức phận khử độc
Gan là cơ quan khử độc chính của cơ thể. Nguyên tắc chung là gan biến
các chất độc (ngoáiinh và nội sinh) thành các chất không độc thải ra ngoài

(NH
3
thành ure, bilirubin tù do thành bilirubin liên hợp ) hoặc gan giữ chất
độc lại rồi thải qua đường mật (ví dụ một số chất màu). Dựa vào chức năng
này có thể tiến hành một số nghiệm pháp, trong đó có hai nghiệm pháp tương
đối đơn giản và có giá trị như nghiệm pháp BSP, nghiệm pháp Quick.
1.6. Chức năng enzym
Do gan tham gia nhiều quá trình chuyển hoá của cơ thể nên hệ enzym rất
phong phú, với nhiều loại enzym khác nhau, với những hoạt độ hoạt động
khác nhau, ở những vị trí khác nhau, đó cũng là cơ sở khoa học của việc chẩn
đoán hoá sinh các bệnh gan bằng xét nghiệm xác định hoạt tính enzym huyết
thanh: ALT, AST, GGT, CHE, ALP, LDH, OCT, GLDH Việc định lượng
hoạt độ các tế bào hay dưới tế bào, có thể phục hồi hay không phục hồi, để
chẩn đoán bệnh, chẩn đoán phân biệt mức độ tổn tưhơng tế bào trong một cơ
quan như thế nào
* AST (GOT) hay aspartat aminotransferase, ALT (GPT) hay là
alanin aminotransferase.
Là hai enzym tế bào gan. AST có ở ty thể và bào tương tế bào, ALT chỉ
có ở bào tương. Tổn thương của tế bào gan, dù nhỏ, có kèm theo sự rối loạn
về tính thấm của tế bào cũng đã gây tăng hoạt độ các enzym này. Những tổn
thương nghiêm trọng của tế bào gan kèm theo hoại tử tế bào nhu mô gan sẽ
làm tăng đáng kể enzym của ty thể AST. Trong phần lớn các trường hợp viêm
gan virus cấp, tổn t hương tế bào gan ở mức độ nhẹ nhưng lan rộng thì thấy
các transaminase tăng cao, ALT tăng cao hơn AST. nếu AST > 10 lần giới
hạn trên gặp trong viêm gan cấp và hoại tử tế bào gan, áp xe gan hoặc thiếu
oxy mô nặng; AST tăng từ 5 đến 10 lần giới hạn trên gặp trong nhồi máu cơ
tim, tắc mật, viêm gan mạn tính, sau phẫu thuật, bệnh cơ xương
* GGT - Gamma glutamyl transferase
Là enzym liên kết màng, mọi tổn thương tế bào đều gây tổn thương
màng tế bào đầu tiên đồng nghĩa với sự tăng hoạt độ enzym màng tế bào.

GGT hiện nay là một chỉ số enzym huyết thanh được đánh giá cao trong chẩn
đoán bệnh gan mật: nó không chỉ thể hiện sự tắc mật về tổ chức học mà còn
biểu hiện tổn thương gan do viêm hoặc do nhiễm độc.
- Hoá sinh và sinh lý về GGT:
GGT là một protein dimer không thuần nhất, mỗi tiểu đơn vị là một
chuỗi polypeptid. GGT thuộc nhóm peptidase xúc tác sự vận chuyển các acid
amin từ peptid này sang peptid khác và vì vậy hoạt động như một acid
transferáe. Enzym này chỉ phản ứng với peptid hoặc các hợp chất giống
peptid chứa gốc glytamat tận, gắn với phần còn lại của hợp chất qua nhóm
carboxyl tận.
GGT khu trú trên màng bào tương của tế bào trong cơ thể với trung tâm
hoạt động của enzym hướng về phía ngoài. GGT là enzym duy nhất phân cắt
một lượng có ý nghĩa Glutathion (GSH) và các chất liên kết GSH. Vì vậy
trong chu trình gamma glytamyl, GSH được tạo thành trong tế bào được
chuyển ra vị trí ngoài tế bào của màng tế bào, nơi mà nó được phân cách bởi
GGT thành cysteinyl glycine và gama glytamy (chu trình γ glutamyl [3]) GSH
có vai trò quan trọng trong việc duy trì cấu trúc và chức năng của tế bào, tham
gia bảo vệ màng tế bào chống lại sự oxy hoá của các gốc tự do và các chất
trung gian của oxygen hoạt động.
GGT đo được trong huyết thanh có nguồn gốc từ gan và ở dạng không
thuần nhất và được loại khỏi huyết thanh chủ yếu qua gan và được đào thải
theo mật. Hoạt độ trong mật bằng 10 lần hoạt độ huyết thanh. Ở gan người
lớn GGT khu trú chủ yếu ở ngoại vi của thuỳ, chỉ một lượng tan trong tế bào
gan còn phần lớn là gắn với màng đặc biệt là phần xoang của màng tếbào gan
và màng của biểu mô ống mật lớn. Tổng hợp GGT ở gan có thể được cảm
ứng bởi ứ mật, tiêu thụ rượu mạn và điều trị bởi nhiều thuốc khác nhau. Sự
tăng GGT đo được trong huyết thanh có thể do các nguyên nhân sau:
- Tăng tổng hợp do cảm ứng enzym bởi thuốc hay rượu.
- Tổn thương màng tế bào, GGT được giải phóng do những chất độc, do
thiếu máu cục bộ hoặc tổn thương tế bào gan do viêm nhiễm.

- Tách enzym gắn màng do hoạt tính chất tẩy của acid mật hoạt động bề
mặt trong các trường hợp tắc, ứ mật, sự tăng GGT có thể gây ra bởi sự tràn
mật vào máu.
Mức độ GGT tăng trên 2 lần giới hạn trên hoặc sự tăng đi đôi với tăng
các enzym khác, khả năng của tổn thương nhu mô phải luôn luôn được xem
xét. Như vậy GGT là một enzym đặc hiệu của gan và ống mật, là một chỉ số
enzym huyết thanh đánh giá cao trong chẩn đoán bệnh gan mật: nó không chỉ
thể hiện sự tắc mật rõ về tổ chức học mà còn biểu hiện tổn thương gan do
viêm hoặc do nhiễm độc. Sự tăng các aminotransferase trong bệnh lý mà
GGT bình thường là hiếm gặp. Sự tăng GGT đơn độc có thể gặp do cảm ứng
thuốc, gan mì, xung huyết gan mạn ở các bệnh tim, do nghiện rượu.
2. Các hội chứng hoá sinh bệnh gan mật
Gan có nhiều chức năng khác nhau cho nên trong bệnh gan có rất nhiều
các rối loạn về triệu chứng hoá sinh, vì vậy để thuận tiện cho việc chẩn đoán
người ta phân chia ra triệu chứng hoá sinh thành 4 hội chứng: hội chứng suy
tế bào gan, hội chứng huỷ hoại tế bào gan, hội chứng tắc mật và hội chứng
viêm gan trung mô.
2.1. Hội chứng suy giảm tế bào gan
Suy tế bào gan có thể gặp trong các trường hợp viêm gan, nhất là trong
viêm gan mạn và xơ gan. Chức năng tổng hợp và khử độc của gan giảm. Để
góp phần chẩn đoán cần phải làm các xét nghiệm và nghiệm pháp sau:
* Các xét nghiệm:
- Albumin huyết thanh giảm, tỷ lệ A/G giảm
- Fibrinogen huyết tương giảm
- Prothrombin huyết tương giảm.
- Cholesterol giảm. Tỷ lệ sốc cholesterol este/ toàn phần giảm.
- Cholinesterase huyết thanh giảm.
- Bilirubin liên hợp huyết thanh giảm.
- Ammoniac máu tăng.
- Ure giảm.

* Các nghiệm pháp: BSP, Quick, galactose niệu, tăng đường máu
đều dương tính.
2.2. Hội chứng tổn thương tế bào gan
Tuỳ thuộc vào từng trường hợp mà mức độ tổn tưhơng tế bào nhu mô
gan có thể chỉ làm thay đổi tính thấm màng tế bào gan, hay phá huỷ màng
bào tương hoặc thậm chí phá huỷ các thành phần dưới tế bào như màng ty thể.
Các triệu chứng hoá sinh trong hội chứng huỷ hoại tế bào nhu mô gan nh sau:
- Các transaminase: AST, ALT, huyết thanh tăng.
- Gamma glutamyl transferase (GGT) huyết thanh tăng.
- Ornithin carbamyl transferase (OCT) huyết thanh tăng
- Sắt huyết thanh tăng
- Bilirubin toàn phần, liên hợp, tự do huyết thanh tăng
2.3. Hội chứng tắc mật
Tắc mật có thể do sỏi đường mật, u đầu tuỵ, hoặc do tổ chức xơ phát
triển quá nhiều nh trong xơ gan làm các thành phần của mật không đào thải
theo đường mật mà ứ lại trong máu. Vì vậy các triệu chứng hoá sinh trong hội
chứng tắc mật nh sau:
- Bilirubin toàn phần huyết thanh tăng cao.
- Cholesterol tù do, este tăng trong huyết thanh.
- Gamma glutamyl transferase (GGT) huyết thanh tăng cao.
- Muối mật huyết thanh tăng.
- Phosphatase kiềm (ALT) huyết thanh cao.
- Nước tiểu có sắc tố mật và muối mật.
2.4. Hội chứng viêm gan trung mô
Trong các bệnh gan đặc biệt trong xơ gan, tế bào Kupffer phát triển làm
tăng tiết các globulin, vì vậy có thể dùng phản ứng lên bông để phát hiện tình
trạng này:
- Phản ứng Gros phát hiện tình trạng mất thăng bằng giữa albumin và
globulin (albumin giảm, globulin tăng).
- Phản ứng Maclagan phát hiện tình trạng tăng β - globulin.

2. Các xét nghiệm enzym huyết thanh trong chẩn đoán bệnh gan
Hiện nay người ta cho rằng định lượng hoạt độ các enzym huyết thanh là
công cụ có lợi nhất trong chẩn đoán các bệnh gan. Có 6 enzym huyết thanh
được khuyến cáo để góp phần chẩn đoán các bệnh gan là:
- AST (GOT) - Aspartat transaminase (Glutamat oxaloacetat transaminase)
- ALT (GPT) - Alamin transaminase (Glutamat pyruvat transaminase)
- GGT - Gamma glutamyl transferase.
- CHE - Cholinesterase.
- GLDH - Glutamat dehydrogenase.
- ALP - Alkaline phosphatase.
Nhưng không phải bất kỳ trường hợp nào cũng cần phải làm tất cả 6
enzym trên. Nếu với mục đích sàng lọc thì chỉ cần làm 3 enzym GPT, GGT
và CHE, mỗi enzym đánh giá một tình trạng nhất định của gan, trong đó:
GPT cho biết tình trạng tổn thương tế bào nhu mô gan.
GGT cho biết tình trạng tổn thương màng tế bào, tình trạng đường mật
và ứ mật ở gan.
CHE cho biết chức năng tổn hợp của tế bào nhu mô gan.
Nếu như hoạt độ của cả 3 enzym này trong giới hạn bình thường thì có
thể chắc chắn tới hơn 98% số trường hợp là không bị bệnh gan.
Đặc biệt, GGT có vai trò quan trọng để chẩn đoán tình trạng ứ mật ở
gan. GGT có giá trị hơn các enzym khác vì nó rất nhạy cảm với sự thay đổi
tình trạng ứ mật. Hoạt độ GGT tăng trong một số tình trạng bệnh lý của gan
như viêm gan mạn, tổn thương gan do rượu, viêm gan virut, gan di căn. GGT
là một chỉ số để theo dõi tiến triển của bệnh gan mạn.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
1. Đối tượng nghiên cứu
1.1. Nhóm chứng: 35 người khoẻ mạnh tuổi từ 20 đến 35 được khám
sức khoẻ, được chỉ định làm xét nghiệm hoá sinh tại Bệnh viện đa khoa Thái
Bình trong năm 2005.
1.2. Nhóm nghiên cứu: 86 người có bệnh lý về gan mật được khám và

điều trị tại bệnh viện đa khoa Thái Bình từ 01/01/2005 đến 31/5/2006, được
chỉ định làm các xét nghiệm hoá sinh.
1.3. Trang thiết bị và hoá chất
- Trang thiết bị:
+ Máy ly tâm Kobuta - Nhật
+ Tủ Êm 37
0
C - Trung Quốc
+ Máy sinh hoá tự động Hitachi 717 - Nhật
- Hoá chất: Các Kit định lượng: AST, ALT, GGT, bilirubin, protein,
albumin của hãng Bio Systems - Tây Ban Nha.
Hoá chất được bảo quản theo đúng chỉ dẫn của Hãng sản xuất.
2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu tiến cứu mô tả
2.1. Phương pháp lựa chọn nhóm chứng:
Những người có nhu cầu khám sức khoẻ đi nước ngoài, sau khi khám
lâm sàng được xác định là bình thường, không có bệnh lý gan mật và các
bệnh lý khác, được lấy máu vào buổi sáng, lúc đói về làm các xét nghiệm theo
mục tiêu của đề tài.
2.2. Phương pháp lựa chọn nhóm nghiên cứu
Chọn các bệnh nhân được chẩn đoán xác định trên lâm sàng là: viêm
gan virus cấp, viêm gan mạn, xơ gan, được chỉ định làm xét nghiệm hoá sinh
máu: AST, ALT, bilirubin, protein, albumin. Chúng tôi tiến hành làm thêm
chỉ số GGT theo mục tiêu của đề tài.
2.4. Kỹ thuật nghiên cứu
2.3.1. Chuẩn bị bệnh phẩm
- Các đối tượng khám sức khoẻ: Lấy máu vào buổi sáng, khi chưa ăn, tại
khoa Sinh hoá.
- Các bệnh phẩm của các bệnh nhân được chẩn đoán xác định mắc các
bệnh về gan, được gửi tới khoa sinh hoá.

- Các mẫu bệnh phẩm được tra đối tên trên ống và phiếu xét nghiệm,
đánh số thứ tự, đưa vào tủ Êm 37
0
C trong thời gian 10 - 15 phút để chờ co cục
máu, sau đó dùng que tách máu bằng thuỷ tinh nhẹ nhàng tách cục đông ra
khỏi huyết thanh. Cho vào máy ly tâm 3000 vòng/ 5 phút và chắt lấy phần
huyết thanh để thực hiện quá trình phân tích.
- Tiêu chuẩn mẫu huyết thanh: huyết thanh trong, không vỡ hồng cầu.
2.3.2. Xác định hoạt độ các enzym gan.
2.3.2.1. Hoạt độ AST và ALT
Hoạt độ của AST, ALT huyết thanh được xác định theo phương pháp
của IFCC (International Federation Clinical Chemistry).
Nguyên tắc phản ứng:
L. aspartate + α. cetoglutarate Oxaloaxetate + L - glutamacte
Oxaloacetate + NADH + H
+
L. malate + NAD
+
GOT
GOT
L. alanine + α. cetoglutarate Pyruvate + L - glutâmte.
Pyruvate + NADH + H
+
Lactat + NAD
+
NADHH
+
hấp thu mạnh ở bước sóng 340nm, khi phản ứng xảy ra t hì
NADHH
+

mất dần. Do đó mật độ quang giảm dần. Từ sự chênh lệch mật độ
quang (∆ A ở 340nm trong 1 phút, ở 37
0
C) tính ra hoạt độ enzym.
Giá trị bình thường: AST (GOT): Nam: ≤ 37U/l
Nữ: ≤ 31 U/l
ALT (GPT): Nam: ≤ 40 U/l
Nữ: ≤ 31 U/l
2.3.2.2. Hoạt độ GGT:
Nguyên tắc phản ứng
L - γ - glutamyl - 3 - carboxy - 4 - nitroanilide + glycylycine
L - γ - glytamyl glycylglycine + 5 amino - 2nitro - benzoae
Dưới điều kiện 37
0
C, sự tăng nồng độ trong phức chất này được đo bởi
sự thay đổi mật độ quang ở bước sóng 405nm, tỷ lệ thuận với hoạt độ enzym
trong hỗn hợp phản ứng, trên máy sinh hoá tự động Hitachi 717.
Giá trị bình thường: Nam: từ 11 - 50 U/l ở 37
0
C
Nữ: từ 7 - 32 U/l ở 37
0
C.
2.3.2.3. Định lượng Bilirubin huyết thanh
Nguyên tắc phản ứng: kỹ thuật Jendrassik
GOT
GOT
GOT
- Bilirubin toàn phần phản ứng với acid sulphanilic và acid nitro (thuốc
thử Diazo) với sự có mặt của Cafein tạo thành phức hợp azo màu và được đo

ở bước sóng 578nm.
- Bilirubin trực tiếp trong huyết thanh phản ứng với acid sulphanillic và
acidnitro (thuốc thử Diazo) trong môi trường nước tạo thành phức hợp azo
màu và được đo ở bước sóng 546nm trên máy sinh hoá tự động Hitachi 717.
Giá trị bình thường: Bilirubin: TP: ≤ 17 µmol/l
Bilirubin: TP: ≤ 4,3 µmol/l
2.3.2.4. Định lượng Protein toàn phần
Nguyên tắc phản ứng:
Protein tác dụng với ion Cu
++
trong môi trường kiềm tạo thành phức màu
xanh tím. Mật độ quang của phản ứng tỷ lệ với nồng đổpotein.
Đo quang ở bước sóng 540nm, trên máy Hitachi 717.
Giá trị bình thường: 62 - 80g/l
2.3.2.5. Định lượng Albumin huyết thanh
Nguyên tắc phản ứng:
Albumin kết hợp với Bromocresol green đệm ở pH 4,2 hình thành một
phức hợp màu và được đo bằng quang kế bước sóng 600nm, trên máy sinh
hoá tự động HItachi 717.
Giá trị bình thường: 38 - 49g/l
3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý bằng phương pháp thống kê Y học trên chương trình
Epi - Infio 6.04.
Kết quả nghiên cứu
1. Một số thông tin và các chỉ số xét nghiệm của đối tượng nghiên cứu
Bảng 1: Phân bố đối tượng mắc một số bệnh về gan theo tuổi và giới.
Nhóm
tuổi
Nam
Nữ Chung

n % n % n %
0 - 9 0 0,0 2 100,0 2 2,3
10 - 19 2 100,0 0 0,0 2 2,3
20 - 29 10 83,3 2 16,7 12 13,9
30 - 39 20 83,3 4 16,7 24 27,9
40 - 49 14 73,6 5 26,4 19 22,1
50 - 59 7 70,0 3 30,0 10 11,6
≥ 60
13 76,4 4 23,6 17 19,7
Tổng 66 76,7 20 23,3 86 100,0
2,3
2,3
13,9
27,9
22,1
11,6
19,7
0
5
10
15
20
25
30
0 - 9 10 -19 20 - 29 30 - 39 40 - 49 50 - 59 60³
%
Tuæi
Biểu đồ 1: Phân bố đối tượng mắc mốtố bệnh về gan theo tuổi.
Trong sè 86 người có bệnh lý về gan trong nhóm nghiên cứu chúng tôi
thấy lứa tuổi gặp nhiều nhất là 30 - 39 tuổi (chiếm 27,9%). Tuổi 40 - 49 là

22,1%. Tuổi càng nhỏ tỷ lệ mắc càng thấp. Các bệnh về gan gặp ở nam nhiều
hơn nữ (76,7% so với 23,3%0.
Bảng 2: Hoạt độ GGT trung bình của các đối tượng nghiên cứu
Đối tượng Số
lượng
Tỷ lệ %
X ± SD
p
Bình thường 35 28,9
44,1 ± 13,3
< 0,05
Xơ gan 30 24,8
439,3 ± 121,6
Viêm gan mạn 25 20,7
457,7 ± 100,3
Viêm gan VP 31 25,6
341,3 ± 46,9
Tổng 121 100,0
Kết quả ở bảng 2 cho thấy: Hoạt độ GGT trung bình ở các bệnh nhân bị
bệnh về gan cao hơn rất nhiều so với nhóm người bình thường (p < 0,05). Đặc
biệt nhóm bệnh nhân bị viêm gan mạn và xơ gan, hoạt độ GGT đều tăng gấp
hơn 10 lần so với nhóm chứng.
Bảng 3: Hoạt độ AST (U/l) trung bình của các đối tượng nghiên cứu
Đối tượng Số
lượng
Tỷ lệ %
X ± SD
p
Bình thường 35 28,9
24,9 ± 5,6

< 0,05
Xơ gan 30 24,8
211,8 ± 31,1
Viêm gan mạn 25 20,7
224,9 ± 29,4
Viêm gan VP 31 25,6
163,5 ± 86,8
Tổng 121 100,0
Hoạt độ AST của các nhóm bệnh nhân bị bệnh về gan cao hơn hẳn so
với những người không bị bệnh (p < 0,05). Đặc biệt những người xơ gan,
AST tăng rất cao (223,8 ± 31,1 U/l0.
Bảng 4: Hoạt độ ALT (U/l) trung bình của các đối tượng nghiên cứu
Đối tượng Số
lượng
Tỷ lệ %
X ± SD
p
Bình thường 35 28,9
23,4 ± 8,1
< 0,05
Xơ gan 30 24,8
106,4 ± 15,9
Viêm gan mạn 25 20,7
111,8 ± 12,2
Viêm gan VP 31 25,6
493,6 ± 90,9
Tổng 121 100,0
Nhận xét: Trong các bệnh lý về gan, chỉ số men gan ALT đều tăng hơn ở
nhóm chứng có ý nghĩa thống kê. Điển hình là ở nhóm bệnh nhân bị viêm gan
vi rút cấp (493,6 ± 90,9).

44,1
24,9
23,4
439,3
211,8
106,4
457,7
224,9
111,8
341,4
163,5
493,6
0
50
100
150
200
250
300
350
400
450
500
B×nh thêng X¬ gan Viªm gan m¹n Viªn gan virut
GGT
AST
ALT
U/l
Biểu đồ 2: Hoạt độ GGT, AST và ALT (U/l) trung bình của các đối tượng
nghiên cứu.

Bảng 5: Nồng độ Bilirubin toàn phần (
µ
mol/l) trung bình ở các đối tượng
nghiên cứu
Đối tượng Số
lượng
Tỷ lệ %
X ± SD
p
Bình thường 35 28,9
9,6 ± 2,8
< 0,05
Xơ gan 30 24,8
42,9 ± 17,6
Viêm gan mạn 25 20,7
23,2 ± 11,5
Viêm gan VP 31 25,6
67,3 ± 10,9
Tổng 121 100,0
Kết quả ở bảng 5 cho thấy nồng độ Bilirubin toàn phần ở những bệnh
nhân bị bệnh gan mật cao hơn ở nhóm chứng có ý nghĩa thống kê (p < 0,05),
nhất là ở nhóm bệnh nhân bị viêm gan vurut (67,3 ± 10,9).
9,6
42,9
23,2
67,3
0
10
20
30

40
50
60
70
B×nh thêng X¬ gan Viªm gan m¹n Viªn gan virut
Biểu đồ 3: Nồng độ Bilirubin toàn phần (
µ
mol/l) trung bình ở các đối
tượng nghiên cứu.
Bảng 6: Nồng độ Albumin (g/l0 trung bình ở các đối tượng nghiên cứu
Đối tượng Số
lượng
Tỷ lệ %
X ± SD
p
Bình thường 35 28,9
38,9 ± 2,2
< 0,05
Xơ gan 30 24,8
24,5 ± 6,7
Viêm gan mạn 25 20,7
30,8 ± 0,9
Viêm gan VP 31 25,6
32,6 ± 5,6
Tổng 121 100,0
Nhận xét: Nồng độ Albumin máu của các bệnh nhân bị bệnh về gan đều
thấp hơn so với những người bình thường trong nhóm nghiên cứu một cách
có ý nghĩa (p < 0,05). Còng qua kết quả nghiên cứu cho thấy những bệnh
nhân bị xơ gan có hàm lượng Albumin máu thấp nhất (24,5 ± 6,7g/l0.
Bảng 7: Nồng độ Protein (g/l) trung bình ở các đối tượng nghiên cứu

Đối tượng Số
lượng
Tỷ lệ %
X ± SD
p
Bình thường 35 28,9
76,5 ± 3,9
< 0,05
Xơ gan 30 24,8
63,2 ± 11,2
Viêm gan mạn 25 20,7
67,1 ± 6,3
Viêm gan VP 31 25,6
65,4 ± 7,2
Tổng 121 100,0
Qua kết quả ở bảng 7 cho thấy, cùng với sự giảm Albumin, ở các bệnh
nhân bị bệnh gan nồng độ Protein máu đều giảm rõ rệt so với những người
bình htường (p < 0,05), nhất là đối với những bệnh nhân bị xơ gan.
0
10
20
30
40
50
60
70
80
90
B×nh thêng X¬ gan Viªm gan
m¹n

Viªn gan
virut
Albumin
Protein
g/l
Biểu đồ 4: Nồng độ Albumin và Protein (g/l0 trung bình ở các đối tượng
nghiên cứu
Bảng 8: Kết quả xét nghiệm của nhóm bệnh nhân viêm gan mạn và xơ gan
Chỉ tiêu XN Đơn vị Viêm gan mạn Xơ gan p
GGT U/l
457,7 ± 100,3 439,3 ± 121,6
> 0,05
AST U/l
224,9 ± 29,4 211,8 ± 31,1
> 0,05
ALT U/l
111,7 ± 12,3 106,4 ± 15,9
> 0,05
Protein g/l
67,1 ± 6,3 63,2 ± 11,2
< 0,05
Albumin g/l
30,8 ± 0,9 24,5 ± 6,7
< 0,05
Bilirubin TP
µmol/l 23,2 ± 11,5 42,9 ± 17,6
< 0,001
Kết quả bảng 8 cho thấy: Hoạt độ GGT huyết thanh của nhóm viêm gan
mạn cao hơn nhóm xơ gan. Hoạt độ AST và ALT ở nhóm 2 có khác nhau
nhưng chưa có ý nghĩa thống kê. Ngược lại hàm lượng Protein, Albumin,

Bilirubin ở 2 nhóm khác biệt có ý nghĩa ( p < 0,05). Hàm lượng Protein và
Albumin máu ở nhóm bệnh nhân viêm gan mạn cao hơn nhóm xơ gan, song
Bilirubin toàn phần lại thấp hơn rất nhiều (p < 0,001).
2. Tương quan giữa GGT với các chỉ số AST (GOT), ALT (GPT),
Protein, Albumin, Bilirubin trong nhóm bệnh nhân viêm gan mạn và xơ
gan
Bảng 9: Tương quan giữa GGT (U/l) với các chỉ số xét nghiệm ở nhóm
bệnh nhân viêm gan mạn và xơ gan.
GGT
Chỉ số tương quan
r
Viêm gan mạn (n = 25) Xơ gan (n = 30)
AST 0,52 0,22
ALT 0,50 0,44
Protein 0,24 0,18
Albumin - 0,02 0,33
Bilirubin 0,25 - 0,44
Kết quả ở bảng 9 cho thấy ở nhóm bệnh nhân bị viêm gan mạn, nồng độ GGT
ó sự tương quan thuận với nồng độ AST (r = 0,52) và ALT (r = 0,50). Ở nhóm bệnh
nhân xơ gan thấy GGT có tương quan nghịch với bilirubin (r = - 0,44), còn với các
chỉ số khác ở cả 2 nhóm, mối tương quan với GGT không rõ ràng.
Bàn luận
Trong nghiên cứu của chúng tôi, việc chọn mẫu không thể ngẫu nhiên và
lớn như khi làm tại cộng đồng. Tuy nhiên qua kết quả nghiên cứu (bảng 1)
cũng phần nào phản ánh được tính chất nguy hại của các bệnh về gan. Chiếm
tỷ lệ cao nhất mắc bệnh lại là ở lứa tuổi 30 - 49, là tuổi phải lao động nhiều,
khó kiêng khem và khả năng lây nhiễm lớn nếu là những bệnh VGVR. Với tỷ
lệ bệnh lý gan mật chủ yếu ở nam giới, có thể lý giải thêm cho mối liên quan
giữa việc sử dụng bia rượu và tiến triển của các bệnh gan mật.
Từ các kết quả nghiên cứu, chúng tôi thấy ở những bệnh nhân mắc bệnh

về gan mật, hầu hết các chỉ số về GGT, AST, ALT, Bilirubin, Albumin,
Protein đều khác biệt có ý nghĩa thống kê so với nhóm chứng. Kết quả này
cũng phù hợp với nhóm chứng. Kết quả này cũng phù hợp với các nghiên cứu
của Hoàng Hà và Nguyễn Thị Phương Ngọc.
Như vậy, tổn thương bệnh lý ở các tế bào gan đã thể hiện ở cả 3 mặt:
+ Màng tế bào gan bị thay đổi tính thấm hoặc hoại tử gây nên hiện tượng
thoát màng của các enzym từ trong tế bào tràn vào máu.
+ Tổn thương bệnh lý đã làm cho tế bào gan bị suy giảm chức năng tổng
hợp một số Protein đặc trưng của gan vài vậy hàm lượng Albumin, Protein
huyết thanh giảm so với nhóm chứng.
+ Tình trạng viêm nhiễm tế bào gây nên hiện tượng phù nề, chèn Ðp các vi
quản mật làm cho ứ đọng dòng chảy của mật làm tăng Bilirubin huyết thanh.
So với giá trị enzym AST, ALT thì GGT là một enzym đặc hiệu và là
một chỉ số nhạy cảm, có giá trị hơn trong việc chẩn đoán bệnh gan. Qua so
sánh giữa nhóm chứng và các nhóm bệnh, chúng cho thấy phù hợp với nhận
xét của Kunt: Trạng thái hoạt động bình thường của 3 enzym: AST, ALT và
GGT có thể loại trừ tới 95% các bệnh về gan.
Trong nhóm viêm gan virut cấp, do quá trình viêm cấp tính dẫn đến phù
nề và tổn thương tế bào gan, có hiện tượng tắc một phần những ống dẫn mật
nhỏ trong gan nên có ứ mật phần gây tăng Bilirubin, GGT; tế bào gan bị huỷ
hoại nhiều, chức năng gan bị ảnh hưởng, các enzym AST, ALT tăng rất cao,
nhất là ALT (có thể tăng lên tới hàng nghìn đơn vị U/l); khả năng tổng hợp
protein của gan giảm nên Protein toàn phần và Albumin huyết thanh giảm.
Kết quả nghiên cứu ở bảng 8 cho thấy: giữa nhóm viêm gan mạn và xơ
gan, có sự khác biệt có ý nghĩa thóng kê các chỉ số Protein, Albumin,
Bilirubin nhất là nồng độ bilirubin huyết thanh cũng tăng cao có ý nghĩa với p
< 0,001. Điều này có thể do ở bệnh nhân bị xơ gan khả năng tổng hợp của gan
giảm so với nhóm viêm gan mạn, tổ chức gan bị tổn thương, bị xơ hoá, các tổ
phát triển xâm lấn chèn Ðp gây tắc các vi quản mật (tắc mật trong gan) làm
cho Bilirubin không xuống ruột được mà ứ lại trong gan, tràn vào huyết

tương.
Hoạt độ GGT, ALT, AST giữa hai nhóm xơ gan và viêm gan mạn tuy có
sự khác biệt nhưng không có ý nghĩa thống kê có lẽ do số lượng bệnh nhân
trong nhóm nghiên cứu còn Ýt. Nghiên cứu của Ellen Schimidt cho thấy trong
viêm gan mạn hoạt độ GGT tăng cao gấp nhiều lần so với trị số bình thường,
và hoạt độ enzym này cũng tăng trong xơ gan [6].
Ở nhóm viêm gan mạn, GGT có mối tương quan thuận lợi AST và ALT
do sù thay đổi tính thấm hoặc hoại tử tế bào gan (bảng 9). Có tác giả còn nhận
thấy, hoạt độ GGT có xu hướng trở về giá trị bình thường muộn hơn AST và
ALT, vì thế việc xác định hoạt độ GGT trong huyết thanh còn phản ánh quá
tình tăng) sang trạng thái viêm gan mạn tính (hoạt độ GGT còn tăng cao trong
khi đó AST, ALT đã trở về bình thường hoặc gần bình thường) [8, 9]. Đối với
xơ gan, GGT tăng phản ánh sớm tổn thương tế bào gan, trong khi đó AST,
ALT vẫn bình thường [1, 9].
Kết luận
Qua kết quả nghiên cứu trên 86 bệnh nhân bị bệnh về gan như viêm gan
virut cấp, viêm gan mạn, xơ gan và 35 người bình thường, khoẻ mạnh chúng
tôi rót ra một số nhận xét như sau:
1. Hoạt độ GGT huyết thanh ở các bệnh nhân bị mắc bệnh nhân bị mắc
bệnh gan mật tăng một cách có nghĩa so với người bình thường khoẻ mạnh p
< 0,05. Các hoạt độ AST, ALT, nồng độ bilirubin tăng trong khi Protein toàn
phần và Alibumin huyết thanh giảm có ý nghĩa với p < 0,05. Hoạt độ GGT
huyết thanh ở bệnh nhân bị viêm gan mạn cao hơn ở bệnh nhân xơ gan nhưng
không có ý nghĩa với p > 0,05. Hoạt độ AST, ALT, nồng độ Protein, Albumin
huyết thanh lại cao hơn có ý nghĩa với p < 0,05 , trong khi nồng đọ
Bilirubin huyết thanh ở bệnh nhân viêm gan mạn thấp hơn so với ở bệnh nhân
xơ gan.
2. Có mối tương quan tuyến tính thuận giữa GGT với AST và ALT ở các
bệnh nhân viêm gan mạn (r = 0,52) trong hi đó lại có sự tương quan nghịc
giữa hoạt độ GGT và nồng độ bilirubin huyết thanh ở bệnh nhân xơ gan (r = -

0,46).

×