MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Kinh tế càng phát triển càng đòi hỏi các quốc gia phải tự biến mình thành một
bộ phận, một khâu trong dây chuyền sản xuất quốc tế. Hội nhập kinh tế là công
cụ duy nhất giúp chúng ta thực hiện được điều này. Ngày 11/1/2007, Việt Nam
chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Điều
này đã đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế
của nước ta. Việc trở thành thành viên của WTO đem lại chúng ta nhiêu cơ hội
lớn nhưng cũng đặt ra cho Việt Nam rất nhiều thách thức cho nền kinh tế nước
ta vẫn còn kém phát triển. Vấn đề năng lực cạnh tranh, chất lượng hàng hoá -
dịch vụ đang là bài toán nan giải trong các ngành và toàn bộ nền kinh tế. Thuỷ
sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta trong thời gian
qua và những năm tới. Hiện nay, Nhà nước ta đang có kế hoạch phat triển thuỷ
sản trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đi đầu trong danh sách các mặt hàng
1
xuất khẩu chủ lực, góp phần tăng trưởng và hội nhập kinh tế quốc tế. Do vậy,
hoạt động xuất khẩu thuỷ sản có ý nghĩa rất lớn đối với kinh tế nước ta trong
những năm tới. Cũng chính vì điều này mà tôi chọn đề tài: Tác động của việc
gia nhập WTO đến hoạt động xuất khẩu ngành thuỷ sản Việt Nam để thực hiện
để án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn GS.TS ĐẶNG ĐÌNH ĐÀO đã giúp đỡ tôi hoàn
thành đề án này.
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XUẤT KHẨU
THUỶ SẢN
I/ VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU THUỶ SẢN ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ
QUỐC DÂN.
1/ Khái quát về thuỷ sản
Nông nghiệp hiểu theo nghĩa rộng bao gồm các ngành trồng trọt, chăn nuôi,
lâm nghiệp và thuỷ sản. Như vậy, khi nói đến ngành thuỷ sản, người ta nói đến
ba khía cạnh chủ yếu sau đây:
Một là, ngành thuỷ sản là một bộ phận hay còn gọi là một phân ngành của
nông nghiệp, bởi vì ngành thuỷ sản có những đặc điểm cơ bản của nông nghiệp
nói chung. Tư liệu sản xuất chủ yếu của ngành thuỷ sản là mặt nước; đối tượng
lao động là những sinh vật thuỷ sinh; kết quả sản xuất của ngành là những sản
phẩm sinh vật, những kết quả sinh học. Mặc dù có những đặc điểm tương tự của
nông nghiệp, ngành thuỷ sản vẫn có tính độc lập tương đối về kinh tế, kỹ thuật
2
và môi trường. Tính độc lập tương đối về kinh tế biểu hiện ở chỗ trong ngành
thuỷ sản người ta rất khó phân biệt rạch ròi về quyền sở hữu, quản lý và sử dụng
thuỷ vực và các nguồn lợi thuỷ sản, nhất là đối với các lưu vực con sông, cửa
biển, vùng vịnh hay vùng biển. Do vậy, trong các hình thức tổ chức sản xuất, sự
hiệp tác thường được coi trọng. Về mặt kỹ thuật, tính độc lập tương đối thể hiện
ở chỗ ngành thuỷ sản cũng đòi hỏi phải có một hệ thống cơ sở vật chất riêng
phục vụ cho nuôi trồng hay đánh bắt. Về môi trường, hoạt động của ngành thuỷ
sản cũng có thể tự gây ô nhiễm cho môi trường nước, lại cũng có thể làm các
thuỷ vực và nguồn lợi thuỷ sản bị ô nhiễm hay huỷ hoại do hoạt động của các
ngành khác gây ra. Do vậy, sự phát triển hài hoà giữa thuỷ sản và trồng trọt,
chăn nuôi và lâm nghiệp trên từng vùng sinh thái là điều kiện phát triển bền
vững của nông nghiệp nói chung.
Hai là, những hoạt động xuất phát điểm của ngành thuỷ sản gồm nuôi trồng
và đánh bắt thuỷ sản. Tuỳ điều kiện cụ thể của mỗi vùng và mỗi địa phương về
mặt nước và nguồn lợi thuỷ sản mà địa phương đó coi trọng hoạt động nuôi
trồng, đánh bắt hoặc kết hợp phát triển một cách hài hoà các hoạt động nói trên.
Ba là, ngành thuỷ sản là một ngành hàng có tính chất liên ngành cao. Khi
trình độ phát triển và nhu cầu xã hội còn thấp, sản xuất ngành thuỷ sản có quy
mô nhỏ, sản phẩm ít nên chỉ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trực tiếp dưới dạng sản
phẩm tươi. Khi quy mô sản xuất tăng lên, nhu cầu tiêu dùng của xã hội đa dạng
và phức tạp thì việc chế biến phần lớn các sản phẩm đòi hỏi phải phát triển
mạnh mẽ các ngành chuyên môn hoá hẹp như: công nghiệp đánh bắt cá biển, cơ
khí chế tạo và sửa chữa tàu thuyền, công nghiệp sản xuất thức ăn cho chăn nuôi
thuỷ sản …
2/ Vai trò của xuất khẩu thuỷ sản dối với kinh tế Việt Nam
Đối với những nước có tiềm năng về thuỷ vực và nguồn lợi thuỷ sản, phát
triển ngành thuỷ sản tạo ra nguồn hàng xuất khẩu có giá trị, tăng thu ngoại tệ
cho đất nước.
3
Trong nhiều năm qua, ngành thuỷ sản nước ta đã từng bước phát triển và có
đóng góp quan trọng vào hoạt động xuất khẩu của đất nước. Năm 1980, sản
lượng thuỷ sản cả nước đạt 558,66 ngàn tấn, trong đó xuất khẩu 2,72 ngàn tấn,
đạt giá trị kim ngạch 11,3 triệu USD. Đến năm 2001, sản lượng đạt 2.226,9 ngàn
tấn (tăng gần 4 lần), xuất khẩu là 358,833 ngàn tấn (tăng gần 132 lần), đạt giá trị
kim ngạch là 1760 triệu USD (tăng 155 lần ). Năm 2003, mặc dù ngành thuỷ sản
nước ta phải đối mặt với những diễn biến phức tạp của thị trường thế giới,
những rào cản thương mại của một số nước, nhưng giá trị kim ngạch xuất khẩu
thuỷ sản vẫn đạt 2,3 tỷ USD (bằng 1,3 lần so với năm 2000),trong đó giá trị xuất
khẩu tôm đạt trên 1tỷ USD đã khẳng định vị trí xuất khẩu tôm trên thị trường thế
giới và trong nghề nuôi trồng thuỷ sản nước ta. Đối với các doanh nghiệp chế
biến xuất khẩu trong ngành thuỷ sản, đến nay đã có những bước tiến quan trọng
trong việc đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh. Đã có 100 doanh nghiệp
được EU công nhận đủ điều kiện an toàn vệ sinh, hơn 120 doanh nghiệp được
cấp giấy phép vào thị trường Mỹ. Các doanh nghiệp cũng từng bước nâng cao
năng lực xúc tiến thương mại để đi vào các thị trường mới. Đối với toàn ngành
thuỷ sản, đã có những tiến bộ đáng kể về gắn kết giữa yêu cầu thị trường ngoài
nước ( về số lượng, chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm ) với thực tiễn sản
xuất kinh doanh chế biến, nuôi trồng, khai thác với phát triển cơ sở hậu cần dịch
vụ; gắn kết giữa khâu chế biến xuất khẩu với yêu cầu vệ sinh trong nuôi trồng,
bảo quản và khai thác sản phẩm, gắn kết giữa khâu chế biến xuất khẩu với chế
biến phục vụ nhu cầu thị trường nội địa. Hiện nay sản phẩm thuỷ sản Việt Nam
đã xuất khẩu tới 80 nước và vùng lãnh thổ thế giới và đem lại nguồn thu khá lớn
cho đất nước.
Ngoài ra xuất khẩu thuỷ sản còn tạo điều kiện cho Việt Nam đi sâu khai phá
những thị trường tiềm năng trên thế giới, tạo điều kiện giao lưu kinh tế, hợp tác
quốc tế, giúp Việt Nam nhanh chón hội nhập với thế giới.
3/ Các nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu thuỷ sản
3.1. Thuế quan hay thuế xuất nhập khẩu (XNK)
4
Đây là loại thuế gián thu đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu khi qua lĩnh vực
thuế quan của một nước. Nhà nước sử dụng công cụ thuế quan nhằm hai mục
tiêu: Một là, quản lý XNK, nâng cao hiệu quả hoạt động ngoại thương, góp phần
bảo vệ sản xuất và hướng dẫn tiêu dùng; hai là, tăng thu ngân sách. Mặc dù,
trong những năm gần đây, vai trò của thuế trong thương mại quốc tế đang bị
giảm dần ở các nước chậm phát triển, song khoản thu về thuế trong thương mại
quốc tế vẫn chiếm vị trí đáng kể, đặc biệt là thuế XNK. Hiện nay, nó vẫn là công
cụ được sử dụng rộng rãi nhất trong chính sách thương mại của Chính phủ các
nước. Đối với một nền kinh tế quy mô nhỏ khi đánh thuế nhập khẩu sẽ không
làm ảnh hưởng đến giá cả thế giới. thông thường thuế quan nhập khẩu dẫn đến
giá nội địa cao lên làm cho mớc tiêu dùng nội địa giảm đi, sản xuất trong nước
có điều kiện tăng lên; do đó khối lượng hàng nhập khẩu bị giảm bớt.Thuế nhập
khẩu tạo ra sự phân phối lại thu nhập từ người tiêu dùng sản phẩm nội địa ( vì
phải mua hàng với mức giá cao hơn ) sang người sản xuất trong nước ( vì nhận
được mức giá cao hơn ), đồng thời cũng có sự phân phối lại từ các nhân tố dư
thừa của một quốc gia sang các nhân tố khan hiếm của một quốc gia khác. Chính
phủ là ngườ nhận khoản thu vè thuế, còn người tiêu dùng phải chịu gánh nặng
về thuế. Thuế quan nhập khẩu cũng dẫn đến sự tổn thất cho nền kinh tế do hạn
chế tự do hoá thương mại, tổn thất này gọi là chi phí bảo hộ. Hình thức phổ biến
nhất hạn chế tự do hoá thương mại là thuế quan hay thuế XNK. Nó yêu cầu
người nhập khẩu hàng hoá phải trả một tỷ lệ phần trăm cụ thể theo giá cả quốc tế
cho Nhà nước.
3.2. Hàng rào phi thuế quan
Đó là những quy định hành chính phân biệt đói xử nhằm chống lại hàng hoá
nước ngoài và ủng hộ sản xuất nội địa. Nhà nước tuyên truyền quảng cáo
khuyên người tiêu dùng hoặc ra lệnh cho các viên chức dùng hàng hoá nội địa.
Như vậy , hàng rào phi thuế quan có thể được khái quát là những khác biệt trong
những quy định hoặc tập quán của các quốc gia làm cản trở sự lưu thông tự do
của hàng hoá, dịch vụ và các yếu tố sản xuất với các nước. Biện pháp hạn chế
5
xuất khẩu tự nguyện cũng là một trong các hình thức của hàng rào mậu dịch phi
thuế quan. Thực chất đây là cuộc thương lượng mậu dịch giữa các bên để hạn
chế bớt sự xâm nhập của hàng ngoại, tạo công ăn biệc làm cho thị trường trong
nước.
Theo cam kết của Việt Nam với WTO thì sẽ có khoảng hơn 1/3 số dòng thuế
của biểu thuế phải cắt giảm, chủ yếu là các dòng có thuế suất trên 20%. Một số
mặt hàng nông sản vẫn được duy trì mức bảo hộ nhất định. Cá là một trong
những mặt hàng có mức cắt giảm thuế nhiều nhất.
3.3. Trợ cấp xuất khẩu
Trợ cấp xuất khẩu là những biện pháp của Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp
sản xuất hàng xuất khẩu và các doanh nghiệp kinh doanh XK nhằm tăng nhanh
số lượng hàng và trị giá kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Bên cạnh
những công cụ nhằm hạn chế NK còn có những công cụ dùng để nâng đỡ hoạt
động XK. Trợ cấp XK là những biện pháp mà Chính phủ áp dụng như trợ cấp
trực tiếp hoặc cho vay với tỷ lệ lãi suất thấp hoặc là miễn thuế cho các nhà xuất
khẩu trong nước. Mặt khác, Chính phủ cũng có thể thực hiện một khoản cho vay
ưu đãi đối với các bạn hàng nước ngoài để họ có điều kiện mua các sản phẩm do
nước mình sản xuất ra và để xuất khẩu ra bên ngoài. Biện pháp này thường được
các nước công nghiệp phát triển áp dụng dưới danh nghĩa khoản tín dụng viện
trợ cho các nước đang phát triển vay.
Việc áp dụng một khoản trợ cấp cho các nhà sản xuất trong nước sẽ làm cho
cung tăng. Lượng sản xuất ra tăng đúng bằng lượng hàng nhập khẩu giảm.
Người sản xuất trong nước được lợi vì thực tế họ dược trả ở mức giá cao hơn so
với mức giá khi nhập khẩu tự do. Còn ngươi tiêu dùng thì không có gì thay đỏi
vì họ vẫn phải trả mức giá không thay đổi như khi nhập khẩu tự do. Còn Chính
phủ thì phải gánh chịu phí trợ cấp, được tính bằng trợ cấp cho mỗi đơn vị hàng
hoá nhân với số lượng hàng hoá làm ra.
6
Như vậy, trợ cấp sản xuất là một công cụ thích hợp vì nó không làm biến
dạng giá cả trên thị trường. Tuy nhiên Chính phủ phải trả giá cho điều đó bằng
cách cấp vốn cho sản xuất.
3.4. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là quan hệ về sức mua giữa bản tệ ( hay nội tệ ) so với các
ngoại tệ khác, đặc biệt là các ngoại tệ có khả năng chuyển đổi tự do. Tỷ giá hối
đoái là loại giá quan trọng nhất, chi phối những loại giá khác và tác động đến
sản xuất. Đặc biệt, xuất nhập khẩu là lĩnh vực chịu sự tác động trực tiếp và nhạy
cảm nhất trước những biến động của tỷ giá hối đoái. Bởi lẽ, là một loại giá cả
quốc tế, tỷ giá hối đoái dùng để tính toán và thanh toán cho hàng hoá và dịch vụ
xuất nhập khẩu ( không dùng để định giá hàng sản xuất trong nước ). Tỷ giá
hàng xuất khẩu là lượng tiền trong nước cần thiết để mua một lượng hàng hoá
xuất khẩu tương đương với một đơn vị ngoại tệ. Tỷ giá hàng nhập khẩu là lượng
tiền trong nước thu được khi bán một lượng hàng hoá nhập khẩu có giá trị một
đơn vị ngoại tệ.
Tỷ giá hối đoái thực tế có hai mục đích là điều chỉnh tác động của mức lạm
phát và phản ánh những biến đổi thực tế trong khả năng cạnh tranh của hàng hoá
XNK của một quốc gia.
3.5. Cán cân thanh toán quốc tế và cán cân thương mại
Cán cân thanh toán quốc tế là một tài khoản tổng hợp tất cả các dòng ngoại tệ
vào ra của đất nước trong một thời kỳ nhất định ( thường là một năm ). Cán cân
thanh toán quốc tế gồm cán cân thanh toán vãng lai ( trao đỏi hàng hoá và dịch
vụ ) và cán cân vốn ( trao đổi vốn ).
Thâm hụt cán cân thanh toán quốc tế khi dòng ngoại tệ đi ra lớn hơn dòng
ngoại tệ đi vào.Thặng dư cán cân thanh toán quốc tế khi dòng ngoại tệ đi vào
lớn hơn dòng ngoại tệ đi ra khỏ đất nước.
Cán cân thương mại – thành phần quan trọng nhất của cán cân vãng lai – là
hệ số thanh toán giữa XK và NK hay sự chênh lệch XNK.Khi kim ngạch XK
7
lớn hơn kim ngạch NK trong một khoảng thời gian ( thường là 1 năm) thì gọi là
xuất siêu và ngược lại goi là nhập siêu.
Cán cân thanh toán quốc tế cho ta thấy được thực trạng về kinh tế - tài chính
của một đất nước, cán cân thương mại cho thấy rõ thực trạng về ngoại thương
của một nước. Hai cán cân này tác động mạnh đến hối đoái và do đó tác động
đến hoạt động XNK.
3.6. Các quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm
Thực chất đây là các quy định về hoá chất, dung lượng kháng sinh trong sản
xuất và cuất khẩu thuỷ sản. Các yêu cầu về chất lượng và vệ sinh an toàn thực
phẩm thủy sản của các thị trường, nhất là thị trường nước ngoài, thay đổi nhanh
chóng và ngày càng nghiêm ngặt. Trong năm 2006, thủy sản xuất khẩu sang
Nhật Bản đã bị cảnh báo dư lượng Chloramphenicol, Nitrofurans trong một số lô
hàng tôm, mực. Hiện nay vấn đề chất lượng sản phẩm đang là nỗi lo ngại lớn
cho các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam.
3.7. Điều kiện tự nhiên
Đây là yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất và nuôi trồng thuỷ
sản Việt Nam vì nước là môi trường sống của các sinh vật thuỷ sản. Trong
những năm qua tình hình khí hậu trên thế giới nói chung và nước ta nói riêng có
những biến động rất phức tạp. Bão, lũ... thường xuyên xảy ra gây thiệt hại lớn
cho ngành thuỷ sản. Do đó công tác phòng chống bão, lũ luôn được ngành chú
trọng phòng, chống.
II/ TỔNG QUAN VỀ TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO
1/ Những điều cần biết về WTO
1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
WTO là chữ viết tắt của Tổ chức Thương mại Thế giới ( World Trade
Organization ) – tổ chức quốc tế duy nhất đưa ra những nguyên tắc thương
mại giữa các quốc gia trên thế giới. Trọng tâm của WTO chính là các hiệp
định đã và đang được các nước đàm phán và ký kết.
8
WTO được thành lập vào ngày 1/1/1995, kế tục và mở rộng phạm vi điều tiết
thương mại quốc tế của tổ chức tiên thân GATT- Hiệp định chung về Thuế quan
Thương mại. Tổ chức GATT ra đời sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, khi mà
trào lưu hình thành hàng loạt cơ chế đa biên điều tiết các hoạt động hợp tác kinh
tế đang diễn ra sôi nổi, điển hình là Ngân hàng Quốc tế Tái Thiết và Phát triển,
thường được biết đến là Ngân hàng Thế giới ( World Bank) và Quỹ tiền tệ Quốc
tế ( IMF ) ngày nay.
Với ý tưởng hình thành những nguyên tắc, thể lệ, luật chơi cho thương mại
quốc tế nhằm điều tiết các lĩnh vực về công ăn việc làm, thương mại hàng hóa,
khắc phục tình trạng hạn chế, ràng buộc các hoạt động này phát triển, 23 nước
sáng lập GATT đã cùng một số nước khác tham gia Hội nghị về thương mại và
việc làm và dự thảo Hiến chương La Havana để thành lập Tổ chức Thương mại
Quốc tế (ITO) với tư cách là chuyên môn của Liên Hiệp Quốc. Đồng thời, các
nước này đã cùng nhau tiến hành các cuộc đàm phán về thuế quan và xử lý
những biện pháp bảo hộ mậu dịch đang áp dụng tràn lan trong thương mại quốc
tế từ đầu những năm 30, nhằm thực hiện mục tiêu tự do hóa mậu dịch, mở
đường cho kinh tế và thương mại phát triển, tạo công ăn việc làm, nâng cao thu
nhập và đời sống của nhân dân các nước thành viên.
Trên cơ sở đó, Hiến chương thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) nói
trên đã được thỏa thuận tại Hội nghị Liên Hiệp Quốc về thương mại và việc làm
ở Havana từ 11/1947 đến 23/4/1948, nhưng do một số quốc gia gặp khó khăn
trong phê chuẩn, nên việc hình thành lập Tổ chức thương mại Quốc tế (ITO) đã
không thực hiện được.Mặc dù vậy, kiên trì mục tiêu đã định, và với kết quả đáng
khích lệ đã đạt được ở vòng đàm phán thuế quan đầu tiên là 45.000 ưu đãi về
thuế áp dụng giữa các bên tham gia đàm phán, chiếm khoảng 1/5 tổng lượng
mậu dịch thế giới, 23 nước sáng lập đã cùng nhau ký hiệp định chung về Thuế
quan và Thương mại (GATT), chính thức có hiệu lực vào 1/1948.
Từ đó tới nay, GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán chủ yếu về thuế quan.
Tuy nhiên, từ thập kỷ 70 và đặc biệt từ hiệp định Uruguay (1986-1994) do
9
thương mại quốc tế không ngừng phát triển, nên GATT đã mở rộng diện hoạt
động, đàm phán không chỉ về thuế quan mà còn tập trung xây dựng các hiệp
định hình thành các chuẩn mực, luật chơi điều tiết các hàng rào phi quan thuế,
về thương mại dịch vụ, quyền sở hữu trí tuệ, các biện pháp đầu tư có liên quan
tới thương mại, về thương mại hàng nông sản, hàng dệt may, về cơ chế giải
quyết tranh chấp. Với diện điều tiết của hệ thống thương mại đa biên được mở
rộng, nên Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT) vốn chỉ là một
sự thỏa thuận có nhiều nội dung ký kết mang tính chất tùy ý đã tỏ ra không thích
hợp. Do đó, ngày 15/4/1994, tại Marrkesh (Maroc), các bên đã kết thúc hiệp
định thành lập Tổ chức thương mại Thế giới (WTO) nhằm kế tục và phát triển
sự nghiệp GATT. WTO chính thức được thành lập độc lập với hệ thống Liên
Hợp Quốc và đi vào hoạt động từ 1/1/1995.
1.2.Về cơ cấu tổ chức của WTO
Hiện nay WTO có 150 nước, lãnh thổ thành viên, chiếm 97% thương mại
toàn cầu và khoảng 30 quốc gia khác đang trong quá trình đàm phán gia
nhập.Hầu hết các quyết định của WTO đều được thông qua trên cơ sở đồng
thuận. Trong một số trường hợp nhất định, khi không đạt được sự nhất trí chung,
các thành viên có thể tiến hành bỏ phiếu. Khác với các tổ chức khác, mỗi thành
viên WTO chỉ có quyền bỏ một phiếu và các phiếu bầu của các thành viên có giá
trị ngang nhau.
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng, họp ít nhất 2
năm một lần. Dưới Hội nghị Bộ trưởng là Đại hội đồng - thường họp nhiều lần
trong một năm tại trụ sở chính của WTO ở Geneva. Nhiệm vụ chính của Đại hội
đồng là giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên và rà soát
các chính sách của WTO.
Dưới Đại hội đồng là Hội đồng Thương mại hàng hóa, Hội đồng thương mại
dịch vụ và Hội đồng giám sát về các vấn đề liên quan đến quyền Sở hữu trí tuệ
(TRIPS).
1.3. Những chức năng chính của WTO
10
- Quản lý các hiệp định về thương mại quốc tế.
- Diễn đàn cho các vòng đàm phán thương mại.
- Giải quyết các tranh chấp thương mại.
- Giám sát các chính sách thương mại.
- Trợ giúp về kỹ thuật và đào tạo cho các nước đang phát triển..
- Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác.
1.4. Những nguyên tắc pháp lý của WTO
1.4.1.Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN)
Nguyên tắc tối huệ quốc còn gọi là chế độ tối huệ quốc hay chế độ ưu đãi
nhất, là chế độ mà các nước dành cho nhau trong quan hệ kinh tế và buôn bán về
thuế quan, mặt hàng trao đổi, vận tải ngoại thương, quyền lợi của các pháp nhân
và thể nhân của nước này trên lãnh thổ của nước kia... theo nguyên tắc không
phân biệt đối xử . Nghĩa là khi một nước cam kết cho một nước khác được
hưởng chế độ tối huệ quốc thì phải dành cho nước đó tất cả những ưu đãi mà
mình dã và sẽ dành cho nước thứ ba. Để thống nhất quản lý nhà nước về Đối xử
tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trên cơ sở bình đẳng trong Thương mại quốc tế,
ngày 25/5/2002 Nhà nước ta đã ban hành pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc và
đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế.
Theo luật pháp thương mại quốc tế thì đây là một nguyên tắc điều chỉnh các
mối quan hệ thương mại và kinh tế giữa các nước trên cơ sở hiệp định, hiệp ước
giữa các nước một cách bình đẳng, có đi có lại, hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên,
mục tiêu chủ yếu của chế độ tối huệ quốc là không phải cho nhau hưởng các đặc
quyền mà là nguyên tắc đảm bảo sự bình đẳng giữa các quốc gia có chủ quyền
về các cơ hội giao dịch thương mại và kinh tế với mục đích thúc đẩy quan hệ
buôn bán giữa các nước phụ thuộc vào mức độ thân thiện giữa các nước với
nhau.
Hiện nay, nguyên tắc tối huệ quốc được các nước trên thế giới áp dụng theo
hai cách khác nhau hay còn gọi là có hai loại chế độ tối huệ quốc, tuỳ thuộc vào
11
lợi ích kinh tế của từng nước : Chế độ tối huệ quốc vô điều kiện, Chế độ tối huệ
quốc có điều kiện
1.4.2. Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia (NF)
Nguyên tắc đãi ngộ quốc gia hay còn gọi là nguyên tắc ngang bằng dân tộc là
chế độ có đi có lại được quy định cụ thể trong các hiệp định thương mại giữa hai
nước. Trong đó, các công dân và pháp nhân của hai nước tham gia trong quan
hệ kinh tế, thương mại sinh sống trên lãnh thổ của nhau được hưởng quyền lợi
và nghĩa vụ như nhau ( trừ quyền bầu cử, ứng cử và tham gia nghĩa vụ quân
sự ) . Nói cách khác, đây là chế độ mà một nước dành cho công dân và pháp
nhân của nước ngoài trên lãnh thổ của nước mình được đối xử ngang bằng như
đối xử với công dân và pháp nhân của nước sở tại về mọi quyền lợi và nghĩa vụ,
trừ quyền bầu cử và ứng cử và nghĩa vụ quân sự. Chẳng hạn, mọi công dân và
pháp nhân của nước A sinh sống, đặt trụ sở ở nước B thì được hưởng quyền lợi
và nghĩa vụ như công dân nước B và ngược lại. Nguyên tắc này đang có xu
hướng áp dụng giữa các nước có cùng trình độ kinh tế phát triển như nhau.
1.4.3. Nguyên tắc mở cửa thị trường
Thực chất đây là nguyên tắc tiếp cận thị trường. Các quốc gia đều mở cửa thi
trường cho hàng hoá, dịch vụ nước ngoài tràn vào, đặc biệt là thu hút vốn đầu tư
nước ngoài để phát triển kinh tế trong nước. Hay nói cách khác là thực hiện tự
do hoá thương mại. Để thực hiện được nguyên tắc này các quốc gia cần phải có
một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, thống nhất, đồng bộ, có các cơ chế, chính
sách tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp, các đối tượng
tham gia vào nền kinh tế. Có như vậy mới đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp
của các bên, mới thực sự tạo đà phát triển cho tất cả các bên.
1.4.4. Nguyên tắc cạnh tranh công bằng
Theo nguyên tắc này, các nước thực hiện cạnh tranh tự do trong những điều
kiện bình đẳng như nhau. Khi đã tham gia vào cùng một sân chơi các bên cần
phải tuân thủ các nguyên tắc đã đề ra. Nó được công nhận là án lệ của vụ án
12
Uruguay kiện 15 nước phát triển ( năm 1962) về việc áp dụng các mức thuế
khác nhau đối với cùng một mặt hàng nhập khẩu.
1.5. Những lợi ích của Tổ chức Thương mại thế giới
1.5.1. WTO giúp gìn giữ hoà bình
Hoà bình-một thành quả của hai nguyên tắc cơ bản nhất của hệ thống thương
mại: giúp thương mại được diễn ra một cách thuận lợi và đưa đến cho các nước
một lối thoát bình đẳng và mang tính xây dựng để giải quyết những bất đồng về
các vấn đề thương mại. Đó cũng là một kết quả của sự hợp tác và lòng tin quốc
tế do WTO tạo ra và duy trì.
Những cuộc chiến tranh trong lịch sử đã xảy ra một phần bắt nguồn từ những
tranh chấp thương mại. Một trong những ví dụ điển hình nhất là cuộc chiến
tranh thương mại những năm 1930, khi các nước cạnh tranh với nhau nhằm tăng
thêm các hàng rào mậu dịch để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước và để trả đũa
rào cản của các nước khác. Điều này càng làm cho cuộc đại suy thoái thêm tồi tệ
và cuối cùng góp phần làm bùng nổ Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, nhờ có hai bước phát triển mới mà thế giới đã
tránh được nhiều tranh chấp trong thương mại. Thứ nhất, ở châu Âu, hợp tác
quốc tế phát triển trong các ngành công nghiệp than, sắt và thép. Thứ hai, trên
phạm vi toàn cầu, Hiệp định chung về thương mại và thuế quan (GATT) đã hình
thành. Cả hai bước phát triển trên đều tỏ ra thành công và hiện nay chúng được
mở rộng rất mạnh - một trở thành Liên minh châu Âu và một trở thành Tổ chức
Thương mại Thế giới.
Các cuộc chiến tranh thương mại những năm 1930 là bằng chứng cho thấy
rằng chủ nghĩa bảo hộ có thể dễ dàng đẩy các nước vào một tình thế trong đó
không có kể thắng mà chỉ toàn người thua. Quan điểm bảo hộ thiển cận cho rằng
việc bảo vệ một số khu vực nhất định chống lại hàng nhập khẩu là rất có lợi.
Những quan điểm này lại lờ đi chuyện các nước khác sẽ phản ứng như thế nào.
Thực tế cho thấy rằng một bước bảo hộ của một quốc gia có thể dễ dàng dẫn đến
13
hành động trả đũa từ các quốc gia khác, dẫn đến mất mát niềm tin vào thương
mại tự do hơn và làm cho tất cả, bao gồm cả các khu vực được bảo hộ ngay từ
đầu sa vào rắc rối kinh tế nghiêm trọng.
Khi các chính phủ đều tin tưởng rằng các nước khác sẽ không tăng cường các
hàng rào mậu dịch thì chính họ cũng sẽ không có ý định làm như vậy. Hệ thống
thương mại WTO đóng vai trò sống còn trong việc tạo ra và củng cố niềm tin
đó. Đặc biệt quan trọng là những cuộc thương lượng đưa đến những thoả thuận
trên cơ sở nhất trí ý kiến và tập trung vào việc tuân thủ các nguyên tắc.
1.5.2. WTO giải quyết các tranh chấp Thương mại một cách xây dựng
Do thương mại tăng lên về khối lượng, số lượng sản phẩm được trao đổi, và
số lượng các nước và công ty tham gia thương mại, nên có thêm nhiều cơ hội để
những tranh chấp thương mại nảy sinh. Hệ thống WTO giúp giải quyết các tranh
chấp này một cách hoà bình và mang tính xây dựng.
Nếu để mặc chúng thì những tranh chấp này có thể dẫn đến những xung đột
nghiêm trọng. Một trong những nguyên tắc của WTO là các thành viên có nghĩa
vụ phải đưa những tranh chấp của mình tới WTO và không được đơn phương
giải quyết. Khi họ đưa các tranh chấp ra giải quyết tại WTO, thủ tục giải quyết
của WTO là tập trung chú ý của họ vào các nguyên tắc. Một khi nguyên tắc
được thiết lập, các nước phải chú trọng nỗ lực tuân thủ nguyên tắc, và có lẽ sau
đó tái thương lượng về các nguyên tắc - chứ không phải là tuyên chiến với nhau.
Theo thống kê, gần 200 tranh chấp đã được đưa ra giải quyết ở WTO kể từ khi
tổ chức này thành lập. Nếu thiếu một phương tiện giải quyết các tranh chấp này
một cách xây dựng và đồng bộ, một số tranh chấp đã có thể dẫn đến những cuộc
xung đột chính trị nghiêm trọng hơn.
1.5.3. WTO-một hệ thống dựa trên những nguyên tắc-giúp cho thương mại
thuận lợi, hiệu quả hơn
WTO không tuyên bố sẽ làm cho tất cả các nước đều bình đẳng. Nhưng WTO
thực sự làm giảm bớt một số bất bình đẳng, giúp các nước nhỏ hơn có nhiều
14
tiếng nói hơn. Đồng thời, hệ thống này cũng giải thoát cho các nước lớn khỏi sự
phức tạp trong việc thoả thuận các hiệp định thương mại với các đối tác của
mình.
Các quyết định và hiệp định của WTO được thực hiện bằng nhất trí ý kiến.
Các nước giàu cũng như nước nghèo đều có thể bị chất vấn nếu họ vi phạm một
hiệp ước, và họ có quyền chất vấn các nước khác trong quy trình giải quyết
tranh chấp của WTO. Thiếu một cơ chế đa phương kiểu hệ thống WTO, các
nước mạnh hơn sẽ càng được tự do đơn phương áp đặt ý muốn của mình cho các
nước yếu hơn. Các nước lớn hơn cũng được hưởng những lợi ích tương xứng.
Các cường quốc kinh tế có thể sử dụng diễn đàn duy nhất của WTO để thương
lượng với tất cả hay với hầu hết các đối tác thương mại của họ cùng một lúc.
Trên thực tế, WTO có riêng một hệ thống nguyên tắc áp dụng với tất cả các
nước thành viên, làm đơn giản hoá rất nhiều toàn bộ cơ chế thương mại.Thương
mại cho phép thực hiện phân công lao động giữa các nước. Nó cho phép sử dụng
một cách phù hợp và hiệu quả các nguồn lực vào sản xuất. Nhưng hệ thống
thương mại WTO còn đem lại nhiều lợi thế hơn nữa. Nó giúp làm tăng hiệu quả
và thậm chí còn giảm bớt chi phí nhiều hơn bởi những nguyên tắc quan trọng
được thiết lập trong hệ thống.
Không phân biệt đối xử chỉ là một trong những nguyên tắc của hệ thống
thương mại WTO. Những nguyên tắc khác gồm có:
- Minh bạch. Thông tin rõ rằng về các chính sách, nguyên tắc và quy định.
- Tin chắc vào các điều kiện thương mại. Những cam kết cắt giảm các hàng
rào thương mại và làm tăng khả năng tiếp cận các thị trường của một số nước
cho các nước khác có sự ràng buộc pháp lý.
- Đơn giản hoá và chuẩn hoá các thủ tục hải quan, xoá bỏ tình trạng quan
liêu, tập trung hoá cơ sở dữ liệu thông tin và các biện pháp khác được thiết lập
nhằm đơn giản hoá thương mại theo phương châm "kích thích thương mại".
15
Tất cả những nguyên tắc này làm cho thương mại đơn giản hơn, giảm bớt phí
tổn cho các công ty, tăng niềm tin vào tương lai. Điều đó cũng có nghĩa là có
nhiều việc làm hơn, người tiêu dùng có hàng hoá và dịch vụ tốt hơn.
1.5.4. WTO giúp thương mại tự do hơn, giảm chi phí cuộc sống
Hệ thống toàn cầu WTO đã giảm bớt các hàng rào mậu dịch thông qua
thương lượng và áp dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử. Kết quả là chi phí
sản xuất giảm, giá hàng hoá thành phẩm và dịch vụ giảm và cuối cùng là chi phí
cuộc sống thấp hơn.
Cho đến nay, các hàng rào mậu dịch đã giảm đi rất nhiều so với trước đây.
Các hàng rào này còn tiếp tục được giảm và tất cả chúng ta đều có lợi.
1.5.5. Người tiêu dùng được tăng sự lựa chọn cả về số lượng và chất lượng
hàng hoá-dịch vụ
Do nhu cầu tiêu dùng ngày một tăng cả về số lượng và chất lượng nên việc
sản xuất trong nước không thể đáp ứng được tất cả nhu cầu cuộc sống con
người. Nhập khẩu cho phép chúng ta có nhiều lựa chọn hơn - cả số lường hàng
hoá và dịch vụ lẫn phạm vi chất lượng. Thậm chí chất lượng của hàng sản xuất
nội địa có thể nâng lên do chính sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu. Nhiều lựa
chọn hơn không đơn giản là vấn đề người tiêu dùng mua hàng thành phẩm của
nước ngoài. Hàng nhập khẩu còn được sử dụng làm nguyên liệu, linh kiện và
thiết bị cho sản xuất trong nước.
Chính điều này mở rộng phạm vi của các thành phẩm và dịch vụ do các nhà
sản xuất trong nước làm và làm tăng phạm vi những công nghệ mà họ có thể sử
dụng. Nhiều khi, sự thành công của một sản phẩm hay dịch vụ nhập khẩu tại thị
trường trong nước cũng có thể khuyến khích các nhà sản xuất trong nước cạnh
tranh, làm gia tăng lựa chọn nhãn hàng hoá sẵn có cho người tiêu dùng cũng như
tăng phạm vi hàng hoá và dịch vụ sản xuất trong nước. Nếu thương mại cho hép
chung ta nhập khẩu nhiều hơn, nó cũng cho phép những người khác mua nhiều
16
hàng sản xuất của chúng ta hơn. Nó làm tăng thu nhập của chúng ta, cung cấp
cho cũng ta những phương tiện để hưởng sự lựa chọn gia tăng đó.
1.5.6. Giảm bớt hàng rào thương mại, làm tăng thu nhập
Giảm bớt hàng rào thương mại cho phép thương mại tăng trưởng, điều này
làm tăng thu nhập - cả thu nhập quốc dân và thu nhập cá nhân. Theo dự tính của
các chuyên gia của WTO về tác động của các thoả thuận thương mại tại vòng
đàm phán Uruguay 1994 là thu nhập của thế giới có thêm từ 109 tỷ USD đến
510 tỷ USD.
Thương mại cũng làm nảy sinh những thách thức khi các nhà sản xuất trong
nước phải đối mặt với sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy rằng, có nguồn thu nhập bổ sung có nghĩa là sẵn có nhiều nguồn lực để các
chính phủ và doanh nghiệp tái phân phối lợi nhuận từ những người được lợi
nhiều nhất (giúp các công ty và công nhân thích ứng bằng cách trở nên năng suất
và có khả năng cạnh tranh hơn trong lĩnh vực mà họ đã và đang làm) hoặc bằng
cách chuyển sang các hoạt động mới.
1.5.7. Giúp đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và có thể làm giảm thất nghiệp
Trên thực tế đã có những bằng chứng cho thấy rằng, việc giảm các rào cản
thương mại là điều kiện tốt cho công ăn việc làm. Mặc dù khá phức tạp và phụ
thuộc vào nhiều yếu tố song bảo hộ cũng không phải là cách để giải quyết các
vấn đề việc làm.
Thương mại phát triển, việc áp dụng tiến bộ công nghệ cũng có tác động
mạnh đến việc làm và năng suất lao động, làm lợi cho một số loại công việc.
Mặc dù, thương mại rõ ràng là làm tăng thu nhập quốc dân (và sự thịnh vượng),
nhưng điều này không phải luôn được hiểu là tạo ra công ăn việc làm mới cho
những người bị mất việc do sự cạnh tranh của hàng nhập khẩu.
Có nhiều tình huống cho thấy rằng cơ hội đã được nắm bắt - đó là những
trường hợp thương mại tự do hơn có lợi cho việc làm. Theo tính toán của Uỷ
ban EU, việc thiết lập thị trường duy nhất của nó có nghĩa là có thêm khoảng từ
17
300.000 đến 900.000 việc làm nữa so với lúc không có thị trường duy nhất.
Thực tế cũng cho thấy, chế độ bảo hộ đã làm hại công ăn việc làm như thế nào.
Ví dụ điển hình là ngành công nghiệp xe hơi của Mỹ. Các hàng rào mậu dịch
được thiết lập để bảo vệ việc làm ở nước này bằng cách hạn chế nhập khẩu từ
Nhật Bản lại dẫn đến việc làm cho xe hơi ở Mỹ đắt thêm, lượng xe hơi vì thế
được bán ít đi và việc làm giảm.
1.5.8. Hệ thống WTO khuyến khích chính phủ hoạt động tốt
Theo các nguyên tắc của WTO, khi đã có cam kết tự do hoá một khu vực
thương mại nào đó, thì khó có thể đảo ngược được. Các nguyên tắc cũng không
khuyến khích những chính sách thiếu thận trọng. Đối với giới kinh doanh, điều
này có nghĩa là độ chắc chắn cao hơn và rõ ràng hơn về các điều kiện thương
mại. Đối với các chính phủ, điều này thường đồng nghĩa với kỷ luật tốt.
Một loại rào cản thương mại mà các nguyên tắc của WTO cố gắng giải quyết
là hạn ngạch. Do hạn ngạch hạn chế cung nên đẩy giá cả tăng lên một cách giả
tạo, đồng thời tạo ra một số lợi nhuận lớn khác thường. Các nhà kinh tế gọi đó là
"thuế hạn ngạch". Lợi nhuận này có thể được dùng để gây ảnh hưởng đối với
các chính sách, vì cũng có nhiều tiền hơn để thực hiện các cuộc vận động ngoài
hành lang. Nói cách khác, hạn ngạch là một biện pháp hạn chế thương mại đặc
biệt tồi tệ. Thông qua các nguyên tắc của WTO các chính phủ đã nhất trí rằng họ
không khuyến khích sử dụng hạn ngạch.Tuy nhiên, nhiều loại hạn ngạch khác
nhau vẫn được áp dụng ở hầu hết các nước và nhiều chính phủ lập luận rằng hạn
ngạch rất cần thiết. Song họ bị các hiệp định của WTO ràng buộc và có những
cam kết giảm bớt hay loại bỏ nhiều loại hạn ngạch, đặc biệt là đối với ngành dệt.
Bên cạnh đó, nhiều lĩnh vực khác của các hiệp định WTO cũng có thể giúp
giảm bớt tệ tham nhũng và chính phủ xấu xa. Sự minh bạch, các tiêu chí rõ ràng
hơn về các quy định đối với sự an toàn và chuẩn mực của sản phẩm, và sự
không phân biệt đối xử cũng giúp giảm bớt tình trạng gian dối và việc ra quyết
định mang tính độc đoán.
2/ Những cơ hội và thách thức của Việt Nam khi gia nhập WTO
18
2.1. Cơ hội
Tham gia vào Tổ chức thương mại thế giới, nước ta đứng trước những cơ hội
lớn như sau:
Một là: Được tiếp cận thị trường hàng hoá và dịch vụ ở tất cả các nước thành
viên với mức thuế nhập khẩu đã được cắt giảm và các ngành dịch vụ mà các
nước mở cửa theo các Nghị định thư gia nhập của các nước này, không bị phân
biệt đối xử. Điều đó, tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng thị trường xuất khẩu và
trong tương lai - với sự lớn mạnh của doanh nghiệp và nền kinh tế nước ta - mở
rộng kinh doanh dịch vụ ra ngoài biên giới quốc gia. Với một nền kinh tế có độ
mở lớn như nền kinh tế nước ta, kim ngạch xuất khẩu luôn chiếm trên 60% GDP
thì điều này là đặc biệt quan trọng, là yếu tố bảo đảm tăng trưởng.
Mối lợi lớn nhất là các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ không còn bị
phân biệt đối xử. Bình đẳng bước vào thị trường với 149 nước thành viên khác,
sẽ được quyền sử dụng các cơ chế giải quyết của WTO khi có sự tranh chấp
thương mại với các quốc gia thành viên khác. Hàng xuất khẩu của Việt Nam sẽ
được bảo vệ trong các cuộc tranh chấp.
Việt Nam có thể cùng với các quốc gia đang phát triển khác gây áp lực để
được giúp đỡ hay cứu xét đặc biệt trong việc áp dụng luật lệ của WTO. Điều này
sẽ giúp Việt Nam thêm sức mạnh và điều kiện tốt để cạnh tranh với thế giới. Qui
chế thành viên WTO sẽ khiến thị trường Việt Nam được nhìn ở một góc độ
khác.
Thị trường Việt Nam sẽ hấp dẫn hơn với giới đầu tư nước ngoài đã quen
thuộc với cung cách làm việc của WTO. Họ sẽ đem đến những công nghệ tiên
tiến, những thói quen kinh doanh tốt hơn. Những điều này sẽ giúp gia tăng mức
sản xuất tại Việt Nam, phát triển thị trường nội địa, tạo công ăn việc làm cho dân
chúng. Thị trường nội địa phát triển sẽ cho người tiêu dùng có nhiều chọn lựa
hơn về chất lượng sản phẩm và dịch vụ không có được trước đó
19
Hai là: Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế
quản lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng
được cải thiện. Đây là tiền đề rất quan trọng để không những phát huy tiềm năng
của các thành phần kinh tế trong nước mà còn thu hút mạnh đầu tư nước ngoài,
qua đó tiếp nhận vốn, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý, thúc đẩy
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo ra công ăn việc làm và chuyển dịch cơ cấu lao
động, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, bảo đảm tốc độ tăng
trưởng và rút ngắn khoảng cách phát triển.
Thực tế trong những năm qua đã chỉ rõ, cùng với phát huy nội lực, đầu tư
nước ngoài có vai trò quan trọng trong nền kinh tế nước ta và xu thế này ngày
càng nổi trội: năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm 37% giá trị sản xuất công
nghiệp, gần 56% kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút hơn một triệu lao
động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ba là: Gia nhập WTO chúng ta có được vị thế bình đẳng như các thành viên
khác trong việc hoạch định chính sách thương mại toàn cầu, có cơ hội để đấu
tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế mới công bằng hơn, hợp lý hơn, có điều
kiện để bảo vệ lợi ích của đất nước, của doanh nghiệp. Đương nhiên kết quả đấu
tranh còn tuỳ thuộc vào thế và lực của ta, vào khả năng tập hợp lực lượng và
năng lực quản lý điều hành của ta.
Bốn là: Mặc dầu chủ trương của chúng ta là chủ động đổi mới, cải cách thể
chế kinh tế ở trong nước để phát huy nội lực và hội nhập với bên ngoài nhưng
chính việc gia nhập WTO, hội nhập vào nền kinh tế thế giới cũng thúc đẩy tiến
trình cải cách trong nước, bảo đảm cho tiến trình cải cách của ta đồng bộ hơn, có
hiệu quả hơn.
Năm là: Cùng với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử sau 20 năm đổi
mới, việc gia nhập WTO sẽ nâng cao vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều
kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo phương châm: Việt
20
Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng thế giới
vì hoà bình, hợp tác và phát triển.
2.2. Thách thức
Trong khi nhận thức rõ những cơ hội có được do việc gia nhập WTO mang
lại, cần phải thấy hết những thách thức mà chúng ta phải đối đầu, nhất là trong
điều kiện nước ta là một nước đang phát triển ở trình độ thấp, quản lý nhà nước
còn nhiều yếu kém và bất cập, doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân còn nhỏ bé.
Những thách thức này bắt nguồn từ sự chênh lệch giữa năng lực nội sinh của đất
nước với yêu cầu hội nhập, từ những tác động tiêu cực tiềm tàng của chính quá
trình hội nhập. Những thách thức này gồm:
Một là: Cạnh tranh sẽ diễn ra gay gắt hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình
diện rộng hơn, sâu hơn. Đây là sự cạnh tranh giữa sản phẩm của ta với sản phẩm
các nước, giữa doanh nghiệp nước ta với doanh nghiệp các nước, không chỉ trên
thị trường thế giới và ngay trên thị trường nước ta do thuế nhập khẩu phải cắt
giảm từ mức trung bình 17,4% hiện nay xuống mức trung bình 13,4% trong
vòng 3 đến 5 năm tới, nhiều mặt hàng còn giảm mạnh hơn. Cạnh tranh không
chỉ diễn ra ở cấp độ sản phẩm với sản phẩm, doanh nghiệp với doanh nghiệp.
Cạnh tranh còn diễn ra giữa nhà nước và nhà nước trong việc hoạch định chính
sách quản lý và chiến lược phát triển nhằm phát huy nội lực và thu hút đầu tư từ
bên ngoài. Chiến lược phát triển có phát huy được lợi thế so sánh hay không, có
thể hiện được khả năng “phản ánh vượt trước” trong một thế giới biến đổi nhanh
chóng hay không. Chính sách quản lý có tạo được chi phí giao dịch xã hội thấp
nhất cho sản xuất kinh doanh hay không, có tạo dựng được môi trường kinh
doanh, đầu tư thông thoáng, thuận lợi hay không v.v… Tổng hợp các yếu tố
cạnh tranh trên đây sẽ tạo nên sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế, sức cạnh
tranh quốc gia.
-Các nhà máy Việt Nam có chất lượng thấp, kỹ thuật lạc hậu, giá thành cao,
hệ thống phân phối kém, thiếu hiểu biết về hệ thống pháp luật. Khi trở thành
21
thành viên WTO, ngay lúc đầu giới kinh doanh Việt Nam sẽ mất thị trường và
phải bước vào đoạn điều chỉnh cấp thời.
-Rất nhiều doanh gia Việt Nam không am tường luật lệ và thủ tục (mới) của
WTO. Những luật lệ và thủ tục hiện hành của WTO còn thay đổi nhiều. Trong
bước đầu hội nhập WTO, giới kinh doanh Việt Nam gặp phải những cạnh tranh
rất gay gắt vì giới quản lý cũng như nhân viên phải cấp kỳ lãnh hội cách làm ăn
mới để thích hợp với thương trường WTO. Nhiều nguy cơ thua đậm trong
những vụ tranh chấp pháp lý.
-Sự thay đổi trong luật lệ kinh doanh là thử thách lớn cho khu vực dịch vụ
Việt Nam, không có vốn, không có công nghệ, và cũng chẳng có kinh nghiệm so
với các đối thủ quốc tế. Hệ thống phân phối hàng hóa trong nội địa của Việt
Nam sẽ gặp phải những cạnh tranh mãnh liệt của những công ty nước ngoài.
-Tất cả những xí nghiệp nội địa phải cạnh tranh ở mức cao hơn. Các xí
nghiệp này phải tự chỉnh đốn để sản xuất hàng chất lượng và có dịch vụ tốt hơn,
hay phá sản. Những khu vực yếu kém trong cạnh tranh như dịch vụ, sản xuất sắt
thép, lắp ráp xe hơi và nông nghiệp sẽ bị đe dọa trầm trọng.
-Khu vực trước đây thuộc độc quyền kinh doanh của nhà nước như điện lực,
viễn thông, sẽ bị áp lực nặng nề để mở cửa cho tư doanh. Nhiều công ty Việt
Nam có khả năng bị công ty ngoại quốc nuốt chửng.
-Sự phá sản của công ty nội địa làm tăng nạn thất nghiệp và gây bất ổn định
trong xã hội. Mặt khác, ngay cả nguồn vốn đầu tư nước ngoài có khả năng, trong
vài trường hợp, đưa đến tình trạng tài chính bất ổn định.
-Sự thay đổi quá nhanh của nền kinh tế sẽ tiếp tục làm môi trường bị xuống
cấp.
Hai là: Trên thế giới sự “phân phối” lợi ích của toàn cầu hoá là không đồng
đều. Những nước có nền kinh tế phát triển thấp được hưởng lợi ít hơn. Ở mỗi
quốc gia, sự “phân phối” lợi ích cũng không đồng đều. Một bộ phận dân cư
được hưởng lợi ít hơn, thậm chí còn bị tác động tiêu cực của toàn cầu hoá; nguy
cơ phá sản một bộ phận doanh nghiệp và nguy cơ thất nghiệp sẽ tăng lên, phân
22
hoá giàu nghèo sẽ mạnh hơn. Điều đó đòi hỏi phải có chính sách phúc lợi và an
sinh xã hội đúng đắn; phải quán triệt và thực hiện thật tốt chủ trương của Đảng:
“Tăng trưởng kinh tế đi đôi với xoá đói, giảm nghèo, thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.
Ba là: Hội nhập kinh tế quốc tế trong một thế giới toàn cầu hoá, tính tuỳ
thuộc lẫn nhau giữa các nước sẽ tăng lên. Sự biến động trên thị trường các nước
sẽ tác động mạnh đến thị trường trong nước, đòi hỏi chúng ta phải có chính sách
kinh tế vĩ mô đúng đắn, có năng lực dự báo và phân tích tình hình, cơ chế quản
lý phải tạo cơ sở để nền kinh tế có khả năng phản ứng tích cực, hạn chế được
ảnh hưởng tiêu cực trước những biến động trên thị trường thế giới. Trong điều
kiện tiềm lực đất nước có hạn, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, kinh nghiệm
vận hành nền kinh tế thị trường chưa nhiều thì đây là khó khăn không nhỏ, đòi
hỏi chúng ta phải phấn đấu vươn lên mạnh mẽ, với lòng tự hào và trách nhiệm
rất cao trước quốc gia, trước dân tộc.
Bốn là: Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ
môi trường, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá và truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, chống lại lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền.
Như vậy, gia nhập Tổ chức thương mại thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa
có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Cơ hội tự nó không
biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào khả năng tận
dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của
nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Cơ hội và thách
thức không phải “nhất thành bất biến” mà luôn vận động, chuyển hoá và thách
thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng
được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ
hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ
hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc
23
phục. Ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước, tinh thần tự lực tự cường
của toàn dân tộc là quyết định nhất.
Với thành tựu to lớn sau hơn 20 năm đổi mới, quá trình chuyển biến tích cực
trong cạnh tranh và hội nhập kinh tế những năm vừa qua, cùng với kinh nghiệm
và kết quả của nhiều nước gia nhập Tổ chức thương mại thế giới trước ta, cho
chúng ta niềm tin vững chắc rằng: Chúng ta hoàn toàn có thể tận dụng cơ hội,
vượt qua thách thức. Có thể có một số doanh nghiệp khó khăn, thậm chí lâm vào
cảnh phá sản nhưng phần lớn các doanh nghiệp sẽ trụ vững và vươn lên, nhiều
doanh nghiệp mới sẽ tham gia thị trường và toàn bộ nền kinh tế sẽ phát triển
theo mục tiêu và định hướng của chúng ta.
III/ MỘT SỐ CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỚI WTO
1/ Nội dung chủ yếu của toàn văn cam kết của Việt Nam với WTO
Cam kết đa phương
Kết quả mà Việt Nam đàm phán được là trong khoảng thời gian 12 năm
(không muộn hơn 31/12/2018) WTO chấp nhận coi Việt Nam là nền kinh tế phi
thị trường. Tuy nhiên, trước thời điểm trên, nếu Việt Nam chứng minh được với
đối tác nào là kinh tế Việt Nam hoàn toàn hoạt động theo cơ chế thị trường thì
đối tác đó sẽ ngừng áp dụng chế độ "phi thị trường" đối với Việt Nam. Chế độ
"phi thị trường" này chỉ có ý nghĩa trong các vụ kiện chống bán phá giá. Các
thành viên WTO không có quyền áp dụng cơ chế tự vệ đặc thù đối với hàng xuất
khẩu của Việt Nam, dù Việt Nam bị coi là nền kinh tế phi thị trường.
Về dệt may, các thành viên WTO sẽ không được áp dụng hạn ngạch dệt may
đối với Việt Nam khi Việt Nam vào WTO. Riêng trường hợp Việt Nam vi phạm
quy định WTO về trợ cấp bị cấm đối với hàng dệt may thì sẽ được xem xét, xử
lý theo quy định của WTO.
Về trợ cấp phi nông nghiệp, Việt Nam đồng ý bãi bỏ hoàn toàn các loại trợ
cấp bị cấm theo quy định WTO như trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp nội địa hóa.
Tuy nhiên với các ưu đãi đầu tư dành cho sản xuất hàng xuất khẩu đã cấp trước
24
ngày gia nhập WTO, Việt Nam được bảo lưu thời gian quá độ là 5 năm, trừ
ngành dệt may.
Về trợ cấp nông nghiệp, Việt Nam cam kết không áp dụng trợ cấp xuất khẩu
đối với nông sản từ thời điểm gia nhập. Tuy nhiên ta bảo lưu quyền được hưởng
một số quy định riêng của WTO dành cho nước đang phát triển trong lĩnh vực
này. Đối với các loại hỗ trợ mà WTO quy định phải cắt giảm, nhìn chung Việt
Nam duy trì được ở mức không quá 10% giá trị sản lượng. Ngoài mức này, Việt
Nam còn bảo lưu thêm một số khoản hỗ trợ nữa vào khoảng 4.000 tỷ đồng mỗi
năm. Các loại trợ cấp mang tính khuyến nông (như hỗ trợ thủy lợi) là trợ cấp
"xanh", được WTO cho phép nên ta được áp dụng không hạn chế.
Về quyền kinh doanh bao gồm quyền xuất, nhập khẩu hàng hóa, tuân thủ quy
định WTO, Việt Nam đồng ý cho doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài được
quyền xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa như doanh nghiệp và cá nhân người
Việt Nam kể từ khi gia nhập, trừ đối với các mặt hàng thuộc danh mục thương
mại nhà nước như: xăng dầu, thuốc lá điếu, xì gà, băng đĩa hình, báo, tạp chí và
một số mặt hàng nhạy cảm khác mà Việt Nam chỉ cho phép sau một thời gian
chuyển đổi như gạo và dược phẩm.
Việt Nam đồng ý cho phép doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài không có
hiện diện tại Việt Nam được đăng ký quyền xuất nhập khẩu tại Việt Nam. Quyền
xuất nhập khẩu chỉ là quyền đứng tên trên tờ khai hải quan để làm thủ tục xuất
nhập khẩu. Trong mọi trường hợp, doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài sẽ
không được tự động tham gia vào hệ thống phân phối trong nước. Các cam kết
về quyền kinh doanh sẽ không ảnh hưởng đến quyền của Việt Nam trong việc
đưa ra các quy định để quản lý dịch vụ phân phối, đặc biệt đối với sản phẩm
nhạy cảm như dược phẩm, xăng dầu, báo, tạp chí...
Về thuế tiêu thụ đặc biệt đối với rượu và bia, các thành viên WTO đồng ý cho
Việt Nam thời gian chuyển đổi không quá 3 năm để điều chỉnh lại thuế tiêu thụ
đặc biệt đối với rượu và bia cho phù hợp với quy định WTO. Hướng sửa đổi là:
đối với rượu trên 20 độ cồn, Việt Nam hoặc sẽ áp dụng một mức thuế tuyệt đối
25