ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀ PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC THEO HỢP ĐỒNG TRONG DẠY HỌC
TÍCH CỰC LỊCH SỬ ĐỊA PHƯƠNG LỚP 8
Giáo viên : Lê Thị Luyến- Tổ KH Xã hội
Trường THCS Lê Quang Trường- Hoằng Tiến- Hoằng Hóa
BÀI: “THANH HÓA TRONG PHONG TRÀO
CẦN VƯƠNG CUỐI THẾ KỈ XIX”
Vua Hàm Nghi
Tôn Thất Thuyết
Chiếu ra ngày 13/7/1885
Tên các
nhiệm vụ
Loại
nhiệm
vụ
Thời
gian
Hình
thức
thực
hiện
Địa
điểm
thực
hiện
Đáp
án
Thời
gian
hoàn
thành
Tự đánh
giá
(Giỏi,
khá, TB,
yếu)
1. Kể tên các thủ lĩnh đầu tiên và những địa
phương tham gia trong buổi đầu phong trào
Cần Vương ở Thanh Hóa
Tự chọn
2 phút
Nhóm
Lớp học
Có sẵn
trên màn
hình
2. Lập bảng thống kê các cuộc khởi nghĩa
trong phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa
Bắt buộc
5 phút
Nhóm
Lớp học
Có sẵn
trên màn
hình
3. Đánh dấu trên bản đồ các trung tâm của
phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa
Bắt buộc
2 phút
Nhóm
Lớp học
Có sẵn
trên màn
hình
4. Ghép hình bông hoa về chủ đề khởi nghĩa
Nguyễn Phương
Tự chọn
1 phút
Nhóm
Lớp học Gợi ý
5. Tìm và sửa chỗ sai trong đoạn viết về
khởi nghĩa Ba Đình
Tự chọn
1 phút
Nhóm
Lớp học
Có sẵn
trên màn
hình
6. Tìm và sửa chỗ sai trong đoạn viết về
khởi nghĩa Hùng Lĩnh
Tự chọn
1 phút
Nhóm
Lớp học
Có sẵn
trên màn
hình
7. Ghép hình ngôi sao về chủ đề phong trào
đấu tranh ở miền Tây Thanh Hóa
Tự chọn
1 phút
Nhóm
Lớp học
Gợi ý
8. Ghép sơ đồ đặc điểm, vị trí, ý nghĩa lịch sử
của phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa
Bắt buộc
3 phút
Nhóm
Lớp học
Có sẵn
trên màn
hình
9. Viết thu hoạch về bài học Bắt buộc
1 tuần
Cá nhân
Ở nhà
Có gợi ý
( SGK )
HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN
* Các nhiệm vụ 2, 3, 8, 9 là nhiệm vụ bắt buộc mà nhóm nào cũng phải làm
* Các nhiệm vụ 1, 4, 5, 6, 7 là nhiệm vụ tự chọn mà các nhóm có thể chọn
để thực hiện theo ý thích
*LƯU Ý :
- Mỗi nhóm chọn 2 nhiệm vụ tự chọn để thực hiện
- Nhóm nào chọn nhiệm vụ 4 thì không chọn nhiệm vụ 7
- Nhóm nào chọn nhiệm vụ 5 thì không chọn nhiệm vụ 6
* Thời gian thực hiện tất cả các nhiệm vụ và trưng bày sản phẩm là 13 phút
* Sau khi thực hiện xong mỗi nhiệm vụ, cần ghi thời gian thực hiện nhiệm vụ
vào cột thứ 7 của bản hợp đồng.
* Sau khi tìm hiểu đáp án của GV, các nhóm tự đánh giá vào cột thứ 8
- Làm đúng, không vượt thời gian cho phép: Loại giỏi
- Làm sai ít, đảm bảo thời gian : Loại khá
- Làm sai một nửa, vượt thời gian : Loại TB
- Làm sai nhiều, vượt thời gian : Loại yếu
CHÚC CÁC EM THÀNH CÔNG
1. Trần Xuân Soạn
2. Nguyễn Quý Yên
3. Nguyễn Phương
4. Lê Ngọc Toản
5. Cầm Bá Thước
Các thủ lĩnh đầu tiên của phong trào
Cần Vương ở Thanh Hóa :
Các địa phương tham gia trong buổi đầu
phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa :
Tỉnh lị Thanh Hóa, Quảng Xương, Hoằng Hóa, Nông Cống,
Vĩnh Lộc, Hà Trung, Nga Sơn, Tĩnh Gia,
6. Hà Văn Mao
7. Tống Duy Tân
8. Phạm Bành
9. Hoàng Bật Đạt
10. Tôn Thất Hàm
Nga
Sơn
Nông
Cống
Thường
Xuân
Tĩnh
Gia
Như
Thanh
Yên
Định
Hoằng
Hóa
Quảng
Xương
Hà
Trung
NGHỆ AN
THANH
HÓA
Hoằng
Hóa
CHÚ GIẢI
Các địa phương
tham gia trong
buổi đầu
phong trào
Cần Vương
Đánh thành Thanh
Hóa ngày 12/3/1886
THANH
HÓA
LƯỢC ĐỒ THANH HÓA TRONG BUỔI ĐẦU PHONG TRÀO CẦN VƯƠNG
Như
Xuân
Vĩnh Lộc
Mường Lát
Quan Hóa
Quan Sơn
Bá Thước
Đông
Sơn
Thiệu Hóa
Lang Chánh
Triệu Sơn
Bỉm Sơn
Thọ Xuân
Cẩm Thủy
Ngọc Lặc
Thạch
Thành
Hậu Lộc
Sầm
Sơn
Chân dung Trần Xuân Soạn trên tem Việt Nam
TRẦN XUÂN SOẠN, NGƯỜI PHỤ TRÁCH PHONG TRÀO
CẦN VƯƠNG Ở THANH HÓA
TT Tên khởi nghĩa,
phong trào tiêu biểu
( Đặc điểm )
Tên người
lãnh đạo
Căn cứ
đóng tại
Thời gian
tồn tại
Kết quả
1 Khởi nghĩa Tú Phương
(Nổ ra trong thời kì đầu
phong trào Cần Vương )
Nguyễn
Phương
(Tú Phương)
Ổn Lâm- Kì Thượng
( Nông Cống, Như
Thanh)
1885- 1886 Thất bại
2 Khởi nghĩa Ba Đình
( Khởi nghĩa tiêu biểu
nhất trong phong trào
Cần Vương ở Thanh
Hóa)
Phạm Bành,
Đinh Công
Tráng, Hoàng
Bật Đạt
Ba làng Thượng Thọ,
Mậu Thịnh, Mĩ Khê
( Ba Đình, Nga Sơn,
Thanh Hóa)
1886- 1887 Thất bại
3 Khởi nghĩa Hùng Lĩnh
( Bước phát triển mới của
phong trào Cần Vương ở
Thanh Hóa)
Tống Duy
Tân, Cao Điển
Bồng Trung- Đa Bút
( Vĩnh Tân- Vĩnh Lộc)
1887-1895 Thất bại
4 Phong trào ở miền Tây
Thanh Hóa ( Tiêu biểu
cho phong trào đấu
tranh của đồng bào miền
núi cả nước )
Cầm Bá
Thước, Hà
Văn Mao, Hà
Văn Nho
*Trịnh Vạn (Thường
Xuân)
*Điền Lư (Bá Thước)
*Mường Kỉ ( Bá
Thước)
Thất bại
NHIỆM VỤ 2
=
Nga
Sơn
Nông
Cống
Thường
Xuân
Tĩnh
Gia
Như
Thanh
Yên
Định
Hoằng
Hóa
Quảng
Xương
Hà
Trung
NGHỆ AN
THANH
HÓA
Như
Xuân
Vĩnh Lộc
Mường Lát
Quan Hóa
Quan Sơn
Bá Thước
Đông
Sơn
Thiệu Hóa
Lang Chánh
Triệu Sơn
Bỉm Sơn
Thọ Xuân
Cẩm Thủy
Ngọc Lặc
Thạch
Thành
Hậu Lộc
Sầm
Sơn
Lược đồ các trung tâm
Cần Vương ở Thanh Hóa
NHIỆM VỤ 3
Các cuộc khởi nghĩa
lớn nhất
Phong trào đấu tranh
ở miền núi,
các căn cứ phụ trợ
HÀ
TRUNG
BA
ĐÌNH
NGA
VINH
NGA
THẮNG
NGA
TRƯỜNG
Vị trí căn cứ Ba Đình trên bản đồ huyện Nga Sơn
Khởi nghĩa Ba Đình (1886-1887) là cuộc khởi nghĩa tiêu biểu nhất trong
phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa. Lãnh đạo cuộc khởi nghĩa là Phạm Bành,
Đinh Công Tráng, Hoàng Bật Đạt Căn cứ được xây dựng trên địa phận 3 làng
Thượng Thọ, Mậu Thịnh, Mỹ Khê ( thuộc xã Ba Đình, Nga Sơn). Đây là công sự
phòng thủ quy mô nhất Việt Nam thời kì cuối thế kỉ XIX với nhiều loại vũ khí mới
và các căn cứ hỗ trợ ở các địa phương lân cận.
Ban đầu, nghĩa quân mở các trận đánh nhỏ tiêu diệt sinh lực địch, làm tê liệt
đường giao thông của chúng. Tháng 12/1886, nghĩa quân đã đập tan cuộc tấn công
lần 1 vào căn cứ do Metzingơ và Đôt cầm đầu
Ngày 6 tháng Giêng năm 1887, tiếp tục đánh bại cuộc tấn công lần 2 của
quân Pháp do Brixơ chỉ huy
Ngày 15 tháng Giêng năm 1887, quân Pháp cắt đứt liên lạc của nghĩa quân
với bên ngoài, đốt căn cứ bằng xăng. Đêm 20 tháng Giêng, Ba Đình thất thủ.
Nhóm nghĩa quân cuối cùng rút lên căn cứ Mã Cao. Tại đây, nghĩa quân tiếp tục
xây dựng thành lũy và chiến đấu quyết liệt với quân Pháp, song trước thế giặc
mạnh, nghĩa quân tiếp tục rút lui. Đinh Công Tráng bị phản bội và hi sinh trên
đường vào Nghệ An tháng 10/1887
Thời kì đầu của phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa kết thúc
Tên Ba Đình được dùng để đặt cho quảng trường lớn ở TP Hà Nội, nơi vào
ngày 2/ 9/ 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
NHIỆM VỤ 5
Sơ đồ
công sự
phòng thủ
Ba Đình (thuộc
địa phận 3 làng
Thượng Thọ,
Mậu Thịnh, Mỹ
Khê, xã Ba
Đình,
Nga Sơn,
Thanh Hóa)
Nghĩa quân cuộc khởi nghĩa Ba Đình bị bắt
Phụ nữ nông dân bị bắt trong khởi nghĩa Ba Đình
Vị trí căn cứ khởi nghĩa Hùng Lĩnh
trên bản đồ huyện Vĩnh Lộc
VĨNH
HÙNG
VĨNH
MINH
VĨNH
THỊNH
VĨNH
TÂN
Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1887-1895) do Tống Duy Tân, Cao Điển lãnh đạo.
Căn cứ của cuộc khởi nghĩa đóng tại các làng Bồng Trung, Bồng Thượng, Bồng
Hạ, Đa Bút ( Vĩnh Lộc)
Khác với các thủ lĩnh của khởi nghĩa Ba Đình, Tống Duy Tân không xây
dựng thành lũy kiên cố mà lợi dụng địa hình, địa vật tự nhiên sẵn có để phòng
thủ, thực hiện chiến tranh du kích. Kỉ luật của nghĩa quân hết sức nghiêm khắc.
Ban đầu, nghĩa quân chiến đấu chống các cuộc càn quét của địch, đánh thành
Thanh Hóa, làm phân tán lực lượng của địch, không cho chúng thực hiện ý đồ lập
chính quyền tay sai
Tống Duy Tân đã liên hệ và có phối hợp chiến đấu với thủ lĩnh phong trào
hai miền Trung, Bắc ( các tỉnh Hà Tây, Bắc Giang, Nghệ An, Hà Tĩnh)
Những thắng lợi vang dội của nghĩa quân Hùng Lĩnh là trận Vân Đồn (Triệu
Sơn), trận Đa Bút, trận Vạn Lại (Thọ Xuân), trận đánh huyện lị Nông Cống, phục
kích ở Yên Thái, bao vây đồn Thị Long ( Nông Cống ).
Do sự phản bội của Cao Ngọc Lễ, Tống Duy Tân bị bắt và bị chém đầu tại
tỉnh lị Thanh Hóa. Cao Điển cũng bị bắt tại Bắc Giang và bị kết án tử hình
Với 8 năm tồn tại, hoạt động trên một địa bàn rộng lớn trong tỉnh, phối hợp
chiến đấu với nghĩa quân trong và ngoài tỉnh cùng sự tiến bộ trong tổ chức và kỉ
luật, khởi nghĩa Hùng Lĩnh xứng đáng là bước phát triển mới trong phong trào
yêu nước chống Pháp ở Thanh Hóa cuối thế kỉ XIX
NHIỆM VỤ 6
Tống Duy Tân
trong phẩm phục
tiến sĩ tân khoa
năm 1875
Đền thờ
Cầm Bá
Thước
(Thường
Xuân )
Nằm cách trung tâm thành phố Thanh Hóa chừng 60 km về phía tây,
đền thờ danh nhân Cầm Bá Thước tọa lạc trên một dải đất cao thuộc địa bàn
xã Xuân Mỹ, huyện Thường Xuân, Thanh Hóa. Nơi đây trong tương lai
không xa khi công trình thủy lợi, thủy điện Cửa Đạt hoàn chỉnh sẽ tạo thành
một quẩn thế danh lam thắng cảnh tuyệt đẹp, không chỉ đáp ứng nhu cầu
tâm linh mà cả du lịch sinh thái đối với người dân và du khách thập phương.
Lễ hội Căm Mương, xã Mường Kỉ, Văn Nho, Bá Thước
Lễ hội Căm Mương, xã Mường Kỉ, Văn Nho, Bá Thước
ĐẶC ĐIỂM,
VỊ TRÍ, Ý NGHĨA LỊCH SỬ
CỦA PHONG TRÀO YÊU NƯỚC
CHỐNG PHÁP Ở THANH HÓA
CUỐI THẾ KỈ XIX
V TRỊ Í
Nêu cao
chủ
nghĩa
anh hùng,
là niềm
cổ vũ
lớn lao
cho lớp
người
sau
tiếp tục
đấu tranh
ĐẶC ĐIỂM
Bùng nổ
sớm,kéo
dài liên
tục và
bền bỉ
Diễn ra
trên diện
rộng, quy
mô ngày
càng lớn
từ đồng
bằng, trung
du lên
miền núi
Thể hiện
tinh thần
yêu nước
mạnh mẽ,
ý chí
kiên
cường,
sức mạnh
đoàn kết
hùng hậu
của nhân
dân
tỉnh ta
Thể
hiện
tinh
thần
yêu
nước
nồng
nàn,
sẵn sàng
hi sinh
vì độc lập
dân tộc
Ý NGHĨA LỊCH SỬ
TRUNG
TÂM
*Dựa chắc
vào nhân
dân, khai
thác tối đa
điểm mạnh
của
địa hình,
địa vật,
con người
*Phương thức
đấu tranh
phong phú,
nhất là
xây dựng
làng xã
chiến đấu
Lãnh
đạo
là sĩ phu,
văn thân,
thổ ty,
lang đạo,
nông dân,
những
người
có uy
tín và
khả năng
tập hợp
lực lượng
Thất bại do
-
Phân tán,
hiếu bộ
chỉ huy
thống nhất
tập trung
cao độ
- Phương pháp
chưa
đúng đắn,
khoa học
-Vũ khí thô sơ
- Nghĩa quân
chưa được
rèn luyện
chu đáo
Đánh
mạnh,
làm
chậm
quá
trình
“bình
định”
của
thực
dân
Pháp
NHIỆM VỤ 8
Trần Xuân Soạn là người làng Thọ Hạc (nay là phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa)
Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, tòng quân thay cho con một phú hào trong làng
để lấy tiền nuôi gia đình. Trong thời gian đi lính, do có công lớn trong việc tiễu phỉ ở đất Bắc
nên được thăng chức đề đốc.
Sau khi vua Kiến Phúc mất, ngày 2 tháng 8 năm 1884, vua Hàm Nghi nối ngôi, Trần Xuân
Soạn được điều về Huế để cùng phái kháng chiến lo phòng giữ kinh thành.
Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 7 năm 1885, ông cùng phái chủ chiến do Tôn Thất Thuyết và
Nguyễn Văn Tường đứng đầu, lệnh cho binh sĩ đồng loạt nã đại bác vào tòa Khâm Sứ và đồn
Mang Cá, là hai địa điểm đóng quân của quân Pháp. Thất bại, Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm
Nghi chạy ra sơn phòng Quảng Trị, ban dụ Cần Vương; còn Trần Xuân Soạn cùng Phạm
Bành, Đinh Công Tráng đi xây dựng cứ điểm Ba Đình (Thanh Hoá), tiếp tục chỉ đạo cuộc
kháng chiến. Theo sự phân công, ông đóng quân ở phủ Quảng Hóa để hỗ trợ cho căn cứ Ba
Đình, và giữ mối hiện hệ giữa Ba Đình và Mã Cao.
Đầu năm 1887, Ba Đình và Mã Cao thất thủ ông rút quân lên Điền Lư, châu Quan Hoá
(nay là huyện Bá Thước) xây dựng lại lực lượng.
Thấy Trần Xuân Soạn cứng cỏi quá, quân Pháp đào mồ lấy cốt cha ông thiêu hủy ở giữa
đường, cốt để lung lạc ông ra hàng, nhưng không thành công. Ít lâu sau, ông sang Long Châu
(Quảng Tây, Trung Quốc) gặp Tôn Thất Thuyết để bàn chuyện xin viện trợ và tổ chức lại lực
lượng, nhưng rồi bị mắc kẹt luôn ở bên đó .
Ở Long Châu, được sự giúp đỡ của một số sĩ phu Hoa Nam, ông đã tổ chức được mấy toán
quân, và nhiều lần về hoạt động ở biên giới .
Năm Quý Hợi (1923), Trần Xuân Soạn mất tại Long Châu, thọ 74 tuổi.
TRẦN XUÂN SOẠN, NGƯỜI PHỤ TRÁCH PHONG TRÀO
CẦN VƯƠNG Ở THANH HÓA
Căn cứ Ba Đình cách huyện lỵ Nga Sơn 4 km, tây bắc giáp huyện Hà
Trung, được xây dựng trên địa bàn ba làng Thượng Thọ, Mậu Thịnh và Mỹ
Khê.
Vào mùa mưa, căn cứ này trông như một hòn đảo nổi giữa cánh đồng nước
mênh mông, tách biệt với các làng khác. Căn cứ này gọi là Ba Đình vì mỗi làng
có một cái đình, từ làng này có thể nhìn thấy đình của hai làng kia.
Để chuẩn bị chiến đấu lâu dài, Đinh Công Tráng đã cho bao bọc xung
quanh căn cứ là lũy tre dày đặc và một hệ thống hào rộng, cắm đầy chông tre.
Ở trong là một lớp thành đất cao 3 m, chân rộng 8 đến 10m. Trên mặt thành,
nghĩa quân đặt các rọ tre chứa đất nhào rơm xếp vững chắc có những khe hở
làm lỗ châu mai sẵn sàng chiến đấu. Thành rộng 400 m, dài 1.200 m. Phía
trong thành có hệ thống giao thông hào dùng để vận chuyển lương thực và vận
động khi chiến đấu. Ở những nơi xung yếu đều có công sự vững chắc.
Ở mỗi làng xây dựng một đồn đóng quân. Ở Thượng Thọ có đồn Thượng,
ở Mậu Thịnh có đồn Trung và ở Mỹ Khê có đồn Hạ. Ba đồn này có thể hỗ trợ
tác chiến cho nhau khi bị tấn công, đồng thời cũng có thể chiến đấu độc lập. Có
thể nói rằng căn cứ Ba Đình có vị trí tiêu biểu nhất, là một chiến tuyến phòng
ngự quy mô nhất thời kỳ Cần Vương cuối thế kỷ 19. Ba Đình còn có các căn cứ
hỗ trợ: căn cứ Phi Lai của Tống Duy Tân và Cao Điển, căn cứ Quảng Hóa của
Trần Xuân Soạn, căn cứ Mã Cao của Hà Văn Mao.
Từ Ba Đình, nghĩa quân có thể tỏa đi các nơi, kiểm soát các tuyến giao
thông quan trọng trong vùng, tổ chức phục kích các đoàn xe vận tải của đối
phương đi lại trên con đường Bắc-Nam Chính vì vậy, mà quân Pháp rất quyết
tâm đánh dẹp.
CĂN CỨ BA ĐÌNH
•
Tống Duy Tân là một nhà khoa bảng lớn, đã từng bỏ ấn từ quan trước thái độ hèn nhát đầu hàng
Pháp của triều đình nhà Nguyễn. Về Thanh Hóa ông dạy học và mưu tính việc cứu nước. Khi Tôn
Thất Thuyết nắm binh quyền liền đưa ông trở lại triều đình tham gia chính sự. Khi chiếu Cần Vương
ban ra, ông được vua Hàm Nghi phong làm Chánh sứ sơn phòng Thanh Hóa.
Khi khởi nghĩa Ba Đình thất bại, để thoát khỏi sự truy lùng của Pháp, Tống Duy Tân lánh đi
một thời gian. Sau đó về lại Thanh Hóa tập hợp những người yêu nước cũ còn lại như Cao Điển, Tôn
Thất Hàm, Cầm Bá Thước… xây dựng lại lực lượng
•
Nghĩa quân Hùng Lĩnh được tổ chức rất cơ động, mỗi huyện đều có một cơ lính từ 200 người trở
lên và lấy tên huyện để gọi, ví dụ như Tống Thanh cơ (Tống Sơn - Thanh Hóa), Nông Thanh cơ (Nông
Cống - Thanh Hóa)… Lãnh đạo nghĩa quân còn chủ động đặt mối liên hệ với nghĩa quân ở một số nơi
khác .Trong những năm 1889 - 1891, nghĩa quân Hùng Lĩnh đã chiến thắng nhiều trận, chủ yếu là
phục kích đánh địch trên đường hành quân
•
Tháng 5-1892, nghĩa quân Hùng Lĩnh phối hợp với nghĩa quân sông Đà (do Đốc Ngữ chỉ huy)
chiến đấu với quân Pháp do Pennơcanh chỉ huy ở Niên Kỷ và giành thắng lợi lớn.
•
Sau đó, Pháp tăng cường tấn công càn quét vào căn cứ, Tống Duy Tân lãnh đạo nghĩa quân chiến
đấu cầm cự được một thời gian nữa. Đến tháng 9-1892, nhận thấy hết phương duy trì cuộc chiến đấu,
Tống Duy Tân cho hội quân lại nói rõ tình hình và tuyên bố giải tán quân sĩ, khuyên mọi người trở về
quê quán làm ăn, chờ thời cơ và không được cộng tác với giặc. Tống Duy Tân cùng Cao Điển và một
số nghĩa quân còn lại trú quân trong một hang núi thuộc huyện Bá Thước
•
Ngày 3-10-1892, tên việt gian Cao Ngọc Lễ (vốn là học trò cũ của Tống Duy Tân) chỉ điểm cho
quân Pháp bắt Cao Điển và Tống Duy Tân. Trong trận đánh trả dữ dội đó, Cao Điển thoát được ra
ngoài. Ngày 4-10-1892, Tống Duy Tân bị địch bắt. Pháp cho đóng cũi nhốt ông chở về thị xã Thanh
Hóa để mua chuộc. Trong cũi tù ông vẫn ung dung làm thơ. Thất bại trong âm mưu mua chuộc, thực
dân Pháp đưa Tống Duy Tân ra chém tại thị xã Thanh Hóa ngày 15-10-1892.
Người dân Thanh Hóa có câu
•
Vô địa khả mai Cao Ngọc Lễ
•
Hữu tiền khôn chuộc Tống Duy Tân
•
Đến đây, cuộc khởi nghĩa Hùng Lĩnh coi như kết thúc.
TỐNG DUY TÂN, NGƯỜI LÃNH ĐẠO
KHỞI NGHĨA HÙNG LĨNH