Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Tăng trưởng xanh ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.6 KB, 33 trang )

ĐỀ TÀI: TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời gian qua, các quốc gia trên thế giới phải đổi mặt với một
tình hình chung, đó là các thách thức do hậu quả của quá trình phát triển kinh
tế gây ra làm chúng ta phải đối mặt với hàng loạt các vấn đề về môi trường
như sự hủy hoại tần ozone, biến đổi khí hậu, mưa acid, chặt phá rừng, dân số
quá đông, mất đa dạng sinh học, sói mòn đất, sa mạc hóa, lũ lụt, nạn đói, đánh
bắt cá quá giới hạn cho phép, chất thải nguy hiểm, thiếu nước sạch, khai thác
quá mức các nguồn lực và các nguồn năng lượng không có khả năng tái
tạo,v.v…Đang là những vấn đề bức xúc đối với các quốc gia trên thế giới nói
chung và ở Việt Nam nói riêng.
Hội nghị lần thứ 3 khóa XI của Đảng đã nhấn mạnh nhiệm vụ đổi mới
mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế nhằm thực hiện định hướng phát
triển bền vững của đất nước. Đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền
kinh tế được khẳng định là định hướng tổng quát của chiến lược phát triển
kinh tế xã hội thời kỳ 2011-2020. Mục tiêu của việc đổi mới mô hình tăng
trưởng là nhằm phát triển theo chiều sâu, tiết kiệm tài nguyên gắn với việc
đảm bảo nâng cao công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường, phát huy
lợi thế cạnh tranh của Việt Nam trong hội nhập quốc tế. Để thực hiện mục tiêu
này thì chiến lược tăng trưởng xanh có ý nhĩa hết sức quan trọng.
PHẦN 1: KHÁI QUÁT TĂNG TRƯỞNG XANH
1. Khái niệm tăng trưởng xanh
Tăng trưởng xanh là một thuật ngữ để mô tả con đường tăng trưởng
kinh tế sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách bền vững. Nó được sử
dụng trên toàn cầu để cung cấp khái niệm thay thế cho tiêu chuẩn tăng trưởng
kinh tế.
Theo tổ chức Sáng kiến tăng trưởng xanh của Liên Hợp Quốc: Tăng
trưởng xanh hay xây dựng nền kinh tế xanh là quá trình tái cơ cấu lại hoạt
động kinh tế và cơ sở hạ tầng để thu được kết quả tốt hơn từ các khoản đầu tư
cho tài nguyên, nhân lực và tài chính, đồng thời giảm phát thải khí nhà kính,
khai thác và sử dụng ít tài nguyên thiên nhiên hơn, tạo ra ít chất thải hơn và


giảm sự mất công bằng trong xã hội.
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD): Tăng trưởng
xanh là thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế đồng thời đảm bảo rằng các
nguồn tài sản tự nhiên tiếp tục cung cấp các tài nguyên và dịch vụ môi trường
thiết yếu cho cuộc sống của chúng ta. Để thực hiện điều này, tăng trưởng xanh
phải là nhân tố xúc tác trong việc đầu tư và đổi mới, là cơ sở cho sự tăng
trưởng bền vững và tăng cường tạo ra các cơ hội kinh tế mới.
Định nghĩa tăng trưởng xanh của Việt Nam: Tăng trưởng xanh ở Việt
Nam là sự tăng trưởng dựa trên quá trình thay đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ
cấu nền kinh tế nhằm tận dụng lợi thế so sánh, nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh của nền kinh tế thông qua việc nghiên cứu và áp dụng công nghệ tiên
tiến, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại để sử dụng hiệu quả tài nguyên
thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp
phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế một
cách bền vững.
Từ những khái niệm trên ta có thể hiểu tăng trưởng xanh đơn giản là
tăng trưởng kinh tế có tính đến thiệt hại về môi trường. Tăng trưởng xanh là
công cụ cần thiết đề hướng tới kinh tế xanh.
2. Các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng xanh
Chương trình môi trường của Liên Hợp Quốc (UNEF) đã phối hợp với
các đối tác như Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OEC) và Ngân hàng
Thế giới (WB) để phát triển một bộ các chỉ tiêu đo lường tăng trưởng xanh mà
từ đó các chính phủ có thể lựa chọn các chỉ tiêu phù hợp tùy thuộc vào tình
hình của từng quốc gia. Các chỉ số đang được phát triển này có thể được tạm
chia thành 3 nhóm sau đây:
- Các chỉ số kinh tế: chỉ số về tỉ lệ đầu tư, tỉ lệ sản lượng và việc làm
trong các lĩnh vực đáp ứng các tiêu chuẩn bền vững chẳng hạn như
GDP xanh.
- Các chỉ số môi trường: chỉ số sử dụng hiệu quả tài nguyên, về ô nhiễm
ở mức độ ngành hoặc toàn nền kinh tế (như hệ số sử dụng năng

lượng/GDP, hoặc hệ số sử dụng nước/GDP).
- Các chỉ số tổng hợp về tiến bộ và phúc lợi xã hội: chỉ số tổng hợp về
kinh tế vĩ mô, bao gồm ngân sách quốc gia về kinh tế và môi trường,
hoặc những chỉ số đem lại cái nhìn toàn diện hơn về phúc lợi, ngoài
định nghĩa hẹp của GDP trên đầu người.
3. Vai trò của tăng trưởng xanh
- Tăng trưởng xanh đóng vai trò quan trọng trong phát triển bền vững
Phát triển bền vững là sự phát triển có thể đáp ứng được những nhu
cầu hiện tại mà không ảnh hưởng hay làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu
cầu của các thế hệ tương lai. Phát triển bền vững đòi hỏi sự tiến bộ và tăng
cường sức mạnh của cả 3 yếu tố có tính chất phụ thuộc và tương hỗ: kinh tế –
xã hội – môi trường.
Như trình bày ở trên kết quả cuối cùng của tăng trưởng xanh đó là nền
kinh tế xanh. Trong nền kinh tế xanh, thay vì bị coi là nơi hấp thụ chất thải tạo
ra bởi các hoạt động kinh tế một cách thụ động, thì môi trường trong nền kinh
tế xanh được xem là nhân tố có tính quyết định và thịnh vượng lâu dài. Nói
cách khác, nhân tố môi trường thật sự đóng vai trò như là chất xúc tác cho
tăng trưởng và đổi mới trong nền kinh tế xanh.
Trong nền kinh tế xanh, nhân tố môi trường có khả năng tạo ra tăng
trưởng kinh tế và phúc lợi xã hội. Khi mà sinh kế của một bộ phận người dân
có mức sống dưới mức nghèo khổ phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, hơn nữa họ
là những đối tượng dễ bị tổn thương do tác động của thiên tai cũng như sự
biến đổi khí hậu, việc chuyển đổi sang nền kinh tế xanh cũng góp phần cải
thiện công bằng xã hội, và có thể coi là một hướng đi tốt để phát triển bền
vững.
Cách thức để áp dụng mô hình Tăng trưởng Xanh đối với một quốc gia
có thể rất khác nhau; điều đó phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như đặc điểm địa
lý, tài nguyên thiên nhiên, tiềm lực con người - xã hội và giai đoạn phát triển
kinh tế.Tuy nhiên, những nguyên tắc quan trọng bao gồm đảm bảo phúc lợi
cao nhất, đạt mục tiêu công bằng về mặt xã hội và hạn chế tối đa những rủi ro

cho môi trường và hệ sinh thái thì vẫn luôn luôn không thay đổi.
- Tăng trưởng xanh giúp bảo vệ sự đa dạng sinh học
Suy giảm đa dạng sinh học làm giảm phúc lợi của một bộ phận dân số
thế giới, trong khi một bộ phận dân số khác gặp phải những vấn đề trầm trọng
hơn vì đói nghèo. Nếu tình trạng này tiếp tục, nó có thể gây ảnh hưởng đến
hoạt động của các hệ sinh thái điều hòa khí hậu trong dài hạn và có thể dẫn
đến những biến đổi không thể lường trước và có thể không đảo ngược trong hệ
thống trái đất và những thay đổi trong các dịch vụ hệ sinh thái. Hơn nữa, hệ
sinh thái là nguồn cung cấp chủ yếu các nguyên liệu phục vụ cho phát triển
kinh tế.
Tăng trưởng xanh nhầm giảm những hiệu quả tiêu cực do các yếu tố
bên ngoài gây ra bởi việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên. Ví dụ, đầu
tư vào bảo vệ rừng không những duy trì một loạt các ngành sinh kế của con
người mà còn bảo tồn đến 80% các loài trên cạn. Bằng cách thúc đẩy đầu tư
vào lâm nghiệp xanh, tăng trưởng xanh sẽ góp phần ổn định đời sống kinh tế
của hơn 1 tỷ người hiện đang sinh sống bằng các sản phẩm từ gỗ, giấy và chất
xơ, với tổng thu nhập chỉ 1% GDP toàn cầu.
- Tăng trưởng xanh có thể tạo ra việc làm
Tăng trưởng xanh có khả năng tạo ra việc làm trong một loạt các lĩnh
vực mới và nhiều tiềm năng, chẳng hạn như nông nghiệp hữu cơ, năng lượng
tái tạo, giao thông công cộng, cải tạo các khu công nghiệp, tái chế Một công
việc tốt được hiểu như là công việc có năng suất lao động cao, cùng với hiệu
quả về cải thiện môi trường sinh thái và ổn định lượng khí thải ra ở mức thấp,
sẽ góp phần tăng thu nhập, thúc đẩy tăng trưởng và giúp bảo vệ môi trường –
khí hậu. Đã có rất nhiều những việc làm xanh như vậy được tạo ra, đặc biệt là
trong ngành năng lượng tái tạo như kỹ thuật điện, hiệu quả năng lượng, CN
môi trường, năng lượng mặt trời, năng lượng gió. Hay như trong lĩnh vực xây
dựng với việc thiết kế và xây dựng những công trình tiết kiệm điện, thân thiện
với môi trường…Người ta thống kê rằng đã có 2,3 triệu người đã tìm được
việc làm trong lĩnh vực năng lượng tái sinh những năm gần đây. Và sẽ có thêm

20 triệu việc làm từ nay đến năm 2030, chủ yếu là trong ngành năng lượng từ
vật liệu hữu cơ và năng lượng mặt trời.
- Tăng trưởng xanh giúp xóa đói giảm nghèo
Hiện nay, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) vẫn được sử dụng như là
cách thức phổ biến nhất để đánh giá một nền kinh tế.Tuy nhiên, sự tăng trưởng
đó thường được tạo ra thông qua việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, vốn là tài sản “chung” như tài nguyên nước, rừng, không khí là
nguồn cung cấp cần thiết cho sự sống. Để có tăng trưởng (theo định nghĩa
này), chúng ta phải trả giá rất đắt trên cả hai phương diện kinh tế và xã hội,
đặc biệt là một bộ phận những người mà sinh kế của họ phụ thuộc rất nhiều
vào các nguồn lực môi trường. Suy giảm đa dạng sinh học và suy thoái các hệ
sinh thái đang ảnh hưởng rất lớn đến các ngành nông nghiệp, chăn nuôi, đánh
bắt cá, lâm nghiệp - sinh kế của đa số dân nghèo trên thế giới phụ thuộc hầu
hết vào các ngành này.
Một điều quan trọng nữa là với mục đích tăng khả năng tiếp cận các
dịch vụ cơ bản và cải thiện cơ sở hạ tầng. Hướng tới nền Kinh tế Xanh được
coi như là một trong những phương thức nhằm xóa đói giảm nghèo và cải
thiện tổng thể chất lượng cuộc sống. Chẳng hạn như cung cấp các nguồn năng
lượng có khả năng hỗ trợ cho 1,4 tỷ người hiện đang thiếu điện và cho hơn
700 triệu người khác hiện đang không được tiếp cận với các dịch vụ năng
lượng hiện đại. Công nghệ năng lượng tái tạo, như năng lượng mặt trời, năng
lượng gió và các chính sách hỗ trợ năng lượng hứa hẹn sẽ đóng góp đáng kể
cho việc cải thiện đời sống và sức khỏe cho một bộ phận người dân có thu
nhập thấp, đặc biệt là cho những người hiện đang không có khả năng tiếp cận
với năng lượng.
Một điều khác mà chúng ta cần cân nhắc là việc ngừng hoặc chuyển
hướng các khoản trợ cấp cho những hoạt động có thể gây ảnh hưởng tiêu cực
đến môi trường. Trên thực tế, khoảng 700 tỷ USD được chi ra mỗi năm bởi
các chính phủ trên khắp thế giới để trợ cấp cho việc sử dụng nguồn nhiên liệu
hóa thạch; khoản chi này lớn gấp năm lần tổng số tiền dành cho hỗ trợ phát

triển. Phần lớn nguồn trợ cấp được phân bổ đến chính phủ các nước đang phát
triển, trong nỗ lực làm dịu cú sốc tăng giá nhiên liệu đối với người nghèo. Tuy
nhiên, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng trợ cấp nhiên liệu hóa thạch là không
hiệu quả đối với người nghèo, thường họ được hưởng lợi không tương xứng
so với các nhóm có thu nhập cao hơn. Gỡ bỏ các khoản trợ cấp gây hại môi
trường hoặc thay thế bằng các loại hỗ trợ hướng đến các mục tiêu cụ thể hơn,
chẳng hạn như hỗ trợ bằng hình thức chuyển tiền mặt, là cách tốt để góp phần
thực hiện mục tiêu xã hội, đồng thời nới lỏng các hạn chế về mặt tài chính và
cải thiện môi trường.
4. Sự cần thiết của tăng trưởng xanh ở Việt Nam
Định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng và tái cấu trúc nền kinh
tế ở nước ta được đặc biệt nhấn mạnh vào thời điểm bối cảnh quốc tế có nhiều
diễn biến phức tạp. Nền kinh tế thế giới đang phải đối mặt với thách thức từ
hậu khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 và nợ công ở châu Âu. Tuy nhiên,
không phải chỉ bối cảnh quốc tế tác động tiêu cực mà do nội tại nền kinh tế
Việt Nam đòi hỏi phải chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
- Thứ nhất, chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp
• Năng suất của nền kinh tế thấp vì ít có sự đóng góp của yếu công nghệ.
Những thành tựu phát triển kinh tế của Việt Nam thời gian qua chủ yếu
nhờ sự đóng góp của lao động trình độ thấp, vốn và tài nguyên. Trong
quá trình phát triển kinh tế, các nguồn lực này được khai thác triệt để và
có nguy cơ cạn kiệt dần. Nền kinh tế bắt đầu tăng trưởng giảm dần và
những nỗ lực thúc đẩy tăng trưởng cao bắt đầu gây bất cân đối.
• Hiệu quả đầu tư rất thấp: Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao trong điều
kiện thể chế chính sách, trình độ lao động, công nghệ yếu kém, Việt
Nam đã đổ rất nhiều vốn vào khai thác những nguồn lực có hạn của đất
nước. Vì thế, hệ số ICOR của Việt Nam rất cao. Hơn nữa, tình trạng đầu
tư dàn trải, thất thoát vốn đâu đó vẫn xảy ra. Chính vì hiệu quả đầu tư
thấp nên sự ổn định kinh tế vĩ mô bị đe dọa.
• Thâm hụt ngân sách ngày một lớn. Với áp lực tăng trưởng cao để thoát

khỏi nước nghèo, Chính phủ Việt Nam đã liên tục thúc đẩy đầu tư công
thông qua chi tiêu ngân sách và do đó làm thâm hụt ngân sách. Việc giải
quyết nó đòi hỏi một chiến lược dài hạn nhằm tái cấu trúc nền kinh tế
và nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là việc tái cấu
trúc và chỉnh đốn lại khu vực doanh nghiệp nhà nước.
• Nền kinh tế dựa nhiều vào FDI: Trong khi Việt Nam vẫn dựa nhiều vào
FDI để tăng trưởng nền kinh tế, thì việc thu hút FDI một cách dễ dàng
và quản lý FDI thiếu chặt chẽ đã dẫn đến những tác động tiêu cực đối
với kinh tế và xã hội. Đầu tiên, là ô nhiễm môi trường, mặc dù những
điều chỉnh luật đã hướng tới việc bảo vệ môi trường và khuyến khích
chuyển giao công nghệ tiên tiến nhưng kết quả không có thay đổi nhiều.
Một số doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chưa tự giác trong việc tuân thủ
quy định về bảo vệ môi trường, chỉ vận hành hệ thống xử lý chất thải
khi cơ quan chức năng quản lý môi trường phát hiện và xử phạt.Ngày
càng có nhiều doanh nghiệp FDI xả chất thải chưa qua xử lý ra môi
trường bị phát hiện. Tiếp đến, là cạn kiệt tài nguyên: Khi đất đai ngày
càng khan hiếm, một số địa phương đã “trải thảm đỏ đón nhà đầu tư”
trên những diện tích hàng trăm, hàng ngàn ha nhưng không quan tâm
đến tính hợp lý và các yêu cầu khác của đất nước, như an ninh lương
thực – môi trường.
• Nền kinh tế tiêu tốn nhiều năng lượng. Do nền kinh tế tăng trưởng dựa
chủ yếu vào sản phẩm thô, với sự đóng góp rất hạn chế về công nghệ,
cho nên nền kinh tế Việt Nam còn được đánh giá là tiêu tốn nhiều năng
lượng do khai thác nhiều tài nguyên khoáng sản và đồng thời cũng thải
ra môi trường nhiều chất độc hại do không xử lý thải hiệu quả. Việc phụ
thuộc quá nhiều vào nguồn tài nguyên thiên nhiên và nguyên liệu thô sẽ
khiến nền kinh tế kém bền vững và ổn định.
- Thứ hai, thể chế, hạ tầng kém phát triển: Hệ thống hạ tầng và thể chế
kinh tế chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa hỗ trợ hiệu quả cho phát triển
kinh tế xã hội, phân bổ nguồn lực kém hiệu quả. Quản lý nhà nước đối

với doanh nghiệp còn nhiều yếu kém. Cơ chế thị trường được cải thiện,
nhưng còn nhiều bất cập. Các công trình xây dựng kéo dài, chậm đưa
vào sử dụng. Thị trường khoa học - công nghệ, thị trường lao động, thị
trường bất động sản chậm hình thành.
- Thứ ba, trình độ lao động chưa được cải thiện nhiều: Mặc dù Việt Nam
khá dồi dào về lao động nhưng trình độ lao động yếu kém, tỷ lệ lao
động qua đào tạo thấp. Trong khi đó, kỹ năng của người lao động không
được cải thiện đáng kể, chưa tiếp cận được với công nghệ hiện đại do
các nhà đầu tư (người sử dụng lao động) chưa có chiến lược đào tạo và
nâng cao tay nghề cho người lao động một cách hiệu quả. Bên cạnh đó
cũng phải kể đến sự yếu kém của hệ thống giáo dục Việt Nam, đặc biệt
lĩnh vực dạy nghề.
Những phân tích ở trên cho thấy nguyên nhân nổi bật của những vấn
đề trong nền kinh tế hiện nay bắt nguồn từ mô hình tăng trưởng của Việt Nam
không còn phù hợp. Vấn đề hiện nay là mô hình tăng trưởng “theo chiều rộng”
đã được áp dụng quá lâu. Mô hình tăng trưởng này có thể hoàn toàn phù hợp
nếu đặt trong bối cảnh những năm của thập niên 1990. Tuy nhiên, nếu cứ kéo
dài tiếp mô hình phát triển này thì nền kinh tế Việt Nam càng gặp nhiều bất
cập khi Việt Nam đã bước vào nhóm các nước có thu nhập trung bình. Do đó,
để duy trì tính bền vững trong phát triển cần phải thay đổi mô hình tăng
trưởng.
Cùng thời điểm này, sự đe dọa của biến đổi khí hậu đã lên đến mức
cao nhất từ trước đến nay. Hai năm qua, thế giới đã chứng kiến ảnh hưởng
nghiêm trọng của thiên tai mà bắt nguồn từ biến đổi khí hậu gây ra, khiến cho
thế giới phải nhìn nhận vấn đề này nghiêm túc hơn. Vì vậy, xu hướng chuyển
đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của nhiều nước đều hướng tới phát triển gắn
với bảo vệ môi trường.Điều này thể hiện ngay trong giai đoạn khủng hoảng
khi nhiều nước dành khoản lớn trong gói kích thích kinh tế cho phát triển xanh
và tích cực kêu gọi hợp tác trong phát triển xanh.
Tại Việt Nam, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI (2011) đã

thông qua Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020 cho thấy mục tiêu
phát triển kinh tế xã hội thập kỷ tới sẽ chú trọng vấn đề chất lượng tăng trưởng
hay nói cách khác tăng trưởng theo chiều sâu và bền vững theo nghĩa không
chạy theo số lượng và đảm bảo các cân đối vĩ mô để ổn định kinh tế về dài
hạn; tập trung phát triển những ngành có lợi thế cạnh tranh, có sử dụng công
nghệ cao để từng bước nâng cao sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, từng
doanh nghiệp, sản phẩm.
PHẦN 2: CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG XANH Ở VIỆT
NAM
1. Quan điểm
- Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược phát triển
đất nước trong thời gian sắp tới, trên cơ sở kết hợp hài hòa ba trụ cột
của sự phát triển, gồm phát triển bền vững về kinh tế - xã hội - môi
trường. Quá trình phát triển bền vững với ba trụ cột này được bảo đảm
liên kết lại bằng môi trường thể chế hiện đại, thích ứng với định hướng
phát triển bền vững. Tăng trưởng xanh là nội dung của phát triển bền
vững, đồng thời góp phần giảm nhẹ và phòng chống tác động của biến
đổi khí hậu;
- Tăng trưởng xanh phải là tăng trưởng do con người và vì con người,
phát triển hài hòa đời sống xã hội với môi trường tự nhiên, góp phần
giải quyết yêu cầu tăng trưởng hợp lý với giảm nghèo bền vững, bảo
đảm sự bình đẳng trong cơ hội phát triển cho mỗi người và điều kiện
thụ hưởng hợp lý cho mỗi người, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của người dân trong phát triển;
- Tăng trưởng xanh phải dựa trên việc tăng cường đầu tư vào bảo tồn,
phát triển và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn tự nhiên, giảm phát thải
khí nhà kính, cải thiện nâng cao chất lượng môi trường, qua đó kích
thích tăng trưởng kinh tế ngay trong điều kiện biến đổi khí hậu toàn cầu,
đặc biệt là tình trạng nước biển dâng cao sẽ tác động mạnh vào nhiều
vùng của đất nước;

- Tăng trưởng xanh phải dựa trên cơ sở khoa học, thực hiện chuyển giao
công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý tiên tiến, xây dựng cơ sở hạ tầng
đồng bộ và phát triển nguồn lực chất lượng cao, kết hợp giữa nội lực
với mở rộng hợp tác quốc tế, làm thành nguồn lực tổng thể cho phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao, kết hợp giữa nội lực với mở rộng
hợp tác quốc tế, làm thành nguồn lực tổng thể cho phát triển;
- Tăng trưởng xanh là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, là nhiệm vụ
của mọi cấp chính quyền, từ các bộ, ngành đến chính quyền địa
phương, thích ứng với một hệ thống phân cấp quản lý phi tập trung hóa;
sự phối hợp với các tổ chức và cá nhân nước ngoài; trên cơ sở kết hợp
liên kết, giám sát đan chéo của các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã
hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân.
Với quan điểm trên, Chiến lược Tăng trưởng xanh ở Việt Nam là
phương thức thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế để tiến tới việc sử dụng
hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính thông qua nghiên
cứu và áp dụng công nghệ hiện đại, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng để nâng
cao hiệu quả kinh tế, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm
nghèo và tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế một cách bền vững.
2. Mục tiêu
a) Mục tiêu chung
Tăng trưởng xanh, tiến tới nền kinh tế các-bon thấp, làm giàu vốn tự
nhiên trở thành xu hướng chủ đạo trong phát triển kinh tế bền vững, giảm phát
thải và tăng khả năng hấp thụ khí nhà kính dần trở thành chỉ tiêu bắt buộc và
quan trọng trong phát triển kinh tế – xã hội.
b) Mục tiêu cụ thể
Thay đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng tận dụng lợi thế so
sánh một cách chủ động và sáng tạo, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của
nền kinh tế, cụ thể:
- Tái cấu trúc nền kinh tế và hoàn thiện thể chế theo hướng khuyến khích
các ngành kinh tế sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên với giá trị gia

tăng cao, hạn chế tiến tới xóa bỏ những ngành sử dụng lãng phí tài
nguyên thiên nhiên, gây ô nhiễm môi trường;
- Nghiên cứu, ứng dụng rộng rãi công nghệ hiện đại nhằm sử dụng hiệu
quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, góp phần ứng
phó hiệu quả với biến đổi khí hậu;
- Nâng cao đời sống nhân dân thông qua việc tạo thêm việc làm từ các
ngành công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ xanh và cải thiện chất lượng
cuộc sống thông qua việc xây dựng hạ tầng xanh, lối sống thân thiện với
môi trường.
Trên cơ sở đó, sẽ nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh nền kinh tế
trong điều kiện mới, thực hiện việc rút ngắn khoảng cách phát triển, với chất
lượng tăng trưởng cao.
3. Nhiệm vụ chiến lược
Chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2011- 2020 và tầm nhìn đến
năm 2050 tập trung vào 3 nhiệm vụ chủ yếu:
- Xanh hóa sản xuất: Tái cấu trúc nền kinh tế theo hướng phát triển sau,
giảm sử dụng tài nguyên thiên nhiên, tăng cường các ngành công
nghiệp sinh thái và dịch vụ môi trường, đổi mới công nghệ. Các nhiệm
vụ cụ thể bao gồm:
• Xanh hóa sản xuất thông qua sắp xếp lại cơ cấu, đặc biệt là hạn chế phát
triển những ngành kinh tế phát sinh chất thải lớn, gây ô nhiễm, suy
thoái môi trường.
• Sử dụng tiết kiệm và hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên nước,
tài nguyên đất và tài nguyên khoáng sản.
• Thúc đấy các ngành kinh tế xanh phát triển nhanh để làm giàu thêm
nguồn vốn tự nhiên của đất nước, tạo thêm việc làm và cải thiện cuộc
sống của nhân dân.
• Phát triển cơ cấu hạ tầng bền vững
• Đổi mới công nghệ, áp dụng phổ biến sản xuất sạch hơn.
- Giảm cường độ phát thải khí nhà kính trên đơn vị GDP và tăng tỷ lệ sử

dụng năng lượng tái tạo: Xanh hóa nền kinh tế để thực hiện nổ lực
chung về thích ứng và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. Hiện nay, tổng mức
phát thải khí nhà kính của Việt Nam còn thấp so với các nước phát triển,
nhưng đang tăng lên nhanh chóng trong giai đoạn tới, các ngành chính
có sự phát thải cao là nông nghiệp, năng lượng (gần 70% tổng lượng
CO2), còn lại là sử dụng đất và thay đổi sư dụng đất và quá trình công
nghiệp. Giảm phát thải khí nhà kính thông qua các nhiệm vụ sau:
• Cải thiện hiệu suất và hiệu quả sử dụng năng lượng, giảm mức tiêu hao
năng lượng trong hoạt động sản xuất, vận tải, thương mại.
• Chuyển đổi nhiên liệu trong các ngành công nghiệp và giao thông vận
tải
• Đẩy mạnh khai thác có hiệu quả các nguồn năng lượng mới và tái tạo
nhằm từng bước gia tăng tỷ trọng các nguồn năng lượng sạch trong sản
xuất và tiêu thụ năng lượng của quốc gia, giảm dần sự phụ thuộc vào
nguồn năng lượng hóa thạch, tăng cường an ninh năng lượng, bảo vệ
môi trường và phát triển bền vững.
• Giảm phát thải khí nhà kính thông qua các hoạt động lâm nghiệp( chống
mất rừng và suy thoái rừng)
- Xanh hóa lối sống và tiêu dùng bền vững: xanh hóa sản xuất (mặt cung
trong nền kinh tế) không thể tách rời xanh hóa lối sống và phương thức
tiêu dùng bền vững của xã hội ( mặt cầu của nền kinh tế ). Lối sống hòa
hợp với môi trường vốn đã là truyền thống lâu đời của dân tộc Việt
Nam. Kết hợp nếp sống đẹp truyền thống với những phương diện mới
của nền văn minh hiện đại mang lại sẽ tạo nên đời sống tiện nghi, chất
lượng cao mang đậm bản sắc dân tộc cho xã hội Việt Nam hiện đại. Các
nhiệ vụ cụ thể bao gồm:
• Thực thi đô thị hóa bền vững: để nâng cao khả năng cạnh tranh, phát
triển hài hòa, nâng cao chất lượng cho người dân, quy hoạch phát triển
đô thị và quản lý quy hoạch cần đạt được các tiêu chí về hiệu quả sinh
thái và đảm bảo xã hội để đô thị là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh

tế xanh và cạnh tranh, tăng cơ hội việc làm, giảm nghèo, cải thiện chất
lương cuộc sống, tăng cường an ninh năng lượng, tránh được các chi
phí và rủi ro tương lai.
• Xây dựng nông thôn mới với lối sống hài hòa với môi trường: thực hiện
các nội dung của Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông
thôn mới giai đoạn 2010 – 2020 và trong những năm tiếp theo, kết hợp
tăng trưởng kinh tế với bảo vệ môi trường, phát triển giáo dục, y tế, văn
hóa và công bằng xã hội nhầm đảm bảo phát triển nông thôn bền vững.
• Thúc đẩy tiêu dùng bền vững và xây dựng lối sống xanh: thay đổi mô
hình và hành vi tiêu dùng theo hướng bền vững của cả ba khu vực tiêu
dùng trong xã hội: khu vực nhà nước, khu vực doanh nghiệp và khu vực
dân cư.
4. Khả năng áp dụng tăng trưởng xanh ở Việt Nam
a) Điểm mạnh
- Việt Nam đã trải qua gần 30 năm đổi mới, thu được nhiều thành tựu
kinh tế xã hội quan trọng: nền kinh tế tăng trưởng cao, cơ sở hạ tầng
phát triển, thu nhập đầu người cải thiện nhanh… Hiện tại trình độ công
nghệ của Việt Nam còn yếu kém nhưng đang có sự cải thiện nhanh nhờ
lợi thế của nước đi sau và gây được sự chú ý của nước ngoài nhờ thành
tựu cải cách kinh tế đáng kể trong thời gian qua. Việt Nam cũng đang
hội nhập sâu rộng vào cộng đồng quốc tế, tạo ra nhiều cơ hội cho phát
triển kinh tế trong nước. Qua gần 30 năm thành công trong phát triển
đất nước, đã tạo thành chuỗi xu thế thời gian để nhìn vào đó có thể lạc
quan hơn vào những đổi mới trong tương lai.
- Việt Nam cũng là một nước thu hút lớn đầu tư từ nước ngoài. Năm 2013
Việt Nam đứng thứ 3 trong bảng xếp hạng nhóm 10 nước thu hút FDI
lớn nhất tại Châu Á – Thái Bình Dương với tỷ trọng 8,29% tổng FDI
vào khu vực, chỉ xếp sau Trung Quốc và Ấn Độ. Nhiều doanh nghiệp
FDI đã mang công nghệ hiện đại (mặc dù vẫn còn ít) vào Việt Nam,
trong đó có một số tập đoàn nổi tiếng thế giới về công nghệ cao như

Intel, Samsung, Canon, v.v… Nếu Việt Nam có chính sách phù hợp sẽ
khiến các tập đoàn này đầu tư công nghệ cao và góp phần nâng cao
năng lực công nghệ của đất nước, kết nối với mạng sản xuất toàn cầu.
- Tiềm năng về năng lượng tái tạo của Việt Nam khá lớn.
• Thủy điện nhỏ của Việt Nam rất lớn: Độ dốc cao và hệ thống sông suối
dày đặc là những yếu tố để nước ta có một lưu lượng thủy lưu rất lớn và
rất thuận lợi cho việc phát triển thủy điện, đặc biệt là thủy điện vừa và
nhỏ. Cự thể là nước ta có 2.360 con sông dài trên 10 km. Tiềm năng
thủy điện trên các con sông đến 30.000 Mw.
• Tiềm năng năng lượng gió: Với hơn 3000 km bờ biển và nằm trong khu
vực khí hậu nhiệt đới gió mùa, Việt Nam có nhiều thuận lợi trong phát
triển năng lượng gió. Hiện tại cũng đã có một số dự án điện gió được
triển khai ở một số tỉnh Nam Trung bộ (Bình Thuận, Ninh Thuận) và tại
một số huyện đảo.
• Tiềm năng năng lượng sinh khối: chủ yếu từ gỗ, phế thải từ cây nông
nghiệp, chất thải chăn nuôi, rác thải đô thị và chất thải hữu cơ khác…
đều là những thứ rất có sẵn ở Việt Nam.
• Nguồn năng lượng sinh khối ở Việt Nam rất lớn và khá đa dạng. Hiện
tại ước tính mỗi năm có khoảng 60 triệu tấn sinh khối được tạo ra từ
nguồn phụ phẩm- phế thải, trong đó gần 40% sinh khối được khai thác
đưa vào sử dụng cho mục đích năng lượng.
• Tiềm năng năng lượng mặt trời: Việt Nam có tổng số giờ nắng trong
năm dao động từ 1.400 đến 3.000 giờ, tổng bức xạ mặt trời trung bình
năm khoảng 230-250kcal/cm2/ngày theo hướng tăng dần về phía Nam.
Con số này cho thấy Việt Nam có tiềm năng khá về năng lượng mặt
trời.
Tất cả những loại năng lượng trên vẫn ở dạng tiềm năng là chính, chưa
được khai thác phục vụ cho nền kinh tế và xã hội của Việt Nam.
- Vốn con người của Việt Nam khá dồi dào, hiện nay có khoảng 86 triệu
dân trong đó tỷ lệ tham gia lực lượng lao động cao, tỷ lệ biết chữ cao,

chăm chỉ, và nắm bắt nhanh. Nếu họ được đào tạo tốt thì sẽ là động lực
thúc đẩy tăng trưởng xanh của đất nước, khả năng Việt Nam thành công
dễ dàng hơn.
b) Điểm yếu
- Nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào khai thác thô, sử dụng nhiều
tài nguyên thiên nhiên và năng lượng hóa thạch cho phát triển kinh tế và
tiêu dùng.
- Việt Nam là nước sản xuất nông nghiệp lớn, hiện chiếm gần ¼ GDP của
cả nền kinh tế. Tuy nhiên khu vực này phát thải nhiều khí nhà kính
(CH4, N2O). Hiện tại phát thải khí nhà kính trong nông nghiệp và
ngành nghề phi nông nghiệp ở nông thôn chiếm 43,1% tổng phát thải
khí nhà kính của Việt Nam. Theo dự báo, đến năm 2020, tổng lượng
phát thải khí nhà kính của Việt Nam trong điều kiện bình thường
khoảng 96,29 triệu tấn CO2, trong đó trồng trọt chiếm 59,2% (phần lớn
từ canh tác lúa nước), chăn nuôi 25,3%, ngành nghề phi nông nghiệp ở
nông thôn 20,1%, thủy sản 15,8%, thủy lợi 0,4% và lâm nghiệp hấp thụ
được 20,9% lượng khí trong lĩnh vực nông nghiệp. Bên cạnh đó, khu
vực nông nghiệp ngày càng sử dụng nhiều phân hóa học, thuốc trừ sâu,
các loại phụ gia, chất kích thích v.v… đã tác động rất xấu đến môi
trường, đa dạng sinh học và sức khỏe của con người.
- Nền kinh tế với năng suất thấp do trình độ công nghệ vẫn ở mức thấp
nên suất tiêu hao nhiên liệu nhiều. Tốc độ đổi mới công nghệ còn diễn
ra chậm chạp. Mặc dù đã có nhà đầu tư nước ngoài mang công nghệ
hiện đại vào Việt Nam nhưng con số này còn rất hạn chế. Hơn nữa,
chúng lại ít được chuyển giao mà chỉ đặt tại Việt Nam để sản xuất. Phần
lớn các nhà đầu tư nước ngoài vẫn đầu tư vào những lĩnh vực thâm
dụng lao động và tài nguyên – được coi là lợi thế so sánh của Việt Nam
trong 2 thập kỷ qua.
- Nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình tăng tốc nên rất khó cắt
giảm tiêu hao nhiên liệu hay dùng nhiên liệu thay thế xa xỉ hơn. Bất cứ

một quá trình tái cấu trúc nào cũng đòi hỏi phải giảm tốc tăng trưởng để
chuyển đổi. Điều này sẽ khiến cho tình trạng việc làm và thu nhập của
người dân bị ảnh hưởng trong khi cơ cấu mới chưa phát huy lợi thế.
Nếu không kết hợp hài hòa chính sách sẽ dễ dẫn đến những vấn đề mâu
thuẫn xã hội sâu sắc.
- Cơ sở hạ tầng mềm cho tăng trưởng xanh chưa phát triển. Muốn thực
hiện các chính sách tăng trưởng xanh cần phải có công cụ kiểm soát và
chế tài đối với các chủ thể nền kinh tế. Vấn đề đo lường quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế xanh cần được cải thiện. Việt Nam hiện vẫn
chưa có cơ sở đánh giá phát thải khí nhà kính của các chủ thể kinh tế.
- Nhận thức của người dân về vấn đề khí nhà kính còn rất hạn chế. Hầu
như họ không được thông tin về vấn đề này. Thậm chí ngay cả khi họ
được thông tin thì họ cũng coi đây như là vấn đề xảy ra với người khác.
Họ chưa nhận thức đầy đủ được những tác động tiêu cực của tình trạng
này. Vì thế tình trạng chặt phá rừng, hủy hoại thiên nhiên vẫn diễn ra
thường xuyên ở Việt Nam.
PHẦN 3: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ÁP DỤNG TĂNG
TRƯỞNG XANH Ở VIỆT NAM
1. Thực trạng
Kể từ ngày ban hành chiến lược tăng trưởng xanh của Việt Nam cho
giai đoạn 2011-2012 và tầm nhìn đến năm 2050, nền kinh tế nước ta đã có
những chuyển biến tích cực:
a) Trong công nghiệp
- Áp dụng các mô hình sản xuất sạch hơn (SXSH)
Xu thế chung của thế giới hiện nay là hướng sự quan tâm và tham gia
của cộng đồng không chỉ vào lĩnh vực sản xuất mà cả lĩnh vực tiêu dùng vì
mục tiêu sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Ngày nay, khái
niệm sản xuất sạch hơn (SXSH) ngày càng được sử dụng rộng rãi trong ngành
công nghiệp và thay dần các thuật ngữ giảm thiểu chất thải, phòng ngừa ô
nhiễm.

Theo Chương trình Môi trường LHQ (UNEP, 1994): Sản xuất sạch
hơn là sự áp dụng liên tục một chiến lược phòng ngừa môi trường tổng hợp
đối với các quá trình sản xuất, các sản phẩm và các dịch vụ nhằm làm giảm
tác động xấu đến con người và môi trường.
• Đối với quá trình sản xuất: sản xuất sạch hơn bao gồm bảo toàn nguyên
liệu và năng lượng, loại trừ các nguyên liệu độc hại và giảm lượng và
tính độc hại của tất cả các chất thải ngay tại nguồn thải.
• Đối với sản phẩm: sản xuất sạch hơn bao gồm việc giảm các ảnh hưởng
tiêu cực trong suốt chu kỳ sống của sản phẩm, từ khâu thiết kế đến thải
bỏ.
• Đối với dịch vụ: sản xuất sạch hơn đưa các yếu tố về môi trường vào
trong thiết kế và phát triển các dịch vụ.
Việc áp dụng sản xuất sạch hơn trong ngành công nghiệp ở nước ta
trong những năm qua đã mang lại lợi ích kinh tế rõ ràng do hiệu quả sản xuất
được nâng cao thông qua sử dụng hiệu quả hơn nguyên vật liệu, năng lượng,
nước để giảm đáng kể lượng chất thải và các chất ô nhiễm cần xử lý, cải thiện
môi trường lao động và quan trọng hơn là nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp. Cụ thể, giai đoạn 2005-2010 dự án sản xuất sạch hơn trong
công nghiệp do Hợp phần sản xuất sạch hơn trong công nghiệp (CPI) triển
khai đã đạt hiệu quả cao trong công tác quản lý ô nhiễm, bảo vệ môi trường.
Theo kết quả mà các tỉnh báo cáo thì tại các tỉnh mục tiêu, công tác quản lý ô
nhiễm đã được nâng cao hơn một bước, SXSH đạt tỷ lệ khá cao như ngành
sản xuất giấy tại Phú Thọ giảm được lượng tiêu thụ nước từ 15% – 30%, điện
từ 10% - 15%, nguyên liệu đầu vào khoảng 5%; Ngành luyện kim tại Thái
Nguyên giảm lượng tiêu thụ điện từ 5% - 10%, than từ 7% - 20% …Đối với
các doanh nghiệp trình diễn đã hoàn thành giai đoạn 2 thì mức tiêu thụ than
giảm trung bình từ 23,2%, tiêu thụ dầu FO giảm trung bình 87%, tiêu thụ điện
giảm trung bình 9%, tiêu thụ nước giảm trung bình khoảng 23,6%, tiêu thụ củi
giảm trung bình 55,1%
Mặc dù đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng mức độ lan tỏa

của SXSH vẫn không được như mong muốn. Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là
các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn còn xa lạ, chưa hiểu và chưa áp dụng công
cụ này. Chiến lược Sản xuất sạch hơn trong công nghiệp đến năm 2020 đã
được thủ tướng chính phủ phê duyệt ngày 07 tháng 09 năm 2009 với mục tiêu
phổ biến rộng rãi công cụ này vào các cơ sở sản xuất tại Việt Nam nhằm tăng
cường hiệu quả sản xuất công nghiệp, đồng thời giảm thiểu chất thải và tác
động của các cơ sở sản xuất đến môi trường và sức khỏe con người.
- Xây dựng các khu đô thị và khu công nghiệp bền vững
Phát triển khu công nghiệp gắn liền với hình thành các vùng kinh tế
trọng điểm, trung tâm đô thị, thu hút lao động, tạo việc làm cho người lao
động. Phát huy kết quả đã đạt được, khắc phục những hạn chế, tồn tại để có
chiến lược phát triển thị trường lao động chất lượng cao trong các khu công
nghiệp trong thời gian tới là vấn đề cần quan tâm của các cấp, các ngành và
toàn xã hội.
Hiện nay có thể kể đến các khu đô thị điển hình như: Khu đô thị
Ecopark (Phường Xuân Quang, Văn Giang, Hưng Yên) vừa vinh dự nhận
danh hiệu khu đô thị xanh hàng đầu Đông Nam Á do giải thưởng Bất động sản
Đông Nam Á - Southest Asia Property Awards 2014 trao tặng và được ví như
lá phổi xanh khổng lồ ở phía đông nam Hà Nội; Khu Đô Thị Công nghiệp
Thới Hòa – Mỹ Phước 4 (thị trấn Mỹ Phước, huyện Bến Cát, tỉnh Bình
Dương) là một Khu Đô Thị Xanh với hệ thống công viên cây xanh bao bọc tạo
thành mảng xanh trong cuộc sống năng động. Được khởi động xây dựng từ
cuối năm 2009 – đầu năm 2010, và đang dần được hoàn thành hứa hẹn sẽ là
Thiên Đường giữa thực tại với các tiện ích và môi trường sống mang đẳng cấp
quốc tế; Khu đô thị xanh Vũng Chua (Quốc lộ 1D, Phường Ghềnh Láng, Quy
Nhơn, Nình Định) với vốn đầu tư hơn 1.485 tỷ đồng và quy mô diện tích hơn
21 ha, đây là dự án kiểu mẫu, kết hợp giữa thương mại và dân cư đầu tiên tại
khu vực duyên hải Nam Trung Bộ.
b) Trong nông, lâm nghiệp
Thực hiện một nền nông nghiệp sinh thái với nguyên lý cơ bản là canh

tác tổng hợp, lấy xen canh, luân canh, nông lâm súc kết hợp làm trọng tâm.
Nội dung chính của nó là: Sự đa dạng về sinh học và cấu trúc của các hệ thống
canh tác tổng hợp, các hệ thống nông lâm nghiệp kết hợp, quản lý dinh dưỡng
tổng hợp. Ngoài ra cần quan tâm đến vấn đề: Hạn chế xói mòn đất và rửa trôi
dinh dưỡng, quay vòng tất cả những dòng các chất dinh dưỡng hữu cơ, xúc
tiến các nguồn dinh dưỡng sinh học, tuyển chọn và sử dụng các loài cây con
phù hợp, hiệu quả là những hợp phần của các hệ thống được cải tiến và được
xem là ưu việt của chương trình quản lý dịch hại tổng hợp IPM (Integrated
Pest Management).
Hiệp hội Nông nghiệp hữu cơ Việt Nam (VOA) được thành lập tại
Quyết định số 1820/QĐ-BNV ngày 31.10.2011 với mục tiêu nhằm tập hợp các
tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có tâm huyết, đã và đang tham gia vào
việc phát triển nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam, hoạt động trong các lĩnh vực
khác nhau như: Nghiên cứu, đào tạo, sản xuất, chế biến, kinh doanh, cấp giấy
chứng nhận, quảng bá và sử dụng sản phẩm hữu cơ. Hiệp hội được thành lập
trên nguyên tắc tự nguyện, nhằm phối hợp hoạt động để bảo vệ quyền và lợi
ích chính đáng của hội viên, thành viên, đóng góp những ý kiến thực tiễn vào
quá trình xây dựng chính sách liên quan đến nông nghiệp hữu cơ ở Việt Nam.
Sự ra đời của Hiệp hội cũng nhằm mục đích phấn đấu cho mục tiêu
phát triển nông nghiệp bền vững, toàn diện theo hướng hiện đại. Bên cạnh đó,
Hiệp hội cũng là tổ chức đại diện để kết nối với mạng lưới nông nghiệp hữu
cơ châu Á như Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc và một số nước khác. VOA
cũng sẽ tham gia vào Liên đoàn phong trào hữu cơ quốc tế (Tổ chức IFOAM)
nhằm chia sẻ những kinh nghiệm hoạt động của các tổ chức thành viên, khai
thác thị trường và bảo vệ lợi ích của sản phẩm hữu cơ Việt Nam xuất khẩu ra
nước ngoài không bị phương hại.
c) Trong dịch vụ và tiêu dùng
Lồng ghép mua sắm xanh vào chương trình dán nhãn sinh thái. Trong
xu thế phát triển bền vững hiện nay có 2 nội dung được đề cập tới là sản xuất
bền vững và tiêu dùng bền vững. Để thực hiện tiêu dùng bền vững trước tiên

cần phải sử dụng các sản phẩm và dịch vụ thân thiện với môi trường. Sản
phẩm và dịch vụ thân thiện môi trường là những sản phẩm, những dịch vụ: tiết
kiệm năng lượng và nước trong quá trình sản xuất và tiêu dùng; không hoặc ít
phát sinh chất thải và rò rỉ các chất ô nhiễm; được sản xuất từ nguyên liệu tái
chế và có thể tái sử dụng; sử dụng năng lượng tái tạo trong quá trình sản xuất
và tiêu dùng; không hoặc ít sử dụng hoá chất nguy hại, vật liệu phóng xạ và
chế phẩm sinh học độc hại.
Song song với mua sắm xanh nhiều nước còn sử dụng nhãn sinh thái
hay nhãn môi trường. Ban đầu việc sử dụng nhãn này chỉ xuất hiện ở các nước
phát triển một cách rất tự phát theo xu thế thị trường do có nhiều công ty/hãng
kinh doanh nhận thấy rằng có thể biến mối quan ngại về môi trường thành yếu
tố có lợi nhằm tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Chính vì thế
đã xuất hiện rất nhiều nhãn thông tin gắn trên các sản phẩm như “tái chế”,
“thân thiện môi trường”, “sử dụng ít năng lượng”, “có thành phần được tái
chế”…
Ở Việt Nam, việc xây dựng chương trình cấp nhãn môi trường đã bước
đầu được thực hiện với mục đích: Nâng cao nhận thức, đồng thời cung cấp các
thông tin tin cậy và hướng dẫn người tiêu dùng trong việc lựa chọn sản phẩm
ít tác động hơn đối với môi trường, tạo ra sự khuyến khích thị trường đối với
các nhà sản xuất nhằm cung cấp các sản phẩm thân thiện với môi trường, giảm
các tác động có hại tới môi trường do sản xuất, sử dụng, tiêu thụ và thải bỏ sản
phẩm gây ra; nâng cao chất lượng môi trường và khuyến khích quản lý bền
vững các tài nguyên thiên nhiên…
Chương trình Nhãn xanh Việt Nam được triển khai trên phạm vi toàn
quốc từ tháng 3 năm 2009 nhằm mục tiêu liên tục cải thiện và duy trì chất
lượng môi trường sống thông qua giảm thiểu sử dụng và tiêu dùng năng
lượng, vật liệu cũng như các loại chất thải sinh ra do quá trình sản xuất, kinh
doanh và tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng phục vụ đời sống. Để đạt
được hiệu quả bảo vệ môi trường, Chương trình Nhãn xanh Việt Nam thực
hiện đánh giá khả năng kiểm soát, hạn chế tác động đối với môi trường của

các loại sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng theo quan điểm “xem xét toàn bộ vòng
đời sản phẩm”. Theo đó, lợi ích môi trường mà mỗi sản phẩm có khả năng
mang lại từ việc giảm thiểu phát thải các loại chất gây ô nhiễm, chất độc hại ra
môi trường từ các khâu khai thác nguyên/vật liệu, sản xuất, kinh doanh, tiêu
dùng cho đến khi thải bỏ đối với loại hình sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng đó sẽ
được xem xét và đánh giá trên cơ sở các bộ tiêu chí được xây dựng riêng cho
từng loại hình sản phẩm, dịch vụ tiêu dùng.
d) Về năng lượng xanh
Trên thực tế, Việt Nam đã và đang thử nghiệm một số mô hình năng
lượng xanh như mô hình phân loại rác tại nguồn 3R (giảm thiểu, tái chế và tái
sử dụng). Đồng thời để giảm thiểu ô nhiễm môi trường, đảm bảo an ninh năng
lượng lâu dài. Việt Nam đang cố gắng nghiên cứu sử dụng nhiên liệu sinh học
(xăng/diesel pha ethanol và diesel sinh học), thay thế một phần xăng, dầu
khoáng, tiến tới xây dựng ngành “xăng dầu sạch” .
Ngày 31/1/2009, tại Hà Nội, tập đoàn ô tô Thành Công đã tổ chức lễ
ký kết và giao lô hàng 50 xe đầu tiên trong hợp đồng cung cấp 500 chiếc xe
buýt hiệu Daewoo chạy bằng khí tự nhiên cho công ty Sonadezi ở Đồng Nai.
Số xe buýt này sẽ được sử dụng trong việc đưa đón công nhân ở các khu công
nghiệp cũng như vận chuyển hành khách công cộng tại tỉnh Đồng Nai.
Ngày 22 tháng 11 năm 2012 thủ tướng chính phủ đã ký quyết
định số 53/2012 QĐ-TTg về việc ban hành lộ trình áp dụng tỷ lệ phối trộn
nhiên liệu sinh học với nhiên liệu truyền thống. Quyết định này quy định lộ
trình áp dụng tỷ lệ phối trộn nhiên liệu sinh học với nhiên liệu truyền thống
dùng cho động cơ xăng và động cơ đi-ê-zen của các phương tiện cơ giới
đường bộ nhầm thay thế một phần xăng, dầu khoáng, tiến tới xây dựng ngành
xăng dầu sạch.
e) Về năng lượng tái tạo
- Năng lượng mặt trời: đang được sử dụng ở các dạng
• Sấy công nghiệp và sấy đơn giản. Các thiết bị sấy bằng năng lượng mặt
trời được sử dụng trong nông nghiệp, dược liệu, hải sản. Đến nay đã lắp

đặt khoảng 10 hệ thống sấy công nghiệp và 60 hệ thống sấy đơn giản.
• Giàn đun nước. Giàn đun nước hộ tập thể với mặt thu 10-50m2 đun
được 1000-5000 lít nước nóng 50-700C mỗi ngày và 1 số giàn đun hộ
gia đình với mặt thu 1-3m2 đun được 100-300 lít nước nóng 45-600C

×