Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

THẢO DƯỢC CHỨA GLYCOSIDE TIM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 18 trang )



Page
1
MỤC LỤC:
DƯỢC LIỆU CHỨA GLYCOSID TIM 2
I. TRÚC ĐÀO 2
II. THÔNG THIÊN 8
III. HÀNH BIỂN 11
IV. ĐAN SÂM 13
V. NẦN VÀNG 16


















Page
2


DƯỢC LIỆU CHỨA GLYCOSIDE TIM
Glycoside tim là những glycoside steroide có tác dụng đặc biệt lên tim. Ở liều
điều trị có tác dụng cường tim, làm chậm nhịp tim và điều hòa nhịp tim. Các tác dụng
trên được gọi là tác dụng theo quy tắc 3R của Potair. Nếu quá liều sẽ gây nôn làm
chảy nước bọt, mờ mắt, tiêu chảy,, yếu các cơ, loạn nhịp tim, nhĩ thất phân ly, ngoại
tâm thu, giảm sức co bóp của tim và cuối cùng làm ngừng tim ở thời kì tâm thu trên
timm ếch và tâm trương trên tim động vật máu nóng.
I. TRÚC ĐÀO

Dược liệu là lá của cây trúc đào – Nerium oleander L. họ Trúc đào –
Apocynaceae. Loài Nerium odorum Soland. cũng được dùng.
1.1 Đặc điểm thực vật
Trúc Đào là Cây gỗ nhỏ, mọc thành bụi cao 3-5 m. Thân non dẹp, sau đó trở
nên tròn, màu xanh, có nhiều lông nhỏ; thân già màu nâu mang thẹo cuống lá. Lá tập
trung ở ngọn, đơn, nguyên, mọc vòng 3 hay mọc đối (lá cuối của mỗi cành), lá thon
hẹp, có mũi nhọn, dài 7-10 cm, rộng 1-4 cm, mặt trên xanh thẫm, mặt dưới nhạt. Mép
lá cong xuống ở mặt dưới. Cuống lá dài 7-9 mm, hình lòng máng, có nhiều tuyến màu
nâu thường tập trung ở mặt trên, đáy cuống lá. Gân lá hình lông chim, gân chính nổi
rõ ở mặt dưới; gân phụ nhiều, đều, song song hai bên gân chính, không nổi rõ ở mặt
dưới. Cụm hoa: Xim phân nhánh ở ngọn cành. Hoa đều, lưỡng tính. Cuống hoa dài 7-


Page
3
10 mm, màu nâu nhạt. Lá bắc dài 5-6 mm, nhọn, rụng sớm. Lá bắc con dài 4-5 mm,
dài nhọn. Lá đài 5, rời, hình tam giác, dài 5-6 mm, màu nâu tím, có lông ở mặt ngoài,
mặt trong có nhiều tuyến nhỏ màu vàng. Cánh hoa 13-20, mang phụ bộ hình sợi ở bên
trong, 5 cánh trong cùng dính nhau thành hình ống hơi loe ở đỉnh, màu trắng có sọc
hồng, dài 7-10 mm; trên chia thành 5 phiến dài 2,5-2,7 cm, màu hồng có sọc trắng, các
cánh còn lại có thể dính hoặc rời; phía ngoài các cánh hoa có 5-6 phiến nhỏ không

mang phụ bộ, cùng màu cách hoa. Tiền khai vặn 5 nhị rời, đính trên ống tràng. Chỉ nhị
dẹp, màu trắng, có nhiều lông ở mặt trong, dài 2-4 mm. Bao phấn hình mũi tên, 2 ô,
hướng trong, khai dọc, có lông ở mặt lưng, chung đới kéo dài thành dạng sợi dài 5-6
mm, có nhiều lông. Hạt phấn rời, hình cầu, có 1 lỗ. 2 lá noãn rời thành bầu trên 2 ô,
mỗi ô nhiều noãn, đính noãn mép. Bầu có nhiều lông ở 1/2 đỉnh bầu. 1 vòi nhụy hình
sợi, màu trắng, dài 6-9 mm, hơi phình ở đỉnh, dính vào bao phấn. Đầu nhụy dạng khối
có chóp hình nón, dài khoảng 1 mm, màu vàng. Quả và hạt: 2 quả đại dài 13-20 cm,
mặt ngoài có nhiều sọc chứa nhiều hạt có lông dài, màu hung. Toàn cây có nhựa mủ
trắng và độc, có thể gây tai nạn cho người và gia súc.
Ở nước ta, trúc đào được trồng làm cảnh ở các công viên và vườn hoa. Loài
Nerium odorum Soland. có hoa thơm và tràng thường kép, màu hồng.
1.2 Thu hái, phân bố và chế biến
Thu hái vào tháng 10 – 11 hoặc vào tháng 4, hái những lá dài trên 10 cm. Hái
về làm khô ngay ở nhiệt độ không quá 50
0
C.
1.3 Thành phần hóa học
Trong lá Trúc đào người ta nghiên cứu thấy bốn glucosid chủ yếu là oleandrin,
nerin, neriantin, adynerin.
1.3.1 Oleandrin còn gọi là Neriolin (Liên Xô cũ) hay folinerin (Theo
Schering) hoặc Oleandrosid có công thức nguyên là C
32
H
48
O
9
Trọng lượng phân tử
là: 576,70 là 1 glucosid không màu, có tinh thể hình kim, vị rất đắng. Nhiệt độ nóng
chảy 245 – 250 độ C, năng suật quay cực là α
D

= -50 -51
0
1 Trong rượu methylic kém
hơn trong rượu ethylic). Cho phản ứng Legel và phản ứng Keller – Kiliani.


Page
4

Oleandrin
Thủy phân acid (dùng HCl 0.1 N, trên nồi cách thủy 2 giờ). Sẽ cho phản ứng là
Oleandrigenin (hay 16 acetyl gitoxigenin) và một chất đặc biệt là Cleandrosa. Nhưng
nếu dùng dung dịch 0,5 N HCl thủy phân trong 4 giờ trên nồi cách thủy
Tạo ra dianhydrogitoxigenin. Nếu dùng dung dịch kiềm nhẹ để thủy phân thì sẽ
thu được gốc Desaxtyloleandrin.
Desaxtyloleandrin., hoạt tính sinh vật là 6000 Đ.V.E trong 1 gam.
1.3.2 Nerin
Còn gọi là Neriosid. Đây không phải là một nguyên chất mà là 1 hỗn hợp các
glucosid trợ tim không có tinh thể, bột vô định hình, màu vàng tan trong nước và rượu,
không tan trong ether ethylic và ether dầu hỏa, chloroform, benzen, acetat ethyl, dung
dịch lỏng, trong nước dễ tạo bọt, vị đắng, đun tới 160 – 170
0
C thì phân giải, năng suật
quay cực α d = -20
0
C (C = 5% trong cồn ) cho phản ứng Legal, không cho phản ứng
Keller – Kiliani mặt phân cách 2 lớp dung dịch có màu đỏ, lớp acid acetic có màu
vàng xanh. Sau khi thủy phân bằng dung dịch 3 HCl đun sôi đến 37 – 39 % chất genin
vô định hình, trong đó chỉ có 7- 10 % là không tan trong clorofoc. Do đó Zabolotnaiu
là người nghiên cứu chất này đã đi đến kết luận là ít nhất neriin gồm 2 chất khác nhau.

Nerin có tác dụng trợ tim yếu.
3. Adynerin
Là một glucosid có tinh thể, không tan trong nước và benzen, tan trong cồn cao
độ 97
0
C, chloroform, khó tan trong cồn methylic. Độ chảy 219-220
0
C. Năng suất
quay cực α
D
= + 9
0
38, trong công thức có một nối kép giữa C
8
và C
9
, do đó không có
tác dụng trợ tim.


Page
5

Adynerin
1.3.4 Neriantin
Là một glucosid có tinh thể hoặc vô dịnh hình, vị đắng, tan trong nước và cồn,
không có tác dụng trợ tim. Công thức cấu tạo chưa được xác định rõ ràng, trong phân
tử có 2 nối kép nhưng vị trí chưa xác định.
Neriantin, tuy hàm lượng nhiều nhưng hoạt tính sinh vật rất thấp vì không có
nhóm OH ở C-14 nên không có ý nghĩa thực tế.


Neriantin
Ngoài ra, trong lá còn các thành phần khác như: acid ursolic, các dẫn chất
flavonoid: rutosid và nicotuflovin (=3 rhamnoglucosid của kaempferol).


Page
6
Vỏ cây có chứa 4 glycosid tim, ngoài ra còn có plumierid là một iridoid
glycosid, vỏ cây không có ý nghĩa thực tế.
1.4 Tác dụng dược lý và độc tính
1.4.1 Tác dụng dược lý
Lá trúc đào chứa nhiều loại glycosid. Đã chứng minh tác dụng trợ tim của 16-
anhydrodigitalinum verum monoacetat, odorosid D, K, odorobiosid K, monoacetat của
odorotriosid G, odorobiosid G và odorosid H. Hàm lượng thấp của những glycosid
này ngăn cản việc đưa chúng vào thử lâm sàng. Hoạt chất chính oleandrin của lá trúc
đào hấp thụ tốt khi uống, và khác với Digitalis là ít tích lũy, có tác dụng kích thích tim
và lợi niệu rõ rệt. Nerifolin tác dụng yếu hơn nhiều. Các flavonol glycosid có tác dụng
đối với độ thấm thành mạch và lợi tiểu. Trên lâm sàng, cornerin có tác dụng đối với
các rối loạn về tim, đặc biệt cải thiện chức năng của cơ tim. Vỏ có 1 glycosid độc,
rosaginin.
Trúc đào có hoạt tính ức chế sự sinh trưởng đối với các dòng tế bào ung thư
người, với liều có tác dụng ED
50
xê dịch từ 0,008 đến 2,13 microgam/ml, tùy thuộc
vào dòng tế bào. Cao cồn trúc đào (lá, thân, rễ) có tác dụng kháng siêu vi khuẩn trong
thí nghiệm xác định nồng độ tối thiểu ức chế sự phát triển của siêu vi khuẩn, và tác
dụng chống ung thư trong thử nghiệm xác định nồng độ thấp nhất diệt các tế bào một
tầng phát triển nhanh lấy từ thận khỉ được nuôi cấy và gây nhiễm với siêu vi khuẩn
bệnh herpes typ 1.

Một phân đoạn polysaccharid thô, thu được do tủa từ cao nước trúc đào bằng
cồn, đã có hoạt tính rất cao trong thử nghiệm về thực bào bạch cầu hạt in vitro, với
những nồng độ từ 10
-6
đến 10
-2
mg/ml. Phân đoạn này cho nhiều polysaccharid với
trọng lượng phân tử tương ứng từ 17.000 đến 12.000 D, xác định bằng phương pháp
lọc đông và sắc ký trao đổi ion. Từ dịch thẩm tách, đã thu được một hỗn hợp
polysaccharid do tủa bằng cồn, tiếp theo bởi sắc ký đông. Hỗn hợp này gồm ba
polysaccharid có trọng lượng phân tử tương ứng: 3.000; 5.500 và 12.000 D. Chúng
đều chứa acid galacturonic cùng với rhamnose, arabinose, xylose, galactose và
glucose. Hỗn hợp polysaccharid này có hoạt tính rất cao trong các thử nghiệm miễn
dịch học vê thực bào bạch cầu hạt, về yếu tố hoại tử u, và về sự chuyển dạng của tế
bào lympho.
Glycosid toàn phần (thuốc neriolin) sản xuất từ lá trúc đào ở Việt Nam dưới
dạng thuốc uống, được áp dụng điều trị cho bệnh nhân suy tim, đã có tác dụng trợ tim


Page
7
tốt, làm đỡ triệu chứng khó thở ở bệnh nhân suy tim sau 2-3 giờ (tác dụng rõ rệt). So
với digitalin, neriolin (oleandrin) có những ưu điểm sau:
- Hấp thụ nhanh khi qua bộ máy tiêu hóa nên không bị các men và acid
của bộ máy tiêu hóa phá hủy.
- Tích lũy rất ít.
- Làm đi tiểu nhiều.
1.4.2 Độc tính
Độc tính của lá trúc đào đã được biết từ lâu. Tại châu Âu, người ta kể những
trường hợp lính vùng đảo Corse (một đảo thuộc miền Nam nước Pháp) đã bị ngộ độc

chết do ăn chả dùng cành cây trúc đào xiên vào thịt nướng. Có những người đã ngộ
độc nặng do uống nước đựng trong chai nút bằng thân cây trúc đào, hay do uống nước
suối có rễ cây trúc đào mọc ở gần. Nhân dân tỉnh Nice đã dùng bột vỏ thân và bột gỗ
trúc đào để đánh bả chuột.
1.5 Công dụng
Lá trúc đào được dùng làm nguyên liệu chiết xuất oleandrin, là thuốc uống
được chỉ định điều trị suy tim, hở lỗ van hai lá, nhịp tim nhanh kịch phát, các bệnh tim
có phù và giảm niệu, và dùng luân phiên với thuốc Digitalis. Neriolin dùng dưới hình
thức dung dịch rượu và thuốc viên.
Theo kinh nghiệm điều trị ở Bệnh viện Việt – Tiệp Hải Phòng, ngày dùng
khoảng 0,4-1,2mg. Có thể dùng liên tục vì thuốc thải trừ nhanh chóng, có bệnh nhân
dùng hằng năm mà không có triệu chứng ngộ độc.
Vì có tính độc cao, nên trúc đào không được dùng làm thuốc uống trong y học
cổ truyền, chỉ dùng để chế thuốc trừ sâu và nấu nước rửa trị ghẻ lở (20-30g lá tươi nấu
nước đặc rửa, ngày một lần).
Trong y học dân gian ấn độ, lá trúc đào dùng để chữa phát ban ở da. Nước sắc
lá được dùng để diệt giòi ở vết thương. Cao nước lá, cành, rễ và hoa độc đối với một
số loài sâu bọ. Cây trúc đào được dùng làm bả chuột ở Nam châu Âu. Mật ong từ nhụy
hoa trúc đào cũng có thể có độc. ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhân dân dùng cao nước lá trúc đào để
điều trị ung thư. ở Angieri, thuốc sắc lá trúc đào trị eczema và chống nhiễm khuẩn.



Page
8
II. THÔNG THIÊN
2.1 Đặc điểm thực vật
Dược liệu dùng là hạt
của cây thông thiên -
Thevetia peruviana ( Pers.)

K. Schum. hay Thevetia
neriifolia Juss. Thuộc họ
Trúc Đào- Apocynaceae.
Cây cao từ 3-4m, cành
dài mềm màu trắng xám. Lá
mọc so le, màu xanh nhạt,
mặt trên của lá bóng, hình
mũi mác hẹp. Hoa màu vàng tươi đẹp, tiền khai hoa vặn. Quả hạch hình bán cầu
đường kính 3-4cm hơi dẹt phía trên và phía dưới, có một sống nhô lên chia đôi quả
làm 2 phần đối xứng. Bên ngoài màu xanh lá, thịt quả trắng nhưng chóng bị đen vì có
chứa aucubosid là một iridoid glycosid, khi glycosid này bị enzym có sẵn trong cây
thủy phân thì phần aglycon bị trùng hiệp cho sản phẩm màu đen.
Vỏ quả trong rất rắn, toàn bộ nom như đôi sứng, mép trên có khe sâu có thể
dung lưỡi dao tách đôi theo chiều dọc. Trong hạch có 4 hạt dẹt màu trắng, thường bị
lép còn 3 hoặc 2. Toàn cây có nhựa mủ và độc. Cây nhập nội để làm cảnh, nguồn gốc
châu Mỹ.
2.2 Phân bố, thu hái và chế biến
Bộ phận dùng: Lá, quả - Folium et Fructus Thevetiae Paruvianae. Lá thường
có tên là Hoàng hoa giáp trúc đào diệp
Nơi sống và thu hái: Loài của Mỹ châu nhiệt đới, được nhập trồng làm cây
cảnh. Thu hái lá làm thuốc quanh năm. Thu hái quả già, thường chọn quả chín, đập vỏ
lấy nhân phơi khô
2.3 Thành phần hóa học
Hạt chứa 50% dầu chủ yếu là acetyl glycerol của acid oleic. Thành phần hoạt
chất là các glycosid tim. Việc xác định cấu trúc kéo dài 1 thế kỷ từ khi Devry ở Java
phân lập được glycosid đắng đặt tên là Thevetin (Thevetosid).
Thevetin


Page

9
A=Cannogenin+L-Thevetose+D-gucose+D-glucose.
Peruvosid=Cannogenin+L-Thevetose.
Acetyl peruvosid=Cannogenin+Acetyl L-Thevetose.
Theveneriin=Cannogenol+L-Thevetose.
Thevetin B=Digitoxigenin+L-Thevetose+D-glucose+D-glucose.
Acetyl Thevetin B=Digitoxigenin+Acetyl L-Thevetose+(Glucose)
2
.
Thevebiosid=Digitoxigenin+L-Thevetose+D-Glucose.
Neriifolin=Digitoxigenin+L-Thevetose.
Acetyl Neriifolin=Digitoxigenin+Acetyl
L-Thevetose.
Perusitin=AcidCannogenic+L-
Thevetose.
Thevetin là tên gọi hỗn hợp 2 chất
Thevetin A và Thevetin B, thành phần
Thevetin B là chính. Chúng có độ chảy
giống nhau (190-195
0
C) và đồng kết
tinh. Khi chiết xuất để làm thuốc người
ta không tách ra 2 chất riêng. Dưới tác
dụng của enzym có trong cây
(Thevetinase) thì các triosid này bị cắt
hai phân tử glucose cuối mạch
(gentibiose) để cho các monosid
neriifolin và peruvosid. Ở trong hạt hàm
lượng neriifolin chiếm nhiều nhất, có thẻ
đến 6-8%. Hạt còn chứa 1 flavonoid: 5-

methylether apigenin và một iridoid
glycosid: thevesid.
Lá cũng có glycoside tim nhưng tỷ lệ
thấp
Hoa có α- và β-amyrin, β-sitosterol,
kaempferol và quercetin.


Page
10

Vỏ thân cũng chứa một iridoid glycoside khác: theviridosi
Vỏ quả không chứa glycoside tim mà chỉ chứa aubucosid, epiperuviol acetate và
hếpritin 7-glucosid.
2.3 Tác dụng dược lý
Chất Thevetin đã được nghiên cứu nhiều về mặt dược lý. Nói chung có tác
dụng cường tim như các glycoside digitalis khác. Nhưng vì dễ tan trong nước nên tác
dụng nhanh và cũng bị bài tiết nhanh. Có tác dụng kích thích cơ trơn của bang quang
và ruột, có tác dụng thông tiểu, liều cao gây đi lỏng. Độ độc của Thevetin kém hơn
ouabain và digitalin. Có thể dùng điều trị hàng tháng mà không có hiện tượng ngộ
độc.
Khi mới tiêm vào Thevetin làm tim đập chậm và làm cho sự co bóp của tim
mạnh lên như vậy chứng tỏ nó có tác dụng rất nhanh. Nếu tiếp tục tiêm sẽ thấy xuất
hiện các hiện tượng ngộ độc: Tim đập nhanh và rung tâm thất (fibrillation
ventriculaire).
Nhưng hiện tượng ngộ độc do Thevetin có thể hết dù đã xuất hiện nhưng triệu
chứng ban đầu không giống như digitalin vì digitalin gây ra hiên tượng tích lũy của nó
trong cơ thể.
2.4 Công dụng
Chất Thevetin đã được một hãng sản xuất của Pháp chế biến thành thuốc trợ

tim dưới dạng dung dịch 1%, 1ml ứng với 30 giọt và 1mg Thevetin. Ngày uống tử một
đến 2mg (30 đến 60 giọt một ngày) chia làm 2 hay 3 lần uống. Có thể dùng lâu vì
thuốc không tích lũy. Đóng thành từng chai 20ml.
Có loại lại chế thành thuốc tiêm, một hộp 6 ống, mỗi ống 2ml tương ứng với
1mg Thevetin. Ngày tiêm 1-2 ống (tiêm vào mạch máu) .
Dùng trong những trường hợp kém tim, tim đập loạn nhịp, viêm tâm cân, tim
suy nhược sau khi mổ hoặc sau khi nhiễm trùng, đau van tim nhất là những trường
hợp bị tổn thương tăng. Trong trường hợp này Thevetin tỏ ra hơn hẳn digitalin. Có thể
dùng cho những trường hợp không đáp ứng thuốc digitalin và oubain hoặc luân phiên
với digitalin và oubain.
Thevetin không nên sử dụng ở trẻ em do nguy cơ ngộ độc hoặc chết, và thiếu
các dữ liệu khoa học.


Page
11

Những người dị ứng hoặc quá mẫn cảm với Thevetin hoặc các glycosid tim
khác như digoxin hoặc digitoxin có thể phản ứng vói thevetin.
Hạt thông thiên rất độc với động vật có vú bao gồm cả con người. Dựa trên
nhưng nghiên cứu ăn tám hạt hoặc nhiều hơn có thể gây tử vong. Tác dụng phụ khi sử
dụng uống thevetin chiết xuật từ Thông thiên bao gồm: kích thích làm đỏ môi, lợi,
lưỡi, buồn nôn, trầm cảm, khó chịu, thở nhanh, vã mồ hôi, đau bụng, tiêu chảy nhức
đầu lũ lẫn, rối loạn thị giác. Xét nghiêm máu bất thường, bao gồm các xét nghiệm
chức năng gan, thận (kali, bilirubin, creatinin và urê trong máu) đã được báo cáo ở
người.
Phụ nữ có thai và cho con bú không nên sử dụng Thevetin vì tính độc cao.
Ở Trung Quốc, người ta chỉ dùng lá và quả làm thuốc cường tim; lá dùng chữa
đinh đầu rắn. Còn rễ, vỏ thân, hoa, hạt và nhựa cây có độc, chỉ dùng để sát trùng.
Ở Ấn Độ, người ta dùng vỏ trị các kiểu sốt gián cách khác nhau, còn nhựa cây

rất độc, nhân quả chứa chất độc gây mê và hạt đều có độc nên không dùng trong.
Ngoài việc dùng Thevetin chiết xuất từ hạt, có nơi còn dùng hạt giã nát làm
thuốc trừ sâu (hạt giã nát, ngâm với nước, thêm một lượng xà phòng bằng trọng lượng
hạt). Phun lên sâu bọ, số lượng tùy theo sâu cánh cứng hay cánh mềm.
III. HÀNH BIỂN

Hành biển - Scilla maritima L.
(Urginea maritima (L.) Bak.), thuộc họ
Hành biển - Hyacinthaceae.
3.1 Thực vật học
Cây thảo mọc thẳng sống nhiều năm
cao 18-20cm, có củ to 10-15cm, màu nâu đo
đỏ nhiều lá vẩy kết hợp. Lá hẹp, dài 30-
40cm hay hơn, không lông. Cụm hoa xuất
hiện khi cây trụi lá, vào mùa hè, cao 30-
150cm, có lá bắc dài 1,2-1,5cm, mỏng, màu
lục mốc mốc. Hoa có 3 lá đài, 3 cánh hoa
cao 1cm màu trăng trắng, 2 nhị, 3 lá noãn;
cuống hoa dài 1,5cm. Quả nang có 3 góc,


Page
12

mỗi ngăn có 3-4 hạt.
Cây rụi lá vào mùa hè và xuất hiện lá mới vào mùa thu đông.
3.2 Phân bố, thu hái và chế biến
Bộ phận dùng là củ - Bulbus Scillae. Có thể dùng toàn cây.
Nơi sống và thu hái: Cây gốc sống ở Địa Trung Hải, được nhập trồng làm
thuốc nhưng chưa phát triển rộng. Thu hái củ vào mùa hè, dùng tươi hay phơi khô.

3.3 Thành phần hóa học
Củ chứa glucoscillaren A, scillaren A, proscillaridin A, scillaridin A,
scilliglancoside, scilliphaeoside, glycoscilliphaêoside, scillicyanoside, scillicoeloside,
scillazuroside, scillicryptoside. Còn có các flavonoid và stigmasterol, phytosterol và
oxalat calcium.

3.4 Tác dụng dược lý
Tính vị, tác dụng: Vị ngọt và hắc đắng, không mùi, tính mát, hơi độc; có tác
dụng trợ tim, lợi tiểu, long đờm, tiêu viêm.
3.5 Tác dụng chữa bệnh
Ở châu Âu, châu Phi, người ta dùng nước ngâm và nước sắc hoa để diệt sâu bọ.
Dùng làm thuốc thông tiểu, nhất là trong viêm thận và bí đái nitơ; còn dùng làm thuốc
long đờm trong bệnh khí thũng phổi, ho gà, viêm phế quản. Liều dùng 0,10-0,30g mỗi
ngày, tối đa 1g trong 24 giờ.
Cũng dùng làm thuốc diệt chuột và diệt sâu bọ (cắt nhỏ củ, đồ với hơi cồn
acetic, sau đó đun sôi với cồn acetic, lọc lấy riêng nước ra, bã còn lại chiết bằng cồn


Page
13

sôi; hợp cả hai thứ dịch chiết lại và cô tới độ cao mềm; Cao này có tác dụng mạnh gấp
4 lần bột, gấp 3 lần cao chế theo phương pháp thông thường).
Toàn cây có độc. Nó gây viêm ống tiêu hoá, nôn mửa, đi ỉa lỏng, làm mất sự
bài niệu, do đó không dùng Hành biển khi viêm thận hay viêm ruột. Nếu dùng quá liều
hoặc dùng lâu ngày sẽ có các triệu chứng đái ra máu, vô niệu, nôn mửa, ỉa chảy, mạch
nhanh và nhỏ, vật vã, chết do ngừng tim.
IV. ĐAN SÂM

4.1 Thực vật học

Tên khoa hoc: Dược liệu là rễ đã phơi hoặc sấy khô của cây Đan sâm (Salvia
mitiorrhiza Bunge)
Họ: Bạc hà (Lamiaceae).
Tên khác: Huyết sâm, Xích sâm, Huyết căn, Tử đan sâm.


Page
14

Cây: Cây thảo lâu năm, cao chừng 40-80cm; rễ nhỏ dài hình trụ, đường kính
0,5-1,5cm, màu đỏ nâu (nên còn có tên là Xích sâm, Huyết sâm, Hồng căn). Lá kép
mọc đối, thường gồm 3-7 lá chét; lá chét giữa thường lớn hơn, mép lá chét có răng cưa
tù; mặt trên lá chét màu xanh tro, có lông.
Hoa mọc thành chùm ở đầu cành, dài 10-15cm, với 6 vòng hoa; mỗi vòng 3-10
hoa, thông thường là 5 hoa, màu đỏ tím nhạt. Tràng hoa 2 môi, môi trên cong hình
lưỡi liềm, môi dưới xẻ ba thuỳ; 2 nhị ở môi dưới; bầu có vòi dài. Quả nhỏ, dài 3mm,
rộng 1,5mm. Ra hoa tháng 4-6, kết quả tháng 7-9.
Dược liệu: Rễ ngắn, thô, đôi khi ở đầu rễ còn sót lại gốc của thân cây. Rễ hình
trụ dài, hơi cong queo, có khi phân nhánh và có rễ con dạng tua nhỏ; dài 10-20 cm,
đường kính 0,3-1 cm. Mặt ngoài màu đỏ nâu hoặc đỏ nâu tối, thô, có vân nhăn dọc.
Vỏ rễ già bong ra, thường có màu nâu tía.
Chất cứng và giòn, mặt bẻ gẫy không chắc có vết nứt, hoặc hơi phẳng và đặc,
phần vỏ màu đỏ nâu và phần gỗ màu vàng xám hoặc màu nâu tía với bó mạch màu
trắng vàng, xếp theo hình xuyên tâm. Mùi nhẹ, vị hơi đắng và se.
4.2 Phân bố, thu hái và chế biến
Phân bố: Cây được nhập trồng ở vùng núi (như Tam Đảo) và đồng bằng (Hà
Nội), sinh trưởng tốt.
Trồng trọt: Có khả năng phát triển trồng ở các vùng chuyên canh
Bộ phận dùng: Dược liệu là rễ đã phơi hoặc sấy khô của cây Đan sâm (Salvia
mitiorrhiza).

Thu hái, chế biến:
Thu hái rễ, phơi khô hoặc sấy.
Đan sâm khô, loại bỏ tạp chất và thân sót lại, rửa sạch, ủ mềm, thái lát dày,
phơi khô để dùng.
Tửu đan sâm (Chế rượu): Lấy đan sâm đã thái phiến, thêm rượu, trộn đều dược
liệu với rượu, đậy kín, để 1 giờ cho ngấm hết rượu, đem sao nhỏ lửa đến khô, lấy ra,
để nguội. Cứ 10 kg đan sâm cần 1 lít rượu.
4.3 Thành phần hoá học
Các dẫn chất có nhóm ceton (tansinon I, tansinon II, tansinon III ) và chất tinh
thể màu vàng cryptotanshinon, isocryptotanshinon, methyl-tanshinon. Ngoài ra còn có
acid lactic, phenol, vitaminE.


Page
15


Cryptotanshinon

Tansinon IIA

Tansinon I
4.4 Tác dụng dược lý
Đan sâm có tác dụng làm giãn động mạch vành, khiến lưu lượng máu của động
mạch vành tăng rõ, cải thiện chức năng tim, hạn chế nhồi máu cơ tim. Trên thực
nghiệm chuột nhắt hay chuột lớn thuốc đều có tác dụng tăng hoặc kéo dài tỷ lệ sống
trong điều kiện thiếu oxy. Thuốc có tác dụng cải thiện tuần hoàn ngoại vi, chống đông
máu. Có tác dụng hạ huyết áp. Trên thực nghiệm thỏ gây xơ mỡ mạch, thuốc có tác
dụng làm giảm triglicerit của gan và máu. Thuốc có tác dụng kháng khuẩn, an thần, ức
chế sự phát triển của tế bào ung thư trên chuột thực nghiệm.

4.5 Công dụng chữa bệnh
Công năng: Khứ ứ chỉ thống, hoạt huyết thông kinh, thanh tâm trừ phiền.
Công dụng: Chữa hồi hộp mất ngủ, kinh nguyệt không đều, bế kinh, hạ tiêu kết
hòn cục, khớp sưng đau, mụn nhọt sưng tấy.
Cách dùng, liều lượng: Ngày 6 - 12g, dạng thuốc sắc.
Bài thuốc:
Chữa kinh nguyệt không đều, động thai, đẻ xong máu hôi không ra hết, đau
khớp xương: Dùng Ðan sâm rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô, tán nhỏ, ngày uống 8g chia
3 lần, chiêu thuốc với nước nóng.
Chữa viêm gan mạn tính hoặc sưng gan, đau vùng gan:Dùng Ðan sâm, Cỏ
nọc sởi, mỗi vị 20g, sắc uống hàng ngày.
Chữa phong nhiệt, ghẻ lở: Dùng Ðan sâm 20g, Thổ sâm 16g, Sà sàng (hạt)
16g, nấu nước để rửa khi còn nóng. 4. Chữa tim sưng đau, hoặc điên cuồng, tâm thần
hoảng hốt: Dùng Ðan sâm, Mạch môn, Ngưu tất, Sinh địa, mỗi vị 20g, Tâm sen sao,
Hoàng liên (hay Dành dành) mỗi vị 8g, sắc uống.


Page
16

Kiêng kỵ: Không dùng chung với Lê lô.
V. NẦN VÀNG
5.1 Thực vật học
Cây thuốc Nần Vàng (hay còn gọi là Nần Nghệ) thuộc họ củ Nâu
(Dioscoreaceae), có tên khoa học là Dioscorea collettii Hook.f. Nần Vàng được Tiến
sỹ Lương y Nguyễn Hoàng tìm thấy trong một lần đi tìm cây thuốc ở Tây Bắc vào
những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ trước. Thân rễ cây màu vàng, phân nhiều nhánh
ngắn tạo thành một khối có đường kính 20cm. Nần Vàng được ghi nhận chỉ có ở
Trung Quốc, Ấn Độ, Myanmar. Tại Việt Nam, cây sống ở vùng đồi núi cao > 1500m.


Hình ảnh cây và thân rễ Nần nghệ
5.2 Phân bố, thu hái và chế biến
Phân bố:
Việt Nam: Cây sống ở vùng đồi núi cao nguyên Mộc Châu.
Thế giới: Trung Quốc, Ấn Độ, Mianma
Đây là loài hiếm. Cây mọc ở vùng đồi núi cao nguyên có nguy cơ bị tuyệt
chủng vì việc khai thác đất đai để trồng cây lương thực và cây công nghiệp. Mức độ
đe dọa: Bậc R.


Page
17

Thu hái: Tháng 5 - 6 ra hoa kết quả và tàn vào tháng 11 - 12.
Bộ phận dùng: Thân rễ đã phơi hay sấy khô của cây Nần nghệ
5.3 Thành phần hóa học
Theo báo cáo của 2 nhà khoa học LUI Cheng-Lai và CHEN Yan-Yong, phân
lâp từ Nần vàng có 6 steroidal sapogenins bao gồm Sarsasapogenone (II), Yamogenin
(III), Diosgenin (IV), Epi-smilagenin (V) và Epi-sarsasapogenin (VI).
(I)
(II)
(III)
(IV)


(V)


(VI)







Page
18

5.4 Tác dụng dược lý
Cao thân rễ của Nần Vàng có tác dụng chống viêm và làm giảm Cholesterol
trong máu. Các nghiên cứu khoa học cho thấy nếu uống liều lượng 2-4g cao Nần Vàng
mỗi ngày thì lượng Cholesterol trong máu giảm đáng kể, đặc biệt là các Cholesterol
xấu (Mỡ xấu LDL), trừ thấp tiêu viêm và có thể giảm được các nguy cơ bị mắc bệnh
mỡ máu, gan nhiễm mỡ, xơ vữa động mạch, nhồi máu cơ tim và đột quỵ.
5.5 Công dụng chữa bệnh
Cung cấp các hoạt chất quý từ thảo mộc giúp giảm Cholesterol trong máu;
giảm nguy cơ mắc bệnh tim mạch, huyết áp; giảm đau nhức xương khớp.


×