Tải bản đầy đủ (.pdf) (50 trang)

biệt thự đông dương - trang trí nội thất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.15 MB, 50 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ HỒNG BÀNG
KHOA MỸ THUẬT CÔNG NGHIỆP
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH:THIẾT KẾ TRANG TRÍ
NỘI NGOẠI THẤT
ĐỀ TÀI:
BIỆT THỰ ĐÔNG DƯƠNG
GVHD: NGUYỄN XUÂN PHÚC
SVHT: PHẠM VĂN HÙNG
MSSV:05087841
KHÓA:IX

TP.HỒ CHÍ MINH-03/2010
LỜI CẢM ƠN !
Mở đầu bài Luận Văn Tốt Nghiệp: Biệt Thự Đơng Dương , em xin gửi lời cảm
ơn chân thành và sâu sắc nhất đến thầy Nguyễn Xuân Phúc đã hướng dẫn và hỗ trợ
em cũng như tất cả các bạn thực hiện đồ án tốt nghiệp.Trong suốt qua trình thực hiện
đồ án, em cũng như tất cả các bạn đã nhận được sự chỉ bảo, động viên rất tận tình của
thầy.Những kiến thức quý báu mà thầy đã truyền đạt giúp ích rất nhiều cho em khi
thực hiện đồ án này , và sẽ là những hành trang em mang theo trong sự nghiệp sau
này.
Đồng thời em cũng xin gửi lời tri ân đến toàn thể Quý thầy cô Khoa Mỹ Thuật Công
Nghiệp,Quý thầy cô của trường Đại Học Quốc Tế Hồng Bàng, trong suốt gần 5 năm
học vừa qua đã dạy dỗ, và chỉ bảo để em có được những kiến thức như ngày hôm nay.
Và cụ thể là qua kết quả của đồ án tốt nghiệp này sẽ phần nào thể hiện được công lao
dạy dỗ của Quý thầy cô trường Đại Học quốc tế Hồng Bàng cũng như sự cố gắng nỗ
lực học tập của bản thân em.
Em đã cố gắng hết sức để hoàn thành thật tốt đồ án tốt nghiệp này trong khả năng
của mình. Tuy nhiên, cũng sẽ không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong rằng
Quý thầy cô sẽ góp ý để em có thể làm tốt hơn trên con đường sự nghiệp sau này.
Em kính chúc Quý thầy cô thật nhiều sức khỏe để tiếp tục dạy dỗ, dìu dắt những thế


hệ mai sau của đất nước.
Em xin chân thành cảm ơn!
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN





























CHỮ KÍ CỦA GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN





























CHỮ KÍ CỦA GIÁO VIÊN PHẢN BIỆN
CHƯƠNG 1: LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.TÊN ĐỀ TÀI: BIỆT THỰ ĐÔNG DƯƠNG
2.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Phong cách kiến trúc Đơng Dương” là tên gọi những sáng tạo của các kiến trúc sư
Pháp và đã để lại cho chúng ta rất nhiều cơng trình đẹp.Kiến trúc này đã góp phần tơn
vinh nghệ thuật kiến trúc dân tộc, mặc dù nó còn nhiều điểm chiết trung, pha trộn (vì
người Pháp khơng sành kiến trúc cổ điển Việt Nam), nhưng nó đã khích lệ các kiến trúc
sư Việt Nam, sinh viên của trường Mỹ thuật Đơng Dương tiếp tục đi theo con đường
nghệ thuật dân tộc.
Kiến trúc gọi là “phong cách Đơng Dương” là một loại kiến trúc mới do người
Pháp ở nước ta sáng tác. Vì sao ra đời phong cách này? Trước tiên, những kiến trúc mang
từ Pháp sang, sau một số năm thì bộc lộ nhiều bất cập, nhất là khơng phù hợp với khí hậu
nóng ẩm, mưa nhiều, gió mạnh cũng như tập qn sinh hoạt, truyền thống thẩm mỹ và
cảnh quan Việt Nam. Sau nữa là lúc đó, vào những năm 30 – 40 của thế kỷ 20, ảnh
hưởng của Pháp ở Việt Nam giảm sút. Để tranh thủ được lòng dân, để thân thiện hơn với
Việt Nam, một số kiến trúc sư Pháp dạy tại trường Mỹ thuật Đơng Dương nghĩ cách thiết
kế những cơng trình mang tính chất Việt Nam để lấy lại lòng tin của dân Việt. Người có
cơng nhất trong việc sáng lập ra phong cách kiến trúc này là Ernest Hébrard, giáo sư của
trường Mỹ thuật Đơng Dương, một viên chức cao cấp được chính phủ Pháp đưa sang để
phụ trách cơng việc quy hoạch và kiến trúc của ba nước Đơng Dương. Ơng là kiến trúc
sư nổi tiếng đã có giải thưởng Prix de Rome. Ơng gọi nó là “phong cách kiến trúc Đơng
Dương” (style indochinois). Thực chất đây là một phong cách chiết trung Âu – Á, trong
đó khơng chỉ có chi tiết kiến trúc của ba nước Đơng Dương mà có cả chi tiết kiến trúc
Trung Quốc. Hébrard sử dụng “phong cách kiến trúc Đông Dương” rất sáng tạo và đã để
lại những công trình rất có giá trị nghệ thuật.
Em thực sự bị cuốn hút bởi những đường nét tinh tế trong kiến trúc Đông
Dương .Một sự kết hợp, pha trộn hoàn hảo của nét kiến trúc phương Tây và phương
Đông, Cổ- Kim hòa quyện .Chính lý do đó đã mang đến cho em ý tưởng để thực hiện đề

tài Biệt thự mang phong cách Đông Dương.Với những đường nét cổ kính và sang trọng
gợi lên trong lòng mỗi người
về một thời kỳ lịch sử cuûa đất nước , và những dấu ấn riêng trong phong cách kiến trúc
tại Việt Nam.
CHƯƠNG 2: MỤC TIÊU VÀ Ý TƯỞNG THIẾT KẾ
1. MỤC TIÊU THIẾT KẾ:
Tìm lại đường nét Việt trong thiết kế nội thất Châu Âu. Tôn vinh những nét hoa
văn văn hóa Việt cổ kết hợp với lối mạnh mẽ và chi tiết của văn hóa kiến trúc Châu âu để
đưa ra cái nhìn mới về kiến trúc Đông Dương
Tạo cho con người cảm giác mới lạ với lối kiến trúc phương Tây kết hợp khéo
léo với sự duyên dáng của kiến trúc Á Đông và phù hợp với khí hậu, địa hình và truyền
thống của người Việt.
Với chất liệu được sử dụng phổ biến trong xây dựng nhà cửa của người Việt
như: gỗ, mây, tre.v.v.v Biệt thư mang phong cách Đông Dương sẽ mang lại hơi thở mới
cho kiến trúc đương đại ở Việt Nam.
2.Ý TƯỞNG THIẾT KẾ:
Vấn đề muốn đề cập ở đây là chất Á đông trong nội thất kiến trúc ngôi nhà của
ngườiViệt Nam. Thực ra cho đến lúc này, rất khó để có thể đưa ra một không gian nội
thất thuần Việt. Qua nhiều thế kỷ, sự giao lưu, gặp gỡ, hoà trộn, nội thất kiến trúc ở ta
hiện nay đang ở thời kỳ đa phong cách.
Từ nội thất của những người làm ruộng
Hình ảnh nội thất trong nhà ở gia đình Bắc Bộ đầu thế kỳ 20. Phụ nữ ngồi trang
điểm trên sập và thầy khoá trẻ ngồi bên bàn nước
Ngôi nhà sinh ra từ con người, cũng như con người, nó bị chi phối, định dạng, có
khả năng sinh tồn, thích ứng và biến chuyển trước mọi tác động của điều kiện tự nhiên và
đời sống xã hội. Và cũng như con người, ngôi nhà Việt đầu tiên sinh ra từ nông thôn, chủ
nhân của nó là người nông dân, những người mà cuộc sống của họ là bám vào đồng
ruộng. Do vậy, không gian nội thất của những mái nhà tranh ấy đầu tiên là một không
gian chứa đựng một đời sống nông nghiệp, mang tính thiết dụng, đơn sơ.
Trước hết, những thứ quan trọng mà người nông dân phải để trong ngôi nhà của

họ là công cụ lao động và nông sản. Cày, bừa, liềm hái, bồ thóc, thúng mủng, quang
gánh, cối xay, chày giã gạo. Kế đến là các thứ đồ đạc phục vụ cho đời sống sinh hoạt và
tâm linh. Dưới bếp có chạn bát đĩa, giá để nồi niêu, đòn treo quang gánh, rổ rá, giần sàng.
Trên nhà có bàn thờ, phản, chõng đóng đơn giản bằng tre, gỗ. Người nông dân xưa chưa
có khái niệm bàn ăn, họ đặt mâm xuống đất, ngoài sân, hoặc ở đầu hè, ngồi xếp bằng,
hoặc trên một cái ghế nhỏ và thấp. Hoặc ngồi ăn trên phản, chõng tre khi nhà có việc.
Rất nhiều công việc đều làm ở tư thế ngồi gần như ngồi xổm, ngồi sàng gạo, ngồi
đun bếp, mổ cá, làm gà. Có lẽ do vậy, mà người dân quê Bắc bộ có đặc tính là thích ngồi
xổm, thói quen ấy vẫn sống đến tận bây giờ (hiện thấy nhiều thanh niên ra Hà Nội, ngồi
lên ghế đá, ở giữa công viên hoặc ngay ở bờ hồ. Có người vào WC vẫn thích ngồi xổm cả
lên xí bệt!).
Phản, chõng có nhiều chức năng, vừa để nằm, vừa để ngồi, ngồi chơi, ngồi ăn
uống, tiếp khách, trẻ con học bài. Hình ảnh thường thấy có mấy đứa trẻ bò xung quanh
một ông thầy đồ học chữ. Có lẽ phải rất lâu sau này cái bàn mới xuất hiện. Bàn gỗ đơn
giản, với mấy cái ghế đẩu mộc mạc, đơn sơ. Từ một nếp sống như vậy, sự nghèo khổ, lại
thường xuyên phải đối phó với thiên tai, mất mùa, phải chăng đã tạo ra một thói quen,
một tâm lý “tích cốc phòng cơ”. Tâm lý đó tạo nên một đặc tính trong ngôi nhà người
Việt, là nhiều đồ đạc (cũng giống trong ngôi nhà của người Hoa). Đặc tính đó có tính lưu
truyền cho đến bây giờ.
Không gian nội thất ngôi nhà Việt đầu thế kỷ 20
Hình ảnh nội thất nhà ở nông thôn Bắc Bộ và góc nội thất của một gia đình tiểu tư
sản Hà Nội vào thập niên 60 qua nét vẽ của KTS Nguyễn Cao Luyện và KTS Tạ Mỹ
Duật.
Nhu cầu trang trí nội thất của người nông dân cũng đơn sơ như cuộc sống của họ. Nội
thất nặng về tính sử dụng nhiều hơn là trang trí. Có chăng chỉ là mấy bức tranh dân gian,
gà, lợn trên tường, nhưng chủ yếu là vào ngày tết. “Đì đẹt ngoài sân tràng pháo nổ, tưng
bừng trên vách bức tranh gà” như Tú Xương miêu tả. Nhưng chính hình dáng mộc mạc,
chất liệu tự nhiên như tre, gỗ, đất, đá, sành của những vật dụng như cối xay thóc, chày giã
gạo, cối đá, chum vại lại là vật có tính thẩm mỹ.
Các loại vật dụng sử dụng trong nhà ở nông thôn Bắc bộ xưa

Chạn bếp
Hoặc như cái chái trước hiên nhà, sinh ra do điều kiện khí hậu, là để che cái nắng
mưa, làm bằng nan tre, mộc mạc nhưng thật gợi cảm. Chính những vật dụng đó lại có
tính trang trí tự thân, tạo nên không khí nội thất trong căn nhà. Đến mấy trăm năm sau
này, là thời chúng ta đang sống, điều ấy đang được khẳng định, nhiều nội thất sang trọng
bây giờ lại lấy chính những vật dụng “nhà quê” ấy để làm duyên.
Nhà cổ Bình Thuỷ, Cần Thơ. Phong cách nội thất của những gia đình phú ông, bá
hộ đầu thế kỷ 20.
Những bộ ghế bàn kiểu Trung Hoa, bên cạnh những sản phẩm du nhập, bàn tròn
đường nét đơn giản kiểu châu Âu, tủ kính, đèn chùm và đặc biệt là cái bàn lavabô gương
kính. Cột kèo truyền thống trên bệ đá, nhưng vòm cửa và mô típ trang trí mang dấu ấn
Pháp. Những cánh cửa “nhà Tây” lá sách gỗ là một loại sản phẩm đầy chất nhiệt đới
Bộ bàn ghế tiếp khách trong nhà cổ Bình Thủy ở Cần Thơ
Ở một tầng lớp khác, là những người có học, các ông thầy đồ làng - tuy vẫn còn
những dấu ấn nông nghiệp, vì vợ vẫn là nhà nông - do có điều kiện hơn, chất văn hoá và
những nhu cầu thẩm mỹ đã hiện diện trong ngôi nhà của họ. Ngoài những bức tranh dân
gian, là hoành phi, câu đối. Khá hơn thì có bàn nước, ghế đôn, bộ tràng kỷ kê trước bàn
thờ. Tính trang trí đã được thêm vào với một thẩm mỹ tinh tế nhưng giản dị.
Khi một số người nông dân trở nên giàu có, họ là những phú ông, địa chủ. Ngôi
nhà của họ trở thành dinh thự. Nội thất dinh thự của tầng lớp này mang đậm chất hưởng
thụ và tính phô trương. Và đã có những yếu tố ngoại lai, du nhập. Tường đã được tô vẽ,
trang trí bằng hoa văn gốm. Những tủ chè, sập gụ được chạm trổ cầu kỳ, những bình gốm
sứ Trung Hoa, hoành phi câu đối sơn son thếp vàng. Ruộng đã phát canh thu tô, hoặc
thuê tá điền làm nên trong nhà không để nhiều nông cụ. Kho thóc có chỗ riêng. Không
gian ở đã được tách biệt, tính trang trí đã ở mức nhiều hơn là thiết dụng.
Đến những tiểu thị dân
Chút âm hưởng “dân gian đương đại”.
Thị tứ hình thành, nông dân đi ra từ đồng ruộng, trở thành thị dân. Những phố thị
với các lô nhà là cửa hàng buôn bán hay phường nghề. Lúc này, chức năng của một ngôi
nhà phố vẫn như ở quê, nghĩa là vừa ở, vừa sản xuất, hoặc buôn bán. Do vậy, cấu trúc

ngôi nhà vẫn phải đáp ứng hai nhu cầu, là ở và làm việc. Tính thích dụng vẫn là số một.
Sự chật chội và bề bộn trong ngôi nhà - cửa hàng (hoặc ngôi nhà - xưởng sản xuất) vẫn là
một đặc tính. Tuy nhiên nhu cầu trang trí đã đuợc chú ý hơn. Và mang dấu ấn thành thị.
Nhưng là một phong cách thành thị kiểu hàng phố, chưa hẳn sang, nhưng cũng không quá
hèn. Thương nhân giàu vẫn là tràng kỷ, sập gụ tủ chè, hoành phi câu đối, vừa thì vẫn cái
phản gỗ mộc mạc. Người khá giả hay có tâm lý “phải bằng hoặc hơn người”, nên tính
phô trương khá phổ biến trong tầng lớp tiểu thị dân. Tranh tường vẫn là tranh dân gian
như tranh thờ các vị thần, thú vật, là lối tranh Hàng Trống. Hay tranh tứ bình, tranh giấy
dó Đông Hồ.
Kiểu trang trí tủ chè sập ở Bắc Bộ
Nội thất trang trí căn nhà rường ở Huế
Về mặt thẩm mỹ, dù với người giàu ở thôn quê hay các tiểu chủ mới nơi phố thị,
sự cầu kỳ, diêm dúa của phong cách thẩm mỹ Trung Hoa luôn ám ảnh và quyến rũ họ.
Cũng là một điều dễ hiểu, cái tác động, ảnh hưởng của một nền văn hoá mạnh và lâu dài
như thế. Chất mộc mạc, đơn sơ của nhà nông, thẩm mỹ giản dị tinh tế của những ông
thầy đồ làng tuy vẫn còn nhưng luôn bị dao động và lấn át bởi sự diêm dúa và tinh xảo
của nhiều sản phẩm ngoại lai.
Thời thuộc địa và sự xuất hiện phong cách Đông Dương
Đó là khi người Pháp đến. Việc đầu tiên họ phải làm là xây dựng những ngôi nhà
cho chính họ. Những ngôi nhà đó phải theo quan niệm thẩm mỹ của họ, những tiện nghi
đẳng cấp của họ. Nhưng ngay cả người Pháp cũng bị tác động bởi chính những sắc thái
bản địa, từ điều kiện khí hậu, nghệ thuật trang trí tinh xảo ở các kiến trúc cổ, ở sản phẩm
mỹ nghệ và bắt đầu hình thành một sự gặp gỡ, pha trộn. Có một phong cách châu Âu đã
được “nhiệt đới hoá” về khí hậu, Á Đông hoá về thẩm mỹ trong không khí nội thất, đấy
chính là “Đông Dương”.
Toàn cảnh bên ngoài Dinh Gia Long
Dinh Bảo Đại ở Đà Lạt
Hệ thống lấy sáng tự nhiên cũng được chú trọng:

Cầu thang với lan can decor không nặng nề


Chi tiết trần diềm vừa pha trộn kiến trúc đền đài châu Âu vừa kết hợp các hoạ tiết châu
Á
Giống như một bộ complet may bằng vải đũi, rất Tây nhưng mát và mềm mại.
Giường ngủ với các thanh treo mùng, quạt trần, những tấm rèm cửa lụa là, những tấm
chăn, vải gối có hoa văn hoạ tiết đẹp và tinh xảo từ bàn tay của người thợ thủ cơng.
Những bộ bàn ghế khắc chạm, hoặc sofa được tạo ra từ sự kết hợp giữa cái sang và sành
sỏi của người Pháp, với sự tinh xảo khéo léo của thợ thủ cơng bản địa, đã tạo ra một
phong cách mà sau đã thành một trào lưu có tính dẫn dắt.
Đơng Dương là của người Pháp, nhưng có thể nói đó là một phong cách mang
đậm chất Á Đơng. Ngồi các ơng Tây thực dân, phong cách này được cảm nhận và đưa
vào ngơi nhà của một số ít gia đình bản xứ, là các nhà tư sản, quan lại cao cấp hay số ít trí
thức có thu nhập cao như bác sĩ, dược sĩ.
Trưởng Kỷ vật dụng thường được sử dụng trong nhà những tiểu tư sản cũ
Tiện nghi và lối sống châu Âu trong một không gian có kết cấu và sắc màu châu
Á.
Phong cách Pháp được “nhiệt đới hoá”, kết hợp với nghệ thuật thủ công Việt cũng gây
một cảm giác tích cực, gợi chất Á Đông. Khi những tiện nghi vật chất đã thành chuẩn
mực và dễ giống nhau, thì không khí nội thất mới là phong cách, là cái thể hiện bản sắc,
diện mạo. Bên cạnh một kiểu châu Âu của tiện nghi và công nghệ, một Á Đông nguyên
thuỷ rườm rà dễ bị cho là “quê mùa”, những người có thị hiếu thẩm mỹ theo hướng thích
cách tân nhưng vẫn có chút hoài cảm, đã đưa ra một quan niệm Á Đông mới, mà ta hay
gọi là “dân gian đương đại”.
Không gian kiến trúc nội thất ngôi nhà đầu thế kỷ 20
Đây là một phong cách dựa trên những hình ảnh truyền thống, cổ điển nhưng
được lược bớt và cách điệu, chỉ mang tính gợi chứ không sao chép và quá nệ cổ, nhìn ra
ngay vẻ hiện đại nhưng vẫn lẩn khuất một sự gợi nhớ về quá khứ. Cũng không cần nhiều
lắm, có khi chỉ phảng phất, điểm bằng một hoạ tiết, vật dụng như rèm cửa, vải bọc, bức
tranh dân gian, hoặc một vài thứ đồ mỹ nghệ thủ công như sành sứ, gốm, thậm chí chỉ với
một mùi hương, cũng tạo ra cái hồn châu Á dù trong một không gian nội thất theo phong

cách mới. Khi nó đạt được sự phù hợp về cảnh sắc, lối sống, gây một xúc cảm thẩm mỹ
nhẹ nhàng, ấm áp thì đấy là một sự thành công.
Nội và ngoại thất của một resort theo phong cách Á Đông mới. Có ảnh hưởng
chất của các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Biệt thư của cựu hoàng Bảo Đại tại Đồ Sơn Hải Phòng
Nội thất kết hợp dân gian và hiện đại. Nét đẹp hài hoà từ kết cấu, chất liệu, chi tiết
trang trí, và rất nhiệt đới.
Nội thất phòng ngủ tại biệt thự của vua Bảo Đại ở Đồ Sơn. Tái hiện lại tinh thần
“Á Âu hoà trộn” của cái thời và tính cách vị cựu hoàng.
Phòng ngủ của cựu hoàng Bảo Đại tại Biệt thự Đồ Sơn Hải Phòng
Phòng ngủ của Nam Phương Hoàng Hậu tại Biệt thư Đồ Sơn Hải Phòng
Gian đọc sách thư giãn tại Victoria Resort Hội An. Một đặc trưng của sự thành
công trong việc tạo ra không gian nội thất gợi phong cách Đông Dương, đầy tính hoài
cảm, nhiệt đới.
Gian phòng đọc sách thư giãn tại Resort Victoria Hội An
Như công trình Đại học Đông Dương: Bất ngờ trước những trang trí hình bóng điện.Khi
thoáng nhìn lên cánh cửa gian chính sảnh Đại học Đông Dương, nếu là người am hiểu đồ
án cổ truyền sẽ nghĩ ngay đến đồ án đồng tiền lồng vào nhau. Nhưng bình tâm nhìn kỹ
lại, sẽ thấy đây là những chiếc bóng đèn dây tóc. Có cả thẩy 52 chiếc bóng đèn, có 32 cái
nhìn thấy đủ toàn bộ đui đèn, bóng điện. 52 chiếc bóng này nội tiếp trong một chiếc cổng
vòm, để rồi bao bọc lấy một cái cửa hình chữ nhật.
Cái vòm cong này gợi nên hình tượng của bầu trời, sự hoàn mỹ của tỷ lệ cho
chúng ta cảm giác hài hòa thanh thoát. Cánh cửa hình chữ nhật nội tiếp như muốn nói
cánh cửa của đại học Đông Dương là cánh cửa để đi vào thế giới của tri thức.
Bản thiết kế mặt tiền công trình Đại học Đông Dương
Từ những kiến trúc đơn sơ, mộc mạc, mang tính truyền thống của người Nam.
Người Pháp đã kết hợp rất khéo léo để tạo ra một phong cách kiến trúc vừa truyền thống
vừa hiện đại. Vừa quý phái lại vừa giản dị, mang tính ứng dụng và phong cách mới cho
nhà Việt
Em yêu thích sự kết hợp giữa hiện đại và cổ điển của phong cách Đông Dương.

Qua đó giúp em hiểu biết thêm về thời kỳ lịch sử của dân tộc.Và những nét đặc sắc,
phong phú của kiến trúc Việt Nam.Và muốn góp một phần công sức nhỏ bé của mình, để
khôi phục những tinh hoa độc đáo của kiến trúc Việt Nam đang dần bị mai một.
CHƯƠNG 3: PHẦN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3.1 DẠNG ĐỀ TÀI:
Toàn bộ ý tưởng về phong cách Đông Dương được đưa vào Biệt Thư Đông
Dương
Biệt thư mang tính chất thiên nhiên, có không gian thoáng, rộng để thể hiện ý
tưởng tốt hơn. Và em nghĩ, ở một khía cạnh nào đó, em có thể làm tốt đố án tốt nghiệp
nếu em chọn đề tài này :Biệt thư Đông Dương.Đơn giản là vì em có tình cảm với những
công trình kiến trúc được coi là kiệt tác cảu nhân loại do những kiến trúc sư vĩ đại người
Pháp và người Việt thiết kế trong những năm đầu thế kỷ 20.Qua những bức tranh, qua
những nghiên cứu, và qua những công trình kiến trúc còn sót lại ở khắp mọi miền đất
nước. Tình cảm ấy mang đến cho em nhiều ý tưởng, để em biết mình phải làm gì, không
mơ hồ, lạc hướng.
Khởi nguồn của phong cách Đông Dương du nhập vào Việt Nam là do những
kiến trúc sư người Pháp. Họ đến Việt Nam và xây dưng nhà cửa, tuy nhiên kiến trúc kiểu
Pháp hoàn toàn không phù hợp với điều kiện khí hậu, cũng như địa hình của Việt Nam.
Và phong cách Đông Dương được hình thành từ sự kết hợp giữa phong cách kiến trúc
truyền thống của Á Đông với phong cách kiến trúc hiện đại, tráng lệ của Pháp. Ngày nay
kiểu kiến trúc Đông Dương đang dần bị mai một bởi nhiều yếu tố khách quan như ( diện
tích xây dựng bị thu hẹp, chi phí xây dựng tốn kém.v.v.v.) làm mất dần đi những giá trị
kiến trúc đẹp.
Thông qua bài luận văn này em muốn tạo dựng nên một cái nhìn mới mẻ về
phong cách kiến trúc Đông Dương.
3.2 PHONG CÁCH THIẾT KẾ :
Toàn bộ khu biệt thự mang phong cách Đông Dương
Phong cách Đông Dương thể hiện ở kiến trúc ( mái nhà, cửa sổ, cửa chính, trần nhà,
tường, hành lang….), thể hiện cách sử dụng vật liệu thông dụng sẵn có, thể hiện di sản
văn hóa ( đình, chùa, nhaø thôø…),di tích lịch sử( Bến nhà Rồng, Hội trường Thống

Nhất),thể hiện ánh sáng màu sắc.Và quan trọng hơn là tạo ra được không gian mang đậm
chất Đông Dương và không kém phần hiện đại.
3.2.1 THỂ HIỆN TRONG KIẾN TRÚC:
Thực ra, vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, khi người Pháp mới đến Hà Nội, họ
chọn Hà Nội là Thủ phủ của Đông Dương. Thời kỳ đầu, họ tập trung xây dựng các công
trình công năng đơn giản kiểu trại lính, sau đó họ xây dựng các công trình kiến trúc cổ
điển Châu Âu, như Phủ toàn quyền, Dinh thống sứ, Nhà hát thành phố, Toà án tối cao…
để thể hiện quyền uy của nhà nước bảo hộ.
Từ năm 1920 trở đi mới xuất hiện mối giao lưu giữa văn hoá Pháp với văn hoá
Việt. Thời điểm này phải ghi nhận sự thành công của Kiến trúc sư Ernest Hébrad đối với
Kiến trúc ở Hà Nôị và các thành phố khác như Sài Gòn, Đà Lạt, Hải Phòng, Viên Chăn,
Nông-Pênh… Từ đó xuất hiện bộ mặt của một phong cách Kiến trúc mới, đó là nền kiến
trúc Châu Âu mang phong cách Á đông mà được gọi là Kiến trúc Đông Dương
(Indochina Architectural).
Hébrad quan niệm văn hoá địa phương cũng là một tài nguyên cần được khai
thác, ông đặc biệt coi trọng những nét đẹp trong cách sử dụng vật liệu xây dựng và ông
đặc biệt chú ý đến việc khai thác cảnh quan thiên nhiên môi trường và điều kiện khí hậu
nóng ẩm.
Không ở đâu có loại nhà dùng hai lớp cửa kính cửa chớp, vừa không chói chang
vào mùa hè vừa ấm áp vào mùa đông như ở Đông Dương, cũng không ở đâu coi trọng
nhà có mái hiên rộng, hành lang hút gió “mát âm” thậm chí vào mùa hè ít khi phải dùng
quạt trần như ở Đông Dương.
Góc hành lang trong ngôi nhà cổ
Có lẽ lối sống của người Việt thích nghi với không gian mở và thân thiện với môi
trường cũng phù hợp với sự lưạ chọn của những gia đình người Pháp khi họ sang đây
sinh sống.Thời kỳ đầu loại nhà kiểu này chỉ để phục vụ cho gia đình vợ con giới công
chức người Pháp, lâu dần các công chức người Việt khá giả cũng chấp nhận.
Dãy hành lang dọc theo chiều dài ngôi nhà để hút gió và chống nóng
Không gian mở gắn liền với thiên nhiên biệt thự kiểu Đông Dương
Với tư cách là một sản phẩm kiến trúc, phải thừa nhận là biệt thự kiếu Pháp đẹp,

rất đẹp. Và nó rất hợp với vùng nhiệt đới chúng ta. Nói đơn giản hơn, nhiều người cho
rằng ở nhà kiểu Pháp thì rất mát.
Quan sát bình thường cũng có thể nhận ra một số đặc điểm của kiểu biệt thự này.
Đa số các biệt thự đều được đặt trong các khuôn viên lớn, có cây xanh và hoa trái quanh
năm giúp tạo ra vùng vi khí hậu riêng cho căn nhà. Các ngôi biệt thự kiểu Pháp luôn có
hiên rộng, giảm thiểu được ánh nắng trực tiếp chiếu vào nhà. Tường ngoài luôn được xây
dày 40cm, ngăn được lượng nhiệt xâm nhập. Các cửa sổ và cửa đi đều có ô văng che
nắng, mưa. Các cửa này thường được làm hai lớp - trong là kính và ngoài lá sách. Vào
mùa hè oi ả, cửa lá sách đóng lại, che lượng bức xạ mặt trời mà trong nhà vẫn thông
thoáng. Vào mùa đông cửa kính đóng lại chống được cái rét. Mái nhà thường lợp ngói có
độ dốc thích hợp, không những chống được thấm dột mà còn tạo khoảng không khí đệm
để cách nhiệt. Trong những căn biệt thự kiểu này, việc bố trí các phòng ốc bên trong đều
có chú ý đến hướng gió mát. Tất cả điều đó làm cho căn nhà thích hợp với vùng khí hậu
nhiệt đới gió mùa của Việt Nam chúng ta.
Ngôi nhà cổ với kiểu cầu thang đối xứng, và các lam cửa nhỏ giúp giảm độ nóng
vào mùa hè và độ lạnh cảu mùa đông
Những công trình tiêu biểu cho phong cách Đông Dương là : Bộ Ngoại Giao, Bảo
tàng Lịch sử, Nhà thờ Cửa Bắc và Viện Pasteur do Kiến trúc sư (KTS) người Pháp E.
Hebrard (1866-1933) thiết kế và được xây dựng từ thập niên 20 của thế kỷ XX. Những
tòa nhà này kkhông Pháp mà cũng không Việt với những gam màu thật, ấm, nóng, rực rỡ
của ngói, những cách điệu của đầu đao, mái vẩy, những con tiện, con sơn thường gặp
trong kiến trúc Á Đông.
E. Hebrard đã kết hợp những ngôn ngữ kiến trúc phương Đông khác nhau để diễn
đạt một không khí rất phương Đông trên một mặt đứng đăng đối vốn là một trong những
ngôn ngữ chính của kiến trúc cổ điển Pháp bằng những con sơn, con tiện, mái đua, mái
chống hắt v.v E. Hebrard đã đem những mái nhà ở đâu đó mà ta đã gặp ở làng quê Việt
chồng thành lớp liên tục làm cho những công trình mang dáng dấp kiến trúc Thái Lan,
Campuchia hay của Lào. Trên đỉnh mái lại có những bờ nóc rất giống kiến trúc Việt. Đi
sâu một chút vào chi tiết con tiện hoặc một khuôn cửa sổ tròn, ta lại thấy nó giống như
kiến trúc của Trung Hoa. Tất cả những chi tiết kiến trúc Thái, Miên, Lào, Việt và Trung

Hoa vừa kể đã được khéo léo sắp xếp lại với nhau một cách hài hòa, đồng điệu chứ
không tạo nên một sự tranh chấp thái quá làm cho người ta dễ nhận thấy một không khí Á
Đông trên bề mặt kiến trúc phương Tây.
Hơn thế, để thích ứng với điều kiện khí hậu Hà Nội, E. Hebrard còn tạo cho công
trình độ sâu các lớp hành lang, những bức tường dày và những mái chống hắt những hàng
hiên, những lỗ thoáng đối lưu Tất cả những chi tiết kiến trúc thuần Việt ấy có tác dụng
làm ấm nhà trong mùa đông, mát nhà trong mùa hè, thông thoáng tự nhiên, chống mưa và
giảm bức xạ mặt trời khi nắng nóng.
Trong lịch sử phát triển nền kiến trúc Việt Nam thì thời cận đại trùng với thời
thực dân Pháp cai trị. Đó là một thời kỳ chuyển tiếp hết sức quan trọng trong sự phát triển
kiến trúc VN, đô thị Việt Nam. Bởi từ cuối thế kỷ 19 trở về trước, kiến trúc Việt Nam là
kiến trúc truyền thống, kiến trúc gỗ. Người phương Tây, cụ thể là người Pháp đã đưa vào
VN một nền kiến trúc mới của châu Âu tương ứng với công nghệ mỹ thuật châu Âu và
như thế tạo ra một thời kỳ chuyển tiếp giữa kiến trúc truyền thống sang kiến trúc hiện đại
hôm nay. Đó là cây cầu nối giữa kiến trúc truyền thống và kiến trúc hiện đại.
Phủ Chủ tòch_ Nguyên là toàn Quyền Đông Dương
Bộ Ngoại Giao
Bảo Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử ) xây dựng trong những năm
1928-1932 cũng do kiến trúc sư Hébrand thiết kế là một thành cơng đầy ấn tượng của
phong cách kiến trúc Đơng Dương. Mặt bằng bảo tàng được kiến tạo theo u cầu của
khơng gian kiến trúc trưng bày nên chỉ gồm hai thành phần chính: Khơng gian sảnh hình
bát giác và một phòng trưng bày lớn, tổ chức theo hình thức xun phòng có sự chuyển
tiếp được tổ chức khéo léo. Bên cạnh đó còn có một số khơng gian phù trợ tạo thành một
tổng thể trưng bày khống đạt. Hệ thống mái chồng mái được tác giả sử dụng, đặc biệt
trên khối sảnh bát giác và ở các khơng gian phù trợ khác cũng là yếu tố chủ đạo của hình
thức kết hợp ở cơng trình này. Các cửa thơng gió và lấy sáng được đặc biệt lưu ý, kết hợp
với nhiều chi tiết kiến trúc Á Đơng được xử lý khéo léo. Hệ thống cây xanh được kéo từ
vườn hoa phía trước vào sâu trong sân Bảo tàng làm cho cơng trình dường như mọc lên
từ khối cây xanh nhiệt đới. Là một cơng trình văn hố thuộc loại lớn lúc bấy giờ, khu
sảnh bát giác mang nhiều tính hình thức của chú nghĩa biểu hiện là điều dễ thơng cảm và

tạo ra được ấn tượng tốt.

×