Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

chuyên đề ứng dụng sản phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.54 KB, 18 trang )

1



























TỔNG CỤC THỦY SẢN
TRUNG TÂM THÔNG TIN THỦY SẢN





CHUYÊN ĐỀ
“ỨNG DỤNG CHẾ PHẨM SINH HỌC
TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN”












2

MỤC LỤC
I. Tổng quan về chế phẩm sinh học
1. Chế phẩm sinh học là gì?
2. Cơ chế hoạt động
3. Vai trò của chế phẩm sinh học
4. Các chủng loại chế phẩm sinh học
5. Lựa chọn chế phẩm sinh học
II. Ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản
1. Ứng dụng chế phẩm sinh học
2. Kết quả của ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy

sản
2.1. Kết quả sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi cá
2.2. Kết quả sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm
2.3. Kết quả sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi các loài
thủy sản khác.
III. Kết luận
1. Kết luận
2. Triển vọng








3

Lời nói đầu
Nuôi trồng thủy sản được coi là ngành sản xuất thực phẩm quan trọng trong
việc cung cấp protein động vật cho nhu cầu tiêu dùng của con người. Trong hai
mươi năm qua, ngành nuôi trồng thủy sản đã tăng trưởng nhanh chóng, được coi
ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành sản xuất thực phẩm. Theo
FAO, nguồn cung thực phẩm từ cá, nhuyễn thể từ nuôi trồng thủy sản tăng từ 3,9%
trong năm 1970 lên đến 27,3% trong năm 2000. Tại Châu Âu, sản lượng nuôi trồng
thủy sản dự đoán vượt mức 2,5 triệu tấn trong năm 2015 và đạt mức 4 triệu tấn
trong năm 2030. Các nước khu vực châu Á Thái Bình Dương là các nước có sản
lượng nuôi trồng thủy sản cao nhất trên thế giới, chiếm 89% về khối lượng.
Tuy nhiên, cùng với mức tăng trưởng chóng mặt này thì ngành nuôi trồng
thủy sản cũng gây ra các vấn đề về ô nhiễm môi trường. Việc ô nhiễm ở các vùng

ven biển do nuôi trồng thủy sản gây ra là mối quan tâm của các nhà quản lý cũng
như các nhà khoa học. Môi trường ven biển đã bị phá hủy trầm trọng và kết quả là
sự bùng nổ dịch bệnh. Các vi khuẩn gây bệnh ở đây thường là vi rút, vi khuẩn,
nấm, tảo, Để ngăn ngừa và kiểm soát dịch bệnh, kháng sinh, thuốc bảo vệ thực
vật và các chất hóa học đã được sử dụng.
Tuy nhiên, việc sử dụng và lạm dụng thuốc kháng sinh và các chất hóa học
dẫn đến việc kháng thuốc ở loài nuôi và tồn dư thuốc trong các sản phẩm thủy sản,
gây ảnh hưởng đến môi trường nước, ảnh hưởng đến sức khỏe con người và các
hoạt động thương mại tôm. Vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để kiểm soát dịch
bệnh trong nuôi trồng thủy sản mà vẫn đảm bảo sản phẩm sản xuất ra là an toàn và
thân thiện với môi trường? Chế phẩm sinh học, một phương pháp tiếp cận sinh
học, thân thiện với môi trường đã và đang được áp dụng trong nuôi trồng thủy sản
để giải quyết các vấn đề này.
4

I. Chế phẩm sinh học
1. Chế phẩm sinh học là gì
Từ chế phẩm sinh học (probiotics) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp bao gồm
hai từ pro có nghĩa là „thân thiện‟ và biosis có nghĩa là „sự sống‟. Thay cho việc
tiêu diệt các bào tử vi khuẩn, chế phẩm sinh học được sản xuất với mục đích kích
thích sự gia tăng các loài vi khuẩn có lợi trong ao. Chế phẩm sinh học lần đầu tiên
được Giáo sư Fuller R. (1989) định nghĩa như sau: “Một loại thức ăn có nguồn gốc
từ những vi sinh vật sống và có ảnh hưởng có lợi lên vật chủ qua việc làm cải thiện
sự cân bằng hệ vi sinh trong đường ruột của vật chủ.
Probiotic đã và đang được sử dụng khá hiệu quả để phòng bệnh cho người
và gia súc, gia cầm trên cạn. Nhiều vi sinh đã được sử dụng để sản xuất ra các chế
phẩm ứng dụng rất hiệu quả nhằm kiểm soát côn trùng gây hại cho cây trồng như
vi khuẩn Bacillus thuringiensis, nấm Beauveria bassiana, Metarrhizium anisopliae,
virus NPV.v.v. Ngoài ra, các chế phẩm vi sinh còn được sử dụng để làm phân bón
vi sinh nhằm phân giải các chất hữu cơ làm giàu cho đất, phân giải lân khó tiêu

thành lân dễ tiêu để cây trồng hấp thu được. Tuy nhiên, việc sử dụng các chế phẩm
vi sinh trong nuôi thủy sản vẫn còn khá mới mẻ. Các chủng vi khuẩn vật và các sản
phẩm lên men giàu các men ngoại bào đã được sử dụng trong nuôi trồng thủy sản.
Mục đích sử dụng chế phẩm sinh học là nhằm cải thiện và bổ sung chức năng của
các vi sinh vật trong hệ tiêu hóa của vật chủ.
2. Cơ chế hoạt động
Theo một vài công trình nghiên cứu gần đây chế phẩm sinh học được hoạt
động theo một số khía cạnh sau:
5

Cạnh tranh loại trừ vi khuẩn gây bệnh: Chế phẩm sinh học có khả năng bám
dính và xâm chiếm bề mặt niêm mạc ruột, do vậy tạo ra cơ chế bảo vệ chống lại
mầm bệnh qua việc cạnh tranh điểm bám và thức ăn.
Tạo ra các hoạt chất ức chế: Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh các
dòng chế phẩm sinh học sản sinh ra các chất diệt khuẩn chống lại các mầm bệnh
thông thường trên cá như Enterococcus durans, Escherichia coli, Micrococcus
luteus và Pseudomonas aeroginosa.
Tăng cường hệ miễn dịch của vật nuôi: Các chế phẩm sinh học có thể kích
thích hệ miễn dịch của vật nuôi. Các chất kích thích miễn dịch khác nhau tùy theo
môi trường và cách sử dụng. Các chất dẫn xuất nhất định như polysaccharides,
lipoproteins, nucleotides and ß-glucans có khả năng làm tăng bạch huyết cầu bằng
cách kích hoạt đại thực bào. Việc sử dụng Bacillus sp đã được chứng minh có hiệu
quả trong việc phòng bệnh trên vật nuôi bằng cách kích hoạt hệ miễn dịch dịch và
hệ miễn dịch tế bào trong nuôi tôm sú (Rengpipat et al, 2000).
3. Chủng loại chế phẩm sinh học
Chế phẩm sinh học có thể được phân chia thành ba nhóm:
Nhóm 1: gồm các vi sinh vật sống như vi khuẩn thuộc nhóm Bacillus,
lactobacillus,… và thường được trộn vào thức ăn để kích thích tiêu hóa, giúp tăng
trưởng,…
Nhóm 2: gồm các vi sinh vật có tính đối kháng hoặc cạnh tranh thức ăn với

vi sinh vật gây bệnh như vi khuẩn Bacillus spp và được dùng trong xử lý các chất
thải hữu cơ và các khí độc trong môi trường ao nuôi.
Nhóm 3: gồm các vi sinh vật cải thiện chất lượng môi trường như vi khuẩn
Nitrosomonas sp, Nitrobacter,… được dùng trong xử lý nước ao nuôi và nền đáy.
6

4. Vai trò của chế phẩm sinh học
4.1.Tăng cường sức khỏe và ngăn chặn mầm bệnh
Trong một thời gian dài, các chất kháng sinh đã được sử dụng để ngăn ngặn
bệnh dịch trong nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, việc sử dụng kháng sinh gây ra
nhiều vấn đề như dư thừa chất kháng sinh trong các sản phẩm thủy sản, tạo ra các
cơ chế kháng khuẩn cũng như làm mất cân bằng các men tiêu hóa trong đường
ruột, gây ảnh hưởng đến sức khỏe của vật nuôi. Hơn nữa, nhu cầu của con người
đối với các sản phẩm thủy sản sạch và an toàn trên thế giới ngày càng cao. Do vậy,
việc sử dụng chế phẩm sinh học là một phương pháp hữu hiệu trong việc ngăn
chặn mầm bệnh và kiểm soát dịch bệnh trong nuôi trồng thủy sản.
Chế phẩm sinh học có khả năng sản sinh ra các chất hóa học có tác dụng diệt
các vi khuẩn gây bệnh bám trên thành ruột của vật chủ, do vậy có thể coi chế phẩm
sinh học là một rào cản hữu hiệu ngăn chặn sự phát triển của mầm bệnh.
Ngoài ra, chế phẩm sinh học hay các “vi khuẩn có lợi” còn có khả năng cạnh
tranh vị trí bám và thức ăn trong thành ruột với các vi sinh vật gây bệnh, không cho
phép các vi sinh vật này bám vào cơ thể vật nuôi, nhờ vậy giúp ngăn ngừa dịch
bệnh, đảm bảo sức khỏe cho vật nuôi.
4.2.Cải thiện hệ tiêu hóa
Chế phẩm sinh học là nguồn dinh dưỡng và enzyme cho bộ máy tiêu hóa của
vật nuôi. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng chế phẩm sinh học có ảnh hưởng tích cực
đến quá trình tiêu hóa của các vật nuôi bởi vì các dòng chế phẩm sinh học sản xuất
ra các en-zim ngoại bào như as protease, amilaza, lipaza và cung cấp các dưỡng
chất phát triển cần thiết như vitamin, axit béo, axit amin,… Trong nuôi cá, các vi
khuẩn vi sinh như Bacteroides và Clostridium sp đã cung cấp dinh dưỡng cho cá,

đặc biệt là cung cấp các axit béo và vitamin. Ngoài ra, một số vi khuẩn có thể tham
7

gia vào quá trình tiêu hóa của động vật hai mảnh vỏ bằng cách sản xuất ra các
enzyme ngoại bào như protease, amilaza, lipaza và cung cấp dưỡng chất phát triển
cần thiết như vitamin, axit béo, axit amin.
4.3.Cải thiện chất lượng nước
Chế phẩm sinh học còn giúp ngăn ngừa và giảm thiểu ô nhiễm trong ao
nuôi. Các vi sinh vật có lợi giúp phân hủy các chất hữu cơ, góp phần làm giảm
thiểu việc hình thành các lớp bùn và chất cặn bã, nhờ vậy chất lượng nước trong ao
nuôi được cải thiện, làm tăng số lượng của động vật phù du, giảm mùi hôi, từ đó
tăng sản lượng nuôi trồng thủy sản. Hơn nữa, sử dụng chế phẩm sinh học sẽ góp
phần làm giảm việc sử dụng các hóa chất, kháng sinh trong phòng và trị bệnh trong
nuôi trồng thủy sản, đảm bảo sản xuất sản phẩm an toàn cho sức khỏe con người
và góp phần phát triển ngành nuôi trồng thủy sản bền vững.
4.4.Hiệu quả của chế phẩm sinh học trong sinh sản của các loài nuôi
Trong nuôi trồng thủy sản, các loài nuôi đòi hỏi một chế độ dinh dưỡng cao,
do vậy, khả năng sinh sản phụ thuộc vào nồng độ lipid, protein, axit béo, vitamin
C, vitamin E phù hợp. Hơn nữa, mối quan hệ giữa các thành phần này ảnh hưởng
đến quá trình trình sinh sản như rụng trứng, thụ tinh, sinh sản và sự phát triển của
ấu trùng. Thực tế, có nhiều trang trại cải thiện dinh dưỡng cho đàn cá bố mẹ bằng
cánh cho chúng ăn các phụ phẩm thủy sản như mực, trai, nhuyễn thể hai mảnh vỏ
nhỏ hay phụ phẩm kết hợp với thức ăn công nghiệp. Việc sử dụng các sản phẩm
thủy sản chưa qua chế biến này thường không cung cấp lượng dinh dưỡng cần thiết
cho cá bố mẹ và làm tăng nguy cơ lây bệnh sang cá bố mẹ và cá con như các ký
sinh trùng, vi khuẩn và vi rút. Vì vậy, chế phẩm sinh học được thêm vào thức ăn
hay thả xuống ao để ngăn chặn nguy cơ lây bệnh và ảnh hưởng tích cực đến sinh
sản của loài nuôi.
5.Lựa chọn chế phẩm sinh học
Để lựa chọn chế phẩm sinh học một cách đúng đắn, cần phân lập chế phẩm,

phân loại đặc tính và kiểm nghiệm hiệu quả sử dụng (hình 1)
8

Trước tiên, phải lựa chọn nguồn chế phẩm sinh học (được phân lập từ các
động vật khỏe mạnh).
Sau đó, các vi sinh vật đó được phân lập và nhận dạng bằng phương tiện nuôi chọn lọc.
Tiếp theo, thực hiện các đánh giá In Vitro (ức chế mầm bệnh, khả năng gây
bệnh đối với từng loài nuôi cụ thể, các điều kiện kháng bệnh của vật chủ,….)
Trong trường hợp không có đối tượng cụ thể, các thử nghiệm với đánh giá In
ViVo bổ sung trên quy mô lớn và nhỏ được thực hiện để kiểm tra xem dòng chế
phẩm sinh học được lựa chọn có thực sự có hiệu quả trên đối tượng nuôi hay
không.
Cuối cùng, sau khi chế phẩm sinh học được lựa chọn có các kết quả chứng
minh có hiệu quả đối với vật nuôi mới được sản xuất đại trà và được áp dụng trong
nuôi trồng thủy sản.













9


Hình 1- Các bước lựa chọn chế phẩm sinh học



10

II. Ứng dụng Chế phẩm sinh học trong nuôi trồng thủy sản
Chế phẩm sinh học trong nuôi trồng có thể hoạt động tương tự như các loài
động vật trên cạn. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa các loài sinh vật thủy sản với môi
trường nuôi thường phức tạp hơn nhiều so với mối quan hệ giữa động vật trên cạn
và môi trường nuôi xung quanh chúng.
Do mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường nuôi của động vật trên cạn và loài
thủy sản nên các định nghĩa truyền thống về chế phẩm sinh học thường không đủ
đối với chế phẩm sinh học trong nuôi trồng. Xét theo nghĩa này, theo Verchuere và
cộng sự, chế phẩm sinh học được định nghĩa là “là sự bổ sung các vi sinh vật sống
nhằm mang lại lợi ích cho vật chủ, bằng cách thay đổi cộng đồng vi sinh vật trên
vật chủ hay môi trường nuôi xung quanh vật chủ để đảm bảo hiệu quả việc sử dụng
thức ăn và giá trị dinh dưỡng bằng cách tăng cường sức đề kháng của vật chủ đối
với dịch bệnh và cải thiện môi trường nuôi.”
Các vi sinh vật có mặt trong môi trường nước tiếp xúc trực tiếp với vật nuôi,
với hệ hô hấp và với thức ăn của vật nuôi, do vậy các vi sinh vật này dễ dàng xâm
nhập vào hệ tiêu hóa của vật nuôi.
Trong số các vi sinh vật hiện diện trong môi trường nước bao gồm cả các vi
sinh vật mang mầm bệnh. Chúng là những kẻ cơ hội, lợi dụng đúng lúc vật nuôi bị
stress do mật độ nuôi cao hay do thiếu chất dinh dưỡng, tấn công gây bệnh, thậm
chí còn làm cho vật nuôi bị chết.
Do vậy, việc sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng không chỉ có lợi
trực tiếp đối với loài nuôi mà còn tác động đến cả môi trường nuôi.
Theo quan sát của Bergh và cộng sự, khi thức ăn bắt đầu đi vào đường ruột,
hệ vi sinh vật đường ruột của cá Atlantic halibut (Hippoglossus hippoglossus) thay

đổi. Vi khuẩn Aeromonas spp./Vibrio spp đã lấn át Flavobacterium spp cho thấy sự
11

ảnh hưởng của môi trường bên ngoài và thức ăn đến cộng đồng vi sinh vật của loài
cá này.
Vibrio spp., Plesiomonas shigelloides, và Aeromonas spp là các tác nhân
chính gây ra các bệnh trong nuôi troognf thủy sản và thậm chí có thể ảnh hưởng
đến sức khỏe con người.
Sự tương tác giữa môi trường xung quanh và vật chủ trong môi trường nước
là rất phức tạp. Các vi sinh vật có mặt trong môi trường nước ảnh hưởng đến hệ
tiêu hóa của vật chủ và ngược lại.
Sự thay đổi về độ mặn, nhiệt độ và ô xi hòa tan sẽ tác động khác nhau đến
các loài vi sinh vật khác nhau, do vậy dẫn đến sự thay đổi về loài vi sinh vật lấn át
và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng của chế phẩm sinh học.
Như vậy, việc lựa chọn chế phẩm sinh học để bổ sung vào môi trường nước
trong các ao nuôi trồng thủy sản cần phải nhất quán bởi vì các điều kiện về môi
trường sẽ thay đổi theo từng thời kỳ.
Trong các hệ thống nuôi thâm canh, mật độ thả giống thường rất cao, cùng
với các yếu tố khác sẽ gây ra stress cho vật nuôi và thường dẫn đến kết quả là vật
nuôi chậm lớn và hiệu quả thức ăn giảm, hệ thống miễn dịch kém, do vậy vật nuôi
dễ bị tổn thương đối với các vi sinh vật gây bệnh có mặt trong ao.
Xét về khía cạnh này, chế phẩm sinh học đã được chứng minh là có hiệu quả
rõ rệt đối với sức khỏe của vật nuôi. Ngoài ra, chế phẩm sinh học còn được sử
đụng để thúc đẩy sự phát triển của vật nuôi.
Trong nuôi trồng thủy sản, chế phẩm sinh học được sử nhiều nhất là các
dòng Bacillus spp. (B. subtilis, B. licheniformis và B. circulans), Bifidobacterium
12

spp. (B. bifidum, B. lactis, và B. thermophilum, axit lắc tíc (Lactobacillus spp. e
Carnobacterium spp.) và Saccharomyces cerevisiae

Trong các nghiên cứu gần đây, hiệu quả của chế phẩm sinh học đã được
chứng minh qua việc nuôi các loài thủy sản như cá, tôm, sò,…
2.1. Kết quả của chế phẩm sinh học trong nuôi cá
2.1.1. Hệ miễn dịch
Gatesoup đã quan sát cá bơn giống (Scophthalmus maximus) khi được cho
ăn thức ăn có bổ sung axit lắc tích thì sức đề kháng tăng đối với vi khuẩn Vibrio
spp.
Sự kết hợp giữa Lactobacillus fructivorans và Lactobacillus plantarum ở
dạng khô hay sống giúp thúc đẩy sự phát triển hệ tiêu hóa của cá trap giống
(Sparus aurata) và giảm tỷ lệ chết trong suốt quá trình ương nuôi ấu trùng.
Gram và cộng sự cũng chứng minh rằng việc sử dụng Pseudomonas
fluorescens AH2 như là chế phẩm sinh học đã giúp giảm tỷ lệ chết của cá hồi vân
(Oncorhynchus mykiss) chưa trưởng thành.
Khi bổ sung chế phẩm sinh học Bacillus subtilis vào thức ăn thì tỷ lệ sống
của cá trôi Ấn Độ (Labeo rohita) được cải thiện đáng kể (Kumar và cộng sự).
Dùng Chế phẩm sinh học Lactobacillus rhamnosus với liều lượng 105 UFC
g
-1
đã kích thích hệ hô hấp của cá hồi vân (Nikoskelainen và cộng sự)
Các nghiên cứu khác cũng chỉ ra rằng phản ứng miễn dịch ở một số loài
cũng được cải thiện khi sử dụng chế phẩm sinh học. Chẳng hạn, Carnobacterium
maltaromaticum B26 và Carnobacterium divergens B33 đối với cá hồi vân,
Lactobacillus belbrüeckii, Bacillus subtilis và Debaryomyces hansenii đối với cá
tráp, B. subtilis và Pseudomonas aeruginosa đối với của cá trôi Ấn Độ (Labeo
13

rohita), Lactococcus lactis đối với cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus) và B.
simplex DR-834 đối với cá chép (Cyprinus carpio).
2.1.2. Kết quả
Tovar và cộng sự đã sử dụng men Debaryomyces hansenii cho cá song

giống ăn và theo dõi mức độ trưởng thành về đường tiêu hóa của loài này. Theo
các tác giả, hiệu quả mang lại rất khả quan vì tỷ lệ bài tiết của xpecmin là rất cao.
Việc tăng trọng lượng và tỷ lệ sống cũng được thấy ở cá bơn giống khi được
cho ăn với thức ăn có bổ sung axit lắc tíc.
Mức độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá da trơn (Ictalurus punctatus) cũng
được cải thiện rõ rệt khi bổ sung hỗn hợp Bacillus spp vào nước trong ao nuôi.
(Queiroz và Boyd).
Sử dụng nấm men Saccharomyces cerevisiae như là chế phẩm sinh học đối
với cá chép cũng có hiệu quả rõ rệt trong việc tăng hiệu quả thức ăn (Noh và cộng
sự)
Lara-Flores và cộng sự kết luận rằng việc sử dụng Saccharomyces cerevisiae
như là chế phẩm sinh học đối với cá rô phi vằn cho thấy mức độ tăng trưởng và
hiệu quả thức ăn tốt hơn do nấm men kích thích sự phát triển trong nuôi cá rô phi.
Một số kết quả nghiên cứu khác cũng chứng minh tính hiệu quả của việc sử
dụng chế phẩm sinh học đối với các loài cá rô phi Ấn Độ, cá rô vi vằn và cá chép.
2.2. Kết quả của việc sử dụng chế phẩm sinh học trong nuôi tôm
2.2.1. Hệ miễn dịch
Trong nghề nuôi tôm, bệnh do vi rút gây ra được goi là nguyên nhân quan
trọng dẫn đến tỷ lệ tử vong cao ở tôm giống.
14

Việc sử dụng hỗn hợp vi khuẩn bao gồm Bacillus spp và Vibrio spp đã có
ảnh hưởng tích cực đến tỷ lệ sống và tăng cường sức đề kháng của tôm đối với vi
rút Vibrio Harvey và vi rút gây ra bệnh đốm trắng. Nhờ sử dụng chế phẩm sinh học
nên hệ miễn dịch của tôm được tăng cường qua việc tăng cường các hoạt động diệt
khuẩn và thực bào.
Việc sử dụng chế phẩm sinh học đối với tôm giống Marsupenaeus japonicas
cũng giúp tăng tỷ lệ sống (97%), cao hơn nhiều so với phương pháp điều trị thông
thường.
Do vậy, việc sử dụng chế phẩm sinh học Bacillus coagulans SC8168 đối với

tôm PL Litopenaeus vannamei cũng giúp cải thiện đáng kể tỷ lệ sống.
Trong một nghiên cứu về tôm sú, chế phẩm sinh học Bacillus S11, một dòng
nấm, đã giúp tăng tỷ lệ sống của PL khi được thử nghiệm với một vi khuẩn mang
mầm bệnh
Chế phẩm sinh học Bacillus subtilis và Lactobacillus plantarum được áp
dụng đối với tôm chân trắng và Pediococcus acidilactici, Litopenaeus stylirostris
và Bacillus NL110 đối với tôm Macrobrachium rosenberguii cũng được chứng
minh có hiệu quả trong việc cải thiện hệ miễn dịch.
2.2.2. Kết quả ứng dụng chế phẩm sinh học
Lin và cộng sự đã sử dụng chế phẩm sinh học Bacillus spp trong khẩu phần
thức ăn của tôm Litopenaeus vannamei và tỷ lệ tiêu hóa thức ăn của tôm đã được
cải thiện.
Ziaei-Nejad và cộng sự đã thêm chế phẩm sinh học Bacillus spp trong thức
ăn của Fenneropenaeus indicus. Kết quả cho thấy các hoạt động lipase, protease
và enzim amilaza trong hệ tiêu hóa của tôm được tăng cường.
15

Một vài nghiên cứu đã chỉ ra rằng chế phẩm sinh học dòng Bacillus spp có
thể giúp cải thiện hệ tiêu hóa và tăng cường hấp thụ thức ăn, nhờ vậy mức độ tăng
trưởng của tôm được tăng đáng kể.
2.3. Kết quả của việc ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi các loài
thủy sản khác
2.3.1. Nhuyễn thể hai mảnh vỏ
Nghề nuôi hàu và điệp đã và đang phát triển ở nhiều nước, tuy nhiên việc ấu
trùng chết hàng loạt thường xuyên xảy ra. Để giảm tỷ lệ chết của ấu trùng, hầu hết
người nuôi đều sử dụng kháng sinh và việc này gây nhiều ảnh hưởng tiêu cực như
kháng thuốc và tồn dư thuốc ở vật nuôi. Vì vậy, việc sử dụng chế phẩm sinh học đã
được ứng dụng, đặc biệt trong suốt quá trình ương nuôi.
Riquelme và cộng sự đã phát hiện ra dòng chế phẩm sinh học Alteromonas
haloplanktis có khả năng làm giảm tỷ lệ chết của ấu trùng điệp Chile Argopecten

purpuratus.
Các vi khuẩn khác có thể hoạt động như một loại chế phẩm sinh học tiềm
năng có thể ứng dụng trong nuôi nhuyễn thể hai mảnh. Chẳng hạn, dòng vi khuẩn
Alteromonas spp ứng dụng trong nuôi hàu Thái Bình Dương và Roseobacter spp.,
Vibrio spp., Pseudomonas spp., Arthrobacter spp ứng dụng trong ương ấu trung
điệp đã được chứng minh kích thích tăng trưởng, tăng tỷ lệ sống và cải thiện hệ
miễn dịch của vật nuôi.
2.4. Chế phẩm sinh học và chất lượng nước trong nuôi trồng
Một khía cạnh khác của việc ứng dụng chế phẩm sinh học trong nuôi trồng
là cải thiện chất lượng nước trong các trại ương giống. Hiện nay, việc gia tăng chất
hữu cơ, nồng độ phốt pho và các hợp chất ni tơ là mối lo ngại đối với người nuôi.
16

Chế phẩm sinh học có vai trò quan trọng trong việc làm phân hủy chất hữu
cơ, giảm nồng độ phốt pho và các hợp chất ni tơ. (Boyd)
Các vi khuẩn ưa khí cũng góp phần làm giảm ni trát hay chuyển hóa ni trít
thành ni tơ trong môi trường ao nuôi.
Để thực hiện điều này, một số vi khuẩn được phân lập trong các bể nuôi
tôm. Các vi khuẩn như Acinetobacter, Arthrobacter, Bacillus, Cellulosimicrobium,
Halomonas, Microbacterium, Paracoccus, Pseudomonas, Sphingobacterium và
Stenotrophomas có có vai trò quan trọng trong quá trình ni trít hóa.
Một số sản phẩm chế phẩm sinh học khi được thả xuống môi trường ao nuôi
đã chứng minh có hiệu quả trong việc giảm nồng độ phốt pho và hợp chất ni tơ
trong ao nuôi tôm chân trắng.
Tương tự, trong nuôi tôm chân trắng, khi bổ sung chế phẩm sinh học
Bacillus spp xuống ao nuôi, chất lượng nước cũng được cải thiện rõ rệt.
Các vi khuẩn gram dương giúp chuyển đổi các chất hữu cơ thành CO2 tốt
hơn là các vi khuẩn gram âm. Do vậy, trong quá trình tái sản xuất, nồng độ vi
khuẩn gram dương cao hơn có thể giúp giảm sự tích tự các hạt các bon hữu cơ.
Nếu nồng độ vi khuẩn gram dương được duy trì ở mức cao trong các ao nuôi,

người nuôi có thể giảm thiểu việc hình thành các hạt các bon hữu cơ trong quá
trình nuôi, đồng thời thúc đẩy sự phát triển ổn định của động vật phù du.





17

III. Kết luận
1. Kết luận
Các kết quả nghiên cứu trên cho thấy, cho đến nay việc ứng dụng chế phẩm
sinh học trong nuôi trồng thủy sản mang lại nhiều triển vọng cho ngành nuôi.
Tuy nhiên, nhiều công trình nghiên cứu vẫn chưa mang lại kết quả thỏa
đáng.Trong một vài thử nghiệm, khi loài nuôi được tiếp xúc với mầm bệnh, chế
phẩm sinh học dường như không có phản ứng kháng bệnh, dẫn đến tỷ lệ chết cao.
Nhìn chung, việc sử dụng chế phẩm sinh học được chứng minh là có hiệu
quả nhất trong các điều kiện stress, khi hệ vi khuẩn chưa cân bằng, đặc biệt là ở
các loài nuôi chưa trưởng thành. Trong số các yếu tố này, yếu tố phổ biến nhất là:
nhiệt độ, sự hiện diện của mầm bệnh, nồng độ muối thấp, quản lý stress, thay đổi
dinh dưỡng, vận chuyển, mật độ thả giống cao, sau khi điều trị kháng sinh, thay đổi
môi trường đột ngột.
Ngoài ra, các kết quả đạt được trong các thử nghiệm có thể bị ảnh hưởng bởi
các yếu tố như: dòng chế phẩm sinh học, phương pháp và liều lượng, vật nuôi, hệ
tiêu hóa của vật nuôi và giai đoạn phát triển của vật nuôi.
2. Triển vọng
Dựa trên các kết quả nghiên cứu về chế phẩm sinh học, chúng ta có thể thấy
các dòng chế phẩm sinh học đã được ứng dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản
và các nghiên cứu về chế phẩm sinh học hứa hẹn nhiều triển vọng. Hiện tại, chế
phẩm sinh học đã được áp dụng rộng rãi ở Mỹ, Nhật, các nước châu ÂU,

Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan, Việt Nam,… và đã mang lại nhiều kết quả đáng khích
lệ. Chế phẩm sinh học đã trở thành một sản phẩm thương mại ở một số nước, ví dụ
như sản phẩm của tập đoàn Alken-Murray, American Standard,…
Chế phẩm sinh học sẽ mang lại lợi ích trong dài hạn và việc ứng dụng chế
phẩm sinh học sẽ trở thành một lĩnh vực quan trọng trong sự phát triển của ngành
nuôi trồng thủy sản trong tương lai.
18

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Use of Probiotics in Aquaculture
2. Ưng dung che pham sinh hoc trong nuoi trong thuy san- Đại
học Cần Thơ
3. Effect of Probiotics on the Survival and Production of Black
Tiger Shrimp Penaeus monodon (Fabricius)
4. Enzyme to improve water and soil quality in aquaculture pond
5. />improve-water-and-soil-quality-in-aquaculture-ponds
6. />biological-cleaning
7.
8. Probiotics and Disease Prevention in Different Host Systems
9.
10. Use of Streptomyces fradiaeand Bacillus megateriumas
probiotics in the experimental culture of tiger shrimp Penaeus monodon
(Crustacea, Penaeidae)
11.

×