Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

CHUYÊN ĐỀ THI CÔNG MÓNG NHÀ CAO TẦNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 28 trang )

Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
I. LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN MÓNG
Móng là một bộ phận qua trọng của công trình, nó ảnh hưởng tới kết cấu và tính bền vững cho
một công trình xây dựng, móng có tốt thì công trình mới bền vững và ngược lại.
Với nhiều năm kinh nghiệm trong lĩnh vực thi công công trình dân dụng và công nghiệp, Các
công ty chúng đã từng thi công nhiều loại móng khác nhau như: Móng băng, Móng bè đơn
giản, Móng băng, móng bè đã được gia cố bằng cọc tre. Móng cọc đóng, Móng cọc ép, Móng
cọc khoan nhồi.
1. Phương án móng nông:
Móng nông được sử dụng đối với công trình quy mô vừa và nhỏ (thường <= 5 tầng). Đây là loại
móng rất phổ biến ở Việt Nam và là loại móng "rẻ" nhất. Loại móng này tận dụng khả năng làm
việc của các lớp đất phía trên cùng. Chính vì vậy khả năng ổn định về sức chịu tải (đại diện là
chỉ tiêu sức chịu tải quy ước R0) và biến dạng (mô đun tổng biến dạng E0) của các lớp đất này
quyết định tới sự ổn định của công trình.
Điều kiện ĐCCT như thế nào thì sử dụng phương án móng nông? Nhìn chung, các lớp đất sét
(sét pha) ở trạng thái dẻo cứng đến cứng có bề dày đủ lớn (thường 5 - 7 m) phân bố phía trên
cùng đều có thể đặt móng nông. Chiều sâu chôn móng phổ biến từ 0.5m đến 1.5m, phụ thuộc
vào nhiều yếu tố như bề dày lớp đất lấp, chiều sâu mực nước dưới đất, sự phân bố của đất yếu.
Chiều sâu chôn móng càng lớn, khả năng chịu tải của đất nền càng cao, nhưng cần chú ý đến
các lớp đất yếu (bùn hoặc đất loại sét có trạng thái dẻo chảy, chảy) phân bố dưới nó. Nếu có đất
yếu nằm ngay dưới lớp đất tốt (khá phổ biến) và nằm trong phạm vi ảnh hưởng của ứng suất
gây lún (thường 5 - 10 m dưới đáy móng), hạn chế chiều sâu chôn móng để tận dụng bề dày của
lớp tốt bên trên. Nếu chiều sâu chôn móng quá lớn (chi phí đào đắp cao, ảnh hưởng đến các
công trình lân cận khi thi công) thì cần xem xét đến giải pháp khác như cọc tre, cừ tràm (nếu có
nước dưới đất) hoặc giải pháp ép cọc.
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 1
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
2.Phương án móng cọc ép, cọc đóng (cọc ma sát):
Được sử dụng khi phương án móng nông không đáp ứng được về mặt kỹ thuật (không ổn định,


biến dạng nhiều) hoặc chi phí xử lý nền trong móng nông quá tốn kém. Có thể do địa tầng chủ
yếu gồm các lớp đất yếu phân bố ở phía trên, đất tốt lại nằm sâu phía dưới, hoặc bề dày lớp đất
tốt phía trên không đủ lớn, bề dày không ổn định, đất yếu lại phân bố ngay phía dưới với bề dày
lớn.
Ngoài ra còn chú ý đến điều kiện và phương pháp thi công. Khu vực đô thị không được dùng
phương pháp đóng cọc, khu vực chật hẹp không sử dụng được phương pháp ép đối tải (phải sử
dụng phương pháp neo), nếu là nhà xây chen thì không thể ép sát vào nhà bên cạnh được, nhiều
trường hợp cọc không đạt độ sâu thiết kế do ma sát của các lớp đất phía trên quá lớn (dẫn đến
trường hợp khoan mồi),
3. Phương án móng cọc khoan nhồi:
Phương án móng cọc nhồi thường được với nhà cao tầng (thường trên 10 tầng). Rõ ràng cọc
khoan nhồi chi phí tốn kém hơn so với cọc ép nên không ai muốn sử dụng, trừ trường hợp bắt
buộc do cọc ép (hoặc cọc đóng) không đáp ứng được yêu cầu kỹ thuật. Thật sai lầm khi nghĩ
rằng cứ nhà cao tầng là phải sử dụng cọc khoan nhồi! Tại khu đô thị mới Linh Đàm, Định
Công, , chung cư quy mô 12 ÷ 14 tầng đều sử dụng cọc đóng (đều không có hầm ngầm). Cần
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 2
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
phải khẳng định rằng chất lượng cọc ép thường ổn định và dễ kiểm soát hơn nhiều so với cọc
khoan nhồi.
II. MÓNG CỌC CHẾ TẠO SẴN
1. Một số định nghĩa
Cọc ép là cọc được hạ bằng năng lượng tĩnh, không gây nên xung lượng lên đầu cọc.
Tải trọng thiết kế là giá trị tải trọng do Thiết kế dự tính tác dụng lên cọc.
Lực ép nhỏ nhất (P
ep
)
min
là lực ép do Thiết kế quy định để đảm bảo tải trọng thiết kế lên cọc,

thông thường lấy bằng 150 ¸ 200% tải trọng thiết kế;
Lực ép lớn nhất (P
ep
)
max
là lực ép do Thiết kế quy định, không vượt quá sức chịu tải của vật liệu
cọc; được tính toán theo kết quả xuyên tĩnh, khi không có kết quả này thì thường lấy bằng 200 –
300% tải trọng thiết kế.
2. Ưu nhược điểm của phương pháp thi công ép cọc
Hiện nay có nhiều phương pháp để thi công cọc như búa đóng, kích ép, khoan nhồi… Việc lựa
chọn và sử dụng phương pháp nào phụ thuộc vào địa chất công trình và vị trí công trình. Ngoài
ra còn phụ thuộc vào chiều dài cọc, máy móc thiết bị phục vụ thi công.
Một trong các phương pháp thi công cọc đó là ép cọc bằng kích ép.
Ưu điểm:
• Êm, không gây ra tiếng ồn
• Không gây ra chấn động cho các công trình khác
• Khả năng kiểm tra chất lượng tốt hơn: từng đoạn cọc được ép thử dưới lực ép và
ta xác định được sức chịu tải của cọc qua lực ép cuối cùng.
Nhược điểm
• Không thi công được cọc có sức chịu tải lớn hoặc lớp đất xấu cọc phải xuyên qua
quá dầy
3. Chuẩn bị mặt bằng thi công
Phải tập kết cọc trước ngày ép từ 1 đến 2 ngày (cọc được mua từ các nhà máy sản xuất cọc)
Khu xếp cọc phải đặt ngoài khu vực ép cọc, đường đi vận chuyển cọc phải bằng phẳng, không
gồ ghề lồi lõm
Cọc phải vạch sẵn trục để thuận tiện cho việc sử dụng máy kinh vĩ cân chỉnh
Cần loại bỏ những cọc không đủ chất lượng, không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật
Trước khi đem cọc đi ép đại trà, phải ép thí nghiệm 1 – 2% số lượng cọc
Phải có đầy đủ các báo cáo khảo sát địa chất công trình, kết quả xuyên tĩnh
4. Vị trí ép cọc

Vị trí ép cọc được xác định đúng theo bản vẽ thiết kế: phải đầy đủ khoảng cách, sự phân bố các
cọc trong đài móng với điểm giao nhau giữa các trục.
Để cho việc định vị thuận lợi và chính xác, ta cần phải lấy 2 điểm móc nằm ngoài để kiểm tra
các trục có thể bị mất trong quá trình thi công. Thực tế, vị trí các cọc được đánh dấu bằng các
thanh thép dài từ 20 đến 30cm
Từ các giao điểm các đường tim cọc, ta xác định tâm của móng, từ đó ta xác định tâm các cọc.
5. Lựa chọn phương án thi công ép cọc
Việc thi công ép cọc ở ngoài công trường có nhiều phương án ép, sau đây là hai phương án ép
phổ biến:
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 3
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
5.1. Phương án 1
Nội dung: Tiến hành đào hố móng đến cao trình đỉnh cọc, sau đó mang máy móc, thiết bị ép đến
và tiến hành ép cọc đến độ sâu cần thiết.
Ưu điểm
• Đào hố móng thuận lợi, không bị cản trở bởi các đầu cọc
• Không phải ép âm
Nhược điểm
• Ở những nơi có mực nước ngầm cao, việc đào hố móng trước rồi mới thi công ép
cọc khó thực hiện được
• Khi thi công ép cọc mà gặp trời mưa thì nhất thiết phải có biện pháp bơm hút
nước ra khỏi hố móng
• Việc di chuyển máy móc, thiết bị thi công gặp nhiều khó khăn
• Với mặt bằng thi công chật hẹp, xung quanh đang tồn tại những công trình thì
việc thi công theo phương án này gặp nhiều khó khăn, đôi khi không thực hiện
được
5.2. Phương án 2
Nội dung: Tiến hành san phẳng mặt bằng để tiện di chuyển thiết bị ép và vận chuyển sau đó tiến

hành ép cọc theo yêu cầu. Như vậy, để đạt được cao trình đỉnh cọc cần phải ép âm. Cần phải
chuẩn bị các đoạn cọc dẫn bằng thép hoặc bằng bê tông cốt thép để cọc ép được tới chiều sâu
thiết kế. Sau khi ép cọc xong ta sẽ tiến hành đào đất để thi công phần đài, hệ giằng đài cọc
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 4
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
Ưu điểm:
• Việc di chuyển thiết bị ép cọc và vận chuyển cọc có nhiều thuận lợi kể cả khi gặp
trời mưa
• Không bị phụ thuộc vào mực nước ngầm
• Tốc độ thi công nhanh
Nhược điểm:
• Phải thêm các đoạn cọc dẫn để ép âm
• Công tác đào đất hố móng khó khăn, phải đào thủ công nhiều, thời gian thi công
lâu vì rất khó thi công cơ giới hóa
5.3. Kết luận
Căn cứ vào ưu nhược điểm của 2 phương án trên, căn cứ vào mặt bằng công trình, phương án
đào đất hố móng, ta sẽ chọn ra phương án thi công ép cọc.
Tuy nhiên, phương án 2, kết hợp đào hố móng dạng ao sẽ kết hợp được nhiều ưu điểm để tiến
hành thi công có hiệu quả.
6. Các yêu cầu kỹ thuật đối với đoạn ép cọc
Cốt thép dọc của đoạn cọc phải hàn vào vành thép nối theo cả 2 bên của thép dọc và trên suốt
chiều cao vành
Vành thép nối phải phẳng, không được vênh
Bề mặt ở đầu hai đoạn cọc nối phải tiếp xúc khít với nhau.
Kích thước các bản mã đúng với thiết kế và phải ≥ 4mm
Trục của đoạn cọc được nối trùng với phương nén
Kiểm tra kích thước đường hàn so với thiết kế, đường hàn nối cọc phải có trên cả 4 mặt của cọc.
Trên mỗi mặt cọc, chiều dài đường hàn không nhỏ hơn 10cm

7. Yêu cầu kỹ thuật với thiết bị ép cọc
Lực ép danh định lớn nhất của thiết bị không nhỏ hơn 1,4 lần lực ép lớn nhất
P
ép max
yêu cầu theo quy định thiết kế
Lức nén của kích phải đảm bảo tác dụng dọc trục cọc khi ép đỉnh, không gây lực ngang khi ép
Chuyển động của pittông kích phải đều, và khống chế được tốc độ ép
Đồng hồ đo áp lực phải tương xứng với khoảng lực đo
Thiết bị ép cọc phải đảm bảo điều kiện để vận hành theo đúng quy định về an toàn lao động khi
thi công
Giá trị đo áp lực lớn nhất của đồng hồ không vượt quá 2 lần áp lực đo khi ép cọc
Chỉ huy động từ (0,7 ÷ 0,8) khả năng tối đa của thiết bị ép cọc
Trong quá trình ép cọc phải làm chủ được tốc độ ép để đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật
8. Tính toán chọn cẩu phục vụ
Căn cứ vào trọng lượng bản thân của cọc, của đối trọng và độ cao nâng cẩu cần thiết để chọn
cẩu thi công ép cọc
Sức nâng Q
max
/Q
min
Tầm với R
max
/R
min
Chiều cao nâng: H
max
/H
min
Độ dài cần chính L
Độ dài cần phụ

Thời gian
Vận tốc quay cần
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 5
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
9. Phương pháp ép cọc và chọn máy ép cọc
Ép cọc thường dùng 2 phương pháp:
• Ép đỉnh
• Ép cọc
9.1. Ép đỉnh
Lực ép được tác dụng từ đỉnh cọc để ấn cọc xuống
Ưu điểm: Toàn bộ lực ép do kích thủy lực tạo ra được truyền trực tiếp lên đầu cọc chuyển thành
hiệu quả ép. Khi ép qua các lớp đất có ma sát nội tương đối cao như á cát, sét dẻo cứng… lực ép
có thể thắng lực cản do ma sát để hạ cọc xuống sâu dễ dàng.
Nhược điểm
• Cần phải có hai hệ khung giá. Hệ khung giá cố định và hệ khung giá di động, với
chiều cao tổng cộng của hai hệ khung giá này phải lớn hơn chiều dài một đoạn
cọc: nếu 1 đoạn cọc dài 6m thì khung giá phải từ 7 ÷ 8m mới có thể ép được cọc.
Vì vậy khi thiết kế cọc ép, chiều dài một đoạn cọc phải khống chế bởi chiều cao
giá ép trong khoảng 6 – 8m
9.2. Ép ôm
Lực ép được tác dụng từ hai bên hông cọc do chấu ma sát tạo nên để ép cọc xuống
Ưu điểm
• Do biện pháp ép từ 2 bên hông của cọc, máy ép không cần phải có hệ khung giá
di động, chiều dài đoạn cọc ép có thể dài hơn.
Nhược điểm
• Ép cọc từ hai bên hông cọc thông qua 2 chấu ma sát do khi ép qua các lớp ma sát
có nội ma sát tương đối cao như á sét, sét dẻo cứng… lực ép thông thường không
thể thắng được lực cản do ma sát tăng để hạ cọc xuống sâu.

• Nói chung, phương pháp này không được sử dụng rộng rãi bằng phương pháp ép
đỉnh
10. Sử lý các sự cố khi thi công ép cọc
Do cấu tạo địa chất dưới nền đất không đồng nhất nên thi công ép cọc có thể xảy ra các sự cố
sau:
• Khi ép đến độ sâu nào đó chưa đến độ sâu thiết kế nhưng áp lực đã đạt, khi đó
phải giảm bớt tốc độ, tăng lực ép lên từ từ nhưng không lớn hơn P
ép max
. Nếu cọc
vẫn không xuống thì ngừng ép và báo cáo với bên thiết kế để kiểm tra sử lý.
• Nếu nguyên nhân là do lớp cát hạt trung bị ép quá chặt thì dừng ép cọc lại một
thời gian chờ cho độ chặt lớp đất giảm dần rồi ép tiếp
• Nếu gặp vật cản thì khoan phá, khoan dẫn, ép cọc tạo lỗ
• Khi ép đến độ sâu thiết kế mà áp lực đầu cọc vẫn chưa đạt đến yêu cầu theo tính
toán. Trường hợp này xảy ra thường do khi đó đầu cọc vẫn chưa đến lớp cát hạt
trung, hoặc gặp các thấu kính, đất yếu, ta ngừng ép cọc và báo với bên thiết kế để
kiểm tra, xác định nguyên nhân và tìm biện pháp sử lý.
• Biện pháp sử lý trong TH này là nối thêm cọc khi đã kiểm tra và xác định rõ lớp
đất bên dưới là lớp đất yếu sau đó ép cho đến khi đạt áp lực thiết kế.
11. Kiểm tra sức chịu tải của cọc
Sau khi ép xong toàn bộ cọc của công trình phải kiểm tra nén tĩnh cọc bằng cách thuê các cơ
quan chuyên kiểm tra.
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 6
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
Số cọc phải kiểm tra bằng 1% tổng số cọc công trình, nhưng không nhỏ hơn 3 cọc
Sau khi kiểm tra phải có kết quả đầy đủ về khả năng chịu tải, độ lún cho phép, nếu đạt yêu cầu
có thể tiến hành đào móng để thi công bê tông đài.
12. An toàn lao động trong thi công ép cọc

Phải huấn luyện cho công nhân, trang bị bảo hộ và kiểm tra an toàn thiết bị ép cọc
Chấp hành nghiêm chỉnh quy định trong an toàn lao động về sử dụng vận hành kích thủy lực,
động cơ điện cần cẩu,…
Các khối đối trọng phải được xếp theo nguyên tắc tạo thành khối ổn định, không được để khối
đối trọng nghiêng và rơi đổ trong quá trình ép cọc
Phải chấp hành nghiêm, chặt chẽ quy trình an toàn lao động trên cao, dây an toàn, thang sắt…
Dây cáp chọn hệ số an toàn > 6
III. MÓNG CỌC KHOANG NHỒI
Cọc khoan nhồi tuần hoàn dung dịch là giải pháp móng có nhiều ưu điểm về mặt thiết kế, căn
cứ vào tài liệu địa chất người thiết kế có thể xác định được chiều sâu cọc sao cho sức chịu tải
của nền tương đương với sức chịu tải vật liệu của cọc (Pv tương đương Pd), điều này với
phương pháp cọc đóng hoặc ép tĩnh không đạt được, đó là điều kiện đưa đến giải pháp nền
móng hợp lý và kinh tế hơn.
Thi công được ở những địa hình chật hẹp. Tuy nhiên cũng có những khuyết điểm về quản lý thi
công, khó kiểm tra được chất lượng bêtông nhồi vào cọc. Do đó đòi hỏi kinh nghiệm và tay
nghề của nhà thầu và giám sát thi công, việc giám sát thi công phải thật chặt chẽ, tuân thủ đầy
đủ các qui trình.
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 7
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
I. CÔNG TÁC CHUẨN BỊ
1. Chuẩn bị mặt bằng
- Mặt bằng trước khi tiến hành thi công phải được san phẳng.
- Đảm bảo cứng không bị lún máy móc khi thi công.
- Đảm bảo đường rãnh thoát nước phòng khi trời mưa to.
2. Định vị tim mốc
- Xác định từng vị trí tim cọc và tim cột, dùng cọc tre để đánh dấu.
- Bố trí các tim cột, các mốc phụ trên tường vách để khi mất dấu có thể dùng phương pháp căng
dây để phục hồi lại những tim bị mất.

- Sai số tim cọc sau khi thi công xong nhỏ hơn D/4 nhưng không lớn quá 15cm đối với cọc giữa
và nhỏ hơn D/6 nhưng không lớn quá 10cm đối với cọc biên
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 8
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
3. Tập kết thiết bị - vật tư
- Sau khi công tác chuẩn bị mặt bằng hoàn chỉnh tiến hành tập kết thiết bị, vật tư.
- Thiết bị được tập kết gọn gàng, bố trí vị trí đặt ống đổ bê tông, cần khoan và các thiết bị phục
vụ công tác thi công
- Vật tư sắt đảm bảo để nơi cao ráo tránh ngập nước và lẫn sình đất.
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 9
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
II. CÁC BƯỚC THI CÔNG
1. Bố trí sơ đồ vị trí khoan
- Mỗi máy khoan được bố trí ở một khu vực nhất định để tránh vướng víu trong công tác thi
công.
- Bố trí khoan trình tự từ trong ra ngoài tránh tình trạng xe khoan chạy trên đầu cọc mới đổ bê
tông xong.
- Tim sau chỉ khoan cạnh tim trước khi bê tông của tim trước đạt lớn hơn 24 tiếng
2. Công tác khoan cọc
- Khi đưa máy vào vị trí, căn chỉnh đúng tim mốc đã định vị trước đó.
- Kê kích máy đảm bảo chắc chắn đảm bảo không bị lún nghiêng khi máy hoạt động.
- Kiểm tra độ thẳng đứng của tháp bằng 2 bọt thuỷ chuẩn được gắn ở hai bên thân tháp khoan
(trong quá trình khoan cũng vẫn liên tục phải theo dõi hai bọt thuỷ này).
Sau khi cân chỉnh máy xong dùng mũi khoan phá khoan một đoạn sâu khoảng 2m và hạ ống
sinh (ống vách có chiều dài là 2m) để chống sạt lở và mất nước trong khi khoan.
- Tiến hành khoan bằng mũi khoan phá tới cao độ thiết kế của cọc.

- Khi khoan theo dõi địa chất và ghi lại, nếu có khác biệt nhiều so với tài liệu thăm dò địa chất
thì báo ngay cho chủ đầu tư và tư vấn thiết kế biết để điều chỉnh chiều sâu cọc.
- Trong khi khoan cần kiểm tra lượng bentonite phù hợp.
* Đối với cọc đường kính từ 500mm trở lên thì phải kiểm tra bằng các thí nghiệm tỷ trọng
dung dịch, độ nhớt, độ lắng cát theo tiêu chuẩn quy định (Do khoan bằng phương pháp tuần
hoàn dung dịch nên ta thường kiểm tra khi thổi rửa, vệ sinh hố khoan)
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 10
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
Tên chỉ tiêu Chỉ tiêu tính năng Phương pháp kiểm tra
1. Khối lượng riêng 1.05 ÷ 1.15 g/cm3 Cân đo tỷ trọng
2. Độ nhớt 18 ÷45 giây Phễu 500/700 cc
3. Hàm lượng cát < 6%
4. Tỷ lệ chất keo > 95 % Đong cốc
5. Lượng mất nước < 30 ml / 30phút Dụng cụ đo lượng mất nước
6. Độ dày áo sét 1÷ 3mm/30phút Dụng cụ đo lượng mất nước
7. Lực cắt tĩnh
1phút : 20÷ 30 mg/cm2
10phút 50 ÷100mg/cm2
Lực kế cắt tĩnh
8. Tính ổn định < 0.03 g/cm2
9. Độ PH 7÷ 9 Giấy thử PH
Dung dịch bentonite có tác dụng đưa mùn khoan từ đáy hố khoan trồi lên hố dung dịch và có
tác dụng giữ thành hố khoan không bị sập. do đó trong mọi trường hợp ngừng thi công do thời
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 11
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
tiết, phải dừng qua đêm do hết giờ làm việc thì vẫn phải đảm bảo hố khoan luôn được bơm

đầy dung dịch.
Trong quá trình khoan nếu qua tầng thấm lớn thấy mất nước nhanh thì phải nhanh chóng cho
thêm bentonite vào dung dịch để chống thấm .
Thi công trong mực nước ngầm cao cần chú ý không khoan hai tim cọc gần nhau để tránh
xông nước giữa cọc nọ qua cọc kia dẫn đến sạt lở thành vách.
Sau khi khoan xong lần 1 tiến hành hạ mũi khoan núp B xuống để kéo hết sình đất còn lại lên.
công đoạn này có thể làm từ 1 đến 2 lần
Khi hạ mũi khoan núp B vẫn thao tác như khi khoan mũi phá. nhưng khi kéo lên thì không
được xoay mũi khoan để tránh sình đất lọt xuống lại hố khoan.
3. Công tác kiểm tra độ sâu của hố khoan.
- Dùng thước dây có treo quả dọi thả xuống hố khoan hoặc đo theo chiều dài của cần khoan hay
ống đổ bê tông.
- Trong khi khoan một số mùn khoan còn nằm lại trong hố khoan nên ta không thể thả dọi để
kiểm tra được do đó lúc này ta kiểm tra cao độ hố khoan dựa vào chiều dài và số lượng cần
khoan để tính, chiều dài mỗi cần khoan là 3.05m.
- Sau khi dùng mũi khoan núp B kéo hết mùn khoan lên ta thả dọi để kiểm tra hố khoan sau
đó mới thả lồng thép vàø ống đổ bê tông.
- Sau khi thả xong lồng thép và ống đổ bê tông ta tiến hành thả dọi đo lại cao độ hố khoan để
xác định chiều dày lớp cặn lắng.
- Tiến hành thổi rửa vệ sinh hố khoan xong ta thả dọi đo cao độ hố khoan một lần nữa để xác
định lại lớp cặn lắng phải đảm bảo < 10cm.
- Nếu trường hợp thổi rửa vệ sinh xong mà chưa có bê tông đổ ngay thì trước khi đổ bê tông ta
phải kiểm tra lại lần nữa để đảm bảo lớp cặn lắng nằm trong giới hạn cho phép.

SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 12
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
4. Công tác cốt thép
Công tác gia công cốt thép được thực hiện ở nơi khô ráo và được kiểm tra, nghiệm thu trước khi hạ xuống hố

khoan.
Lồng thép được gia công thành từng lồng dài 5,8m hay11,7m tuỳ thuộc vào thiết kế và được buộc
đầy đủ các con kê bằng bê tông đảm bảo lớp bê tông bảo vệ bằng bánh xe trượt .
Khi hạ lồng thép phải giữ cho lồng thẳng đứng, đoạn nọ nối với đoạn kia phải đảm bảo đúng tâm lồng thép.
Mối nối cốt thép sử dụng mối nối bằng bắt cóc, chiều dài đoạn nối chồng cốt thép là 30D và được nối bằng
hai cóc xiết. số thanh cần nối là 50% tổng số mối nối. các thanh còn lại được buộc bằng dây kẽm.
Khi thả lồng thép phải chú ý không để đầu lồng thép chọc vào thành vách.
Lồng thép khi thả không được để chạm đáy và phải cách đáy hố khoan khoảng 100 mm như trong bản
vẽ thiết kế
Với các cọc cần kiểm tra siêu âm
+ Ống siêu âm được làm bằng thép hoặc nhựa PVC có đường kính là 49mm, chiều dày là 3mm
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 13
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
+ Bố trí hai ống đối xứng nhau qua tim cọc suốt chiều dài từ đầu cọc tới đáy cọc.
+ Ống thép siêu âm được buộc vào cốt thép chủ bằng dây kẽm và được nối với nhau bằng
măng xông có gien đảm bảo kín khít tránh bê tông chảy vào làm tắc ống. Riêng ở lồng thép
dưới cùng được đính hàn vào thép chủ để đảm bảo định vị đúng vị trí.
+ Trong khi hạ ống siêu âm phải được bịt kín hai đầu dưới và hạ tới đâu phải bơm đầy nước tới
đó. Sau khi hạ xong và bơm đầy nước vào ống ta bịt kín nốt đầu trên lại để khi đổ bê tông tránh
bê tông rới vào làm tắc ống.
5. Công tác vệ sinh hố khoan.
- Đây là công đoạn quan trọng nhất trong quá trình thi công khoan nhồi. Sau khi khoan đến độ
sâu thiết kế lượng phôi khoan không thể trồi lên hết. Khi ngừng khoan, những phôi khoan lơ
lửng trong dung dịch hoặc những phôi khoan có kích thước lớn mà dung dịch không đưa lên
khỏi hố khoan sẽ lắng trở lại trong đáy hố khoan.
- Ta chia công đoạn xử lý cặn lắng làm 2 bước.
- Các công đoạn xử lý như sau :
* Xử lý cặn lắng bước 1 : Xử lý cặn lắng là các hạt có đường kính lớn.

Công tác này làm ngay sau khi khoan tạo lỗ xong. Sau khi khoan tới cao độ thiết kế không
nâng ngay thiết bị khoan lên mà để vậy tiếp tục bơm nước thải đất lên. Sau đó kéo mũi khoan
lên và đưa mũi khoan có núp B xuống để kéo những cặn lắng là những cục đất lớn lên công tác
này làm cho tới khi không thấy đất được kéo lên nữa ( thường kéo mũi khoan núp B khoảng 1-2
lần)
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 14
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
* Xử lý cặn lắng bước 2 : Xử lý cặn lắng là các hạt có đường kính nhỏ
Công tác này làm trước khi đổ bê tông. Sau khi xử lý cặn lắng bước 1 ta đưa lồng thép
và ống đổ bê tông xuống dưới tới đáy hố khoan, đưa một ống dẫn khí vào trong lòng
ống đổ BT tới cách đáy 2 m dùng khí nén bơm ngược dung dịch hố khoan ra ngoài
bằng đường ống đổ BT, các phôi khoan có xu hướng lắng xuống sẽ bị hút vào trong
ống đổ BT đẩy ngược lên và thoát ra ngoài miệng ống đổ (xem hình vẽ) cho đến khi
không còn cặn lắng lẫn lộn và đạt yêu cầu.
- Dùng thước có quả dọi để kiểm tra cặn lắng hố khoan phải <10 cm.
- Sau khi xử lý xong phải tiến hành đổ BT ngay
* Chú ý : Trong quá trình bơm khí nén, hố khoan phải luôn luôn được cấp dung dịch đầy để
đảm bảo hố khoan không bị sạt lở. Trong thực hành giám sát hai bên sẽ tiến hành đổ vào hố
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 15
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
khoan một số đá mi hoặc đá 1*2, khi bơm lên dùng giỏ lưới hứng lại để kiểm tra. Nếu lượng đá
1*2 từ đáy hố khoan mà ống bơm dung dịch có thể bơm ra được một phần lớn của lượng đá đổ
vào hố khoan và không có bùn đất kèm theo thì chấp nhận công tác vệ sinh đạt yêu cầu
6. Công tác đổ bê tông cọc
- Ống đổ bê tông là một ống thép đường kính từ 114mm đến 138 mm tuỳ vào đường kính cọc
được nối bởi nhiều đoạn mỗi đoạn dài 1.5 m miệng ống đổ được lắp một phiễu để rót bê tông.

- Đối với thi công cọc đường kính từ 400 đến 500mm cho các công trình lớn trước khi đổ bê
tông ta cần làm quả bóng ngăn nước, quả bóng ngăn nước này được làm bằng xi măng nhào dẻo
và được bọc bằng một lớp vải mỏng. Khi xuống tới đáy lớp vải mỏng sẽ bung ra và xi măng sẽ
hòa lẫn vào bê tông sẽ tốt hơn cho bê tông đáy cọc.
- Khi bắt đầu đổ bê tông không được nhồi và kéo ống đổ lên cho tới khi bê tông đầy lên miệng
phễu đổ.
- Về nguyên tắc, công trình bê tông làm cọc khoan nhồi phải tuân theo các qui định về đổ bê
tông dưới nước. Phương pháp thi công bê tông đổ dưới nước của cọc khoan nhồi là dùng ống
dẫn
- Trước khi đổ bêtông phải kiểm tra các công cụ đo lường cấp phối để quy ngược lại lượng
bêtông tương ứng cần thiết.Tổng lượng bê tông đổ vào cọc thực tế không được lớn quá 20%
lượng bê tông tính theo đường kính danh định của cọc
- Bê tông được đưa xuống đáy hố khoan thông qua ống đổ, bê tông dâng cao dần lên và đẩy
nước dung dịch trào lên trên miệng hố khoan. Ống đổ bê tông luôn ngập trong bê tông tối thiểu
là 2.0 m để đảm bảo bê tông không bị lẫn dung dịch.
- Công tác đầm bê tông được thực hiện bằng chính ống đổ bê tông thông qua động tác nhắp
ống.
- Thời gian đổ bêtông cho cọc không được kéo dài quá 4 giờ (để đảm bảo chất lượng, cường
độ bêtông suốt chiều dài cọc). Nếu quá trình thi công đổ bêtông ống bị nghẹt … thì có biện
pháp xử lý nhanh chóng, thời gian xử lý không vượt quá giới hạn trên. Trong trường hợp không
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 16
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
xử lý được thì phải ngừng thi công ít nhất là 24 giờ, sau đó vệ sinh hố khoan lại một lần nữa
mới tiếp tục đổ bêtông.
* Quy trình cắt ống đổ :
Kỹ thuật viên và giám sát có thể theo dõi cao độ của mức bêtông dâng lên trong hố khoan bằng
cách tính sơ bộ lượng bêtông được bơm vào cọc theo đường kính danh định của cọc, nhưng
thực tế đường kính sẽ lớn từ 10% đến 20% tuỳ theo tầng khoan hoặc kiểm tra trực tiếp bằng

cách thả quả rọi xuống đo.
- Trong thực hành trước khi cắt ống đổ phải thả chùng cable, nâng ống đổ để xác định “độ
ngồi” của ống đổ trong bêtông thì cho cắt ống đổ.
- Sau khi bê tông lên tới miệng ống sinh cách mặt đất 20cm ta kéo cao ống sinh lên cách mặt
đất là 1m và tiếp tục đổ bê tông.
- Khi bêtông dâng lên miệng ống sinh, dù công tác vệ sinh đã được làm kỹ lưỡng nhưng lớp
bêtông trên cùng cũng thường nhiễm bùn trong quá trình dâng lên. Nên cho lớp bêtông này trào
ra khỏi miệng hố khoan bỏ đi cho tới khi bằng mắt thường xác định được lớp bêtông kế tiếp đạt
yêu cầu thì ngưng đổ.
- Thể tích bê tông đổ vào cọc không lớn quá 20% thể tích cọc danh định. Nếu khi đổ thấy
lượng bê tông lớn hơn thì báo cho tư vấn giám sát và thiết kế biết để xem xét xử lý.
- Sau khi đổ bê tông xong khoản 20 – 30 phút tiến hành rút ống sinh lên hoàn tất công việc đổ
bê tông.
- Những cọc gần nhau thì khi thi công cọc sau phải chờ cho bê tông cọc trước đạt tối thiểu là
24 giờ mới tiến hành khoan.
* Vấn đề thí nghiệm bê tông :
• Trước khi đổ bê tông tiến hành đo độ sụt bằng côn đo tiêu chuẩn đảm bảo độ sụt Sn = 18 ±
20mm
• Lấy mẫu thí nghiệm bê tông bằng mẫu vuông 15x15x15 cm để kiểm tra cường độ bê tong
IV.CÔNG NGHỆ THI CÔNG TOP-DOWN
Công nghệ thi công Top-down (từ trên xuống) là công nghệ thi công phần ngầm của công trình
nhà, theo phương pháp khác với phương pháp truyền thống: thi công từ dưới lên. Trong công
nghệ thi công Top-down người ta có thể đồng thời vừa thi công các tầng ngầm (bên dưới cốt ±
0,00 (cốt ± 0,00 tức là cao độ mặt nền hoàn thiện của tầng trệt công trình nhà, đọc là cốt
không)) và mórng của công trình, vừa thi công một số hữu hạn các tầng nhà, thuộc phần thân,
bên trên cốt không (trên mặt đất).
Lịch sử :
Công nghệ Top-down đã vào Việt Nam được hơn mười năm. Nó vào Tp.HCM trước Hà nội.
Công trình đầu tiên là Harbourview - Nguyễn Huệ (1993-1994 - Bachy Solatance), công trình
thứ 2 là Saigon Center rồi nhiều công trình khác nữa. Ở nước ta hiện nay trong nam ngoài bắc

cũng đã có rất nhiều công trình thi công theo phương pháp này các đơn vị thi công như : Bachy
(Pháp), Tungfeng (Đài loan), Delta (Việt nam), Longgiang( viêtnam).
Ứng dụng
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 17
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
Nhà cao tầng thường có một vài tầng hầm để làm tầng kĩ thuật, chứa đựng máy móc thiết bị, hệ
thống kĩ thuật và xử lý như: bể nước thô, hệ thống bơm nước, thiết bị lọc, bể nước sạch hệ
thống bể chứa phế thải và xử lý, hệ thống biến áp và tủ điều khiển, tủ phân phối điện. Ngoài ra,
còn làm kho chứa hàng hóa, vật liệu và gara ô tô. Về góc đọ chịu lực tầng hầm giúp công trình
đỡ bớt tải nền đất phía trên đưa trọng tâm công trình thấp xuống, giúp công trình chịu lực ngang
của gió, bão, động đất tốt hơn. Tuy nhiên việc thi công tầng hầm nói riêng và phần ngầm nói
chung thường rất khó khăn và là thách thức đối với nhiều nhà thầu. Mỗi công trình đều có
những đặc diềm riêng về cấu tạo nền đất, mặt cắt địa chất, chiều cao mực nước ngầm nên
không thể chỉ sử dụng kinh nghiệm mà đòi hòi cần có hiểu biết đầy đủ về khoa học và công
nghệ mới đáp ứng được yêu cầu xây dựng của công trình.
Các phương pháp thi công phần ngầm truyền thống thường dùng tường chắn và hệ thanh chống
để đào đất và thi công phần ngầm công trình từ dưới lên mà đại diện của các phương pháp này
là: Phương pháp sử dụng tường chắn bằng cừ ván thép (Sheel piles) và hệ thống thanh chống
(Bracing System); Phương pháp sử dụng tường chắn barrette và hệ thống neo trong đất
(Anchors).Các phương pháp này bên cạnh một số ưu điểm thì bộc lộ nhiều nhược điểm cơ bản
là tốn kém về kinh tế tiến độ thi công chậm và độ chính xác kém.
Đối với những nhà sử dụng tường barrette quanh chu vi nhà đồng thời làm tường cho tầng hầm
nhà nên thi công tầng hầm theo kiểu top-down.Công nghệ thi công tầng hầm 'TOP-DOWN' là
công nghệ tiên tiến hiện nay.
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 18
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp

Một số ưu điểm
Các vấn đề về mặt bằng và tiến độ thi công: không cần diện tích đào móng lớn hoặc đỡ tốn chi
phí phải làm tường chắn đất độc lập. Đặc biệt đối với công trình giao thông dạng hầm giao
thông, phương pháp này giúp sớm tái lập mặt đường để giao thông. Và có thể thi công kết hợp
up-up phần thượng tầng và top down đối với phần ngầm (thông dụng đối với các công trình dân
dụng có tầng ngầm) > đẩy nhanh tiến độ thi công.
Tiến độ thi công nhanh: khi đang làm móng và tầng hầm vẫn có thể đồng thời làm phần trên
được để tiết kiệm thời gian, (đương nhiên là phải tăng chi phí gia cường an toàn phần dưới
nhiều hơn, còn nếu "tiết kiệm" tiến độ mà không bù lỗ được "chi phí" tăng do phải gia cường an
toàn thì không cần làm nhanh, top-down phần ngầm trước rồi mới làm phần trên như đã thấy ở
Hà nội. Sau khi đã thi công sàn tầng trệt, có thể tách hoàn toàn việc thi công phần thần và thi
công phần ngầm. Có thể thi công đồng thời các tầng hầm và kết cấu phần thân Qua thực tế 1 số
công trình cho thấy để có thể thi công phần thân công trình chỉ mất 30 ngày, trong khi mỗi giải
pháp chống quen thuộc mỗi tầng hầm(kể cả đào đất, chống hệ dầm tạm, thi công phần BT) mất
khoảng 45 đến 60 ngày, với nhà có 3 tầng hầm thì thi công tử 3 đến 6 tháng. Với nhà có 3 tầng
hầm thường tiết kiệm được thời gian thi công từ 5 đến 6 tháng.
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 19
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
Không cần dùng hệ thống chống tạm (Bracsing System) để chống đỡ vách tường tầng hầm
trong quá trình đào đất và thi công các tầng hầm, không phải chi phí cho hệ chống phụ. Hệ
thanh chống tạm này thường rất phức tạp vướng không gian thi công và rất tốn kém.
Chống vách đất được giải quyết triệt để vì dùng tường và hệ kết cấu công trình có độ ổn định
cao.
Không tốn hệ thống giáo chống, copha cho kết cấu dầm sàn vì thi công trên mặt đất. (đối với
phương pháp đào truyền thống thì chi phí cho công tác chống đỡ và neo khá cao, kéo dài thi
công và đòi hỏi các thiết bị tiên tiến.)
Các vấn đề về móng (hiện tượng bùn nền, nước ngầm ), có một điểm lưu ý ở đây là trong đô
thị thường có nhiều công trình cao tầng, nếu thi công đào mở (open cut) có tường vây, móng sâu

và phải hạ mực nước ngầm để thi công phần ngầm, điều này dẫn đến việc thường không đảm
bảo cho các công trình cao tầng kề bên (dễ xảy ra hiện tượng trượt mái đào, lún nứt ), phương
án thi công Top-down giải quyết được vấn đề này.
Khi thi công các tầng hầm đã có sẵn tầng trệt, nên giảm ảnh hưởng xấu của thời tiết
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 20
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
Một số nhược điểm
Kết cấu cột tầng hầm phức tạp.
Liên kết giữa dầm sàn và cột tường khó thi công.
Thi công cần phải có nhiều kinh nghiệm
Thi công đất trong không gian kín khó thực hiện cơ giới hoá.
Thi công trong tầng hầm kín ảnh hưởng đến sức khoẻ người lao động.
Phải lắp đặt hệ thống thông gió và chiếu sáng nhân tạo
Phương pháp công nghệ chính
Trong công nghệ Top-down, các tầng hầm được thi công bằng cách thi công phần tường vây
bằng hệ cọc barrette xung quanh nhà (sau này phần trên đỉnh của tường vây dùng làm tường bao
của toàn bộ các tầng hầm) và hệ cọc khoan nhồi (nằm dưới chân các móng cột) bên trong mặt
bằng nhà. Tường vây thi công theo công nghệ cọc nhồi bê tông tới cốt không (cốt nền ngay trên
mặt đất) (không tính phần bê tông chất lượng kém trên đỉnh vào trong thành phần tường). Riêng
các cọc khoan nhồi bê tông nằm dưới móng cột ở phía trong mặt bằng nhà thì không thi công tới
mặt đất mà chỉ tới ngang cốt móng (không tính phần bê tông đầu cọc nhồi, phải tẩy bỏ đi sau
này). Phần trên chịu lực tốt, ngay bên dưới móng của các cọc nhồi này được đặt sẵn các cốt thép
bằng thép hình, chờ dài lên trên tới cốt không (cốt nền ngay tại mặt đất). Các cốt thép hình này,
là trụ đỡ các tầng nhà hình thành trong khi thi công Top-down, nên nó phải được tính toán để
chịu được tất cả các tầng nhà, mà được hoàn thành trước khi thi công xong phần ngầm (gồm tất
cả các tầng hầm cộng thêm một số hữu hạn các tầng thuộc phân thân đã định trước). Tiếp theo
đào rãnh trên mặt đất (làm khuôn dầm), dùng ngay mặt đất để làm khuôn hoặc một phần của
khuôn đúc dầm và sàn bê tông cốt thép tại cốt không. Khi đổ bê tông sàn cốt không phải chừa

lại phần sàn khu thang bộ lên xuống tầng ngầm, để (cùng kết hợp với ô thang máy) lấy lối đào
đất và đưa đất lên khi thi công tầng hầm. Sàn này phải được liên kết chắc với các cốt thép hình
làm trụ đỡ chờ sẵn nêu trên, và liên kết chắc với hệ tường vây (tường vây là gối đỡ chịu lực
vĩnh viễn của sàn bê tông này). Sau khi bê tông dầm, sàn tại cốt không đã đạt cường độ tháo dỡ
khuôn đúc, người ta tiến hành cho máy đào chui qua các lỗ thang chờ sẵn nêu ở trên, xuống đào
đất tầng hầm ngay bên dưới sàn cốt không. sau đó lại tiến hành đổ bê tông sàn tầng hầm này,
ngay trên mặt đất vừa đào, tương tự thi công như sàn tại cốt không, rồi tiến hành lắp ghép cốt
thép cột tầng hầm, lắp khuôn cột tầng hầm và đổ bê tông chúng.
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 21
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
Cứ làm như cách thi công tầng hầm đầu tiên này, với các tầng hầm bên dưới. Riêng tầng hầm
cuối cùng thay vì đổ bê tông sàn thì tiến hành thi công kết cấu móng và đài móng.
Đồng thời với việc thi công mỗi tầng hầm thì trên mặt đất người ta vẫn có thể thi công một hay
vài tầng nhà thuộc phần thân như bình thường. Sau khi thi công xong hết các kết cấu của tầng
hầm người ta mới thi công hệ thống thang bộ và thang máy lên xuống tầng hầm.
Một số kĩ thuật cần thiết trong thi công tầng hầm theo phương pháp "TOP-DOWN"
Cốt thép đỡ tạm
Khi thi công tầng hầm theo phương pháp “TOP-DOWN” phải sử dụng các cột thép để đỡ các
sàn tầng hầm và nếu thi công kết cấu phần thân đồng thời với thi công tầng hầm thì các cột thép
chống tạm này phải chịu được thêm cả 2 sàn tầng 1 và tầng 2 nữa. Số lượng các sàn mà cột thép
chống tạm cần phải đỡ sẽ được lấy theo tiến độ thi công phần thân nhà.
Các cột thép đỡ tạm sau này sẽ được nhồi và bọc bê tông trở thành những cột chịu lực của công
trình. Việc tinh toán các cột này sẽ theo những phương pháp tinh toán và quy định riêng. Trong
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 22
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
thực tế người ta dùng thép I có gia cường thép góc hoặc ống thép với khả năng chịu lực từ 200 -

1000 tấn.
Các cột thép đỡ tạm phải được đặt đúng vào vị trí các cột chịu lực của công trình và thường
được cắm sẵn vào các cọc khoan nhồi từ khi thi công cọc khoan nhồi.
Bê tông
Do yêu cầu thi công liên tục, phải tháo ván khuôn sớm để tiến hành đào đất thi công tiếp tục
phần dưới, nên cần dùng phụ gia để giúp bê tông nhanh chóng đạt được cường độ yêu cầu trong
mót thời gian ngăn. Có thể sử dụng các phương pháp sau:
- Sử dụng phụ gia hóa dẻo, siêu dẻo giảm tỉ lệ nước nhưng vẫn giữ nguyên độ sụt yêu cầu làm
tăng cường độ của bê tông.
- Sử dụng các phụ gia tăng trưởng cường độ nhanh, có thế đạt trên 90% cường độ thiết kế trong
vòng 7 ngày.
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 23
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
Khi thi công cột và vách cứng, cần phải dùng bê tông có phụ gia trương nở để vá các đầu cột,
đầu lõi nơi tiếp giáp với dầm sàn. Phụ gia trương nở nên sử dụng loại khoáng, khi tương tác với
nước xi măng tạo ra các cấu tử nở CaOAl2O33CaSo4(31-32)H2O. Hàm lượng phụ gia trương
nở thường được sử dụng là từ 5 - 15% của lượng xi măng, không nên dùng bột nhóm hoặc các
chất sinh khí để làm bê tông trương nở bới chúng gây ăn mòn cốt thép.
Bê tông sàn nơi tiếp giáp với tường tầng hầm nơi có thép chờ vả ở sàn đáy phải được chống
thấm bằng những phương pháp hữu hiệu, việc sửa chữa những chỗ bị rò rỉ, thấm sau khi đã thi
công bê tông là rất khó khăn và tốn kém.
Hạ mực nước ngầm để thi công các tầng hầm
Khi thi công các tầng hầm bằng phương pháp “TOP-DOWN” thường gặp nước ngầm gây khó
khăn rất nhiều cho việc thi công, thông thường người ta phải kết hợp cả hai phương pháp là hạ
mực nước ngầm bằng ống kim lọc và hệ thống thoát nước bề mặt gồm các mương tích nước. hố
thu nước và máy bơm. Việc thiết kế các hệ thống hạ mực nước ngầm và thoát nước này phải
được tính toán riêng cho từng độ sâu thi công theo từng giai đoạn. Khi thi công cũng phải coi
trọng và luân thủ đúng yêu cầu thiết kế của công tác này.

Vai trò của hệ dầm và sàn
Ví dụ nếu nhìn Gouman hotel xuống thì có thể thấy rõ người ta để 3 lỗ tại sàn tầng 1 (một cái là
đường lên xuống của tầng hầm) để vận chuyển đất lên. Việc thi công dầm không có nghĩa là để
cho dễ vận chuyển đất, ngoài lý do để chống áp lực đất cho tường vây và rút ngắn thời gian thi
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 24
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169
Trường ĐH Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM GVHD: Lương Toàn Hiệp
công thì có thể còn có lý do sau: việc thi công dầm và sàn tại tầng hầm sử dụng đất thay dàn
giáo để đỡ ván khuôn nên chiều cao đào bị khống chế, mặt khác máy đào ở đây tuy là loại
chuyên dùng cho đào tầng hầm nhưng độ mở gầu đào vẫn bị khống chế, nếu làm sàn thì sẽ rất
khó đào đất và sẽ rất nguy hiểm. Việc thi công dầm không không cho thấy sự thông gió và chiếu
sáng được tốt hơn vì thông gió tốt phụ thuộc chính vào luồng gió đưa xuống vị trí gây khói và
tính toán sao cho khí đi tuần hoàn, chiếu sáng chủ yếu dùng đèn và ánh sáng từ 3 lỗ mở xuống
Các bước thi công
1. Thi công tường chắn đất thành một chu vi kín: cấu tạo là các tường bê tông cốt thép, có thể
kết hợp với cọc nhồi xen kẽ để tham gia chịu lực cùng kết cấu móng. Thi công theo phương
pháp đào hố ( nếu nông thì dùng máy đào, sâu thì dùng máy cắt đất gầu vuông, dùng dung dịch
bentonite giữ thành.
2. Đào hố tới cao độ thuận lợi (1-2m) và thi công hệ thống giằng chống tạm theo phương đứng.
Có hai phương pháp thi công sàn tầng hầm:
Dùng hệ cột chống hầm đã thi công (tỳ lên cọc nhồi) để đỡ hệ dầm và sàn tầng hầm.
Dùng cột chống tạm. Chống tạm theo phương đứng là dùng các cột chống tạm bằng thép hình
cắm trước vào các cọc khoan nhồi ở đúng vị trí các cột suốt chiều cao từ mặt đất đến đỉnh cọc
nhồi(các cọc khoan nhồi nên được đặt trước các thanh thép hình tới gần cao độ này để có thể sử
dụng vào việc chống hệ thanh giằng). Lý do phải có cột chống tạm này là trong khi phải thi
công phần thân nhà bên trên lên cao dần đồng thời với thi công tầng hầm, phần thân nhà bên
trên chưa có kết cấu chính thức đỡ tải trọng do thân nhà trên tác động xuống cọc nhồi bên dưới.
Các cột này được đặt tại đỉnh cọc nhồi ngay trong giai đoạn lắp hoàn thành việc thi công cọc
khoan nhồi.

3. Thi công hệ dầm sàn bê tông đầu tiên - tầng trệt (cốt 0.00) và để lỗ chờ thi công cho các tầm
sàn tiếp theo, các tấm sàn tiếp theo bên dưới được thi công tuần tự. Các tấm sàn BTCT này cũng
đóng vai trò giằng chống cho tường chắn đất bằng cách liên kết trực tiếp với tuờng qua các mối
nối. Dùng ngay đất đang có làm coppha cho sàn này nên không phải cây chống. Tại sàn này để
một lỗ trống khoảng 2mx4m để vận chuyển những thứ sẽ cần chuyển từ dưới lên và trên
xuống.Khi sàn đủ cứng, qua lỗ trống xuống dưới mà moi đất tạo khoảng không gian cho tầng
hầm sát trệt. Lại dùng nền làm coppha cho tầng hầm tiếp theo. Rồi lại moi tầng dưới nữa cho
đến nền cuối cùng thì đổ lớp nền đáy. Nếu có cột thì nên làm cột lắp ghép sau khi đã đổ sàn
dưới. Cốt thép của sàn và dầm được nối với tường nhờ khoan xuyên tường và lùa thép sau.
Dùng vữa ximăng trộn với Sikagrout bơm sịt vào lỗ khoan đã đặt thép.
Đào một phần đất để tạo chiều cao cho việc thi công dầm sàn tầng tầng trệt (có độ sâu khoảng
chừng 1.66m).
Ghép ván khuôn dầm sàn tầng trệt
SVTH: Phan Thanh Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040164 Trang: 25
SVTH: Phạm Hữu Toàn Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040166
SVTH: Võ Đình Trà Lớp:11HXD01 MSSV: 1191040169

×