Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (663.71 KB, 100 trang )

Trang 1

CHƯƠNG

1

MỞ ĐẦU
1.1 Tên đề tài
NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG TÁI CHẾ
CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH.
1.2 Tính cấp bách và cần thiết của đề tài
Trong quá trình sản xuất và tiêu dùng của cải vật chất, con người luôn đào
thải ra các chất vào môi trường. Ngày nay, với dân số ngày càng đông, tốc độ phát
triển kinh tế-xã hội đô thị hoá nhanh, lượng chất thải rắn phát sinh ngày một nhiều.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những thành phố dẫn đầu cả nước về
lónh vực công nghiệp và dịch vụ. Với tốc độ phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nhanh, thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm công nghiệp, giữ vai trò trọng điểm
của vùng kinh tế phía Nam và của cả nước. Tp.HCM với hơn 7 triệu dân ( 4/2006)
tập trung tại 24 quận huyện với diện tích 2.093,7 Km, là nơi tập trung hàng trăm nhà
hàng, khách sạn, khu thương mại, văn phòng, công sở, trường học, chợ, siêu thị,
bệnh viện, các trung tâm y tế, phòng khám đa khoa, và hơn 12.000 cơ sở công
nghiệp ( lớn, vừa và nhỏ), hơn 800 công ty nằm trong và ngoài 12 khu công nghiệp,
03 khu chế xuất và 01 khu công nghệ cao, hàng ngàn công trình đang xây dựng và
cải tạo…Trong những năm gần đây, tốc độ đô thị hoá, công nghiệp hoá tại Tp.HCM
Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh



Trang 2

đã gia tăng mạnh mẽ và đang có xu hướng tăng mạnh trong những năm tới, gây
nhiều áp lực nặng nề đối với môi trường và cộng đồng. Nhiều vấn đề nan giải,
những thách thức lớn được đặt ra trong công tác bảo vệ môi trường nhằm phát triển
ổn định và bền vững thành phố. Bên cạnh nhiều khó khăn, tồn tại trong việc giải
quyết các vấn đề liên quan đến nước thải và ô nhiễm không khí, vấn đề chất thải rắn
đang thật sự là một thách thức lớn, một mối đe doạ khủng khiếp đối với môi trường
và sức khỏe cộng đồng. Giải quyết vấn đề chất thải rắn đô thị tại Tp.HCM là một
bài toán phức tạp, từ khâu thu gom, phân loại rác tại nguồn, đến việc vận chuyển xử
lý chất thải rắn. Mỗi ngày Tp.HCM đổ ra khoảng 6.000 tấn chất thải rắn đô thị, với
thành phần chủ yếu là thực phẩm thừa chiếm khoảng 50-90% (khối lượng ướt), các
chất thải rắn có khả năng tái chế chiếm khoảng 30% và một phần nhỏ các loại chất
thải không có khả năng tái sử dụng, tái chế chiếm khoảng 5-10% ( khối lượng ướt).
Bên cạnh đó, còn có khoảng 700-1.200 tấn chất thải rắn xây dựng ( xà bần) và
1.000-1.500 tấn chất thải rắn công nghiệp, trong đó có khoảng 150-200 tấn chất thải
nguy hại, 7-9 tấn chất thải rắn y tế.
Chất thải rắn và việc xử lý chúng hiện nay là vấn đề bức xúc của nước ta nói
chung và của Tp. Hồ Chí Minh nói riêng. Lượng chất thải rắn thu gom tại các đô thị
Việt Nam hiện chỉ đạt khoảng 70% yêu cầu so với thực tế và chủ yếu tập trung tại
các khu vực nội thành. Bên cạnh đó, các loại chất thải rắn nguy hại không đïc phân
loại riêng mà trộn lẫn với chất thải rắn sinh hoạt, nếu không được xử lý triệt để sẽ
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng, dẫn đến suy thoái môi trường đất, nước,
không khí… Chất thải rắn đô thị hiện đang thực sự là một mối đe dọa lớn đối với môi
trường và sức khoẻ cộng đồng

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh


GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 3

Tại Tp.HCM hiện nay, phần lớn chất thải được vứt bỏ lẫn lộn, không phân
loại tại nguồn và được đưa đến các bãi chôn lấp hợp vệ sinh của thành phố và thậm
chí còn đổ xuống các kênh rạch, sông hồ, các khu đất trống gây ô nhiễm môi trường,
mất vệ sinh và mất mỹ quan nghiêm trọng. Hiện nay, các bãi chôn lấp chất thải rắn
tại Tp.HCM như bãi chôn lấp Gò Cát, Phước Hiệp, Đông Thạnh đang trong giai
đoạn quá tải, và việc xử lý các khí thải cũng như một lượng lớn nước rỉ rác tại đây
cũng là vấn đề cấp bách cần được giải quyết. Mặc dù các bãi chôn lấp này được đầu
tư rất lớn với công nghệ hiện đại, chúng vẫn luôn tạo ra những áp lực lớn đối với môi
trường với một lượng lớn nước rỉ rác ( 800-1.000 m3/ bãi/ngày đêm) và khí thải
( 500.000-700.000 m3/ngày đêm), đặc biệt là mùi hôi. Ngoài ra, việc xử lý chất thải
rắn bằng phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh chiếm diện tích đất chôn lấp rất lớn
chưa kể diện tích đất cho các công trình phụ trợ như đường giao thông, trạm cân, sàn
trung chuyển, trạm xử lý nước rỉ rác và khí thải, hành làng cây xanh cách ly… và
diện tích này sẽ khó có thể sử dụng vào mục đích khác trong thời gian dài ( 30-50
năm), không những thế, kinh phí để bảo trì và giám sát các bãi chôn lấp này sau khi
đóng cửa cũng rất lớn. Lượng chất thải rắn phát sinh trên địa bàn thành phố sẽ
không ngừng tăng nhanh với tốc độ tăng trưởng kinh tế và dân số của thành phố.
Theo dự báo của Sở Tài Nguyên và Môi trường Tp.HCM, lượng chất thải rắn bình
quân ở thành phố có thể tăng từ 0,61 Kg/người/ngày năm 1996 lên hơn
1kg/người/ngày đến năm 2010, nghóa là tăng thêm 40% trong vòng 15 năm.
Chỉ có một phần nhỏ chất thải rắn được tái chế tại các cơ sở tái chế quy mô vừa
và nhỏ ở Tp.Hồ Chí Minh ( thu mua phế liệu và tái chế). Thực tế Tp.HCM hiện nay
có nhiều cơ sở tái chế chất thải rắn, hoạt động từ lâu với nhiều loại nguyên liệu được


Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 4

thu mua, tái chế như giấy, thủy tinh, nylon, kim loại…Nhìn chung các cơ sở tái chế
này chỉ phát triển một cách tự phát với quy mô sản xuất nhỏ, công nghệ tái chế vẫn
không được đầu tư mới và một số công nghệ đã không còn phù hợp với điều kiện
thực tế, do đó chưa tạo được nhiều sản phẩm có chất lượng cao đáp ứng nhu cầu của
của thị trường tiêu thụ..

Hoạt động tái chế này đã phần nào đáp ứng việc tái chế

chất thải ở Tp.HCM. Bên cạnh mặt tích cực mà hoạt động tái chế này mang lại,
trong quá trình phát triển, hoạt động tái chế cũng đã gây ô nhiễm môi trường nghiêm
trọng, ảnh hưởng sức khỏe người dân và cộng đồng xung quanh, đồng thời do công
nghệ tái chế lâu đời nên cũng chưa khai thác hết chất thải rắn có thể tái chế về
chủng loại và khối lượng.
Như đã biết, môi trường có chức năng là nơi chứa đựng các chất thải do con
người tạo ra trong cuộc sống và hoạt động sản xuất. Để góp phần giảm thiểu khả
năng chịu tải của môi trường, việc tái chế chất thải rắn là rất quan trọng và thiết
thực, nhằm giảm thiểu lượng rác đem chôn lấp và xử lý, đồng thời cũng tiết kiệm
các nguồn nguyên liệu để sản xuất ra vật chất mới. Mặc khác, tái chế còn là một
giải pháp hữu hiệu làm giảm chi phí sản xuất, giảm chi phí xử lý chất thải và do đó

hạ giá thành sản phẩm. Tái chế giúp khôi phục và duy trì một môi trường trong sạch
và lành mạnh, nhờ vậy giảm các chi phí chữa bệnh và chi phí do nghỉ ốm. Môi
trường trong lành cũng giúp phát triển ngành du lịch kéo theo các hoạt động kinh tế
khác như nhà hàng, khách sạn, thương mại, cơ sở hạ tầng… Về lâu dài, việc duy trì sự
phát triển bền vững quan trọng hơn nhiều so với tăng trưởng nhanh trong một thời
gian ngắn với chất lượng phát triển thấp, gây áp lực lớn lên hệ thống cơ sở hạ tầng
và gây ra những vấn đề môi trường trầm trọng. Như đã biết, một xã hội bền vững là

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 5

xã hội không những đảm bảo được nhu cầu hiện tại của thế hệ hiện tại mà phải đảm
bảo nhu cầu phát triển cho các thế hệ tương lai. Điều này chỉ có thể thực hiện được
khi các nguồn tài nguyên được sử dụng một cách hiệu quả và quan trọng hơn là
chúng có thể được tái chế. .Xét trên tổng thể, thực hiện tốt việc tái chế chất thải rắn
đem lại môi trường trong sạch hơn, cải thiện sức khỏe cộng đồng và là một trong
những giải pháp quan trọng đảm bảo sự phát triển bền vững của xã hội. Vì vậy, đề
tài “ Nghiên cứu và đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế chất thải rắn sinh
hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh” là một nhu cầu hết sức bức thiết, có ý nghóa sâu
sắc trong việc thúc đẩy các hoạt động tái chế chất thải rắn sinh hoạt tại đây.
1.3

Mục tiêu đề tài

Đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động tái chế chất thải rắn sinh hoạt

tại Tp.HCM.
1.4

Phạm vi nghiên cứu và nội dung đề tài

a) Phạm vi nghiên cứu :
Đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế cho đối tượng là chất thải rắn
sinh hoạt trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh, không bao gồm chất thải rắn công
nghiệp và nguy hại.
b) Nội dung đề tài
Nội dung đề tài bao gồm :
 Tổng quan về số lượng, thành phần chất thải rắn và tình hình thải bỏ, xử lý chất
thải rắn hiện nay trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, đánh giá hiện trạng
xử lý chất thải rắn
Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 6

 Đánh giá hiện trạng tái chế chất thải rắn sinh hoạt hiện nay trên địa bàn
Tp.HCM
-


Thống kê và phân nhóm các ngành nghề và số lượng cơ sở tái chế chất thải rắn

-

Đánh giá hiện trạng tái chế bao gồm công nghệ tái chế, quy mô sở sản xuất và

hiện trạng ô nhiễm môi trường của các cơ sở tái chế.
-

Đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động tái chế

 Đề xuất các giải pháp để thúc đẩy các hoạt động tái chế chất thải rắn sinh hoạt
tại đây.
1.5 Phương Pháp nghiên cứu
 Khảo sát, thống kê các cơ sở doanh nghiệp đang hoạt động trong ngành tái chế
hiện nay trên địa bàn thành phố bằng khảo sát thực tế và qua các tài liệu có liên
quan.
 Tham khảo hệ thống văn bản luật và chính sách liên quan đến việc bảo vệ môi
trường.
 Tham khảo các chính sách quản lý và khuyến khích hoạt động tái chế chất thải
rắn của các nước tiên tiến ( Nhật, Đài Loan…)
 Phương pháp phân tích hệ thống ( phương pháp SWOT- phân tích điểm mạnh ,
điểm yếu, cơ hội, thách thức)
1.6 Tính thực tiễn, tính mới của đề tài
a) Tính thực tiễn của đề tài

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh


GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 7

Như đã đề cập trong phần tính cấp bách và cần thiết của đề tài, việc tái chế
chất thải rắn hiện nay rất thiết thực, không những tái chế giúp giảm thiểu khả năng
chịu tải của môi trường mà vai trò của tái chế còn thể hiện như là nguồn cung cấp
nguyên vật liệu giá rẻ, qua đó tiết kiệm tài nguyên, hướng tới phát triển bền vững.
Thực tế hiện nay ở Tp. Hồ Chí Minh có rất nhiều cơ sở tái chế chất thải phát triển tự
phát, quy mô hộ gia đình hoạt động lâu đời với nhiều loại nguyên liệu được thu mua
và tái chế như giấy, thủy tinh, nylon, kim loại… Phải nhận thấy rằng , các hoạt động
của các cơ sở thu mua, tái chế này đã phần nào tái chế được một lượng chất thải rắn
nhất định. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng hoạt động của các cơ sở này hầu như
nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước, gây ô nhiễm môi
trường nghiêm trọng và chất lượng sản phẩm tái chế còn thấp. Muốn phát huy thế
mạnh của các hoạt động tái chế này, cần xây dựng các giải pháp quản lý và thúc
đẩy, nhằm đưa hoạt động tái chế thành một ngành nghề, góp phần giải quyết vấn đề
chất thải rắn tại nước ta nói chung và Tp.HCM nói riêng. Hoạt động tái chế hiện này
cũng cần phải phát triển hơn nhằm đáp ứng chu cầu ngày càng cao của khách hàng
về chất lượng sản phẩm và các quy định về an toàn, môi trường.
b) Tính mới của đề tài :
Mặc dù hoạt động tái chế tại Tp.HCM đã hình thành và phát triển hơn 30 năm
qua nhưng nhìn chung chỉ phát triển một cách tự phát với quy mô sản xuất nhỏ,
Trong những năm gần đây, đã có rất nhiều nghiên cứu trong nước về lónh vực tái
chế. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu này chỉ tập trung vào một ngành nghề tái
chế cụ thể hoặc chỉ đi sâu vào nghiên cứu hiện trạng tái chế chất thải mà chưa có cái
nhìn chung cho việc quản lý cũng như các giải pháp thúc đẩy cho các hoạt động này.
Luận văn cao học

Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 8

Qua đề tài này, sẽ đề xuất các giải pháp nhằm quản lý, thúc đẩy hoạt động tái chế
tại Tp.HCM hiện nay.

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 9

CHƯƠNG

2

TỔNG QUAN VỀ CHẤT THẢI RẮN SINH HOẠT
VÀ TÁI CHẾ CHẤT THẢI RẮN
2.1 Tổng quan về chất thải rắn sinh hoạt
2.1.1 Nguồn phát sinh

2.1.2 Tính chất
2.1.3 Tác hại đối với môi trường
2.2 Tổng quan về tái chế chất thải rắn
Tái chế chất thải rắn là quá trình thu hồi và tái sản xuất các phế liệu, chất thải bỏ từ
các hộ gia đình, các cơ sở công nghiệp, nông nghiệp và kinh doanh để tạo ra các sản
phẩm có ích.
Tái chế chất thải rắn sinh hoạt là quá trình thu hồi và tái sản xuất các phế liệu, chất
thải bỏ từ các hoạt động sinh hoạt hàng ngày của các gia đình, các cơ quan, văn
phòng,… để tạo ra các sản phẩm có ích.
Tái chế chất thải rắn bao gồm :
-

Đốt chất thải rắn tạo nguồn năng lượng

-

Chế biến phân hưu cơ từ chất thải rắn thực phẩm

-

Tái chế chất thải rắn thành các vật liệu, sản phẩm và chế phẩm xây dựng

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh



Trang 10

2.2.1 Tổng quan về tình hình tái chế chất thải rắn trong nước
Tại Việt Nam, thực hiện chiến lược phát triển bền vững, chiến lược quản lý môi
trường đến năm 2010, chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia giai đoạn 2015, tầm
nhìn 2020 đã xác định các đô thị, trong đó có thành phố Hồ Chí Minh, phải tăng
cường công tác tái sử dụng, tái chế và áp dụng công nghệ mới nhằm mục tiêu đến
năm 2010 giảm từ 30-50% lượng chất thải rắn đô thị đưa về các bãi chôn lấp. Thực
hiện nội dung chiến lược, trong những năm qua đã có rất nhiều nghiên cứu về lónh
vực tái chế nhằm hạn chế lượng chất thải rắn đi đến các bãi chôn lấp cũng như tạo
nguồn nguyên liệu cho sản xuất nhằm tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ sức khỏe cộng
đồng và hướng tới phát triển bền vững.
Các nghiên cứu điển hình như : Nghiên cứu công nghệ xử lý và tái chế phế thải
của quá trình luyện cốc làm phụ gia siêu dẻo cho bê tông với mục đích nghiên cứu
chế tạo và thiết lập quy trình cho công nghệ sản xuất phụ gia siêu dẻo cho bê tông
trên cơ sở thu gom, xử lý phế thải công nghiệp luyện cốc ở nhà máy Cốc hoa-Công
ty Gang thép Thái Nguyên nhằm góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường; các
nghiên cứu về tái chế nhựa phế thải, tái chế giấy trên địa bàn Tp.Hà Nội; nghiên
cứu sản xuất compost từ chất thải rắn hữu cơ và xây dựng quy trình công nghệ phù
hợp cho Tp.HCM; nghiên cứu nâng cao hiệu quả hệ thống tái sinh, tái chế tại
Tp.HCM; nghiên cứu các quy định về tái chế rác áp dụng tại Tp.HCM; nghiên cứu
tái sinh năng lượng từ thành phần hữu cơ của chất thải rắn đô thị Tp.HCM; nghiên
cứu điều chế nhiên liệu biodiesel từ dầu thực vật phế thải được thực hiện tại Hà Nội
( Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc gia) và Tp.HCM ( Đại học
Quốc gia Tp.HCM); nghiên cứu tận dụng cặn từ quá trình súc rửa tàu dầu; nghiên
Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn

HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 11

cứu tận dụng chất thải rắn công nghiệp tôn mạ kẽm; nghiên cứu sản xuất một số sản
phẩm chất lượng cao từ phế thải kẽm nhôm; nghiên cứu xử lý- tận dụng chất thải
hữu cơ nguy hại; nghiên cứu công nghệ xử lý chất thải rắn (rác xây dựng) chế tạo
thành vật liệu xây dựng đã đưa ra được quy trình công nghệ xử lý xà bần và chế tạo
vật liệu xây dựng sản xuất loại gạch xây tường và lát vỉa hè có chất lượng cao và giá
thành phù hợp…. Đề tài “ Nghiên cứu các giải pháp phát triển hiệu quả để tuần hoàn
và tái sử dụng chất thải rắn công nghiệp và chất thải rắn công nghiệp nguy hại-đề
xuất một thị trường trao đổi chất thải rắn công nghiệp-chất thải rắn công nghiệp
nguy hại cho khu vực Tp.HCM đến năm 2010 do viện môi trường và tài nguyên chủ
trì, TS Lê Thanh Hải làm chủ nhiệm đề tài, năm 2003. Gần đây nhất là đề tài “
Nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức và hoạt động quỹ tái chế chất thải rắn tại
Tp.HCM, tháng 9/2006 do CN. Huỳnh Thu Hà và ThS. Phạm Hồng Nhật làm chủ
nhiệm đề tài. Mục tiêu của đề tài là xây dựng cơ sở pháp lý, kỹ thuật và đề xuất mô
hình Quỹ tái chế Chất thải rắn ở Tp. Hồ Chí Minh nhằm đảm bảo hiệu quả của công
tác quản lý chất thải theo chiến lược phát triển bền vững. Viện Môi trường và Tài
nguyên cũng đã có báo cáo tổng hợp về đề tài nghiên cứu khoa học “ Nghiên cứu cơ
sở khoa học xây dựng phương pháp tính phí xử lý chất thải nguy hại theo cơ chế thị
trường” do ThS Nguyễn Thanh Hùng làm chủ nhiệm đề tài ( tháng 9/2006) với mục
tiêu là xây dựng phương pháp tính phí xử lý chất thải nguy hại theo cơ chế thị trường
có cơ sở khoa học và phù hợp với điều kiện Tp. Hồ Chí Minh, đối tượng nghiên cứu
chính của đề tài là chất thải nguy hại dạng rắn và bán rắn từ các khu công nghiệp,
các cơ sở công nghiệp trên địa bàn Tp.Hồ Chí Minh.

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế

chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 12

Tp.HCM hiện nay co rất nhiều cơ sở thu mua phế liệu và tái chế chất thải đã
hoạt động từ lâu với nhiều loại nguyên liêu được mua và tái chế như : giấy, thủy
tinh, nylon, kim loại….Thành phố hiện đang đầu tư xây dựng 7 nhà máy tái chế và xử
lý chất thải lớn. Các loại chất thải rắn đang được thành phố quan tâm tái chế như :
nhựa, da, giấy, cao su, thủy tinh, kim loại…
2.2.2 Tổng quan về tình hình tái chế ngòai nước
Tái chế là một hoạt động phổ biến trong lịch sử nhân loại. Trước thời kỳ công
nghiệp tại Châu Âu, người ta đã thu nhặt các mảnh vụn làm từ đồng và các kim loại
có giá trị khác, nung chảy để tái sử dụng. Ở Anh, tro bụi từ việc đốt gỗ và than được
dùng để làm nguyên liệu gạch. Tái chế giấy xuất hiện ở nước Anh vào năm 1921,
khi tổ chức Rác thải Giấy Anh quốc ( British Waste Paper Association) được thành
lập để khuyến khích kinh doanh trong lónh vực tái chế giấy.
Chiến lược quản lý rác thải đô thị ở Tp Luân Đôn (nước Anh) được ban hành
vào năm 2002 hướng tới Tp bền vững vào năm 2020. Để đạt được mục tiêu dài hạn
này, các thói quen sinh hoạt phải thay đổi sao cho mỗi người thải ra lượng rác thải
tối thiểu. Ngành công nghiệp tái chế cũng được thúc đẩy hình thành. Chính quyền
Tp. Luân Đôn đã đặt ra mục tiêu tái chế và làm phân compost từ rác thải đô thị là
17%, 25% và 33% tương ứng với các năm 2003, 2005 và 2015. Trong năm 20032004, Tp.Luân Đôn đã thải ra 4,34 triệu tấn rác, trong đó 70% được xử lý bằng cách
chôn lấp hợp vệ sinh, 19% xử lý bằng phương pháp đốt và 11% lượng rác thải còn lại
được tái chế.
Tại Mỹ, sự đầu tư lớn cho tái chế là vào những năm 1970, do chi phí nhiên
liệu tăng. Năm 1973, thành phố Berkeley, California ( Mỹ) bắt đầu một trong những

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 13

chương trình thu gom tại lề đường đầu tiên bằng những lần thu lượm giấy báo từ các
khu vực dân cư hàng tháng. Từ đó nhiều nước đã bắt đầu và mở rộng các chiến dịch
thu gom tại nhà. Một sự kiện nữa đánh dấu cho nỗ lực tái chế xảy ra vào năm 1989
cũng tại thành phố Berkeley, đó là lệnh cấm sử dụng bao gói bằng chất liệu
polystyrene để giữ ẩm bánh Hamburger McDonald’s. Một tác động của lệnh cấm
này đã tăng cường sự quản lý tại nhà sản xuất polystyrene lớn nhất thế giới (Dow
Chemical), dẫn đến nỗ lực lớn đầu tiên để chứng minh rằng nhựa cũng có thể tái
chế. Đến năm 1999, riêng tại Mỹ đã có 1677 công ty tham gia vào ngành công
nghiệp tái chế nhựa từ rác thải tiêu dùng. Năm 2003, lượng chất thải rắn tái chế ở
Mỹ ( bao gồm sản xuất phân Compost) là 30,6 %; lượng chất thải rắn mang đi chôn
lấp là 56,4%; còn lại được xử lý bằng phương pháp đốt ( theo www.epa.gov). Mặt
khác, để giảm thiểu lượng rác thải phát sinh, nước Mỹ đã có những chính sách hỗ
trợ hoạt động tái chế và hiện đang có những cố gắng thiết lập xã hội kinh tế tuần
hoàn, các nhà sản xuất phải xét xem sản phẩm của mình có sinh ra ít chất thải hơn
không và các chất liệu có khả năng tái chế hay không.
Tại Đức, năm 1990 Volkwagens đã khánh thành một nhà máy tái sinh xe ô tô
và được chính phủ Đức khuyến khích về việc thực hiện các biện pháp thu hồi phế
phẩm.
Tại Nhật, những công trình nghiên cứu biện pháp tái sử dụng, tái chế rác thải
bắt đầu từ thập kỷ 80. Từ năm 1980, công nghệ tái chế chất thải rắn ở Nhật đã bắt

đầu có biến chuyển cùng với việc Chính phủ Nhật thông qua một số đạo luật, như
Luật xúc tiến việc sử dụng những nguồn tài nguyên có thể tái chế năm 1991 hay
Luật cơ bản về môi sinh năm 1993, Luật xúc tiến việc thu gom, phân loại và tái chế
Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 14

bao bì năm 1995….Ở Nhật hiện nay, công việc tái chế, hầu như ai cũng tham gia. Đồ
nhựa được làm từ nguyên liệu sợi polyeste tái chế; rác thải thực phẩm trở thành phân
bón tổng hợp cho cây trồng; vụn thủy tinh trở thành gạch lát nền… Theo con số
thống kế tại Nhật Bản, năm 1995 có khoảng 50% giấy phế liệu được thu hồi và tái
chế, 100% các chai miểng thủy tinh và 75% tổng lượng vỏ kim loại đồ hộp được thu
hồi và tái chế.
Năm 2004, lượng giấy tái chế được tiêu thụ tại Trung Quốc là 28,8 triệu tấn.
Tỷ lệ tái chế giấy là 33,4% và sử dụng giấy tái chế là 58,2%. Năm 2005, có nhiều
dự án về tái chế giấy được thành lập cũng như mở rộng tại Trung Quốc . Hiện nay,
Trung Quốc đang đẩy mạnh việc hình thành các hệ thống thị trường tái chế giấy,
đáp ứng nhu cầu thu gom, phân loại, kỹ thuật và các hệ thống máy móc tái chế giấy
hiện đại. Trung Quốc có thị trường tiềm tàng về tái chế giấy. (Theo
/>Trong chính sách quản lý rác thải vào năm 1992, chính phủ Hàn Quốc đã đưa
vào quy định hạn chế phát sinh rác thải nhằm mục đích sử dụng tài nguyên một cách
hiệu quả và đẩy mạnh việc tái chế tài nguyên. Hiện nay, Chính phủ Hàn Quốc cũng
đưa ra mục tiêu nâng cao tỷ lệ tái chế rác thải công nghiệp đến năm 2010 là 80%.
Theo mục tiêu tái chế của Hàn Quốc, nước này đã đầu tư vào việc mở rộng các thiết

bị tái chế cơ bản, mở rộng tài trợ và khuyến khích cho công nghiệp tái chế trong
nước, nhằm nâng cao tỉ lệ tái chế lên 53% lượng rác thải phát sinh
Chính Phủ Đài Loan với chương trình tái chế toàn bộ rác và không chôn rác
vào năm 2010 với mục tiêu về tỷ lệ tái chế là 33% vào năm 2007, 67% vào năm
2008 và 100% vào năm 2010. Khái niệm không chôn rác ( Zero Landfill) có nghóa
Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 15

tất cả rác thải đô thị sẽ được tái chế hoặc tái sử dụng, và bao gồm sản xuất rác thải
hữu ơc làm phân compost, tái chế và tái sử dụng tất cả nhựa, giấy. kim loại, thủy
tinh.. .sử dụng tốt nhất năng lượng tạo ra từ đốt rác và rác phân hủy.
Các nước phát triển hiện nay đang thay đối lối sống là tiêu dùng các sản
phẩm có nguồn gốc tái chế và phát triển ngành kinh doanh tái chế. Đặc điểm của
hoạt động thu hồi và tái chế chất thải rắn ở nước này là tổ chức các dịch vụ công
cộng có trách nhiệm đẩy mạnh tái chế rác thải bằng ngân sách. Hình 3.1 sau đây thể
hiện tỷ lệ tái chế chất thải rắn ở Hồng Kông, Hàn Quốc, Thổ Nhó Kỳ và
Nhật Bản.

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn

HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


% Tái chế

Trang 16

100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0

Giấy và
bảng
giấy

Hồng Kông

Hàn Quốc

Thổ Nhĩ Kỳ

Nhật Bản


Chất hữu cơ

Thuỷ tinh

Kim loại (vỏ
đồ hộp)

Chất dẻo

Hỡnh 3.1 : Tyỷ lệ tái chế của một số nước (năm 2004)
Chiến lược phát quản lý môi trường của các nước ( Mỹ, Anh, Thụy Điển, Hà
Lan, Nhật, Đài Loan, Singapore, Thái Lan… ) đều hướng về mục tiêu 3R (Reduce,
Reuse, Recycle) là giảm thải, tái sử dụng và tái chế, trong đó mục tiêu hàng đầu là
giảm lượng chất thải. Đồng thời với việc xử lý chất thải rắn cũng được thực hiện theo

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 17

hướng giảm thiểu lượng rác chôn lấp do quỹ đất ngày càng thu hẹp, thay dần bằng
công nghệ đối đối với các chất thải rắn không thể tái chế được. Để đạt được mục
tiêu 3R, các nước đã ban hành một hệ thống các chính sách đồng bộ, các quy định cụ
thể, chi tiết để thực thi, bao gồm cả việc phân công trách nhiệm trong từng công

đoạn quản lý và xử lý chất thải rắn. Các công cụ kinh tế trong quản lý rác thải như
thuế, phí tái chế được vận dụng khác nhau ở mỗi nước nhằm huy động và sử dụng
hiệu quả hợp lý nguồn lực của chính những người sử dụng tài nguyên và người gây ô
nhiễm để cải thiện môi trường hoặc giảm những hậu quả bất lợi cho môi trường. Bên
cạnh việc giảm thiểu lượng chất thải rắn, ngành tái chế chất thải hiện đang được
khuyến khích phát triển như một trong những giải pháp sử dụng tiết kiệm và hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên trong chiến lược bảo vệ môi trường và phát triển bền
vững. Chính Phủ các nước đã đưa ra các chính sách tài chính như giảm thuế lợi tức
khi đầu tư công nghệ tái chế ( Đan Mạc, Mỹ..), thành lập Quỹ tái chế chất thải ( Đài
Loan, Nhật…) để phát triển hoạt động tái chế chất thải. Đồng thời, các chương trình
tái chế chất thải đã huy động sự tham gia của tư nhân, cộng đồng dân cư cùng với
chính quyền trong hoạt động tái chế và sử dụng sản phẩm tái chế.
Như vậy, hoạt động tái chế chất thải rắn trên thế giới đã được quan tâm và thực
hiện từ lâu đời. Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật cũng như các chính
sách quản lý phù hợp, hoạt động tái chế ngày càng tạo được nhiều sản phẩm có giá
trị và chất lượng cao, giúp giảm bớt áp lực cho môi trường và bảo vệ tài nguyên
thiên nhiên.
2.2.3 Quản lý chất thải rắn tại một số nước phát triển (Hàn Quốc, Nhật Bản,
Singapore…. )
Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 18

a. Quản lý chất thải rắn tại Hàn Quốc

Luật quản lý rác thải ở Hàn Quốc đưa ra các tiêu chuẩn xử lý, bảo quản, vận
chuyển và thu gom rác thải và trách nhiệm của các đối tượng xả thải nhằm xử lý
chất thải rắn hợp ly ùnhất. Đối với chất thải rắn sinh hoạt, chính quyền địa phương có
trách nhiệm xử lý hợp lý ; đốivới rác thải nơi kinh doanh, các cơ sở kinh doanh sản
xuất có trách nhiệm xử lý hợp lý…
Trong chiến lược quản lý chất thải rắn vào năm 2002, Chính phủ Hàn Quốc đã đưa
vào quy định hạn chế phát sinh chất thải rắn nhằm sử dụng hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên và đẩy mạnh việc tái chế chất thải.
Những quy định chủ yếu trong luật tái chế và xử lý rác thải trong nước:
-

Quy định hạn chế sử dụng sản phẩm dùng một lần : quy định đối với các cơ sở
sản xuất kinh doanh hạn chế sử dụng các sản phẩm dùng một lần và không được
cung cấp sản phẩm dùng một lần miễn phí tại các cửa hàng siêu thị, quán ăn…

-

Quy định về trả phí rác thải : quy định về phí mà người sản xuất hoặc nhập khẩu
các nguyên liệu, thùng chứa… bao hàm các chất độc hại, khó tái chế .

-

Quy định trách nhiệm tái chế đối với người sản xuất : Đưa ra các danh mục bắt
buộc tái chế đối với một số sản phẩm, chất liệu bao bì… sinh ra nhiều rác thải sau
khi sử dụng. Quy định trách nhiệm đối với người sản xuất hay nhập khẩu sản
phẩm trong việc thu gom, tái chế các sản phẩm này. Hoặc những người này phải
có trách nhiệm chi trả phí thu gom, tái chế, xử lý rác thải cho các cơ sở tái chế.

Tình hình xử lý chất thải rắn hiện nay tại Hàn Quốc :


Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 19

-

Đối với chất thải rắn công nghiệp : Các cơ sở sản xuất có trách nhiệm xử lý toàn
bộ ( chôn lấp, tiêu hủy, tái chế) hoặc ủy thác cho công ty chuyên xử lý ă1n thực
hiện.

-

Đối với chất thải rắn nông nghiệp : Chất thải rắn nông nghiệp được nông dân thu
gom rồi tập trung về từng khu vực thu gom tại làng, xã. Sau đó, Công ty môi
trường sẽ thu gom và xử lý toàn bộ.

-

Đối với chất thải rắn sinh hoạt :

 Chất thải rắn sinh hoạt thuộc các loại đem chôn lấp không thể tái chế được
đựng trong các túi nhựa thiết kế theo tiêu chuẩn. Các loại chất thải có thể tái
chế được phân loại vào các thùng thu gom. Chính quyền địa phương có trách
nhiệm thu gom và xử lý


 Đối với các loại chất thải rắn nằm trong danh mục bắt buộc tái chế thuộc
trách nhiệm của các cơ sở sản xuất kinh doanh hay nhập khẩu nguyên liệu
(hộp giấy, chai thủy tinh, hộp kim loại, các loại chai lọ tổng hợp, các loại pin,
dầu bồi trơn, vỏ xe…) sản phẩm đó, các cơ sở này sẽ có trách nhiệm xử lý, tái
chế toàn bộ

Hình 2.6 : Quản lý chất thải rắn sinh hoạt tại Hàn Quốc
b. Quản lý chất thải rắn tại Nhật Bản
Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 20

Xã hội Nhật Bản là Xã hội tuần hoàn nguyên liệu, xãhội tuần hoàn nguyên liệu
bao gồm 5 nội dung : Giảm lượng rác thải, tái sử dụng, tái chế nguyên liệu, tái chế
nhiên liệu và chôn lấp chất thải rằn phù hợp.
Mục tiêu của Nhật bản cho đến năm 2010 là :
-

Giảm 20% lượng chất thải rắn sinh hoạt bình quân đầu người so với năm 2000

-

Tăng gấp đôi quy mô thị trường tái chế, sản phẩm tái chế so với năm 1997


-

Tăng tỷ lệ tuần hoàn nguyên liệu từ 10% năm 2000 lên 14% vào năm 2010

-

Giảm 50% lượng chất thải rắn đem đi chôn lấp vào năm 2010 so với năm 2000

Ngoài ra, Nhật Bản đã hình thành một hệ thống các luật và văn bản pháp lý để
hoàn thành các mục tiêu trên như : Luật tái chế túi bao bì và đồ đựng (1995), Luật
tái chế các đồ điện gia dụng ( tháng 4/2001), Luật tái chế thực phẩm ( tháng
5/2001), luật tái chế vật liệu xây dựng (tháng 5/2002), luật tái chế xe hết hạn sử
dụng ( 1/2005) và Luật thu mua xanh ( tháng 4/2001), Luật tái chế rác bếp (tháng
5/2001), Luật quản lý chất thải (sửa đổi tháng 12/2003, Luật Quản lý chất thải sửa
đổi (tháng 12/2003) và luật khuyến khích sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên
( tháng 4/2001)….Theo như các luật định này cùng các chính sách và nguyên tắc
trách nhiệm của chủ nguồn thải, Nhật Bản đã thành công trong chiến dịch tái chế,
tái sử dụng và giảm thiểu lượng chất thải phát thải.
c. Quản lý chất thải rắn tại Singapo
Năm 2002, Bộ Môi trường và Tài nguyên Singapore xây dựng kế hoạch xanh của
cua Singapo và đặt mục tiêu tăng tỷ lệ tái chế chất thải từ 44% năm 2002 lên 60%
năm 2012. Năm 2004, Singapo đạt được tỷ lệ tái chế chất thải là 48% và phấn đấu
tiến tới “lượng chất thải phải chôn lấp bằng zero”

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn

HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 21

Để khuyến khích phát triển và áp dụng các công nghệ cải tiến về môi trường, cơ
quan môi trường quốc gia đã xây dựng quỹ 20 triệu đô để hỗ trợ tài chính cho các
công ty tiến hành thử nghiệm các công nghệ môi trường. Năm 2001, cơ quan này đã
phát động chương trình tái chế quốc gia để khuyến khích các hộ gia đình tham gia
tái chế chất thải bằng cách cung cấp cho các hộ gia đình các túi hoặc thùng đựnê1tái
chế để chia chọn các vật liệu tái chế tại nguồn phát sinh. Số hộ gia đình tham gia
chương trình tái chế chất thải gia đình tăng từ 22% năm 2001 lên 54% vào cuối năm
2004.
Ngoài ra, Cơ quan môi trường quốc gia còn phát động các chương trình tái chế trong
các khu công nghiệp và thương mại nhằm khuyến khích tái chế gỗ, hộp giấy, nhựa
tổng hợp và kim loại tại các nhà máy quy mô vừa và nhỏ ở ác khu công nghiệp. Cơ
quan môi trường còn phối hợp với hiệp hội khách sạn, hiệp hội bán lẻ và các trung
tâm thương mại tiến hành các dự án và chương trình tái chế và giảm thiểu chất thải.

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 22

CHƯƠNG


3

TÌNH HÌNH TÁI CHẾ CHẤT THẢI RẮN
SINH HOẠT HIỆN NAY TẠI TP HCM
2.1 Hiện trạng chất thải rắn tại Tp.HCM
2.1.1 Nguồn phát sinh
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những địa phương dẫn đầu cả nước về lónh
vực công nghiệp và dịch vụ. Cùng với cả nước, trong những năm gần đây, thành phố
đã và đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhằm sớm đưa thành
phố trở thành Thành phố công nghiệp vào năm 2015-2017, là trung tâm công
nghiệp, giữ vai trò đầu tàu của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và của cả nước
theo quan điểm phát triển đã được thể hiện trong Quy hoạch phát triển công nghiệp
Tp.HCM đến năm 2010 có tính đến năm 2020 do Thủ Tướng Chính Phủ phê duyệt
tại quyết định số 188/2004/QĐ-Ttg. Tp.HCM với hơn 7 triệu dân ( tháng 4/2006) là
nơi tập trung hàng trăm nhà hàng, khách sạn, khu thương mại, chợ, siêu thị, công sở,
văn phòng, trường học, bệnh viện, trung tâm y tế, phòng khám đa khoa, các cơ sở
công nghiệp, các khu công nghiệp, khu chế xuất, hàng trăm công trường xây dựng
cải tạo… Mỗi ngày Tp.HCM đổ ra khoảng 6.000 tấn chất thải rắn đô thị, với thành
phần chủ yếu là thực phẩm thừa chiếm khoảng 50-90% (khối lượng ướt), các chất
thải rắn có khả năng tái chế chiếm khoảng 30% và một phần nhỏ các loại chất thải
không có khả năng tái sử dụng, tái chế chiếm khoảng 5-10% ( khối lượng ướt). Bên
cạnh đó, còn có khoảng 700-1.200 tấn chất thải rắn xây dựng ( xà bần) và 1.000-

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh



Trang 23

1.500 tấn chất thải rắn công nghiệp, trong đó có khoảng 150-200 tấn chất thải nguy
hại, 7-9 tấn chất thải rắn y tế.
Hàng ngày, chất thải rắn ở Tp.HCM được sinh ra từ các nguồn sau :
Bảng 2.1
STT

Nguồn phát sinh

Thành phần chủ yếu

Nhà ở, hộ gia đình

Rau quả, thực phẩm dư thừa, giấy, da, vải, nhựa, thủy tinh,
sành sứ, kim loại…

2
3

Trường học
Cơ quan, công sở

Giấy, dụng cụ học tập, bao bì, vỏ hộp, hoá chất phòng thí
nghiệm..
Giấy, đồ dùng văn phòng, nhựa thủy tinh, bao bì…

4


Nhà hàng, khách sạn,
quán ăn

Rác thực phẩm các loại, giấy, nhựa, thủy tinh, bao bì, vỏ
hộp…

5

Khu di tích lịch sử văn
hoá, khu vui chơi giải trí

Rác thực phẩm và bao bì các loại, giấy nhựa….

6

Bệnh viện, cơ sở y tế…

Rác sinh hoạt đông thường, rác y tế ( bệnh phẩm, bông
băng, kim tiêm, dụng cụ y tế…),các chất độc hại khác

7
8

Đường phố
Các cơ sở sản xuất công
nghiệp

Cành lá cây khô, xác chết động vật, phân súc vật và các
loại rác sinh hoạt thông thường

Rác sinh hoạt thông thường, chất thải rắn công nghiệp,
chất thải rắn nguy hại

9

Chợ và các trung tâm
thương mại

Rau quả, đầu tôm ruột cá, thức an dư thừa và các loại rác
sinh hoạt thông thường khác

1

10
11

Các cơ sở dịch vụ
Công trình xây dựng

12
13

Các công trình công cộng
(công viên, nhà ga…)
Hầm cầu

Rác sinh hoạt thông thường, những chất thải đặc thù khác
tuỳ theo loại hình dịch vụ sản xuất kinh doanh
Xà bần
Rác sinh hoạt thông thường, giấy, nhựa, bao bì, vỏ hộp,

thực phẩm, cành lá cây khô, xác chết động vật, phân súc
vật…
Phân hầm cầu

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 24

Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên ở Tp.HCM vào khoảng 2%/năm, trong khi tỷ lệ tăng rác
lại đến gần 40 %/năm. Tức cứ tăng 1% dân số ( chưa tính yếu tố tăng dân số cơ học)
thì lượng rác tăng tương ứng khoảng 20%.
2.1.2 Tình hình quản lý chất thải rắn
a) Tình hình lưu trữ, thu gom, vận chuyển
Lưu trữ :
Các hộ gia đình sử dụng thùng chứa chất thải rắn bằng nhựa, một số gia đình sử
dụng thùng chứa bằng kim loại hoặc vỏ tre nứa. Phổ biến nhất, người dân thường sử
dụng các loại túi xốp, nilon chứa chất thải rắn. Ở nhiều nơi, các hộ gia đình sử dụng
chung một thùng chứa hoặc chứa trong các loại túi rồi đổ thành đống tại một điểm
nhất định. Khi đến thời gian giao rác, thông thường các hộ đem thùng chứa hoặc túi
nilon để trước cửa để người thu gom rác dễ dàng thu gom. Đối với những hộ không ở
nhà vào thời gian thu gom rác, thường bỏ rác vào các bọc nilon buộc chặt, để trước
cửa. Đối với các loại chất thải rắn có giá trị, thông thường được người dân lưu giữ
trong nhà và bán cho những người thu mua phế liệu dạo.
Tại các chợ, hầu hết chất thải rắn phát sinh đều được thải bỏ ngay tại các lối đi trong

chợ. Sau khi tan chợ, công nhân vệ sinh sẽ thu gom rác trong chợ. Đối với các siêu
thị, hầu hết chất thải rắn được lưu giữ trong các thùng chứa 240l.
Đối với trường học, công sở, nhà hàng, khách sạn, chất thải rắn được lưu giữ trong
các thùng chứa nhỏ được trang bị trong đơn vị. Sau đó, chất thải rắn được chuyển ra
đổ vào thùng 240l
Chất thải rắn bệnh viện và các cơ sở y tế được lưu giữ trong các thùng nhựa màu
vàng ( chất thải rắn y tế) và màu xanh ( chất thải rắn sinh hoạt) với các thùng có
dung tích khác nhau.
Thu gom, vận chuyển:

Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


Trang 25

Công tác thu gom, vận chuyển chất thải rắn do Công ty Môi trường đô thị thành phố
cùng với Công ty dịch vụ công ích các Quận huyện và lực lượng tư nhân thực hiện.
Hằng ngày, chất thải rắn được thu gom bằng xe đẩy tay và tập trung tại các điểm
hẹn. Trên địa bàn thành phố hiện này có 300 điểm hẹn trên đường, chuyển chất thải
rắn từ xe đẩy tay sang xe cơ giới; 39 trạm và bô trungchuyển rác. Phương tiện thu
gom, vận chuyển chất thải rắn trên địa bàn thành phố hiện có 4.128 xe thô sơ, 1.037
xe cơ giới các loại tải trọng từ 4 đến 13 tấn, ngoài ra còn có 10 tàu gỗ, 30 chiếc ghe
là phương tiện thực hiện công tác vớt chất thải rắn và ven kênh rạch với khối lượng
chất thải rắn trung bình là 30 tấn/ngày.
b) Tình hình xử lý

 Xử lý chất thải công nghiệp nguy hại
Hiện nay vấn đề chất thải công nghiệp nói chung và chất thải nguy hại nói riêng là
một trong những vấn đề hết sức bức xúc của thành phố. Chỉ có một phần rất nhỏ chất
thải rắn nguy hại ( dầu cặn, dung môi, bao bì ) được thu hồi, tái chế và tái sử dụng
ngay trong các cơ sở công nghiệp hoặc đưa ra bên ngoài để tái chế tại các cơ sở tư
nhân. Phần lớn chất thải nguy hại được vứt bỏ lẫn lộn với chất thải rắn đô thị và đưa
đến các bãi chôn lấp, thậm chí còn đổ xuống các kênh rạch, ra các khu đất trống,
gây nên tình trạng ô nhiễm môi trường và mất vệ sinh nghiêm trọng, đe doạ trực tiếp
đến nguy cơ suy thoái tài nguyên nước mặt và nước ngầm thành phố. Qui chế Quản
lý chất thải rắn nguy hại đã có hiệu lực thi hành hơn 6 năm qua nhưng hiện nay việc
tách riêng chất thải rắn nguy hại ra khỏi chất thải rắn công nghiệp không nguy hại
vẫn chưa được thực hiện tốt ở các cơ sở công nghiệp và có rất ít cơ sở đăng ký quản
lý chất thải nguy hại.
Về mặt nguyên tắc, chất thải công nghiệp nguy hại phải được thu gom tách rời khỏi
chất thải công nghiệp không nguy hại. Người phát thải chịu trách nhiệm xử lý bao
gồm vận chuyển đến các doanh nghiệp được Sở Tài Nguyên và Môi trường thành
phố cấp phép. Nếu đơn vị phát sinh nằm trong khu công nghiệp, họ sẽ ký hợp đồng
thông qua khu công nghiệp. Những doanh nghiệp xử lý chất thải thực hiện chôn lấp
Luận văn cao học
Nghiên cứu đề xuất giải pháp thúc đẩy hoạt động tái chế
chất thải rắn sinh hoạt tại thành phố Hồ Chí Minh

GVHD : PGS.TS Nguyễn Đinh Tuấn
HVTH : Nguyễn Thị Phương Anh


×