Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

SKKN Vật lý 9-Dạy T39 Máy phát điện xoay chiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.2 KB, 18 trang )

I.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất nước phù
hợp với yêu cầu Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước, ngành Giáo dục và
Đào tạo phải đào tạo ra những con người có đức, có tài, năng động sáng tạo làm
việc có khoa học kỹ thuật và hiệu quả. Những năm gần đây ngành GD - ĐT đã
không ngừng đổi mới nội dung học của học sinh, phương pháp dạy của giáo
viên nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục. Đặc biệt có sự hỗ trợ của Công nghệ
thông tin đã giúp cho giờ học sinh động hơn, người thầy đã đưa học sinh đến
gần hơn với thực tế cuộc sống và khoa học kỹ thuật hiện đại.
Tôi nhận thức rằng một trong những mục đích của việc dạy học là làm
cho học sinh nắm vững cơ sở khoa học một cách tự giác, tích cực, sáng tạo. Học
sinh càng được tham gia tích cực, chủ động vào các hoạt động thì các phẩm chất
và năng lực càng sớm được hình thành và phát triển hoàn thiện. Tính năng động
và sáng tạo là những phẩm chất rất cần thiết trong cuộc sống hiện đại,phải được
hình thành ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường.
Mỗi môn học đều có đặc trưng riêng,mỗi loại tiết học: tiếp nhận kiến thức
mới, bài tập, thực hành, ôn tập tổng kết đều có đặc thù riêng nhưng cuối cùng
đều phải đạt được mục đích như đã nói ở trên. Môn vật lí là môn khoa học thực
nghiệm, các tri thức vật lí là sự khái quát các kết quả nghiên cứu thực nghiệm và
các hiện tượng diễn ra trong đời sống. Việc có thí nghiệm và việc khai thác vốn
sống của học sinh, kiến thức thực tế trong đời sống sẽ giúp học sinh có cơ sở để
thực hiện các thao tác tư duy để tiếp nhận tri thức mới, hiểu kiến thức mới một
cách năng động sâu sắc.
Để có một giờ dạy lí thuyết vật lí tạo được hứng thú, hiểu bài sâu sắc,
hình thành được tư duy tích cực, độc lập sáng tạo cho học sinh người giáo viên
vật lí phải hết sức nỗ lực. Từ việc chuẩn bị dụng cụ thí nghiệm chu đáo, coi
trọng tính thực tế gắn với đời sống của kiến thức cần truyền đạt, soạn bài tỉ mỉ
với hệ thống câu hỏi kiểm tra bài cũ, câu hỏi dẫn dắt, gợi mở một cách logic từ
kiến thức cũ sang kiến thức mới, từ bài này sang bài sau - đến việc đặc biệt quan
tâm đến phương tiện dạy học. Trong điều kiện từng trường, từng bài người giáo
viên có thể lựa chọn sự hỗ trợ của bảng phụ bằng tranh phóng to, bằng máy


chiếu trình chiếu Power Point và đặc biệt có sự hỗ trợ của các phần mềm vật lí
để có được phần động của động cơ, máy phát hết sức sinh động.
MônVật lý là cơ sở của nhiều ngành khoa học kỹ thuật, vì vậy người học
hiểu và nhận thức được các hiện tượng, quy luật vật lý là rất quan trọng. Vai trò
1
của sách giáo khoa cung cấp nội dung kiến thức cơ bản hiện đại sát với thực tế
là một điều không thể thiếu cho người học. Bên cạnh đó vai trò chủ đạo của
người thầy trong việc hướng dẫn học sinh lĩnh hội những kiến thức cũng rất
quan trọng. Người thầy trong quá trình dạy học phải làm cho học sinh thấy
đựơc, hiểu được và biết áp dụng những cái mình đã học vào cuộc sống thường
ngày.
Muốn vậy, người dạy phải tìm ra phương pháp giảng dạy phù hợp với
từng đối tượng người học, cách thức truyền đạt từng nội dung, từng bài sao cho
đơn giản để người học lĩnh hội được các kiến thức nhanh và bền vững. Đồng
thời, người dạy dễ sử lý các tình huống trong quá trình giảng dạy.
Qua giảng dạy vật lý bậc THCS, tôi thấy đa số nội dung kiến thức học
sinh dễ học, dễ hiểu và mang lại nhiều thông tin mới cho học sinh. Tuy nhiên
vẫn còn gặp phải một số khó khăn cho người dạy, người học dẫn đến hiệu quả
giảng dạy chưa cao ở môn vật lý 9. Cụ thể như khi dạy bài Động cơ điện, Máy
phát điện một chiều, Máy phát điện xoay chiều, Máy biến thế,…
Trong tình hình cấp thiết cần ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin
vào giảng dạy mà tôi và nhiều giáo viên vẫn chưa thật thành thạo, nhuần
nhuyễn. Tôi xin trình bày bài dạy của mình để mong được trao đổi với các đồng
nghiệp, mong được sự đánh giá, góp ý của các đồng chí để tôi ngày càng tiến bộ,
có nhiều giờ dạy áp dụng công nghệ thông tin thành công hơn.
II. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .
Đối với chương trình vật lý trung học cơ sở nói chung có những mục tiêu
và đặc điểm cấu trúc như sau:
a/ Về mục tiêu gồm:
* Kiến thức: Cung cấp cho học sinh hệ thống kiến thức vật lý phổ thông cơ bản

để làm nền móng cho các cấp học cao hơn, cụ thể các kiến thức về các sự vật
hiện tượng, quá trình vật lý, các khái niệm, các nguyên lý, định luật cơ bản và
những hiểu biết ban đầu về một số phương pháp nhận thức đặc thù của Vật lý
học đó là phương pháp thực nghiệm và phương pháp mô hình.
* Về năng lực và kĩ năng: thực hiện và quan sát, sử dụng các dụng cụ thí
nghiệm, kỹ năng phân tích, xử lí thông tin. Kỹ năng vận dụng kiến thức để giải
thích các hiện tượng vật lý đơn giản. Kỹ năng đề xuất các dự đoán hoặc giả
thuyết đơn giản về các mối quan hệ hay bản chất các hiện tượng hoặc sự vật vật
lý. Kỹ năng diễn đạt chính xác, rõ ràng bằng ngôn ngữ Vật lý.
2
* Về thái độ: Tạo cho học sinh hứng thú trong việc học tập môn Vật lý cũng
như việc áp dụng các hiểu biết của mình vào cuộc sống, có ý thức sẵn sàng tham
gia vào các hoạt động trong gia đình, nhà trường và xã hội. Có thái độ trung
thực, cẩn thận, chính xác trong việc thu nhận thông tin, trong quá trình quan sát
và thực hành thí nghiệm.
b/ Về đặc điểm cấu trúc.
Chương trình Vật lý THCS được trình bày theo dạng xoắn ốc. Chương
trình Vật lý lớp 6, lớp 7 tìm hiểu lần lượt các kiến thức về: Cơ học, Nhiệt học,
Quang học, Điện học. Chương trình Vật lý lớp 8, lớp 9 tìm hiểu lần lượt lại các
kiến thức đó ở mức độ cao hơn.
Chương trình Vật lý 9 thuộc giai đoạn 2 của chương trình Vật lý THCS.
Chương trình Vật lý lớp 9 tạo điều kiện phát triển các năng lực của học sinh lên
mức độ cao hơn và yêu cầu cao hơn đối với học sinh. Đó là những yêu cầu về
khả năng phân tích, tổng hợp các thông tin và dữ liệu thu thập được; khả năng tư
duy trừu tượng, khái quát trong xử lí thông tin để hình thành khái niệm, rút ra
các quy tắc, quy luật và định luật vật lý. Đó là những yêu cầu về khả năng quy
nạp, diễn dịch để đề xuất các giả thuyết, rút ra các hệ quả có thể kiểm tra, xây
dựng các phương án thí nghiệm để kiểm tra giả thuyết hoặc hệ quả của nó. Đó là
những yêu cầu về khả năng phát hiện các mối quan hệ định lượng đối với một
đại lượng Vật lý, đối với các đại lượng trong một định luật vật lý.

Trong những năm giảng dạy chương trình Vật lý 9, bản thân tôi nhận thấy
việc làm cho học sinh chủ động tiếp thu kiến thức là một việc rất khó, đòi hỏi
giáo viên phải dành nhiều thời gian cho việc xây dựng bài giảng và biết cách
điều khiển học sinh sử dụng thiết bị thí nghiệm một cách hợp lí, đặc biệt phải
lựa chọn phương pháp dạy cho phù hợp với từng bài, từng phần của bài. Việc sử
dụng các phương pháp dạy học phù hợp với từng bài là mục tiêu của mỗi giáo
viên.
Vậy tôi đã đưa ra kinh nghiệm theo ý chủ quan để thay đổi hình thức bài
học và cách thức tổ chức bài học nhằm nâng cao hiệu quả giảng dạy Bài 34-Máy
phát điện xoay chiều (Vật lý 9)
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.
A.Điều tra thực tế:
1.Về học sinh:
+Lớp 9A: 34 học sinh,01 học sinh giỏi, 04 hs khá, 21 hs trung bình, 08 hs yếu.
3
+Lớp 9B: 35 học sinh,02 học sinh giỏi, 06 hs khá, 19 hs trung bình, 06 hs yếu.
+Lớp 9C: 33 học sinh,03 học sinh giỏi, 05 hs khá, 20 hs trung bình, 05 hs yếu
Qua kiểm tra khảo sát, kiểm tra miệng,trao đổi với học sinh tôi nhận thấy
hầu như các em sợ hoặc không thích học vật lí, các em cho rằng môn vật lí khô
khan, khó hiểu không hấp dẫn. Nhưng tất cả học sinh đều rất thích được học
những giờ có thí nghiệm và có ứng dụng công nghệ thông tin, những giờ đó học
sinh đặc biệt hứng thú và hiểu bài.
2.Về thực tế dạy một tiết lí thuyết vật lí và việc ứng dụng công nghệ thông
tin vào dạy vật lí:
Ở trường tôi sự chỉ đạo giám sát của Hiệu trưởng và Bộ giáo dục đã trang bị
mới rất nhiều dụng cụ thí nghiệm nên các giờ dạy, giáo viên đều sử dụng tương
đối tốt các thí nghiệm. Tuy nhiên chỉ những giờ dạy được chuẩn bị kĩ hệ thống
câu hỏi nhằm giúp học sinh tự lực phát hiện, lĩnh hội kiến thức, những giờ dạy
gắn với nhiều kiến thức thực tế phù hợp với các em và đặc biệt là những giờ dạy
có sử dụng công nghệ thông tin mới thực sự mang lại hiệu quả cao.

Thực tế, do điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường về phòng học chức
năng,về phương tiện máy chiếu, về trình độ tin học của giáo viên, về ý thức
quyết tâm vươn tới lĩnh hội công nghệ mới của giáo viên còn chưa đồng đều nên
việc dạy học có áp dụng công nghệ thông tin còn chưa phát triển mạnh mẽ, rộng
khắp.Trong khi môn vật lí bao gồm phần điện, quang, điện từ, năng lượng có
khá nhiều thí nghiệm, nhiều nội dung kiến thức gắn với thực tế, đời sống của
học sinh mà nhờ áp dụng công nghệ thông tin sẽ giúp ích vô cùng lớn cho hiệu
quả của giờ dạy.
3.Giáo án cụ thể theo phương pháp cũ:
Tiết 39: MÁY PHÁT ĐIỆN XOAY CHIỀU
I. Mục tiêu:
- Nhận biết được hai bộ phận chính của một máy phát điện xoay chiều, chỉ ra
được rôto và stato của mỗi loại máy
- Trình bày được nguyên tắc hoạt động của máy phát điện xoay chiều
- Nêu được cách làm cho máy phát điện có thể phát điện liên tục
II. Chuẩn bị:
GV: mô hình máy phát điện xoay chiều.
III. Hoạt động dạy- học:
1/ Ổn định:
4
2/ Kiểm tra bài cũ:
? Thế nào gọi là dòng điện xoay chiều? Tạo ra dòng điện xoay chiều bằng
những cách nào?
3/ Nội dung bài mới
Hoạt động của Thầy Hoạt động của trò Nội dung ghi bảng
Hoạt động 1: Tạo tình
huống học tập:
GV đặt vấn đề như ở SGK
Hoạt động 2: Tìm hiểu các
bộ phận chính của máy

phát điện xoay chiều và
hoạt động của chúng khi
phát điện:
Gv thông báo: Chúng ta đã
biết cách tạo ra dòng điện
xoay chiều, dựa trên cơ sở
đó người ta chế tạo ra hai
loại máy phát điện xoay
chiều có cấu tạo như hình
34.1và34.2
-GV treo hình 34.1 và 34.2 ,
y/c HS quan sát hình vẽ và
kết hợp với mô hình để trả
lời C1.
-Y/c HS thảo luận trả lời C2
? Qua hai câu hỏi trên em có
kết luận gì về cấu tạo của
máy phát điện xoay chiều.
- HS theo dõi nắm vấn
đề
-HS theo dõi
-HS quan sát hình và
mô hình trả lời C1.
-HS thảo luận trả lời
C2
-HS nêu kết luận
Tiết 38: máy phát điện
xoay chiều
I. Cấu tạo và hoạt động
của máy phát điện xoay

chiều:
1/Quan sát:
2/Kết luận:
Các máy phát điện xoay
chiều đều có hai bộ
phận cấu tạo chính là
nam châm và cuộn dây:
-Một trong hai bộ phận
đó đứng yên gọi là stato
5
Hoạt động 3: Tìm hiểu một
số đặc điểm của máy phát
điện trong kỹ thuật và
trong sản xuất:
-Y/c HS tự nghiên cứu phần
II, sau đó gọi 1, 2 HS nêu
những đặc điểm kĩ thuật của
máy phát điện xoay chiều
trong kĩ thuật
-y/c HS nêu cách làm quay
máy phát điện
Hoạt động 4: Vận dụng:
HD HS trả lời C3
-HS đọc SGK và nêu
những đặc tính kĩ thuật
-HS nêu cách làm quay
máy phát điện.
-HS trả lời C3 theo gợi
ý của GV
bộ phận còn lại quay

gọi là roto.
II.máy phát điện xoay
chiều trong kĩ thuật:
1/ Đặc tính kĩ thuật:
-Cường độ dòng điện:
2000A
-U xoay chiều:25000V
-Tần số: 50Hz
2/Cách làm quay máy
phát điện:
có thể dùng máy nổ,
tuabin nước, cánh quạt
gió…
III.Vận dụng:
C3
4/ Dặn dò:
- Học bài theo vở ghi
- Làm bài tập ở SBT
- Đọc thêm phần “Có thể em chưa biết”
Qua năm học 2010 – 2011 và những năm học trước, bản thân tôi đã giảng
dạy chương trình vật lý 9, tôi nhận thấy : Một số vấn đề khó khăn khi giảng dạy
bài 34-Máy phát điện xoay chiều (Vật lý 9) và tôi đã đưa ra hướng khắc phục
các khó khăn đó.
4.Những hạn chế khó khăn:
- Không tạo được hứng thú và niềm say mê học tập vật lý
- Học sinh nắm bắt nội dung một cách thụ động
6
- Không gắn liền được các em với thực tế cuộc sống cũng như sự phát triển của
khoa học kỹ thuật hiện đại.
-Giáo viên làm việc nhiều, không phát huy sáng tạo của học sinh

-Học sinh khó hiểu vì nội dung bản chất hiện tượng rất trừu tượng.
- Giáo viên gặp nhiều khúc mắc khi vào bài hoặc chuyển ý.
B.Những biện pháp cơ bản để dạy một giờ lí thuyết vật lí đạt hiệu quả cao:
1.Phấn đấu làm đầy đủ, có chất lượng các thí nghiệm trên lớp.
Vật lí phổ thông là môn khoa học thực nghiệm, các tri thức vật lí là sự
khái quát hóa các kết quả nghiên cứu thực nghiệm và các hiện tượng diễn ra
trong đời sống. Không có thí nghiệm, học sinh rất khó có cơ sở để thực hiện các
thao tác tư duy để tiếp nhận tri thức mới. Có thí nghiệm, học sinh tiếp thu hứng
thú hơn, dễ dàng, hiệu quả hơn.
2.Chuẩn bị kĩ lưỡng hệ thống câu hỏi giúp tổ chức tốt cho học sinh làm việc.
Chuẩn bị thí nghiệm đôi khi là một kì công. Nhưng cái hồn của giờ dạy, để
đạt kết quả cao tôi cho rằng còn là hệ thống câu hỏi. Nếu không khéo léo dẫn
dắt, để học sinh nhập vai “Người nghiên cứu” tiết học vẫn có thể mang tính áp
đặt, học sinh ít hứng thú. Từ nội dung kiểm tra bài cũ sao cho gắn kết bài cũ-
mới, gắn được với đời sống mang tính sâu sắc đến nội dung kiến thức cần
truyền đạt, rồi phần củng cố hướng dẫn về nhà, đặt câu hỏi liên kết cho bài sau
đều cần một hệ thống câu hỏi mang tính hệ thống, đảm bảo tính logic. Đặc biệt
là phần thí nghiệm, học sinh phải được hiểu rõ mục đích để hiểu rõ từng dụng
cụ, được dự đoán trước hiện tượng xảy ra (dựa trên kiến thức cũ), rồi mới quan
sát hoặc làm, phân tích kết quả thí nghiệm, vận dụng các kiến thức có liên
quan để đi đến tri thức mới. Có những câu hỏi chung,khái quát cho học sinh
khá giỏi. Học sinh trung bình, yếu phải được trả lời các câu hỏi cụ thể chi tiết
hơn. Hệ thống câu hỏi phải phát huy được năng lực của mọi đối tượng. Giáo
viên cũng phải chuẩn bị các câu hỏi gợi ý chi tiết các câu hỏi phải diễn đạt rõ
ràng ngắn gọn.Các câu hỏi củng cố phải bám sát mục đích yêu cầu,trọng tâm
của bài cố gắng liên kết kiến thức cũ, mới để học sinh nắm kiến thức theo mạch
một cách logic về nhà học và làm bài sẽ dễ dàng.
3 .Coi trọng tính thực tế gắn với đời sống của kiến thức cần truyền đạt :
Trong phần kiểm tra bài cũ, khi dạy kiến thức mới và đặc biệt là phần
củng cố luyện tập. Phần hấp dẫn mà quan trọng đó là câu hỏi, bài tập có nội

dung thực tế gắn với đời sống. Mỗi học sinh dù ở trình độ, năng lực nào đều có
7
ít nhiều kinh nghiệm sống về những hiện tượng vật lý đã học. Nếu người giáo
viên chịu khó khai thác, khéo léo đưa vào bài học thì những bài giảng mới thật
sự đạt hiệu quả cao . Mới đạt được một mục đích của môn học, học sinh hoàn
thiện tri thức mới và biết vận dụng tri thức đó để giải quyết các nhiệm vụ thực
tiễn. Kinh nghiệm cho thấy phần này, học sinh tham gia hào hứng, thích thú
không kém phần học có thí nghiệm.Và học sinh phải cảm thấy ở đâu trong cuộc
sống cũng có thể thấy kiến thức liên quan đến vật lý .
Vậy người giáo viên khai thác tính thực tế gắn với đời sống của kiến thức
vật lý như thế nào ? Tôi nghĩ rằng nếu đã có mục đích thì bất cứ lúc nào, ở đâu
ta cũng thu lượm được những gì ta cần.
4-Cố gắng tiếp cận và làm chủ các phương tiện dạy học hiện đại
Đơn giản nhất là máy chiếu dạy kết hợp với bảng đen. Có thể thay thế các
bảng phụ rất thuận tiện, chỉ mới chỉ là sử dụng Power Point để trình chiếu, như
bài tôi đã dạy. Để dạy bằng cách này người giáo viên rất vất vả, từ việc phải học
vi tính tối thiểu trình độ A, học cách dùng Power Point, vẽ hình động, phải có
máy tính xách tay đến soạn bài, còn nếu chưa có phòng học chức năng thì còn
vất vả hơn nữa. Tôi tự tìm tòi học hỏi để có mô hình quay của máy phát điện
xoay chiều kiểu nam châm quay và bức tranh động về hình ảnh các nhà máy
thủy điện, nhiệt điện, điện gió, điện nguyên tử, lên mạng lấy mô hình động máy
phát điện kiểu tịnh tiến, máy phát điện một chiều, ảnh các đường sức từ Một
điều nữa cũng rất quan trọng, dạy bằng máy chiếu dùng Power Point tùy theo
từng bài, lượng kiến thức hay tranh vẽ, mô hình đưa vào bài mà một bài dạy có
thể phải có nhiều trang, nhưng làm sao để các kiến thức toàn bài luôn luôn được
lưu lại là tốt nhất.
Tóm lại, phải nỗ lực vừa làm vừa học hỏi một cách nhiệt tâm cùng với cơ
sở vật chất thuận tiện và sự hỗ trợ nhiệt tình của đồng nghiệp thì mới dạy được
bằng máy chiếu.Bây giờ tôi xin trình bày lại bài dạy tôi đã thực hiện được.
IV) NỘI DUNG CỤ THỂ ÁP DỤNG CHO BÀI DẠY:

1) Thiết kế bài dạy chu đáo, phù hợp với nhiều đối tượng học sinh.
Công việc thiết kế chu đáo trước một bài dạy và phù hợp với nhiều đối
tượng là khâu quan trọng không thể thiếu của một tiết dạy học mà bất kì một
giáo viên nào cũng phải biết. “Thiết kế trước bài dạy giúp giáo viên chuẩn bị
chu đáo hơn về kiến thức, kĩ năng, phương pháp, tiến trình và tâm thế để đi vào
một tiết dạy”
8
Vậy làm thế nào để thiết kế một bài dạy hay và phù hợp hay nói cách
khác để thiết kế tốt một bài dạy nhưng phải đảm bảo cho nhiều đối tượng học
sinh thì cần phải làm được những gì?
Cho nên để thiết kế một bài dạy phù hợp cho nhiều đối tượng học sinh thì tối
thiểu nhất phải làm được những việc sau:
+Xác định được mục tiêu trọng tâm của bài học về kiến thức, kĩ năng thái độ
tình cảm. Tìm ra được những kiến thức cơ bản dành cho học sinh yếu kém và
kiến thức nâng cao cho học sinh khá giỏi.
+Khi đã nắm được trọng tâm được kiến thức và phân chia kiến thức cho
từng đối tượng học sinh thì cần tham khảo thêm tài liệu để mở rộng và đi sâu
hơn vào bản chất của đơn vị kiến thức, giúp giáo viên nắm một cách tổng thể,
để giải thích cho học sinh khhi cần thiết.
+Nắm được ý đồ của sách giáo khoa để xây dựng và thiết kế một tiến trình
đi trong giờ dạy hợp lý, đồng thời cũng có thể ý đồ đó thành ý đồ chủ quan của
mình cho phù hợp với tình hình thực tế của nhà trường, lớp, đối tượng và trình
độ học sinh, điều kiện dạy học…
+Chuẩn bị chu đáo phương tiện dạy học .
+Nêu được các tình huống có vấn đề để kích thích tính tích cực của học
sinh.
+Đưa ra những câu hỏi và thời gian thích hợp để quan tâm đến đối tượng
học sinh yếu kém. Tạo nhiều cơ hội cho học sinh yếu kém hoạt động để các em
lấy được phương pháp học tập.
+Đề ra được các phương án giải quyết để đi đến kiến thức cơ bản của bài

học với sự hỗ trợ của nhiều đối tượng học sinh mà không chỉ nhờ vào một bộ
phận học sinh khá giải.
+Cuối cùng làm hoàn chỉnh một tiến trình của một giờ dạy học với đầy đủ
các hoạt động và thời gian ấn định phù hợp.
Nếu thực hiện tốt những việc này xem như giáo viên đã chuẩn bị tốt tâm thế
để bước vào giờ dạy và đã thành công bước đầu.
2) Tiếp xúc và chuẩn bị trước thiết bị dạy học.
Đây là một khâu không trực tiếp làm ngay trong một tiết học, nhưng nó là
khâu cũng không kém phần quan trong. Việc tiếp xúc, chuẩn bị trước thiết bị
dạy học giúp giáo viên chủ động biết được thiết bị nào đã có, tình trạng sử dụng
như thế nào, cần điều chỉnh gì, thiết bị nào còn thiếu cần bổ sung như thế nào và
9
phương án bổ sung, khắc phục ra sao? Khi tiếp xúc với thiết bị dạy học giáo
viên có điều kiện phân công dụng cụ cho từng nhóm học sinh, từng đối tượng
học sinh do đó nó giảm bớt rất nhiều thời gian trong giờ dạy giành thời gian
hướng dẫn cho học sinh yếu kém thực hiện.
Nhưng quan trọng trong khâu này là khi tiếp xúc và chuẩn bị trước thiết bị
thì giáo viên có điều kiện thao tác thành thạo các kỹ năng cần thực hiện trong
khi làm thí nghiệm. Điều này thực sự rất có ích cho giáo viên, bởi giáo viên có
làm thành thạo các thao tác mới có thể hướng dẫn học sinh một cách rành mạch,
rõ ràng không còn lúng túng và giảm bớt nhiều động tác thừa và thời gian lãng
phí.
Do đó khi tiếp xúc và chuẩn bị trước thiết bị, giáo viên cần làm được
những việc sau:
+Kiểm tra thiết bị (đủ hay thiếu) tình trạng sử dụng để đưa ra phương án bổ
sung.
+Phân chia được thiết bị sử dụng theo nhóm cho từng đối tượng học sinh.
+Đưa ra những công việc cho từng đối tượng học sinh thực hiện như: (HS
yếu kém quan sát, ghi chép và làm các thao tác đơn giản, còn HS khá giỏi thao
tác các thao tác khó…….)

+Giáo viên phải làm trước thí nghiệm và thực hiện các thao tác một cách
thành thạo.
3) Điều hành tổ chức hoạt động của học sinh trên lớp.
Việc thiết kế tốt một bài dạy và phù hợp với từng đối tượng học sinh xem
như đã thành công một nữa nhưng đó chỉ là xem như bước khởi đầu cho một tiết
dạy còn khâu quyết định thành công chính là ở khâu tổ chức điều khiển các đối
tượng học sinh trên lớp.
Nhưng để điều hành tốt tất cả các đối tượng học sinh trong một giờ học
thì giáo viên cần phải thực hiện như thế nào?
+Vậy đầu tiên và quan trọng nhất là giáo viên phải xâm nhập giáo án một
cách thuần thục, nắm được các nội dung cơ bản trọng tâm của bài học và những
nội dung chú ý đối với học sinh yếu kém.
+Tạo tình huống có vấn đề ngay từ đầu để kích thích hứng thú học tập của
học sinh trong suốt giờ học.
+Nắm chắc ý đồ SGK và hướng dẫn SGV, mục tiêu bài học, trình tự thiết
kế GV chủ động đưa ra phương án cho các đối tượng học sinh hoạt động.
10
Như vậy tuỳ theo yêu cầu kiến thức, kĩ năng, từng loại câu hỏi hay tuỳ
vào từng loại đối tượng học sinh GV chủ động đề ra phương án tổ chức điều
hành cho linh hoạt và phù hợp.
Trong việc điều hành tổ chức các hoạt động của HS trên lớp GV cũng cần
quan tâm và chú ý đến việc tổ chức và sắp xếp vị trí chổ ngồi cho học sinh hoạt
động theo nhóm có hiệu quả như: Để HS khá giỏi kèm cặp giúp đỡ được các
HS yếu kém, tránh tình trạng mất nhiều thời gian và lộn xộn, tạo được tác
phong và phương pháp học tập hợp tác, từ đó giáo viên cũng có được phương
pháp tổ chức quản lí hoạt động nhóm một cách phù hợp.
Tóm lại: Khâu điều hành tổ chức hoạt động của HS trên lớp là khâu rất
quan trọng nó quyết định thành công hay thất bại của giờ học và cũng quyết
định đến chất lượng của học sinh, đặc biệt là đối tượng học sinh yếu kém. Vì
vậy giáo viên cần bám sát thiết kế, thiết bị, tình hình và đối tượng học sinh

trong lớp để chủ động và linh hoạt trong điều hành.
4) Đánh giá và theo dõi kết quả học tập theo từng đối tượng học sinh.
Việc đánh giá và theo dõi kết quả học tập theo từng đối tượng học sinh
phải diễn ra thường xuyên liên tục và quan trọng nhất là đối tượng học sinh yếu
kém. Như kiểm tra miệng, kiểm tra 15phút, kiểm tra định kỳ. Tuy nhiên việc
thực hiện đánh giá kết quả học tập của HS sau mỗi bài dạy cũng có tầm quan
trọng rất đáng kể: Nó vừa cũng cố, khắc sâu kiến thức củ vừa tiếp thu được kiến
thức mới, đồng thời khuyến khích động viên học sinh, kích thích hứng thú cho
các em về nhà và làm bài tập cũng như tạo được sự hào hứng cho các em chờ
đợi cho tiết học tiếp theo, và giúp đỡ học sinh yếu kém có được tinh thần học tập
tốt hơn và ngày càng yêu thích môn học, lấp dần các kiến thức đã hỏng của các
em. Do đó tôi nhận thấy việc đánh giá kết quả học tập của học sinh sau mỗi tiết
học và thường xuyên rất quan trọng và cần thiết.
Vậy đánh giá kết quả học tập của học sinh như thế nào là tích cực và phát
huy được tác dụng của nó đối với học sinh yếu kém, theo tôi giáo viên cần phải
thực hiện theo các yêu cầu sau:
- GV có thể đánh giá thực hiện bằng các hình thức như:
+ Kiếm tra miệng:
Đối với HS yếu kém thì giáo viên yêu cầu rõ ràng hơn, chi tiết hơn, gợi mở
hơn. Nếu HS trả lời được thì giáo viên cho điểm cao hơn để động viên, còn HS
trả lời không được thì GV hướng dẫn, nhắc nhở và quan tâm đến HS nhiều hơn
trong các câu hỏi của bài học mới.
11
+ Ghi phiếu học tập hoặc phân nhóm tổ chức trò chơi về kiến thức.
Đối với HS yếu kém thì giáo viên đánh giá với mức độ và yêu cầu thấp hơn, và
chỉ rõ những thiếu rót của các em một cách rõ ràng hơn, chi tiết hơn tránh tình
trạng nhận xét chung chung để HS không nhận ra được thiếu sót của mình để
khắc phục.
4) Giáo án minh họa: Dạy học bằng trình chiếu Power Point.
Tiết 39

Bài 34 : MÁY PHÁT ĐIỆN XOAY CHIỀU
1. Mục tiêu.
a. Kiến thức.
- Nêu được Cấu tạo: Máy phát điện xoay chiều có hai bộ phận chính là
nam châm và cuộn dây dẫn. Bộ phận đứng yên gọi là stato, bộ phận chuyển
động quay gọi là rôto.
- Nêu được các máy phát điện đều biến đổi cơ năng thành điện năng.
b. Kỹ năng.
- Giải thích được nguyên tắc hoạt động của máy phát điện xoay chiều có
khung dây quay hoặc có cuộn dây quay.
c. Thái độ.
- Học sinh tích cực trong học tập, quan sát suy nghĩ trả lời câu hỏi.
- Có ý thức vận dụng lý thuyết vào thực tế.
2. Chuẩn bị của GV và HS.
a. Chuẩn bị của GV.
- Mô hình máy phát xoay chiều
- Máy chiếu và giáo án Power Point.
b. Chuẩn bị của HS.
- Học bài và làm bài tập được giao
3. Tiến trình bài dạy.
a. Kiểm tra bài cũ (3

) (Slide 2)
- Kiểm tra 2 học sinh
Giáo viên trình chiếu lần lượt 2 câu hỏi và gọi học sinh trả lời
Cho học sinh khác nhận xét đánh giá
Giáo viên tổng hợp, đánh giá, cho điểm
12
b. Bài mới.
*Đặt vấn đề: (2’)

Gọi 1 em học sinh đọc vấn đề đầu bài.
Giáo viên trình chiếu 3 máy phát điện cho HS quan sát (Slide 3) và cho
học sinh xem video Nhà máy Thủy điện Hòa Bình (Nháy đúp vào hình ảnh
nhà máy thủy điện Hòa Bình).
GV đặt vấn đề:
? Từ cách tạo ra dòng điện xoay chiều đã học thì để tạo ra máy phát điện
xoay chiều thì cần có những bộ phận chính nào? Trong thực tế người ta dung
nguồn năng lượng nào để chạy máy phát điện?
Giáo viên Học sinh Nội dung ghi bảng
HĐ 1: (18

) (Slide 4)
Tìm hiểu cấu tạo và hoạt động của Máy phát điện xoay chiều:
- Giáo viên trình chiếu
H34.1 và 34.2
- Yêu cầu học sinh quan
sát và trả lời C1(Slide 5)
- Giáo viên T/H trình
chiếu trả lời (Slide 5-6)
- Giáo viên trình chiếu
mô hình hoạt động
MPĐXC (Slide 7)
- Yêu cầu học sinh quan
sát và trả lời C2 (Slide 8)
- Giáo viên T/H trình
chiếu trả lời
- Giáo viên trình chiếu
mô hình MPĐXC (Slide
9). Minh họa bằng đồ thị
dòng điện xoay chiều

-Học sinh sử dụng mô
hình quan sát
- HS suy nghĩ trả lời C1:
-HS khác nhận xét bổ
sung
- Học sinh làm thí
nghiệm với mô hình Máy
phát điện xoay chiều
- HS suy nghĩ trả lời C2:
-HS khác nhận xét bổ
sung
I. Cấu tạo và hoạt động
của máy phát điện XC:
1. Quan sát:
- C1 Bộ phận chính: NC
và cuộn dây.
- Khác nhau: h34.1 có
cuộn dây quay và NC
đứng yên, h34.2 ngược
lại
- C2: Khi cuộn dây quay
(hay NC quay) thì số
đường sức từ qua tiết
diện S của cuộn dây luôn
tăng, giảm liên tục luân
phiên.
13
(Nhấn vào “Quay” và
giải thích theo mô hình)
? Vì sao bộ góp không

được coi là bộ phận
chính?
- Yêu cầu học sinh rút ra
kết luận
- HS: Vì chỉ có nhiệm vụ
đưa dòng điện ra ngoài.
- HS trả lời
2. Kết luận:
- Các MPĐXC có hai bộ
phận chính: NC và cuộn
dây. Bộ phận đứng yên
là Stato, bộ phận chuyển
động là Roto
HĐ 2: (08

) (Slide 10)
Tìm hiểu đặc điểm Máy phát điện xoay chiều trong kĩ thuật
- Yêu cầu học sinh tự
nghiên cứu SGK trả lời
câu hỏi của giáo viên
? Đặc tính của máy phát
điện xoay chiều?
? Cách làm quay máy
phát điện? (Slide 11)
GV giới thiệu 1 số hình
ảnh MPĐXC ((Slide 12)
- Trả lời
- Trả lời
II. Máy phát xoay chiều
trong kĩ thuật:

1. Đặc tính kĩ thuật:
- I: 2000 A
- U: 25000V
- P: 300MW
- f: 50 Hz
- Kích thước:
+ Đường kính: 4m
+ Chiều dài: 20m
2. Cách làm quay máy
phát điện
- Dùng động cơ nổ, tua
bin hơi, dùng cánh quạt
gió
HĐ 3: (6

)
14
Vận dụng
- Giáo viên cho học sinh
thảo luận trả lời C3.
(Slide 13)
-Giáo viên tổng hợp trình
chiếu câu trả lời (Slide
14)
- Học sinh thảo luận
- Đại diện nhóm trả lời
- Học sinh khác bổ sung
III. Vận dụng
- C3:
Giống nhau: Đều có NC

và cuộn dây dẫn, khi một
trong hai bộ phận quay
đều tạo ra dòng điện
xoay chiều.
Khác nhau:
+ Đinamô có kích thước
nhỏ hơn, Rô to là nam
châm vĩnh cửu, công suất
nhỏ, Hiệu điện thế đầu ra
nhỏ.
+ Máy phát điện trong
công nghiệp có kích
thước lớn hơn, Rô to là
nam châm điện, công
suất lớn hơn và hiệu điện
thế đầu ra cũng lớn hơn.
c. Củng cố, luyện tập (7

)
- Nhấn mạnh ND chính của bài học bằng sơ đồ tư duy trình chiếu trên
Power Point (GV đặt câu hỏi - HS trả lời - Giáo viên phân tích - Lấy VD minh
họa) (Slide 15)
- Cho HS lấy ví dụ thực tế và kể tên một số nhà máy thủy điên, nhiệt điện
trong tỉnh, trong nước và nước ngoài.
- GV thuyết trình: Nguồn năng lượng thủy điện vừa dồi dào vừa là nguồn
năng lượng sạch nên được phát huy rất lớn.
- Giáo viên trình chiếu cho HS xem và nêu các đặc điểm, thông số của
một số nhà máy thủy điện lớn trên Thế giới, ở Việt Nam và ở Nghệ An. (Slide
16-28)
- GV thuyết trình: Tuy Năng lượng điện tương đối lớn nhưng muốn phát

huy hiệu quả tối đa thì mọi người phải biết tiết kiệm điện, nhất là giờ cao điểm.
15
- GV nêu và cho HS xem Video về “Thi đua tiết kiệm điện” (Nhấn vào
“Thi đua tiết kiệm điện” -(Slide 28))
- Cho HS đọc ghi nhớ - Có thể em chưa biết (Slide 29-30)
d. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà (1

) (Slide 31)
- Học bài - Hiểu ND trọng tâm ở phần ghi nhớ
- Nghiên cứu bài tiếp theo (Bài 35-Các tác dụng của dòng điện xoay
chiều)
* Kết quả thu được:
Sau khi áp dụng sáng kiến trên, Sau một năm thực hiện các em học sinh
đã yêu thích hơn đối với môn Vật lý. Các giờ học trở nên sinh động hơn, các em
tham gia xây dựng bài nhiều hơn. Bản thân giáo viên cũng thấy được giờ dạy trở
nên nhẹ nhàng thoải mái hơn. Kết quả khảo sát thu được như sau:
+Lớp 9A: 34 học sinh,03 học sinh giỏi, 07 hs khá, 23 hs trung bình, 01 hs yếu.
+Lớp 9B: 35 học sinh,03 học sinh giỏi, 08 hs khá, 24 hs trung bình, 00 hs yếu.
+Lớp 9C: 33 học sinh,04 học sinh giỏi, 08 hs khá, 21 hs trung bình, 00 hs yếu
V.BÀI HỌC KINH NGHIỆM
Để thực hiện tốt cuộc vận động hai không, đặc biệt là giảm dần tỷ lệ học
sinh yếu kém và ngồi nhầm lớp nhưng phải đảm bảo về bài toán chất lượng.
Qua quá trình suy nghĩ và thực hiện những việc làm trên đây trong hơn bốn
năm thực hiện cuộc vận động đặc biệt là trong năm học vừa qua thì chất lượng
học tập bộ môn Vật lí ngày càng được nâng cao và giảm dần tỷ lệ HS yếu kém.
Do vậy bản thân tôi xin đưa ra những ý kiến chủ quan của bản thân: Đó là
để nâng cao chất lượng bộ môn nói riêng và chất lượng giáo dục nói riêng và để
giảm dần tỷ lệ học sinh yếu kém, hay học sinh ngồi nhầm lớp thì giáo viên ngay
từ trong những tiết dạy đầu tiên cần phải tuân thủ những biện pháp như trên thì
tin tưởng rằng các tiết dạy sẽ thành công và đảm bảo cho nhiều đối tượng trong

một lớp học đều được nắm kiến thức, tạo được một phương pháp dạy và học
mới trong điều kiện giáo dục hiện nay.
Qua thực tế giảng dạy, bản thân tôi luôn tìm tòi để có phương pháp hướng
dẫn học sinh nhận thấy rằng kiến thức trong nội dung bài học đơn giản, dễ nhớ
và dễ vận dụng.
Trước khi giảng dạy giáo viên cần nghiên cứu kỹ bài dạy nhất là những
bài khó, những nội dung khó hiểu giáo viên có thể tìm ra một phương án tối ưu
để giảng dạy sao cho học sinh dễ hiểu, dễ học và hiệu quả giảng dạy được nâng
16
lên. Khi lên lớp giáo viên kết hợp nhiều phương pháp, nhiều cách thức dạy học
nhằm tạo sự say mê ham học của người học.
Trong quá trình giảng dạy cần thường xuyên đặt những câu hỏi tác động
đồng thời các đối tượng giỏi, khá, trung bình, yếu. Các câu hỏi đưa ra sát với
nội dung bài học rõ ràng dễ hiểu. Nếu khó có thể sử dụng câu hỏi gợi mở để
học sinh trả lời.
Vậy để thực hiện tốt một tiết dạy học vật lí sát với đối tượng học sinh thì
phải thực hiện các vấn đề sau:
1) Thiết kế bài dạy chu đáo, phù hợp với nhiều đối tượng học sinh.
- Giáo viên phải nắm bắt đối tượng học sinh về kĩ năng nhận thức và phân loại
đối rõ ràng, chính xác
2) Tiếp xúc và chuẩn bị trước thiết bị dạy học.
3) Điều hành tổ chức hoạt động của học sinh trên lớp.
- Giáo viên cần đưa ra hệ thống câu hỏi sát, đúng với từng đối tượng học sinh.
- Điều hành các hoạt động của học sinh một cách khéo léo, linh hoạt và mềm
dẻo, tránh tình trạng nặng nề trong các giờ học.
4) Đánh giá và theo dõi kết quả học tập theo từng đối tượng học sinh.
VI. KẾT LUẬN
Việc thực hiện cuộc vận động “Hai không” với bốn nội dung là chủ
trương hoàn toàn đúng đắn nhằm chấn hưng nền giáo dục nước nhà theo hướng
tích cực, sớm đưa nước ta hội nhập ngày một sâu hơn, có hiệu quả hơn vào nền

kinh tế thế giới, từng bước đưa nước nhà trở thành một nước công nghiệp vào
năm 2020.
Hơn bao giờ hết, dạy thật, học thật là một yêu cầu bắt buộc cho tất cả các
trường học trên toàn quốc. Việc thực hiện nghiêm túc cuộc vận động này, tất
yếu chất lượng văn hoá sẽ giảm sút so với chỉ tiêu những năm trước. Đó là sự
thật nghiệt ngã mà chúng ta phải chấp nhận. Biết chấp nhận sự thật đó mà tìm
cách tháo gỡ theo các phương án, giải pháp đúng đắn, là trách nhiệm của các
nhà quản lý giáo dục cũng như các giáo viên đứng lớp, với mục đích vừa thực
hiện tốt cuộc vận động,vừa nâng cao chất lượng văn hoá, giảm được tỷ lệ học
sinh bỏ hoc. Cái mấu chốt của mục tiêu cần đạt được là chất lượng thực. Cần
giải quyết thấu đáo mâu thuẫn giữa cuộc vận động và chất lượng thực chất của
học sinh một cách hài hoà. Học sinh từng bước lên lớp bằng những hiểu biết
thực chất của mình là vấn đề ưu tiên số một .
17
Những ý kiến trên của bản thân qua nhiều năm áp dụng chương trình dạy
học đổi mới và hơn bốn năm thực hiện tốt cuộc vận động hai không. Không
ngoài mục đích nâng cao chất lượng đào tạo, giảm dần tỷ lệ học sinh yếu kém và
khắc phục dần tình trạng học ngồi nhầm lớp để đưa chất lượng ngày một cao
hơn. Với tầm nhìn hạn chế và kinh nghiệm còn non, chắc chắn rằng bài viết vẫn
còn nhiều thiếu sót, kính mong các Thầy, cô giáo, bạn bè đồng nghiệp góp ý
kiến bổ sung nhằm thực hiện tốt hơn bài toán nâng cao chất lượng giáo dục đào
tạo, chống được học sinh ngồi nhầm lớp trong giai đoạn hiện nay.
VII. KIẾN NGHỊ - ĐỀ XUẤT:
1.Đối với Phòng GD-ĐT:
Động viên khuyến khích để tất cả các giáo viên đều được học vi tính và
sử dụng thành thạo công nghệ thông tin trong quá trình dạy học.
Cần tổ chức thêm các đợt hội thảo về ứng dụng công nghệ thông tin trong
dạy học; Nhất là các phần mềm ứng dụng trình chiếu.
2. Đối với Huyện, Tỉnh:
Cần hỗ trợ thêm kinh phí để các nhà trường có thể trang bị thêm máy

chiếu để phục vụ cho việc dạy học có ứng dụng công nghệ thông tin.
Châu Khê, ngày 25 tháng 5 năm 2012
Xác nhận của nhà trường Tác giả
Hiệu trưởng
Nguyễn Ngọc Nam
Cao Khắc Hùng
Xác nhận của HĐKH cấp huyện
18

×