Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Khóa luận tốt nghiệp Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty TNHH phát triển vùng cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (505.15 KB, 68 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUY NHƠN
KHOA KINH TẾ VÀ KẾ TOÁN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỀU
Bảng 2.1 Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty
Bảng 2.2 Vốn đầu tư công ty TNHH phát triển vùng cao
Bảng 2.3 Nguồn vốn đầu tư của công ty TNHH phát triển vùng cao
Bảng 2.4: Vốn đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn 2010 – 2013
Bảng 2.5: Các công nghệ đang được sử dụng tại công ty
Bảng 2.6: Vốn đầu tư mua sắm máy móc thiết bị và công nghệ
Bảng 2.7. Cơ cấu nguồn nhân lực theo trình độ
Bảng 2.8. Cơ cấu nguồn lao động theo cấp bậc
Bảng 2.9: Chi phí đào tạo nguồn nhân lực năm 2013
Bảng 2.10. Nguồn vốn đầu tư cho nguồn nhân lực
Bảng 2.11: Mức lương bình quân lao động công ty TNHH phát triển vùng cao
Bảng 2.12: Vốn đầu tư cho hoạt động Marketing
Bảng 2.13: Tỷ suất lợi nhuận
Bảng 2.14: Tỷ lệ chi phí marketing / doanh thu
Bảng 2.15: Thị phần
Bảng 3.1: Kế hoạch bảo hộ lao động
Biểu đồ 2.1 Tình hình sử dụng lao động của công ty
Sơ đồ 2.1. tổ chức bộ máy quản lí của công ty
CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT TRONG BÁO CÁO
TNHH Trách nhiệm hữu hạn
PTVC Phát triển vùng cao
XDCB Xây dựng cơ bản
DT Doanh thu
HĐTC Hoạt động tài chính
Sinh viên thực hiện :
Lớp : KT – ĐT K33A


Giáo viên hướng dẫn :Th.s Sử Thị Thu Hằng
Bình Định, tháng 5 /2014
Bình Định, tháng 5 /2014
TÊN ĐỀ TÀI:
ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH TẠI
CÔNG TY TNHH PHÁT TRIỂN VÙNG CAO
HĐKD Hoạt động kinh doanh
LNTT Lợi nhuận trước thuế
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
CP Cổ phần
LĐ Lao động
LỜI NÓI ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Các doanh nghiệp Việt Nam đang đứng trước những thách thức và cơ hội to
lớn, đòi hỏi phải đáp ứng yêu cầu ngày càng cao đối với những đòi hỏi cơ chế kinh
tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tính cạnh tranh trên thị trường ngày càng
khốc liệt, đặc biệt khi Việt Nam tham gia hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới.
Do vậy các doanh nghiệp luôn phải đặt ra những chiến lược, kế hoạch mục tiêu và
hành động cụ thể để có thể đứng vững trên thương trường. Để đạt được điều đó, đầu
tư nâng cao năng lực cạnh tranh là một yêu cầu tất yếu.
Công ty TNHH phát triển vùng cao được thành lập vào năm 2009. Tồn tại và
hoạt động trong cơ chế thị trường, công ty đã nhanh chóng thích ứng cũng như thay
đổi lối làm việc trước kia. Trong những năm gần đây, công ty đã đạt được một số
kết quả sản xuất kinh doanh tích cực.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường cũng như mong muốn
được tìm hiểu sâu hơn về công tác đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty
TNHH phát triển vùng cao, em đã lựa chọn đề tài: “Đầu tư nâng cao năng lực cạnh
tranh tại Công ty TNHH phát triển vùng cao” làm đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu: Phân tích thực trạng năng lực cạnh tranh của công ty
TNHH phát triển vùng cao nhằm đánh giá những thành công đã đạt được, hạn chế
và nguyên nhân của thực trạng, từ đó chỉ ra định hướng và giải pháp nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh của Công ty trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Một là: Hệ thống hóa những cơ sở lý luận chung về năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Hai là: Nghiên cứu một số kinh nghiệm quốc tế và của các Công ty khác
trong ngành, rút ra bài học về nâng cao năng lực cạnh tranh.
Ba là: Khảo sát các điều kiện về nguồn lực và hoạt động kinh doanh, những
công cụ mà Công ty đang sử dụng trong cạnh tranh từ đó làm rõ năng lực cạnh
tranh của Công ty, đánh giá những thành công, hạn chế, nguyên nhân và thực trạng.
Bốn là: Đưa ra các định hướng, tìm kiếm và đề xuất giải pháp hữu hiệu để
nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là tình hình đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh của Công ty TNHH phát triển vùng cao trong những năm vừa
qua.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, so sánh, phân tích và tổng hợp số
liệu thông tin thu thập được nhằm tạo ra một phương pháp tiếp cận phù hợp với đối
tượng và mục tiêu nghiên cứu
5. Kết cấu luận văn
Kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
Chương II: Thực trạng về đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại công ty
TNHH phát triển vùng cao.
Chương III. Giải pháp hoàn thiện công tác đầu tư nâng cao năng lực cạnh
tranh của công ty TNHH phát triển vùng cao
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC

CẠNH TRANH.
1.1. Cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm
Cho đến nay có nhiều khái niệm khác nhau về cạnh tranh: Cạnh tranh nói
chung là sự phấn đấu, vươn lên không ngừng để giành lấy vị trí hàng đầu trong một
lĩnh vực hoạt động nào đó bằng các ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật tạo
ra nhiều lợi thế nhất, tạo ra sản phẩm mới, năng suất và hiệu quả nhất. Ngoài ra còn
có những quan điểm cho rằng cạnh tranh là quá trình ganh đua, nhằm đánh bại đối
thủ để thu lợi về chính mình.
Xét từ góc độ ngành, một ngành luôn tồn tại sự cạnh tranh bởi các đặc trưng
kinh tế, khi các quá trình kinh tế nội sinh thay thế lẫn nhau
Xét từ góc độ doanh nghiệp. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp được xem là
sự ganh đua, đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện
thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Cạnh tranh có thể diễn ra ở giữa các doanh nghiệp trong ngành hoặc ngoài ngành,
những doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Mục đích của cạnh
tranh là giành vị thế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm để tăng lợi nhuận, nâng cao
uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. Cạnh tranh thể hiện dưới các hình thức như
phấn đấu giảm giá, tăng chất lượng sản phẩm, đưa sản phẩm tới tay người tiêu dùng
một cách nhanh nhất. Ngoài ra, cạnh tranh phát triển đến một trình độ nhất định sẽ
dẫn đến tăng cường liên doanh liên kết, hợp tác kinh tế, sát nhập, hợp nhất và không
loại trừ khả năng thôn tính lẫn nhau.
Canh tranh đóng vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội.
+ Đối với các doanh nghiệp trong ngành: cạnh tranh trong nội bộ ngành sẽ
dẫn đến sự hình thành giá cả thị trường đồng nhất đối với hàng hóa dịch vụ cùng
loại. Trong cuộc cạnh tranh này các doanh nghiệp sẽ thôn tính lẫn nhau chiếm thị
phần.
Doanh nghiệp nào thành công sẽ mở rộng qui mô sản xuất, ngược lại sẽ phải
thu hẹp qui mô sản xuất thậm chí là phá sản. Cạnh tranh có vai trò quyết định tới sự
tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng các thành

tựu về mới về kĩ thuật công nghệ, cải tổ bộ máy quản lý, tiết kiệm các yếu tố đầu
vào một cách hợp lý, nhằm tăng chất lượng sản phẩm và hàng hóa dịch vụ… nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đồng thời nâng cao uy tín và vị thế của doanh
nghiệp trên thị trường.
+ Đối với người tiêu dùng: cạnh tranh giúp cho họ có nhiều sự lựa chọn về
chủng loại, chất lượng, mẫu mã hàng hóa và dịch vụ theo xu hướng thõa mãn nhu
cầu về sản phẩm ngày càng nâng cao hơn mức giá phù hợp.
+Đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân: cạnh tranh là động lực thúc đẩy phát
triển sự bình đẳng của mọi thành viên trong nền kinh tế, đẩy mạnh hoạt động đầu
tư, giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kĩ thuật, hiện đại hóa
nền sản xuất xã hội. Đó cũng là điều kiện để xóa bỏ tình trạng độc quyền, bất bình
đẳng trong kinh doanh, nâng cao chất lượng đời sống xã hội, phát triển nền văn
minh nhân loại.
1.1.2. Phân loại cạnh tranh
* Căn cứ tính chất cạnh tranh trên thị trường.
- Cạnh tranh hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà trên thị trường có rất
nhiều người bán và người mua, mỗi người bán chỉ cung ứng một lượng hàng rất nhỏ
trong tổng cung của thị trường. Họ luôn luôn bán hết số hàng mà họ muốn bán
vớigiá thị trường. Bất cứ doanh nghiệp nào gia nhập hoặc rút lui khỏi thị trường
cũng không gây ảnh hưởng tới giá cả thị trường. Để tối đa hóa lợi nhuận họ chỉ còn
có thể tìm mọi cách để giảm chi phí sản xuất. Trong thị trường này mọi thông tin
đều đầy đủ và không có hiện tượng cung cầu giả tạo. Khi chi phí biên của doanh
nghiệp giảm xuống bằng với giá thị trường doanh nghiệp sẽ đạt lợi nhuận tối đa.
- Cạnh tranh không hoàn hảo là hình thức cạnh tranh mà mỗi doanh nghiệp
đều có sức mạnh thị trường (dù nhiều hay ít), họ có quyền quyết định giá bán của
mình, qua đó tác động đến giá cả thị trường.
- Cạnh tranh độc quyền (cạnh tranh có tính độc quyền) là thị trường cónhiều
người bán và nhiều người mua, sản phẩm của các doanh nghiệp có thể thay thế cho
nhau ở một mức độ nào đó. Bằng các biện pháp như thay đổi mẫu mã, chất lượng,
kiểu dáng, quảng cáo thương hiệu, uy tín … các doanh nghiệp cố gắng khác biệt

hóa sản phẩm của mình để cạnh tranh và thu hút khách hàng. Trong thị trường này,
bên cạnh các biện pháp khác biệt hóa sản phẩm, chiến lược giá cả và chính sách đối
với khách hàng là các vấn đề mỗi doanh nghiệp luôn quan tâm để đảm bảo khả năng
cạnh tranh.
- Độc quyền tập đoàn là trường hợp trên thị trường chỉ có một số hãng lớn
bán các sản phẩm đồng nhất hoặc không đồng nhất. Họ kiểm soát gần như toànbộ
lượng cung trên thị trường nên có sức mạnh thị trường khá lớn. Các hãng trong tập
đoàn có tính phụ thuộc lẫn nhau nên quyết định giá và sản lượng của mỗi hãng đều
ảnh hưởng trực tiếp đến hãng khác trong tập đoàn và giá thị trường. Vì vậy họ
thường cấu kết với nhau để thu lợi nhuận siêu ngạch.
 Nguyên nhân sự hình thành thị trường cạnh tranh không hoàn hảo là do
quá trình phấn đấu tối đa hóa lợi nhuận của doanh nghiệp, cạnh tranh thúc đẩy quá
trình tích tụ và tập trung tư bản diễn ra không đều ở các ngành, các lĩnh vực kinh tế
khác nhau. Mặc dù vậy, cạnh tranh độc quyền lại có tác động tích cực thúc đẩy sản
xuất phát triển, nó làm lợi cho xã hội nhiều hơn là gây thiệt hại.
- Độc quyền hoàn toàn là hình thái thị trường đối lập với cạnh tranh hoàn
hảo. Chỉ có một người bán (hoặc mua) duy nhất trên thị trường, hàng hóa là độc
nhất và không có hàng thay thế gần gũi nên họ có sức mạnh thị trường rất lớn.
Doanh nghiệp độc quyền luôn quyết định giá và sản lượng sao cho thu được lợi
nhuận siêu ngạch. Nguyên nhân của độc quyền là do họ đạt được lợi thế kinh tế nhờ
quy mô (độc quyền tự nhiên), hoặc do cấu kết, thôn tính, kiểm soát được đầu vào…
Độc quyền luôn có những tác động xấu đến kinh tế xã hội như sản lượng bán
thấp (không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng cho xã hội), giá quá cao và gây mất
công bằng xã hội. ở một số nước có luật chống độc quyền nhằm đảm bảo các lợi ích
kinh tế xã hội.
* Căn cứ chủ thể tham gia thị trường: Đây là sự cạnh tranh trong khâu lưu
thông hàng hóa nhằm tối đa hóa lợi ích cho những chủ thể tham gia cạnh tranh.
- Cạnh tranh giữa người bán và người mua với đặc trưng nổi bật là người
mua luôn muốn mua rẻ và người bán luôn muốn bán đắt. Hai lực lượng này hình
thành hai phía cung cầu trên thị trường. Kết quả sự cạnh tranh trên là hình thành giá

cân bằng của thị trường, đó là giá mà cả hai phía đều chấp nhận được.
- Cạnh tranh giữa những người mua là sự cạnh tranh do ảnh hưởng của quy
luật cung cầu. Khi lượng cung một hàng hóa quá thấp so với lượng cầu làm cho
người mua phải cạnh tranh nhau để mua được hàng hóa mà mình cần dẫn tới giá cả
tăng vọt. Kết quả là người bán thu được lợi nhuận cao còn người mua phải mất
thêm một số tiền. Như vậy sự cạnh tranh này làm cho người bán được lợi và người
mua bị thiệt.
- Cạnh tranh giữa những người bán là sự cạnh tranh nhằm tăng sản lượng
bán. Do sản xuất ngày càng phát triển, thị trường mở cửa, lượng cung tăng nhanh
trong khi lượng cầu tăng chậm dẫn tới người bán (các doanh nghiệp) phải cạnh
tranh khốc liệt để giành thị trường và khách hàng. Kết quả là giá cả không ngừng
giảm xuống và người mua được lợi. Doanh nghiệp nào thắng trong cuộc cạnh tranh
này mới có thể tồn tại và phát triển.
* Căn cứ cấp độ cạnh tranh: Đây là sự cạnh tranh diễn ra trong lĩnh vực sản
xuất.
- Cạnh tranh giữa các sản phẩm là sự cạnh tranh về mẫu mã, kiểu dáng, chất
lượng, giá cả, phương thức bán hàng … Sản phẩm nào phù hợp nhất với yêu cầu
của khách hàng thì sản phẩm đó sẽ đảm bảo được khả năng tiêu thụ, kéo dài chu kỳ
sống của sản phẩm và tạo cơ hội thu thêm lợi nhuận cho doanh nghiệp.
- Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành (cạnh tranh nội bộ ngành) là
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất một loại hàng hóa nhằm thu lợi
nhuận siêu ngạch. Trong nền kinh tế thị trường, theo quy luật, doanh nghiệp nào có
hao phí lao động cá biệt nhỏ hơn hao phí lao động xã hội cần thiết sẽ thu lợi nhuận
siêu ngạch. Các doanh nghiệp sẽ áp dụng các biện pháp như cải tiến kỹ thuật, hợp lý
hóa sản xuất, tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nâng cao sức cạnh
tranh cho sản phẩm. Doanh nghiệp nào có nhiều sản phẩm có sức cạnh tranh cao sẽ
cạnh tranh thắng lợi trong ngành.
 Như vậy cạnh tranh nội bộ ngành làm giảm chi phí sản xuất và giá cả
hàng hóa, là động lực thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất và tiến bộ kỹ thuật.
Không có cạnh tranh nội bộ ngành thì ngành đó không thể phát triển và kinh tế sẽ bị

trì trệ.
- Cạnh tranh giữa các ngành là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp sản xuất
ở các ngành khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi nhất. Giữa các ngành kinh tế, do
điều kiện tự nhiên, kỹ thuật và một số nhân tố khách quan khác (như tâm lý, thị
hiếu, kỳ vọng, mức độ quan trọng,…) nên cùng với một lượng vốn, đầu tư vào
ngành này có thể mang lại tỷ suất lợi nhuận cao hơn ngành khác. Nhà sản xuất ở
những ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp có xu hướng di chuyển nguồn lực sang
những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Kết quả là trong những ngành có thêm nhiều
doanh nghiệp tham gia lượng cung tăng vượt quá cầu, giá giảm dẫn tới tỷ suất lợi
nhuận của ngành giảm. Ngược lại, những ngành có nhiều doanh nghiệp rút lui sẽ có
lượng cung nhỏ hơn lượng cầu, giá tăng và tỷ suất lợi nhuận của ngành lại tăng.
Việc di chuyển nguồn lực giữa các ngành kéo theo sự biến động của tỷ suất lợi
nhuận diễn ra cho đến khi với một số vốn nhất định dù đầu tư vào ngành nào cũng
sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận như nhau. Đó là tỷ suất lợi nhuận bình quân. Như vậy
cạnh tranh giữa các ngành dẫn tới sự cân bằng cung cầu sản phẩm trong mỗi ngành
và bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, đảm bảo sự bình đẳng cho việc đầu tư vốn giữa
các ngành, tạo nhân tố tích cực cho sự phát triển.
- Cạnh tranh giữa các quốc gia: Là các hoạt động nhằm duy trì và cải thiện vị
trí của nền kinh tế quốc gia trên thị trường thế giới một cách lâu dài dể thu được lợi
ích ngày càng cao cho nền kinh tế quốc gia đó. Tuy nhiên chủ thể trực tiếp tham gia
cạnh tranh là các doanh nghiệp. Nên nếu quốc gia nào có nhiều doanh nghiệp có
năng lực cạnh tranh cao thì quốc gia đó cũng có năng lực cạnh tranh tốt hơn.
1.1.3. Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Từ thế kỷ 18, Adam Smith, nhà kinh tế học cổ điển vĩ đại của Anh đã chỉ ra
vai trò quan trọng của cạnh tranh tự do trong tác phẩm “Của cải của các dân
tộc”(1776). Ông cho rằng sức ép cạnh tranh buộc mỗi cá nhân phải cố gắng làm
công việc của mình một cách chính xác và do đó nó tạo ra sự cố gắng lớn nhất. Kết
quả của sự cố gắng đó là lòng hăng say lao động, sự phân phối các yếu tố sản xuất
một cách hợp lý và tăng của cải cho xã hội. Cho tới nay, cạnh tranh được coi là
phương thức hoạt động để tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, không có

cạnh tranh thì không thể có sự tăng trưởng kinh tế. Vai trò của cạnh tranh được thể
hiện ở hai mặt tích cực và hạn chế sau đây:
* Mặt tích cực:
- Đối với nền kinh tế: Cạnh tranh làm sống động nền kinh tế, thúc đẩy quá
trình lưu thông các yếu tố sản xuất. Thông qua cạnh tranh, các nguồn tài nguyên
được phân phối hợp lý hơn dẫn đến sự điều chỉnh kết cấu ngành, cơ cấu lao động
được thực hiện mau chóng và tối ưu. Cạnh tranh là đòn bẩy mạnh mẽ nhất đẩy
nhanh quá trình luân chuyển vốn, luân chuyển các yếu tố sản xuất, phân phối lại tài
nguyên, tập trung sản xuất và tích luỹ tư bản. Đồng thời cạnh tranh còn là cơ chế
điều tiết việc phân phối lợi nhuận giữa các ngành và trong nền kinh tế do chịu ảnh
hưởng của quy luật bình quân hoá lợi nhuận.
- Đối với chủ thể kinh doanh: Do động lực tối đa hoá lợi nhuận và áp lực phá
sản nếu dừng lại, cạnh tranh buộc các chủ thể kinh tế phải không ngừng tăng cường
thực lực của mình bằng các biện pháp đầu tư mở rộng sản xuất, thường xuyên sáng
tạo cải tiến kỹ thuật, công nghệ, tăng năng suất lao động, tăng chất lượng sản phẩm,
giảm chi phí sản xuất Qua đó cạnh tranh nâng cao trình độ mọi mặt của người lao
động, nhất là đội ngũ quản trị kinh doanh, đồng thời sàng lọc và đào thải những chủ
thể kinh tế không thích nghi được với sự khắc nghiệt của thị trường.
- Đối với người tiêu dùng: Cạnh tranh cho thấy những hàng hoá nào phù hợp
nhất với yêu cầu và khả năng thanh toán của người tiêu dùng bởi cạnh tranh làm
cho giá cả có xu hướng ngày càng giảm, lượng hàng hoá trên thị trường ngày càng
tăng, chất lượng tốt, hàng hoá đa dạng, phong phú. Như vậy cạnh tranh làm lợi cho
người tiêu dùng. Bên cạnh đó cạnh tranh còn đảm bảo rằng cả người sản xuất và
người tiêu dùng đều không thể dùng sức mạnh áp đặt ý muốn chủ quan cho người
khác. Nên nói cách khác, cạnh tranh còn có vai trò là một lực lượng điều tiết thị
trường.
Như vậy, cùng với tác động của các quy luật kinh tế khách quan khác, cạnh
tranh đã giúp các doanh nghiệp trả lời các câu hỏi: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai
và sản xuất như thế nào một cách thoả đáng nhất. Vận dụng quy luật cạnh tranh,
Nhà Nước và doanh nghiệp có điều kiện hoạch định các chiến lược phát triển một

cách khoa học mà vẫn đảm bảo tính thực tiễn, chủ động hơn trong đối phó với mọi
biến động của thị trường.
* Về hạn chế:
- Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, cạnh tranh cũng có một số hạn chế.
Do chạy theo lợi nhuận nên cạnh tranh có tác dụng không hoàn hảo, vừa là động lực
tăng trưởng kinh tế vừa bao hàm sức mạnh tàn phá mù quáng. Sự đào thải không
khoan nhượng những doanh nghiệp kinh doanh không có hiệu quả của cạnh tranh
mặc dù phù hợp quy luật kinh tế khách quan nhưng lại gây ra những hậu quả kinh tế
xã hội như thất nghiệp gia tăng, mất ổn định xã hội. Cạnh tranh là quá trình kinh tế
mà các chủ thể sử dụng mọi biện pháp trong đó có cả những thủ đoạn cạnh tranh
không lành mạnh để giành chiến thắng trên thương trường như gian lận, quảng cáo
lừa gạt khách hàng, tình trạng cá lớn nuốt cá bé, lũng đoạn thị trường. Cuối cùng
cạnh tranh có xu hướng dẫn đến độc quyền làm cho nền kinh tế phát triển theo
chiều hướng không tốt.
Tuy nhiên do cạnh tranh đã, đang và sẽ luôn là phương thức hoạt động của
kinh tế thị trường nên chúng ta cần nhận thức được các vai trò tích cực và hạn chế
của cạnh tranh để vận dụng quy luật này sao cho hiệu quả nhất.
1.1.4. Các công cụ cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.4.1. Chất lượng sản phẩm
Trên thị trường nếu nhiều sản phẩm có cùng công dụng giá cả tương đương
nhau và dễ thay thế thì người tiêu dùng sẵn dàng bỏ tiền mua sản phẩm có chất
lượng cao hơn. Hơn nữa khi đời sống của người dân càng cao thì việc cải thiện chất
lượng sản phẩm trở thành vấn đề cấp bách đối với mỗi doanh nghiệp. Do đó đây là
công cụ đầu tiên và quan trọng mà các doanh nghiệp sử dụng để thắng các đối thủ
cạnh tranh bởi nâng cao chất lượng sản phẩm dẫn tới tăng tốc độ tiêu thụ sản phẩm,
kéo dài chu kì sống của sản phẩm, tăng uy tín và khả năng sinh lời của doanh
nghiệp. Chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào các yếu tố: kĩ thuật, công nghệ, trình
độ tay nghề lao động, nguyên vật liệu, trình độ quản lý.
1.1.4.2. Giá cả của sản phẩm
Giá cả sản phẩm quyết định tới khả năng sinh lời và thị phần của doanh

nghiệp. Cạnh tranh bằng giá thường thể hiện thông qua: kinh doanh với mức chi phí
thấp, bán với mức giá hạ. Muốn kinh doanh với chi phí thấp, doanh nghiệp phải có
những biện pháp hữu hiệu trong việc giảm chi phí đầu vào, tăng khả năng sinh lời
của vốn đầu tư, nâng cao hiệu quả sử dụng nguyên vật liệu đầu vào. Cách khác là
bán với mức giá hạ, đây là phương thức cuối cùng mà doanh nghiệp sẽ thực hiện
trong cạnh tranh bởi giá hạ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp, khi
thu nhập của người đại đa số người dân tăng lên thì việc sử dụng mức giá giảm
chưa phải là biện pháp hữu hiệu, đôi khi còn bị đánh đồng giá rẻ đồng nghĩa với
chất lượng kém. Vì vậy khi sử dụng biện pháp này cần kết hợp linh hoạt với chu kì
sống của sản phẩm.
1.1.4.3. Áp dụng khoa học kĩ thuật và quản lí hiện đại
Sức cạnh tranh của doanh nghiệp tăng lên khi giá cả hàng hóa của họ thấp
hơn giá cả trung bình trên thị trường. Để đáp ứng mục tiêu hàng đầu là mục tiêu lợi
nhuận, các doanh nghiệp phải biết sử dụng tốt các tài nguyên của mình nhằm tăng
năng suất lao động, hạ thấp chi phí đầu vào, nâng cao chất lượng hàng hóa. Muốn
vậy doanh nghiệp phải thường xuyên cải tiến công nghệ, áp dụng khoa học kĩ thuật
tiên tiến
1.1.4.4. Cạnh tranh về phân phối và bán hàng
Thể hiện qua các nội dung chủ yếu như: đa dạng hóa kênh phân phối và chọn
được kênh chủ lực, hệ thống bán hàng phong phú, dịch vụ bán hàng và sau bán
hàng hợp lý biết kết hợp giữa phương thức bán với phương thức thanh toán tốt.
Ngoài ra một công cụ nhằm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp đó là
kế hoạch đầu tư đúng đắn. Nếu doanh nghiệp có các kế hoạch đúng đắn về đầu tư
cho máy móc thiết bị công nghệ, đầu tư nguồn nhân lực, đầu tư marketing… thì
hiệu quả sử dụng vốn đầu tư của doanh nghiệp tăng và nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp.
1.2. Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
1.2.1. Khái niệm đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
Ở phần trên ta đã nghiên cứu các định nghĩa về cạnh tranh, để có thể cạnh
tranh thắng lợi mỗi doanh nghiệp phải có năng lực cạnh tranh nhất định. Vậy thế

nào là năng lực cạnh tranh. Các học giả và giới chuyên môn vẫn chưa có một sự
nhất trí cao về định nghĩa này. Khi các chủ thể cạnh tranh với nhau để giành lợi thế
về phía mình, các chủ thể phải áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp nhằm duy trì và
phát triển vị thế của mình trên thị trường. Các biện pháp này thể hiện một sức mạnh
nào đó, một khả năng nào đó hoặc một năng lực nào đó của chủ thể được gọi là
năng lực cạnh tranh của chủ thể đó. Khi muốn chỉ một sức mạnh, một khả năng duy
trì được vị trí của một hàng hoá nào đó trên thị trường người ta cũng dùng thuật ngữ
năng lực cạnh tranh của hàng hoá, đó cũng là chỉ mức độ hấp dẫn của hàng hoá đó
đối với khách hàng. Có tác giả sau khi phân tích bản chất năng lực cạnh tranh đã đi
đến kết luận “năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp thể hiện thực lực và lợi thế so
sánh của nó so với đối thủ khác trong việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách
hàng để thu lợi ích ngày càng cao cho doanh nghiệp của mình.”
Có quan điểm đã cho rằng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả
năng giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định.
Các quan niệm xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau nhưng đều liên quan đến
hai khía cạnh là chiếm lĩnh thị trường và lợi nhuận. Như vậy năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp có thể được hiểu là “khả năng tồn tại, duy trì hoặc gia tăng lợi
nhuận, thị phần trên thị trường của các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp”.
Ở đây chúng ta cần phân biệt năng lực cạnh tranh của hàng hoá, năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của quốc gia. Năng lực cạnh
tranh của hàng hoá có thể hiểu khái quát là tổng thể các yếu tố gắn trực tiếp với
hàng hoá cùng với các điều kiện, công cụ và biện pháp cấu thành khả năng cạnh
tranh được chủ thể dùng trong ganh đua với nhau nhằm chiếm lĩnh thị trường, giành
khách hàng và đem lại nhiều lợi ích cho chủ thể tham gia cạnh tranh.
Còn năng lực cạnh tranh quốc gia, theo Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF)
cho rằng “khả năng cạnh tranh của một quốc gia là khả năng đạt và duy trì được
mức tăng trưởng trên cơ sở các chính sách thể chế vững bền tương đối và các đặc
trưng kinh tế khác”.
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và năng lực cạnh tranh của sản phẩm
khác nhau ở chỗ doanh nghiệp là một tổ chức chặt chẽ, có thể đồng thời sản xuất

nhiều mặt hàng với năng lực cạnh tranh khác nhau. Năng lực cạnh tranh của sản
phẩm thể hiện năng lực của sản phẩm đó thay thế một sản phẩm khác đồng nhất
hoặc khác biệt, có thể do đặc tính chất lượng sản phẩm hoặc giá cả sản phẩm. Năng
lực cạnh tranh của sản phẩm là một trong những yếu tố cấu thành năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp.
Trong khi đó cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có thể diễn ra khi họ cung
ứng những sản phẩm hoàn toàn giống nhau hoặc khác nhau và có thể thay thế cho
nhau. Nếu doanh nghiệp nào bán được nhiều sản phẩm hơn và ngày càng chiếm
nhiều thị phần hơn so với đối thủ thì doanh nghiệp đó có năng lực cạnh tranh cao
hơn.
Năng lực cạnh tranh quốc gia là tổng hợp năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong quốc gia đó. Vì vậy hai vấn đề này luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau.
Và nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp là một trong những vấn đề then
chốt mà mỗi doanh nghiệp nói riêng và mỗi quốc gia nói chung luôn quan tâm trong
giai đoạn hiện nay.
1.2.2. Sự cần thiết của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó
nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để
đạt được các kết quả đó. Các kết quả đạt được có thể là sự tăng thêm các tài sản vật
chất, tài sản tài chính, tài sản trí tuệ… và nguồn nhân lực có đủ điều kiện làm việc
với năng suất cao hơn. Hoạt động đầu tư có tác động rất lớn đến khả năng cạnh
tranh của một doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp sản xuất thì những khoản đầu tư
này thể hiện:
- Đầu tư vào tài sản cố định, mua sắm máy móc thiết bị hiện đại
- Đầu tư cho đào tạo, tuyển dụng nhân viên có trình độ
- Đầu tư cho hoạt động marketing
- Chi cho công tác quản lý
- Chi lập kế hoạch, lập hồ sơ mời thầu
Doanh nghiệp có hoạt động đầu tư hợp lý sẽ làm tăng năng lực của doanh
nghiệp từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Đồng

thời năng lực cạnh tranh có tác động trở lại hoạt động đầu tư. Khi sức cạnh tranh
của doanh nghiệp tăng lên, thị phần tăng kéo theo doanh thu và lợi nhuận của doanh
nghiệp tăng, như vậy doanh nghiệp sẽ có nhiều tiền hơn để tái đầu tư
Toàn cầu hóa kinh tế hiện nay đã và đang là xu hướng tất yếu khách quan
bao trùm hầu hết các lĩnh vực, vừa thúc đẩy hợp tác vừa phát triển sức ép cạnh tranh
và tính phụ thuộc lẫn nhau. Văn kiện Đại Hội Đảng IX đã xác định: “Đối với nước
ta tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới được nâng lên một bước
mới gắn với thực hiện các cam kết quốc tế đòi hỏi chúng ta phải nâng cao hiệu quả,
sức cạnh tranh và khả năng độc lập tự chủ của nền kinh tế, tham gia có hiệu quả
vào quá trình phân công lao động quốc tế”. Chính sự khác biệt về các nhân tố đầu
vào của quá trình sản xuất, chính sách quản lý của mỗi của quốc gia, mỗi ngành,
mỗi doanh nghiệp đã tạo nên những lợi thế cạnh tranh và tồn tại trong quá trình hội
nhập kinh tế toàn cầu.
Như vậy, bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi quốc
gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng muốn giành được lợi thế trong kinh
doanh cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và doanh nghiệp mình.
1.2.3. Nội dung đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh
1.2.3.1.Đầu tư vào khối xây dựng cơ bản
Đầu tư vào khối xây dựng cơ bản là hoạt động đầu tư nhằm tái tạo tài sản cố
định của doanh nghiệp. Đầu tư XDCB bao gồm các hoạt động chính như: xây lắp và
mua sắm máy móc thiết bị. Trong doanh nghiệp, đặc biệt doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh, để các hoạt động diễn ra bình thường đều cần xây dựng nhà xưởng, kho
tàng, các công trình kiến trúc, mua và lắp đặt trên nền bệ các máy móc thiết bị…
Hoạt động đầu tư này đòi hỏi lượng vốn nhiều trong tổng vốn đầu tư phát triển của
đơn vị.
Đầu tư xây dựng cơ bản trong doanh nghiệp là một trong những nội dung
quan trọng của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bởi vì chi phí cho các hạng mục chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư và
đây là bộ phận cơ bản tạo ra sản phẩm - hoạt động chính của mỗi doanh nghiệp. Nói
cách khác đây chính là quá trình bỏ vốn đầu tư để tiến hành các hoạt động xây dựng

cơ bản nhằm tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng tạo ra nhiều tài sản cố
định cho doanh nghiệp. Do vậy đầu tư xây dựng cơ bản là tiền đề quan trọng trong
phát triển kinh tế - xã hội nói chung và doanh nghiệp nói riêng từ đó góp phần nâng
cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp đó.
Các hoạt động của đầu tư xây dựng cơ bản được tiến hành thông qua các
hình thức xây dựng mới, cải tạo, mở rộng, hiện đại hóa hay khôi phục tài sản cố
định của doanh nghiệp.
1.2.3.2. Đầu tư vào máy móc thiết bị và công nghệ.
Có thể nói công nghệ sản xuất và máy móc thiết bị là một trong những yếu tố
ảnh hưởng lớn đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Có được công nghệ máy
móc thiết bị hiện đại góp phần tạo nên thế mạnh về chất lượng cũng như giá thành
của sản phẩm trên thị trường, tạo đà cho công ty phát triển. Ngày nay cùng với sự
phát triển của khoa học kỹ thuật tạo ra các máy móc thiết bị hiện đại, sự khám phá
ra những nguồn nguyên nhiên vật liệu mới với chi phí thấp hơn, sự chuyển giao
công nghệ giữa các quốc gia đã góp phần nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành,
tăng thêm chất lượng hàng hóa và nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp
trên thị trường. Sự tác động của khoa học công nghệ đã giúp các doanh nghiệp
trong nước thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới, đồng
thời tạo ra những thách thức lớn về khả năng phát triển. Công nghệ lạc hậu của
doanh nghiệp trong điều kiện khó khăn về vốn, lao động đã làm cho doanh nghiệp
không có khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Trong điều kiện đó, chỉ những doanh nghiệp nhận thức được tầm quan trọng
của công nghệ kỹ thuật, chủ động đầu tư nghiên cứu phát triển, áp dụng các kết quả
nghiên cứu vào hoạt động sản xuất kinh doanh, lựa chọn công nghệ phù hợp mới có
khả năng phát triển. Đây là vấn đề nhận thức chung cho tất cả các doanh nghiệp.
1.2.3.3. Đầu tư vào nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vị trí đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế và doanh
nghiệp. Chỉ có nguồn nhân lực chất lượng cao mới đảm bảo dành thắng lợi trong
cạnh tranh. Do vậy, đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là rất cần thiết. Đầu
tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm đầu tư cho hoạt động đào tạo (chính quy,

không chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ ) đội ngũ lao động, đầu
tư cho công tác chắm sóc sức khỏe, y tế, đầu tư cho cải thiện môi trường, điều kiện
làm việc của người lao động trả lương đúng và đủ cho người lao động cũng được
xem là hoạt động đầu tư phát triển. Lực lượng sản xuất là nhân tố quyết định và thể
hiện trình độ văn minh của nền sản xuất xã hội. Trong thực tế, đầu tư nguồn nhân
lực có vai trò đặc biệt quan trọng bởi lẽ nhân tố con người luôn là nhân tố có tính
chất quyết định trong mọi tổ chức. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn lao động có
quan hệ chặt chẽ với đầu tư máy móc thiết bị nhà xưởng do ứng với những mức độ
hiện đại khác nhau của công nghệ sẽ cần lực lượng lao động với trình độ phù hợp.
Trình độ của lực lượng lao động được nâng cao cũng góp phần khuyếch trương tài
sản vô hình của doanh nghiệp.
Vì vậy để nâng cao năng lực sản xuất cũng như năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp thì vấn đề cấp thiết là phải nâng cao chất lượng nguồn lao động.
Trong lịch sử Kinh tế học, một số nhà kinh tế học tư sản trước Mác, chẳng hạn như
Adam Smith, đã coi lao động là nguồn gốc của mọi của cải vật chất. Trong Biện
chứng của tự nhiên, Ph.Ăngghen một lần nữa đã khẳng định lại vai trò của nguồn
lao động. Bởi vì con người vừa là động lực vừa là mục tiêu của sự phát triển. Con
người là chủ thể của mọi quá trình lao động sản xuất, với tư cách đó, con người
không chỉ quyết định hiệu quả của việc khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên và
các nguồn lực khác hiện có, mà còn góp phần quan trọng vào sự phát triển bền vững
trong tương lai.
1.2.3.4. Đầu tư vào hoạt động Marketing
Vai trò của hoạt động maketing của doanh nghiệp là rất quan trọng. Nó giúp
doanh nghiệp tìm kiếm, phát triển thị trường mới, củng cố vị trí tại các thị trường cũ
…đây là vấn đề quyết định sự tồn tại và phát triển của công ty vì vậy cần phải được
doanh nghiệp quan tâm và đầu tư hơn nữa trong tương lai. Đầu tư cho hoạt động
marketing của công ty bao gồm các hoạt động chủ yếu sau
- Đầu tư vào công tác khảo sát, nghiên cứu thị trường đầu ra, dự báo những
biến động về cung cầu sản phẩm, những biến động trên thị trường trong nước và thế
giới, tìm hiểu các đối thủ cạnh tranh và công tác xây dựng chiến lược kinh doanh.

- Đầu tư vào công tác tìm hiểu những nguồn nguyên liệu đầu vào mới nhằm
tăng cường hiệu quả sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và đưa ra các chính
sách giá phù hợp, theo kịp với tình hình biến động của thị trường.
1.2.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp
1.2.4.1. Các nhân tố ảnh hưởng bởi môi trường vĩ mô
- Tự nhiên - Cơ sở hạ tầng: Tác động rất lớn đến hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Về cơ bản môi trường tự nhiên thường có những tác động bất lợi đối
với các hoạt động của doanh nghiệp, vì doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có liên
quan đến tự nhiên, phụ thuộc khá nhiều vào nguồn nguyên liệu tự nhiên. Để chủ
động đối phó với các tác động của yếu tố tự nhiên, doanh nghiệp phải tính đến các
yếu tố tự nhiên có liên quan thông qua các hoạt động phân tích, dự báo của bản thân
doanh nghiệp và đánh giá của các cơ quan chuyên môn. Các biện pháp thường được
doanh nghiệp sử dụng: dự phòng, san bằng, tiên đoán và các biện pháp khác
- Kinh tế: Bao gồm các yếu tố như tốc độ tăng trưởng và sự ổn định của nền
kinh tế, sức mua, sự ổn định của giá cả, tiền tệ, lạm phát, tỷ giá hối đoái tất cả các
yếu tố này đều ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Những biến động của các yếu tố kinh tế có thể tạo ra cơ hội và cả những thách thức
với doanh nghiệp. Để đảm bảo thành công của hoạt động doanh nghiệp trước biến
động về kinh tế, các doanh nghiệp phải theo dõi, phân tích, dự báo biến động của
từng yếu tố để đưa ra các giải pháp, các chính sách tương ứng trong từng thời điểm
cụ thể nhằm tận dụng, khai thác những cơ hội , né tránh, giảm thiểu nguy cơ và đe
dọa. Khi phân tích, dự báo sự biến động của các yếu tố kinh tế, để đưa ra kết luận
đúng, các doanh nghiệp cần dựa vào một số căn cứ quan trọng: các số liệu tổng hợp
của kì trước, các diễn biến thực tế của kì nghiên cứu, các dự báo của nhà kinh tế lớn
- Kỹ thuật - Công nghệ: đây là nhân tố ảnh hưởng mạnh, trực tiếp đến doanh
nghiệp. Các yếu tố công nghệ thường biểu hiện như phương pháp sản xuất mới, kĩ
thuật mới, vật liệu mới, thiết bị sản xuất, các bí quyết, các phát minh, phần mềm
ứng dụng Khi công nghệ phát triển, doanh nghiệp có điều kiện ứng dụng các
thành tựu của công nghệ để tạo ra sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao hơn nhằm

phát triển kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tuy vậy, nó cũng mang lại cho
doanh nghiệp nguy cơ tụt hậu, giảm năng lực cạnh tranh nếu doanh nghiệp không
đổi mới công nghệ kịp thời
- Văn hóa - Xã hội: ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động quản trị và kinh doanh
của một doanh nghiệp. Doanh nghiệp cần phải phân tích các yếu tố văn hóa, xã hội
nhằm nhận biết các cơ hội và nguy cơ có thể xảy ra. Mỗi một sự thay đổi của các
lực lượng văn hóa có thể tạo ra một ngành kinh doanh mới nhưng cũng có thể xóa
đi một ngành kinh doanh
- Chính trị - Pháp luật: gồm các yếu tố chính phủ, hệ thống pháp luật, xu
hướng chính trị các nhân tố này ngày càng ảnh hưởng lớn đến hoạt động của
doanh nghiệp. Sự ổn định về chính trị, nhất quán về quan điểm, chính sách lớn luôn
là sự hấp dẫn của các nhà đầu tư. Trong xu thế toàn cầu hiện nay, mối liên hệ giữa
chính trị và kinh doanh không chỉ diễn ra trên bình diện quốc gia mà còn thể hiện
trong các quan hệ quốc tế. Để đưa ra được những quyết định hợp lí trong quản trị
doanh nghiệp, cần phải phân tích, dự báo sự thay đổi của môi trường trong từng giai
đoạn phát triển
1.2.4.2. Các nhân tố ảnh hưởng bởi môi trường vi mô
- Nguồn nhân lực của doanh nghiệp
Do sự thay đổi nhanh chóng về công nghệ và khoa học kĩ thuật trên thế giới,
nhân tố con người ngày càng trở nên quan trọng, là nhân tố đảm bảo sự thành công
của đơn vị. Các doanh nghiệp muốn thành công thì cần phải chú trọng vào đầu tư
phát triển chất lượng đội ngũ nguồn nhân lực trong doanh nghiệp của mình. Trong
bất cứ thời đại nào thì nhân tố con người cũng luôn là nhân tố quan trọng nhất trong
mỗi khâu sản xuất. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, khi công nghệ khoa học kĩ
thuật ngày càng hiện đại thì việc nâng cao trình độ, kinh nghiệm của đội ngũ nhân
lực cho phù hợp với trang thiết bị hiện đại trong mỗi doanh nghiệp càng trở lên
quan trọng hơn hết. Do đó, trong chiến lược đầu tư của bất kì một doanh nghiệp
nào, nhân tố con người cũng phải được đưa lên hàng đầu. Cùng với các biện pháp
đào tạo lại, đào tạo nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên tại doanh nghiệp
thì doanh nghiệp cũng cần phải xây dựng các chính sách, đề ra các biện pháp thu

hút nhân tài cho sự phát triển của doanh nghiệp. Mặt khác doanh nghiệp cũng cần
có các chính sách đãi ngộ, thưởng phạt rõ ràng đối với người lao động để họ gắn bó
và đóng góp nhiều hơn nữa cho sự phát triển của doanh nghiệp
- Cơ sở vật chất của doanh nghiệp
Cơ sở vật chất của doanh nghiệp là yếu tố không thể thiếu trong hoạt động
của mỗi doanh nghiệp, là nền tảng cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Cùng với thời gian và sự phát triển mạnh mẽ của nền khoa học kĩ thuật hiện
đại, cơ sở vật chất của doanh nghiệp cũng ngày càng bị mài mòn, hỏng hóc hoặc
không phù hợp để chế tạo ra các sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thời đại. Do đó,
doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất và hiện đại hoá sản phẩm nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp mình thì trong chiến lược đầu tư phải chú trọng cả việc
hiện đại hoá và mở rộng cơ sở vật chất kĩ thuật phù hợp với định hướng sản xuất
kinh doanh
- Bộ máy quản lý của doanh nghiệp
Cơ cấu bộ máy quản lý của doanh nghiệp mà đặc biệt là bộ máy lãnh đạo có vai
trò rất quan trọng đối với sự thành công của doanh nghiệp. Nhà lãnh đạo là người
hoạch định chính sách, chiến lược phát triển cho doanh nghiệp trong từng thời kì
khác nhau, do vậy phẩm chất và năng lực của các nhà quản trị có vai trò quan trọng
ảnh hưởng đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp. Sự tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp phụ thuộc vào phần lớn đặc điểm quản trị doanh nghiệp của bộ máy
quản lý.
1.2.5. Xây dựng ma trận hình ảnh cạnh trạnh.
Để đánh giá khả năng cạnh tranh của các công ty ta xét ma trận hình ảnh
cạnh tranh sau đây
Thiết lập ma trận này nhắm đưa ra những đánh giá so sánh công ty với các
đối thủ cạnh tranh chủ yếu trong cùng ngành, sự so sánh dựa trên các yếu tố ảnh
hưởng đến khả năng cạnh tranh của công ty trong ngành. Qua đó nó cho nhà Quản
trị nhìn nhận được những điểm mạnh và điểm yếu của công ty với đối thủ cạnh
tranh, xác định lợi thế cạnh tranh cho công ty và những điểm yếu cần được khắc
phục. Để xây dựng một ma trận hình ảnh cạnh tranh cần thực hiện qua 5 bước :

Bước 1 : Lập một danh sách khoảng 10 yếu tố chính có ảnh hưởng đến khả năng
cạnh tranh của công ty trong ngành
Bước 2 : Phân loại tầm quan trọng từ 0,0 (không quan trọng) đến 1,0 (rất quan
trọng) cho từng yếu tố. Tầm quan trọng của mỗi yếu tố tùy thuộc vào mức độ ảnh
hưởng của yếu tố đó đến khả năng cạnh tranh của công ty trong ngành. Tổng điểm
số tầm quan trọng của tất cả các yếu tố phải bằng 1,0.
Bước 3 : Xác định trọng số từ 1 đến 4 cho từng yếu tố, trọng số của mỗi yếu tố tùy
thuộc vào khả năng của công ty với yếu tố, trong đó 4 là tốt, 3 là trên trung bình, 2
là trung bình, 1 là yếu.
Bước 4 : Nhân tầm quan trọng của từng yếu tố với trọng số của nó để xác định điểm
số của các yếu tố.
Bước 5 : Cộng số điểm của tất cả các yếu tố để xác định tổng số điểm của ma trận.
Cách đánh giá : So sánh tổng số điểm của công ty với các đối thủ cạnh tranh
chủ yếu trong ngành để đánh giá khả năng cạnh tranh của công ty.
Theo nguồn thông tin từ phòng marketing thì các yếu tố chính có ảnh hưởng
đến khả năng cạnh tranh của công ty là thị phần, uy tín thương hiệu, chất lượng sản
phẩm, giá cả, hiệu quả của marketing, khả năng tài chính, am hiểu thị trường, sự
linh hoạt của tổ chức, lợi thế về vị trí, mạng lưới phân phối, dựa vào các phân tích
trên ta có phương trình biểu diễn mức độ quan trọng của các yếu tố đến khả năng
cạnh tranh của doanh nghiệp như sau:
Khả năng cạnh tranh = a
1
* thị phần + a
2
* uy tín thương hiệu + a
3
*
chất lượng sản phẩm + a
4
* giá cả + a

5
* hiệu quả của marketing + a
6
* khả
năng tài chính + a
7
* am hiểu thị trường + a
8
* sự linh hoạt của tổ chức + a
9
*
lợi thế về vị trí + a
10
* mạng lưới phân phối + U
i
Trong đó: các biến a1, a2, a3, a4, a5, a6, a7, a8, a9, a10 lần lượt biểu diễn
mức độ quan trọng của các yếu tố thị phần, uy tín thương hiệu, chất lượng sản
phẩm, giá cả, hiệu quả của marketing, khả năng tài chính, am hiểu thị trường, sự
linh hoạt của tổ chức, lợi thế vị trí, mạng lưới phân phối trong khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp; U
i
là bao gồm các yếu tố khác.
1.3. Các chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để đánh giá được kết quả khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp ta có thể
dựa vào một số chỉ tiêu sau:
1.3.1. Thị phần.
Doanh thu là số tiền mà doanh nghiệp thu được khi bán hàng hoá hoặc dịch vụ.
Bởi vậy mà doanh thu có thể được coi là một chỉ tiêu đánh giá năng lực cạnh tranh.
Hơn khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp là khả năng duy trì và tăng thêm lợi
nhuận. Căn cứ vào chỉ tiêu doanh thu qua từng thời kỳ hoặc qua các năm ta có thể

đánh giá được kết quả hoạt động kinh doanh là tăng hay giảm, theo chiều hướng tốt
hay xấu. Nhưng để đánh giá được hoạt động kinh doanh đó có mang lại được hiệu
quả hay không ta phải xét đến những chi phí đã hình thành nên doanh thu đó. Nếu
doanh thu và chi phí của doanh nghiệp đều tăng lên qua các năm nhưng tốc độ tăng
của doanh thu lớn hơn tốc độ tăng của chi phí thì hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp được đánh giá là tốt, doanh nghiệp đã biết phân bổ và sử dụng hợp lý yếu tố
chi phí, bởi một phần chi phí tăng thêm đó được doanh nghiệp mở rộng quy mô
kinh doanh, đầu tư mua sắm trang thiết bị và xây dựng cơ sở hạ tầng. v.v.
Trên thực tế có rất nhiều phương pháp khác nhau để đánh giá năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp so với các doanh nghiệp khác, trong đó thị phần là một chỉ
tiêu thường hay được sử dụng. Thị phần được hiểu là phần thị trường mà doanh
nghiệp chiếm giữ trong tổng dung lượng thị trường. Do đó thị phần của doanh
nghiệp được xác định:
Thị phần của doanh nghiệp =
Chỉ tiêu này càng lớn nói lên sự chiếm lĩnh thị trường của doanh nghiệp càng
rộng. Thông qua sự biến động của chỉ tiêu này ta có thể đánh giá mức động hoạt
động của doanh nghiệp có hiệu quả hay không bởi nếu doanh nghiệp có một mảng
thị trường lớn thì chỉ số trên đạt mức cao nhất và ấn định cho doanh nghiệp một vị
trí ưu thế trên thị trường. Nếu doanh nghiệp có một phạm vi thị trường nhỏ hẹp thì
chỉ số trên ở mức thấp, phản ánh tình trạng doanh nghiệp đang bị chèn ép bởi các
Doanh thu của doanh nghiệp
Tổng doanh thu toàn ngành
đối thủ cạnh tranh. Bằng chỉ tiêu thị phần, doanh nghiệp có thể đánh giá sơ bộ khả
năng chiếm lĩnh thị trường so với toàn ngành.
Để đánh giá được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp so với các đối thủ
ta dùng chỉ tiêu thị phần tương đối: đó là tỷ lệ so sánh về doanh thu của công ty so
với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất để từ đó có thể biết được những mặt mạnh hay
những điểm còn hạn chế so với đối thủ. Ưu điểm của chỉ tiêu này là đơn giản, dễ
hiểu nhưng nhược điểm của nó là khó nắm bắt được chính xác số liệu cụ thể và sát
thực của đối thủ.

1.3.2. Năng suất lao động.
Năng suất lao động là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh
và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi thông qua năng suất lao động ta có
thể đánh giá được trình độ quản lý, trình độ lao động và trình độ công nghệ của
doanh nghiệp.
1.3.3. Lợi nhuận và tỷ suất lợi nhuận.
Lợi nhuận là một phần dôi ra của doanh thu sau khi đã trừ đi các chi phí
dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận được coi là một chỉ tiêu tổng
hợp đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Bởi vì nếu doanh nghiệp thu
được lợi nhuận cao chắc chắn doanh nghiệp có doanh thu cao và chi phí thấp. Căn
cứ vào chỉ tiêu lợi nhuận các doanh nghiệp có thể đánh giá được khả năng cạnh
tranh của mình so với đối thủ. Nếu lợi nhuận cao thì khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp cao và được đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp rất khả
quan.
Nếu xét về tỷ suất lợi nhuận:
Tỷ suất lợi nhuận =
Chỉ tiêu này cho thấy nếu có 100 đồng doanh thu thì sẽ thu được bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Nếu chỉ tiêu này thấp tức là tốc độ tăng của lợi nhuận nhỏ hơn tốc
độ tăng của doanh thu, chứng tỏ sức cạnh tranh của doanh nghiệp thấp. Hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp chưa đạt hiệu quả cao. Đã có quá nhiều đối thủ thâm
nhập vào thị trường của doanh nghiệp. Do đó doanh nghiệp phải không ngừng mở
rộng thị trường để nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhằm mục đích nâng cao lợi
Lợi nhuận
thuầ
Tổng doanh thu
nhuận. Nếu chỉ tiêu này cao tức là tốc độ tăng lợi nhuận lớn hơn tốc độ tăng của
doanh thu. Hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được đánh giá là có hiệu quả.
Điều này chứng tỏ khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp cao. Doanh nghiệp cần
phát huy lợi thế của mình một cách tối đa và không ngừng đề phòng đối thủ cạnh
tranh tiềm ẩn thâm nhập vào thị trường của doanh nghiệp bất cứ lúc nào do sức hút

lợi nhuận cao
1.3.4. Uy tín của doanh nghiệp.
Uy tín của doanh nghiệp là một trong những chỉ tiêu quan trọng để đánh giá
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào có uy tín sẽ có nhiều bạn
hàng, nhiều đối tác làm ăn và nhất là có một lượng khách hàng rất lớn. Mục tiêu của
các doanh nghiệp là doanh thu, thị phần và lợi nhuận .v.v. Nhưng để đạt được các
mục tiêu đó doanh nghiệp phải tạo được uy tín của mình trên thị trường, phải tạo
được vị thế của mình trong con mắt của khách hàng. Cơ sở, tiền đề để tạo được uy
tín của doanh nghiệp đó là doanh nghiệp phải có một nguồn vốn đảm bảo để duy trì
và phát triển hoạt động kinh doanh, có một hệ thống máy móc, cơ sở hạ tầng đáp
ứng đầy đủ yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Yếu tố quan trọng nhất để tạo nên uy
tín của doanh nghiệp đó là “ con người trong doanh nghiệp” tức doanh nghiệp đó
phải có một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, đội ngũ nhân
viên giỏi về tay nghề và kỹ năng làm việc, họ là những con người có trách nhiệm và
nhiệt tình trong công việc, biết khơi dậy nhu cầu của khách hàng
1.3.5. Năng lực quản lý và điều hành.
Năng lực của nhà quản trị được thể hiện ở việc đưa ra các chiến lược, hoạch
định hướng đi cho doanh nghiệp. Nhà quản trị giỏi phải là người giỏi về trình độ,
giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, có khả năng giao tiếp, biết nhìn nhận và giải quyết
các công việc một cách linh hoạt và nhạy bén, có khả năng thuyết phục để người
khác phục tùng mệnh lệnh của mình một cách tự nguyện và nhiệt tình. Biết quan
tâm, động viên, khuyến khích cấp dưới làm việc có tinh thần trách nhiệm. Điều đó
sẽ tạo nên sự đoàn kết giữa các thành viên trong doanh nghiệp. Ngoài ra nhà quản
trị còn phải là người biết nhìn xa trông rộng, vạch ra những chiến lược kinh doanh
trong tương lai với cách nhìn vĩ mô, hợp với xu hướng phát triển chung trong nền
kinh tế thị trường. Nhà quản trị chính là người cầm lái con tầu doanh nghiệp, họ là
nhứng người đứng mũi chịu sào trong mỗi bước đi của doanh nghiệp. Họ là những
người có quyền lực cao nhất và trách nhiệm thuộc về họ cũng là nặng nề nhất. Họ
chính là nhứng người xác định hướng đi và mục tiêu cho doanh nghiệp. Vì vậy mà
nhà quản trị đóng một vai trò chủ chốt trong sự phát triển của doanh nghiệp .

1.3.6. Tỷ lệ đầu tư cho marketing / doanh thu.
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của hoạt động maketing của doanh nghiệp, từ
đó thấy được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Tỷ suất chi phí marketing =
Nếu chỉ tiêu này cao chứng tỏ doanh nghiệp rất chú trọng đến hoạt động
maketing, quảng bá sản phẩm của doanh nghiệp đến với người tiêu dùng. Doanh
nghiệp đang nỗ lực đầu tư để nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới đáp ứng nhu
cầu và phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng.
Đầu tư phát triển hoạt động maketing là một trong những nội dụng quan
trọng nhất trong đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Chi phí cho maketing
Tổng doanh thu

×