Tải bản đầy đủ (.doc) (204 trang)

161 Tăng cường mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp trong hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác thanh tra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (828.64 KB, 204 trang )

PHẦN I
BÁO CÁO THỔNG THUẬT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
“TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ CHỈ ĐẠO, PHỐI HỢP TRONG HỆ THỐNG
CÁC CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ,
HIỆU LỰC CỦA CÔNG TÁC THANH TRA”
- -
1
BÁO CÁO TỔNG THUẬT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
“TĂNG CƯỜNG MỐI QUAN HỆ CHỈ ĐẠO, PHỐI HỢP TRONG HỆ
THỐNG CÁC CƠ QUAN THANH TRA NHÀ NƯỚC NHẰM NÂNG CAO
HIỆU QUẢ, HIỆU LỰC CỦA CÔNG TÁC THANH TRA”
PHẦN MỘT:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TÍNH HỆ THỐNG CỦA CÁC CƠ QUAN
THANH TRA NHÀ NƯỚC VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC TĂNG CƯỜNG
MỐI QUAN HỆ TRONG HỆ THỐNG CÁC CƠ QUAN THANH TRA NHÀ
NƯỚC.
I. Tính hệ thống của các cơ quan thanh tra nhà nước.
Hệ thống được hiểu là “tập hợp những bộ phận có liên kết chặt chẽ với
nhau”
1
Hệ thống luôn có cấu trúc, được cấu tạo bằng các bộ phận và các phân hệ
trong hệ thống, giữa chúng có mối quan hệ tác động qua lại, ràng buộc nhau. Nhờ
có cấu trúc mà hệ thống có tính ổn định. Tính ổn định của hệ thống không còn khi
các mối quan hệ bên trong của hệ thống thay đổi và đến một mức độ nào đó nó sẽ
thay đổi về chất. Hệ thống còn được hiểu là thứ tự xắp xếp có quy củ, hệ thống
mang tính liên tục không đứt quãng. Khi nói đến hệ thống chúng ta thường phải
gắn nó một đối tượng nhất định. Tăng cường tính hệ thống chính là tăng cường mối
quan hệ, sự tác động qua lại giữa các bộ phận trong hệ thống.
Cơ quan Thanh tra nhà nước với tư cách là một bộ phận cấu thành của Bộ
máy nhà nước, được thành lập và hoạt động theo quy định của pháp luật, có vị trí,
vai trò, chức năng, nhiệm vụ cụ thể. Thanh tra nhà nước có cơ cấu tổ chức chặt chẽ,


có biên chế xác định với đội ngũ cán bộ, công chức được xắp xếp theo ngạch, bậc.
Do đó, có thể thấy rằng ngành thanh tra được tổ chức có tính hệ thống, giữa các cơ
quan thanh tra có mối quan hệ gắn bó, tác động qua lại với nhau và được xắp xếp
theo thứ tự quy củ trong quá trình tổ chức, hoạt động.
Trên thế giới, mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan thanh tra rất đa dạng, tuỳ thuộc vào thiết chế bộ máy nhà nước của từng quốc
gia. Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau có thể phân định thành các loại hình thanh
1
Nguyễn Lân - Từ điển từ và ngữ Việt Nam, năm 2000 – Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh
2
tra khác nhau. Tuy nhiên, dù loại hình thanh tra nào thì nó cũng có một đặc điểm
chung là: Chức năng của cơ quan thanh tra nằm trong chức năng của cơ quan lập ra
nó và quyền hạn của cơ quan thanh tra không vượt ra ngoài phạm vi quyền hạn của
cơ quan lập ra nó.
Ở nước ta, từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh thành lập Ban Thanh tra đặc biệt -
tổ chức tiền thân của ngành Thanh tra Việt Nam - trải qua những thăng trầm cùng
cách mạng Việt Nam, cơ quan thanh tra luôn được đặt trong hệ thống cơ quan hành
pháp, có vị trí quan trọng trong hệ thống các cơ quan thuộc Chính phủ và các
ngành, các cấp. Các cơ quan thanh tra là một bộ phận hữu cơ của các cơ quan quản
lý nhà nước và được xác định là chức năng thiết yếu của quản lý nhà nước, do đó,
các cơ quan thanh tra được tổ chức theo hệ thống các cơ quan quản lý nhà nước.
Nghĩa là các cơ quan thanh tra được tổ chức theo cấp hành chính (chiều dọc) và tổ
chức theo ngành, lĩnh vực (chiều ngang).
Như vậy, tăng cường tính hệ thống của cơ quan thanh tra chính là tăng cường
mối quan hệ qua lại, sự phối hợp trong quá trình tổ chức và hoạt động của các cơ
quan thanh tra, với mục đích chung là giúp các cơ quan thanh tra thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình, phục vụ hiệu quả, đắc lực cho công tác quản lý nhà nước
của cấp mình, ngành mình, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả hiệu lực của toàn
bộ hệ thống thanh tra. Muốn tăng cường mối quan hệ qua lại giữa các cơ quan
thanh tra trong hệ thống thanh tra chúng ta phải thông qua các phương diện hoạt

động chủ yếu của các cơ quan thanh tra được pháp luật quy định, bao gồm: Tổ chức
bộ máy và nhân sự; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan thanh tra;
phương thức, cách thức hoạt động của các cơ quan thanh tra.
Do đặc thù của ngành thanh tra, mặc dù cùng trong hệ thống các cơ quan
thanh tra nhà nước, nhưng một số cơ quan thanh tra có những chức năng, nhiệm vụ
riêng phụ thuộc vào phạm vi quan lý của cơ quan quản lý cùng cấp. Điều này đã
phân chia các cơ quan thanh tra nhà nước thành những nhóm, những loại cơ quan
thanh tra khác nhau. Do đó, mối quan hệ giữa các cơ quan thanh tra rất đa dạng,
phong phú. Có mối quan hệ là bắt buộc, có mối quan hệ không mang tính bắt buộc;
có mối quan hệ bao trùm trong toàn bộ hệ thống thanh tra, nhưng lại có mối quan
3
hệ chỉ phát sinh giữa hai hoặc một số cơ quan thanh tra; có mối quan hệ toàn diện,
có mối quan hệ trong phạm vi hẹp...
Dù những mối quan hệ trong các tổ chức thanh tra phức tạp, tính chất, mức
độ, cường độ khác nhau nhưng chúng đều là những mối quan hệ nội tại trong hệ
thống, nghĩa là những quan hệ đó là quan hệ giữa nội bộ các cơ quan thanh tra nhà
nước với nhau, cùng thống nhất thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành thanh tra
nhằm đạt mục đích chung là phòng ngừa, phát hiện và xử lý các hành vi vi phạm
pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý, chính sách, pháp luật để
kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện pháp khắc phục; phát huy
nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà
nước; bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức,
cá nhân.
Trên thực tế qua quá trình phát triển, tổ chức, chức năng nhiệm vụ của các cơ
quan có nhiều biến động nhưng dù ở thời kỳ nào thì giữa các tổ chức thanh tra cũng
có những mối quan hệ trong tổ chức và hoạt động và thực tế cũng chỉ ra rằng khi
nào sự phối hợp giữa các cơ quan thanh tra được tăng cường thì khi đó hiệu lực
hiệu quả của công tác thanh tra được nâng cao và ngược lại. Tại pháp lệnh thanh tra
tính hệ thống của các cơ quan thanh tra nhà nước được thể hiện khá rõ nét qua việc
qui định "Hệ thống các tổ chức thanh tra bao gồm..." và các tổ chức thanh tra nhà

nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của thủ trưởng cùng cấp đồng thời chịu sự chỉ đạo
của tổ chức thanh tra nhà nước cấp trên về công tác tổ chức nghiệp vụ thanh tra.
Luật Thanh tra năm 2005 với tinh thần tăng cường trách nhiệm của thủ
trưởng cá cơ quan quản lý đối với công tác thanh tra và phù hợp với tinh thần cải
cách hành chính về phân cấp quản lý nên mối quan hệ giữa các tổ chức thanh tra có
sự thay đổi: Thanh tra Chính phủ với tư cách là cơ quan cao nhất, quản lý nhà nước
về công tác thanh tra có trách nhiệm chỉ đạo các tổ chức thanh tra về công tác, tổ
chức và nghiệp vụ thanh tra còn các tổ chức thanh tra khác thì vừa chịu sự chỉ đạo
trực tiếp của thủ trưởng cùng cấp vừa chịu sự chỉ đạo của tổ chức thanh tra nhà
nứoc cấp trên về công tác và nghiệp vụ thanh tra. Như vậy so với trước kia thì tính
hệ thống trong các tổ chức thanh tra đã có sự thay đổi, lỏng lẻo hơn và dây cũng là
lý do khiến một số ý kiến cho rằng thanh tra không thực sự là một ngành có tính hệ
4
thống chặt chẽ. Thực tiễn thực hiện Luật thanh tra cũng đã bắt đầu bộc lộ những
nhược điểm của sự thay đổi này nhưng dù sao thì vẫn có thể thấy sự tồn tại mối
quan hệ giữa các tổ chức thanh tra trong quá trình tổ chức và hoạt động và đây
chính là tính hệ thống mà chúng ta sẽ tập trung nghiên cứu để có những giải pháp
nhằm tăng cường mối quan hệ đó đồng thời cũng phải thấy những vấn đề còn chưa
hợp lý trong qui định của pháp luật, từ đó có những dề xuất kiến nghị sửa đổi bổ
sung kịp thời về thể chế pháp luật góp phần nâng cao hiêu quả, hiệu lực hoạt động
của các tổ chưc thanh tra
Như vậy, có thể quan niệm rằng: thanh tra nhà nước là hệ thống các các cơ
quan thanh tra từ Trung ương đến địa phương, (không bao gồm Ban Thanh tra nhân
dân) được tổ chức theo những nguyên tắc chung thống nhất, tạo thành một cơ chế
tương đối đồng bộ để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của ngành thanh tra. Các
cơ quan thanh tra nhà nước có mối quan hệ tất yếu trên các mặt tổ chức, chỉ đạo,
hướng dẫn công tác, nghiệp vụ, phối kết hợp trong tiến hành các hoạt động thanh
tra.
II. Tính tất yếu khách quan của việc tăng cường mối quan hệ chỉ đạo,
phối hợp trong hệ thống thanh tra.

Tất yếu được hiểu là “nhất thiết phải có, không thể thiếu để có được một kết
quả, một tác dụng nào đó”
2
. Trong hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước, mối
quan hệ đa dạng, đan xen, nhiều tầng nấc giữa các cơ quan thanh tra là phổ biến và
phức tạp. Để có một lực lượng thanh tra mạnh, tinh thông nghiệp vụ, hoạt động
thanh tra trên phạm vi toàn quốc đạt hiệu lực, hiệu quả cao thì phải xây dựng được
cơ chế phối hợp thống nhất giữa các cơ quan thanh tra trong toàn ngành, vì vậy để
đạt được mục đích đó, thì việc tăng cường mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp trong hệ
thống thanh tra là một tất yếu khách quan.
1. Mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp của hệ thống thanh tra qua các thời
kỳ.
Lịch sử ngành Thanh tra đã trải qua những bước phát triển thăng trầm cùng
lịch sử dân tộc. Ngày 23/11/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 64/SL thành
2
Nguyễn Lân - Từ điển từ và ngữ Việt Nam, năm 2000 – Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh
5
lập Ban thanh tra đặc biệt, tiền thân ngành thanh tra Việt Nam. Sự ra đời của Ban
Thanh tra Đặc biệt một mặt giải quyết ngay những vấn đề đang đặt ra cho chính
quyền nhân dân còn non trẻ, mặt khác có ý nghĩa định hướng cho sự phát triển
ngành thanh tra trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Tuy nhiên hoạt động của Ban thanh tra đặc biệt chỉ giải quyết một số
việc điển hình. Đây là thời kỳ thành lập và bắt đầu hoạt động của ngành Thanh tra,
số cán bộ trong lực lượng thanh tra còn rất ít, Thanh tra chưa có một hệ thống tổ
chức chặt chẽ, chưa hoạt động thường xuyên.
Thời gian năm 1946 – 1949, cả dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến chống
Thực dân Pháp. Để tiến hành chỉ đạo cuộc kháng chiến thuận lợi có hiệu quả, bộ
máy chính quyền các cấp được tổ chức, kiện toàn. Đầu năm 1946 Chính phủ thành
lập Ban Thanh tra ở Bộ Quốc phòng, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Canh nông ....
Ngày 04/08/1947 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh cử đồng chí Tôn Đức Thắng,

nguyên Bộ trưởng Bộ Nội vụ sung chức Thanh tra đặc biệt toàn quốc. Bên cạnh
Ban Thanh tra đặc biệt, Đảng, Chính phủ thành lập các Đặc uỷ Đoàn và các Đặc
phái viên. Như vậy tổ chức thanh tra nhà nước thời kỳ này đã có các cơ quan thanh
tra thực hiện các nhiệm vụ khác nhau. Các Đặc uỷ Đoàn hoạt động với tư cách như
một cơ quan thanh tra của Chính phủ; các cơ quan thanh tra trong các bộ là cơ quan
thanh tra chuyên ngành. Mối quan hệ phối hợp giữa các tổ chức thanh tra trong thời
kỳ đã hình thành nhưng còn tương đối hạn chế. Công tác chỉ đạo, phối hợp giữa các
Đặc uỷ Đoàn, Đặc uỷ viên và Cục Tổng thanh tra quân đội trong thời gian này do
Hồ Chủ tịch thống nhất chỉ đạo, điều hành, phục vụ mục đích chung là xây dựng
lực lượng vũ trang, đảm bảo cơ sở cho kháng chiến thắng lợi.
Thời gian năm 1950 – 1954, sau ba năm toàn quốc kháng chiến. Trung ương
Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định phải xây dựng bộ máy nhà
nước vững mạnh, đồng thời phải củng cố công tác thanh tra đi vào nề nếp, có tổ
chức thống nhất, được lãnh đạo chặt chẽ, phối kết hợp trong công tác thanh tra để
đạt hiệu quả cao. Trước hoàn cảnh chiến tranh ác liệt, Ban thanh tra Đặc biệt không
còn phù hợp với giai đoạn lịch sử, Chính phủ quyết định thành lập một Ban thanh
tra mới của Chính phủ để thống nhất hoạt động trong thanh tra cả nước. Ngày
18/12/1949 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 138/SL thành lập Ban Thanh tra
6
Chính phủ trực thuộc Thủ tướng. Ban Thanh tra Chính phủ được tổ chức chặt chẽ,
có hệ thống và có mối liên hệ mật thiết với Ban kiểm tra Trung ương Đảng. Thời
kỳ này Ban Thanh tra Chính phủ tiến hành chỉ đạo công tác thanh tra ở các Bộ, các
địa phương, làm cho công tác thanh tra đi vào nề nếp, thường xuyên và đạt hiệu
quả to lớn. Song song với công tác thanh tra việc chấp hành chủ trương, chính sách
của Đảng, Nhà nước, Ban Thanh tra Chính phủ đã chủ động phối hợp với Ban
Kiểm tra Trung ương Đảng, phối hợp với Cục Tổng Thanh tra Quân đội làm rõ một
số vụ tham ô lớn trong, ngoài quân đội, thanh tra việc xây dựng hậu phương, dự trữ
lương thực, thực phẩm, thanh tra việc xây dựng lực lượng dân quân, du kích, công
tác phòng gian bảo mật của các địa phương. Đây là cuộc thanh tra toàn diện có quy
mô rộng lớn của Ban Thanh tra Chính phủ.

Như vậy, trong khoảng thời gian gần 10 năm, vừa kháng chiến, vừa kiến
quốc, Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng ngành
thanh tra, đặt nền tảng vững chắc cho việc phát triển hệ thống tổ chức thanh tra
chính quy trong giai đoạn tiếp theo.
Từ năm 1955 đến năm 1975 tổ chức thanh tra nhà nước đã dần được kiện
toàn và trở thành một hệ thống từ trung ương đến địa phương. Ngày 28/03/1956
Chủ tịch nước đã ký sắc lệnh số 261/SL thành lập Ban thanh tra Trung ương của
Chính phủ. Ngày 26/12/1956 Thủ tướng Chính phủ ban hanh Nghị định số
1194/TTg thành lập các Ban Thanh tra ở các liên khu, khu, thành phố và tỉnh, các
Ban Thanh tra này đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Uỷ ban hành chính các cấp và
chịu sự hướng dẫn của thanh tra cấp trên. Ngày 29/09/1961 Hội đồng Chính phủ
ban hành Nghị định số 136/NĐ thành lập Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ thay cho
Ban Thanh tra Trung ương của Chính phủ.
Ngày 25/03/1965 Hội nghị Ban chấp hành Trung ương họp đã nhận định cả
nước có chiến tranh. Miền Bắc phải chuyển hướng về tư tưởng và tổ chức, tăng
cường lực lượng quốc phòng cho phù hợp với thời chiến. Thực hiện chủ trương
này, Đảng, Nhà nước quyết định thay đổi tổ chức, giải thể một số cơ quan, trong đó
có Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ. Công tác thanh tra giao cho thủ trưởng các
cấp, các ngành, các cơ quan phụ trách, để gắn công tác thanh tra với việc chỉ đạo
thực hiện chỉ tiêu, kế hoạch nhà nước và các nhiệm vụ công tác khác. Ở các tỉnh,
7
thành phố công tác thanh tra do Uỷ ban hanh chính các cấp đảm nhiệm, các Bộ,
Tổng cục tổ chức thanh tra không giải thể được tiếp tục hoạt động, những cơ quan
chưa thành lập Ban Thanh tra được phép thành lập Ban Thanh tra để thanh tra các
vụ việc do lãnh đạo cơ quan yêu cầu. Đây là thời kỳ hệ thống cơ quan thanh tra nhà
nước bị thu hẹp, chỉ có các Ban thanh tra của Bộ, ngành hoạt động là chủ yếu, mối
quan hệ giữa các cơ quan thanh tra gần như không có, không có sự chỉ đạo chung
thống nhất của ngành thanh tra. Chính vì vậy một số chính sách của Đảng, Nhà
nước bị vi phạm, công tác quản lý kinh tế bị buông lỏng, đơn thư khiếu nại, tố cáo
của công dân chậm được xử lý.

Trước tình hình đó Đảng, Nhà nước đã nhận định, cần phải chấn chỉnh hệ
thống tổ chức thanh tra, bổ sung, kiện toàn bộ máy cho tương xứng với nhiệm vụ,
qua đó tăng cường mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp giữa các cơ quan thanh tra góp
phần nâng cao hiệu quả công tác thanh tra và công tác quản lý nhà nước. Ngày
11/08/1969 Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà ra nghị quyết số 780/NQ-
TVQH thành lập Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ. Tháng 10/1970 Uỷ ban Thanh
tra của Chính phủ triệu tập Hội nghị thanh tra toàn miền Bắc, Hội nghị nhất trí
củng cố và hoàn thiện bộ máy thanh tra chuyên trách từ Trung ương đến địa
phương, các bộ, các tổng cục.
Đến năm 1971 cơ quan thanh tra nhà nước đã được hình thành ở hầu khắp
các ngành, các địa phương và thực sự là trở thành một hệ thống từ Trung ương đến
địa phương, hoạt động có tính chất chuyên nghiệp. Trong tình hình chung của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, các cơ quan thanh tra đã có mối quan hệ phối
hợp trong hoạt động công tác của mình, phục vụ mục đích chung của ngành. Để
công tác thanh tra hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ thì việc tăng cường công tác
chỉ đạo, phối hợp giữa các cơ quan thanh tra là một điều tất yếu nhằm phục vụ mục
đích cuối cùng là đảm bảo mọi cơ sở cho thắng lợi cuối cùng của dân tộc, thống
nhất nước nhà.
Năm 1975 đất nước hoàn toàn giải phóng, cả nước tiến nhanh, tiến mạnh,
tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội. Trước tình hình mới, nhiệm vụ của Đảng, Nhà
nước hết sức nặng nề, chính quyền cách mạng gấp rút được thiết lập, hoàn thiện ở
địa bàn các tỉnh, thành phố mới giải phóng. Đảng, Nhà nước ta nhanh chóng xây
8
dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương, xây dựng đội ngũ
cán bộ, công nhân viên chức đáp ứng yêu cầu đòi hỏi mới của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn mới.
Từ năm 1976 đến năm 1990, hệ thống các cơ quan Thanh tra từ Trung ương
đến các tỉnh đã được thiết lập, tạo điều kiện mới cho ngành Thanh tra nhanh chóng
triển khai hệ thống tổ chức đến các cấp cơ sở địa phương. Để tăng cường chức
năng quản lý nhà nước về thanh tra. Ngày 15/12/1984 Hội đồng Bộ trưởng ra nghị

quyết số 26/HĐBT về việc tăng cường tổ chức thanh tra nêu rõ về hệ thống thanh
tra nhà nước các cấp gồm: Uỷ ban Thanh tra nhà nước Trung ương, Uỷ ban thanh
tra Nhà nước cấp tỉnh, thành phố, quận, huyện và tương đương. Đây thực sự là một
hệ thống tổ chức thanh tra được quản lý chỉ đạo tập trung thống nhất từ trung ương
đến cơ sở.
Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát trong thời kỳ này là hết sức quan
trọng. Nền kinh tế tập trung, bao cấp, phát sinh nhiều biểu hiện tiêu cực, trình độ
quản lý nhà nước còn yếu kém. Vai trò của ngành Thanh tra là hết sức to lớn, các
cơ quan thanh tra chủ động phối hợp mở nhiều cuộc thanh tra trên các mặt kinh tế,
văn hóa, giáo dục của các bộ, ngành và các địa phương và thu được kết quả.
Ngày 01/04/1990 Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ký lệnh công bố Pháp lệnh
thanh tra. Pháp lệnh đổi tên Uỷ ban Thanh tra Nhà nước thành Thanh tra Nhà nước.
Thanh tra Nhà nước là cơ quan của Hội đồng Bộ trưởng, có chức năng quản lý nhà
nước về công tác thanh tra và thực hiện quyền thanh tra trong phạm vi cả nước. Hệ
thống thanh tra nhà nước ở các bộ, ngành, thanh tra các tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương, thanh tra các sở, thanh tra các quận, huyện, thị xã cũng được kiện toàn.
Năm 2004 Luật Thanh tra được ban hành, mở ra một thời kỳ mới của công
tác thanh tra. Luật đổi tên Thanh tra Nhà nước thành Thanh tra Chính phủ. Quy
định tổ chức, hoạt động của các cơ quan thanh tra nhà nước. Các cơ quan thanh tra
nhà nước bao gồm:
- Cơ quan thanh tra được thành lập theo cấp hành chính;
- Cơ quan thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực.
9
Cơ quan thanh tra nhà nước chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước cùng cấp; đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ
chức và nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ; chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp
vụ của cơ quan thanh tra cấp trên.
Như vậy, thanh tra được tổ chức có hệ thống, giữa các cơ quan thanh tra có
mối quan hệ gắn bó với nhau trong quá trình tổ chức và hoạt động. Để góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thanh tra thì việc tăng cường mối quan

hệ chỉ đạo, phối hợp trong hệ thống các tổ chức thanh tra nhà nước là tất yếu.
Trải qua 60 năm xây dựng và trưởng thành, ngành thanh tra Việt Nam từng
bước xây dựng và kiện toàn bộ máy tổ chức cũng như chú trọng đến công tác cán
bộ, phát triển chuyên môn nghiệp vụ, công tác thanh tra được khẳng định là chức
năng thiết yếu của quản lý nhà nước. Trong lịch sử phát triển của ngành có lúc
thăng, lúc trầm theo từng nhiệm vụ cụ thể của cách mạng Việt Nam, nhưng công
tác thanh tra vẫn được Đảng, Nhà nước xem trọng. Các cơ quan thanh tra dần được
xây dựng, phát triển thành hệ thống. Trong thời gian nào thì mối quan hệ nội tại
giữa các cơ quan thanh tra là rất cần thiết và để công tác thanh tra đạt hiệu quả,
hiệu lực cao góp phần đảm bảo các hoạt động quản lý nhà nước đúng đắn, nghiêm
minh thì việc tăng cường mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp giữa các tổ chức thanh tra
trong các cơ quan thanh tra nhà nước là một điều tất yếu khách quan.
2. Sự cần thiết tăng cường mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp của các cơ
quan thanh tra trong giai đoạn mới của cách mạng Việt Nam.
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng đề xướng, xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện mục tiêu
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng vững chắc để nước ta phát triển thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại hóa. Bên cạnh đó, việc tăng cường mở rộng hợp
tác, nắm bắt và trao đổi thông tin với bạn bè quốc tế là một xu thế tất yếu của tiến
trình hội nhập.
Trước bối cảnh đó, một yêu cầu đặt ra là phải có những cải cách bộ máy nhà
nước cho phù hợp với tình hình mới. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khi đề ra
10
đường lối đổi mới đã chỉ rõ “thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy
của các cơ quan nhà nước”. Tiếp đó, nhiều văn kiện và nghị quyết của Đảng tiếp
tục nhấn mạnh phải xúc tiến xây dựng và từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) đã
nêu ra những quan điểm cơ bản và phương hướng tiếp tục xây dựng, hoàn thiện
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn

quốc lần thứ VIII và sau đó Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khóa VIII) tiếp tục khẳng định và đề ra những phương hướng và biện
pháp quan trọng, trong đó nhấn mạnh phải chú trọng xây dựng bộ máy nhà nước
trong sạch, vững mạnh, đủ điều kiện đáp ứng tiến trình hội nhập của đất nước.
Theo tinh thần Nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản
pháp lý quan trọng nhằm xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng tinh
giản, gọn nhẹ và hoạt động có chất lượng. Thực tế cho thấy tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước có nhiều chuyển biến tích cực. Những tiến bộ đó đã góp phần
quan trọng vào công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, nhất là đổi mới cơ chế
quản lý.
Qua 60 năm phát triển và trưởng thành, Thanh tra từng bước phát triển theo
yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ và xây dựng đất nước. Qua mỗi thời kỳ phát triển của
cách mạng, tổ chức và hoạt động của thanh tra lại có bước phát triển mới. Trong
công cuộc đổi mới hiện nay công tác thanh tra càng trở nên quan trọng. Hoạt động
thanh tra phải làm cho bộ máy hành chính nhà nước hoạt động tốt hơn, hiệu quả
hơn. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba (khóa VIII) của Đảng đã xác định “tăng cường
tổ chức và hoạt động thanh tra, kiểm tra, coi đó là công cụ quan trọng và hữu hiệu
để đảm bảo hiệu lực quản lý nhà nước, thiết lập kỷ cương xã hội”.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra là một chức năng thiết yếu của cơ quan quản
lý, là một khâu quan trọng trong quá trình quản lý. Vai trò của mối quan hệ chỉ đạo,
phối hợp giữa các tổ chức thanh tra nhà nước được thể hiện rõ nét trong các lĩnh
vực: tổ chức bộ máy và nhân sự; trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và phương thức hoạt động của các tổ chức thanh tra. Để thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ của mình bản thân ngành thanh tra phải có những tìm tòi, sáng tạo,
tự đổi mới cả về tổ chức và hoạt động đề nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác
11
thanh tra. Đổi mới công tác thanh tra có nhiều nội dung, trong đó việc tăng cường
mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp giữa các tổ chức thanh tra nhà nước là một nội dung
cơ bản và cần thiết.
Vai trò của mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp giữa các cơ quan thanh tra nhà

nước.
Các cơ quan thanh tra nhà nước được tổ chức trên cơ sở gắn kết chặt chẽ với
cơ quan quản lý nhà nước, theo ngành, lĩnh vực và theo lãnh thổ. Tính hệ thống của
các cơ quan thanh tra nhà nước xuất phát và được quyết định bởi tính hệ thống của
các cơ quan quản lý. Nội dung của tính hệ thống này bao gồm hai thành tố cơ bản:
các cơ quan thanh tra nhà nước với tư cách là chủ thể trong hệ thống và mối quan
hệ tác động qua lại giữa các chủ thể này. Và vì vậy, mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp
giữa các cơ quan thanh tra nhà nước giữ một vai trò quan trọng, mang tính thiết yếu
trong tổng thể công tác thanh tra.
Thanh tra là một khâu của quản lý, mang đầy đủ các đặc điểm của hoạt động
quản lý. Do vậy, mối quan hệ giữa các cơ quan thanh tra nhà nước có thể hiểu là
một dạng cụ thể của quan hệ trong quản lý, giữa các chủ thể trong một nhóm chủ
thể cụ thể của quản lý.
Xuất phát từ đặc trưng cơ bản nhất của tổ chức quyền lực trong bộ máy nhà
nước ta đó là tính thống nhất, có sự phân công, phối hợp trong thực hiện, hệ thống
cơ quan hành chính nhà nước cũng được xây dựng và hoạt động dựa trên nguyên
tắc đảm bảo tính thống nhất của quyền lực nhà nước, đồng thời, có sự phân công,
phân nhiệm, chỉ đạo, phối hợp cụ thể nhằm phát huy tính chất chuyên sâu của quản
lý, sự chủ động, sáng tạo, tự chịu trách nhiệm của các chủ thể trong quản lý. Cụ
thể, các cơ quan quản lý hành chính nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc quản lý
theo ngành, lĩnh vực kết hợp với quản lý theo lãnh thổ. Mỗi cơ quan hành chính
được phân công thực hiện quản lý nhà nước theo các lĩnh vực cụ thể hoặc quản lý
chuyên môn tổng hợp trên một địa bàn lãnh thổ nhất định. Để đảm bảo hiệu lực,
hiệu quả hoạt động quản lý của bản thân từng cơ quan hành chính cũng như của cả
hệ thống các cơ quan hành chính, mỗi cơ quan hành chính bên cạnh việc làm tốt
12
các nhiệm vụ quản lý của mình còn phải chú trọng thực hiện tốt các mối quan hệ
phối hợp với các cơ quan hữu quan khác.
Các cơ quan thanh tra nhà nước cũng được tổ chức theo mô hình tổ chức của
các cơ quan quản lý, gồm có: cơ quan thanh tra được thành lập theo cấp hành chính

và cơ quan thanh tra được thành lập ở cơ quan quản lý theo ngành, lĩnh vực. Và
cũng như cơ quan quản lý, các cơ quan thanh tra nhà nước cũng phải rất coi trọng
thực hiện các hoạt động phối hợp trong công tác thanh tra, bao gồm phối hợp theo
cấp hành chính, phối hợp theo ngành, lĩnh vực và phối hợp giữa cơ quan thanh tra
theo cấp và cơ quan thanh tra theo ngành, lĩnh vực.
Như đã phân tích, công tác thanh tra có tính thống nhất, xuất phát từ tính
thống nhất của quản lý hành chính nhà nước. Sự thống nhất của công tác thanh tra
thể hiện trên các mặt: thống nhất về tổ chức các cơ quan thanh tra nhà nước và
thống nhất trong hoạt động thanh tra. Khi tiến hành hoạt động thanh tra, các cơ
quan thanh tra nhà nước đều hướng tới mục tiêu chung: “phòng ngừa, phát hiện và
xử lý các hành vi vi phạm pháp luật; phát hiện những sơ hở trong cơ chế quản lý,
chính sách, pháp luật để kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền các biện
pháp khắc phục; phát huy nhân tố tích cực; góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả
của hoạt động quản lý nhà nước; bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân”. Để đạt tới mục tiêu này, các cơ quan thanh tra
nhà nước tiến hành hoạt động thanh tra dựa trên nền tảng pháp lý chung là Luật
Thanh tra, với các biện pháp, công cụ về cơ bản là thống nhất.
Mối quan hệ phối hợp cũng như các hoạt động phối hợp cụ thể là một yếu tố
quan trọng đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống thanh tra, cả về tổ chức và hoạt
động thanh tra. Mối quan hệ phối hợp này bao gồm mối quan hệ chỉ đạo, điều phối
giữa cơ quan thanh tra nhà nước ở cấp quản lý cao hơn và cơ quan thanh tra nhà
nước ở cấp quản lý thấp hơn và mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan thanh tra
nhà nước ngang cấp hoặc tương đương. Một trường hợp cụ thể về đảm bảo tính
thống nhất đó là thống nhất trong văn bản pháp luật về thanh tra. Luật Thanh tra
quy định rõ mối quan hệ phối hợp để giải quyết trường hợp khi có sự mâu thuẫn về
văn bản pháp luật về thanh tra. Theo đó, Tổng Thanh tra có quyền kiến nghị Bộ
trưởng đình chỉ việc thi hành hoặc huỷ bỏ những quy định do bộ đó ban hành trái
13
với các văn bản pháp luật của Nhà nước, của Tổng thanh tra về công tác thanh tra
hoặc đình chỉ việc thi hành và đề nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ những quy định

của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trái với văn bản
của Tổng thanh tra về công tác thanh tra
Bên cạnh tính thống nhất, cũng giống với hoạt động quản lý hành chính nhà
nước, công tác thanh tra còn phải đảm bảo sự phân công, phân cấp thích hợp trong
tổ chức và hoạt động. Theo đó, mỗi cơ quan thanh tra tiến hành thanh tra trong
phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn, lĩnh vực hay cấp mình. Trên thực tế, có nhiều trường
hợp cơ quan thanh tra thực hiện hoạt động thanh tra không đúng thẩm quyền, theo
cấp hoặc theo lĩnh vực. Điều này rõ ràng xâm phạm đến trật tự đúng đắn của quản
lý và làm giảm hiệu quả công tác thanh tra. Vì vậy, trong những trường hợp này,
các cơ quan thanh tra cần phải có sự liên hệ thường xuyên, sự điều phối, phối hợp
chặt chẽ nhằm đảm bảo vụ việc được tiến hành đúng thẩm quyền cũng như chuyên
môn. Luật Thanh tra cũng đã ghi nhận và quy định rõ nội dung này. Ví dụ như,
Tổng Thanh tra có quyền đề nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thanh tra trong phạm vi
quản lý của bộ, cơ quan ngang bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.
Thực tiễn công tác thanh tra cho thấy có rất nhiều vụ việc thanh tra mang
tính chất liên ngành, liên quan đến phạm vi quản lý của nhiều Bộ, ngành, địa
phương. Trong trường hợp này, cần có sự chỉ đạo, điều phối chung của cơ quan
thanh tra cấp trên cũng như sự phối hợp chặt chẽ của các cơ quan thanh tra ngang
cấp có liên quan.
Như vậy, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan thanh tra có vai trò rất
quan trọng trong công tác thanh tra. Để tăng cường hiệu quả, hiệu lực công tác
thanh tra thì việc tăng cường mối quan hệ phối hợp, chỉ đạo trong hệ thống các cơ
quan thanh tra nhà nước là một tất yếu khách quan.
III. Thực trạng mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp trong hệ thống thanh tra
trong những năm qua.
14
Trong những năm qua, nhất là sau khi Pháp lệnh thanh tra được ban hành, tổ
chức thanh tra đã có bước phát triển mạnh mẽ về số lượng, hoạt động thanh tra

cũng diễn ra rộng khắp trong các ngành, lĩnh vực trong phạm vi toàn quốc. Trong
quá trình phát triển đó, các mối quan hệ trên dưới, dọc ngang về các mặt công tác,
tổ chức và nghiệp vụ thanh tra đã dần dần hình thành và đi vào nề nếp.
Về tổ chức, Thanh tra Chính phủ đã có sự phối hợp với hợp có hiệu quả với
Thủ trưởng các cấp, các ngành trong quá trình hình thành và kiện toàn các tổ chức
thanh tra. Về cơ bản thì thanh tra các ngành, các cấp được tổ chức theo đúng tinh
thần các quy định của pháp luật. (Pháp lệnh thanh tra trước kia và Luật thanh tra
năm 2004). Tuy nhiên, do sự phát triển của tình hình và xuất phát từ yêu cầu của
công tác quản lý một số ngành quản lý nhiều lĩnh vực hoạt động cho nên có nhu
cầu tổ chức cơ quan thanh tra của mình căn cứ vào thực tiễn của ngành nên có
vướng mắc với quy định của pháp luật, chẳng hạn một số Bộ ngành muốn tổ chức
thanh tra có nhiều cấp (thanh tra Bộ, thanh tra Tổng cục, thanh tra Cục) với nhiều
loại thanh tra có tính chất chuyên ngành và không có sự tập trung thống nhất và chỉ
đạo ngay trong hoạt động thanh tra ngành đó.
Vấn đề này ít xảy ra đối với thanh tra cấp tỉnh bởi vì nhìn chung hoạt động
quản lý của cấp chính quyền trên một địa bàn về cơ bản không khác nhau, trừ hai
thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có nhu cầu và đã được Chính
phủ đồng ý cho tổ chức thí điểm một số hoạt động thanh tra nhằm tăng cường quản
lý trật tự đô thị có những nét riêng biệt. Trên thực tế những vướng mắc trong quá
trình tổ chức thanh tra một số ngành chưa được giải quyết triệt để. Thanh tra Chính
phủ cũng còn lúng túng và chưa có các kiến nghị để có các giải pháp có tính chất
cơ bản mà thường xử lý có tính "vụ việc" nên kết qủa là tổ chức thanh tra bộ ngành
hiện nay quá nhiều loại hình và từ đó dẫn đến sự không thống nhất trong hoạt động
của toàn ngành thanh tra. Vấn đề tổ chức tại địa phương cơ sở ít nảy sinh vướng
mắc hơn vì có sự điều hoà trên cùng đại bàn do Uỷ ban nhân dân chỉ đạo.
Về nhân sự: Việc bổ nhiệm và sắp xếp các chức danh lãnh đạo các tổ chức
thanh tra thực hiện theo qui định của Pháp luật cũng như trình tự thủ tục về cơ bản
không có nhiều khó khăn. Tuy nhiên quá trình này vai trò của cơ quan thanh tra còn
khá mờ nhạt. Trong đa số các trường hợp ý kiến của cơ quan thanh tra cấp trên chỉ
15

để tham khảo còn việc quyết định chủ yếu phụ thuộc vào thủ trưởng cơ quan quản
lý các ngành các cấp, nhất là từ khi triển khai thực hiện Luật Thanh tra.
Trong một số trường hợp, việc sắp xếp, đề bạt Chánh thanh tra không căn cứ
vào yêu cầu của công tác thanh tra cũng như năng lực trình độ của người được bổ
nhiệm mà do nhu cầu sắp xếp nhân sự của bộ, ngành và địa phương đó. Điều đó
dẫn đến tình trạng người đứng đầu các tổ chức thanh tra nói riêng và đội ngũ cán
bộ thanh tra nói chung thiếu ổn định, thậm chí những người có năng lực và kinh
nghiệm trong công tác thanh tra thì lại dễ bị điều chuyển đi sang công tác khác,
ngược lại các cán bộ lãnh đạo các cơ quan thanh tra ít khi được "đôn" từ dưới lên,
nên sự gắn bó với ngành, nghề thanh tra không nhiều.
Một số ít trường hợp, cán bộ lãnh đạo tổ chức thanh tra bị điều chuyển vì lý
do liên quan đến bất đồng quan điểm với các tổ chức khác, thậm chí với thủ trưởng
cơ quan quản lý trong quá trình hoạt động thanh tra nhưng tổ chức thanh tra cấp
trên cũng không có khả năng can thiệp.
Về công tác: Sự phối hợp hoạt động trong công tác thanh tra được thể hiện
qua quá trình xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra cũng như trong khi tiến
hành các cuộc thanh tra cụ thể. Hàng năm, Thanh tra Chính phủ có văn bản hướng
dẫn các tổ chức thanh tra cấp dưới xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra. Các
cơ quan thanh tra khác cũng có hướng dẫn cho các cơ quan thanh tra cấp dưới về
vấn đề này. Công việc này đã trở thành nề nếp nhưng thực chất chất lượng chưa
cao, sự hướng dẫn còn chung chung cho nên các tổ chức thanh tra ít "trông cậy"
được vào đó để xây dựng chương trình kế hoạch đó cho mình.
Trong hoạt động thanh tra, cụ thể là khi tiến hành các cuộc thanh tra, sự phối
hợp chỉ đạo cũng chưa thật tốt. Đối với các cuộc thanh tra diện rộng, sự chỉ đạo
phối hợp giữa các tổ chức thanh tra tỏ ra có hiệu quả và đều đặn hơn, thường là
trong một chương trình chung tuỳ theo từng năm (mỗi năm tập trung thanh tra một
hay một vài lĩnh vực trên toàn quốc). Đối với các cuộc thanh tra khác thì việc tiến
hành thanh tra phụ thuộc khá nặng nề vào thủ trưởng cơ quan quản lý cùng cấp,
điều này cũng tương tự như về công tác tổ chức nhân sự, tổ chức thanh tra cấp trên
16

chưa thể hiện được nhiều vai trò chỉ đạo điều hành có tính chất hệ thống đối với tổ
chức thanh tra cấp dưới trong ngành thanh tra.
Về nghiệp vụ thanh tra: Đây thực sự là điểm yếu của ngành thanh tra hiện
nay, trước hết là thuộc trách nhiệm của Thanh tra Chính phủ. Mặc dù đã có gần 60
năm hình thành và phát triển nhưng những vấn đề về lý luận nghiệp vụ thanh tra
vẫn còn chưa được khẳng định và chưa trở thành một hệ thống lý luận chung cho
quá trình tổ chức và hoạt động của ngành. Do vây việc đào tạo và bồi dưỡng nghiệp
vụ cho cán bộ công chức làm công tác thanh tra còn lúng túng cả về nội dung và
phương thức. Những năm qua, công tác này đã được chú trọng hơn, hoạt động của
trường cán bộ thanh tra đã nhộn nhịp hơn nhưng nội dung và chương trình giảng
dạy cho các khoá học bồi dưỡng chưa thực sự đáp ứng yêu cầu học tập và nâng cao
trình độ nghiệp vụ thanh tra, nhất là chưa phù hợp với sự đa dạng về trình độ năng
lực của độ ngũ cán bộ thanh tra. Các khoá học hiện nay chủ yếu đáp ứng yêu cầu
tiêu chuẩn hoá cán bộ thanh tra (cấp giấy chứng chỉ nghiệp vụ) nhiều hơn là tạo
điều kiện để học viên ngành thanh tra nâng cao "tay nghề thanh tra" của mình, nhất
là đối với chương trình nâng cao hoặc thi nâng ngạch thanh tra viên lên thanh tra
viên chính hoặc cao cấp.
Những văn bản hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra của Thanh tra Chính phủ còn
quá chưa đáp ứng kịp thời việc giải quyết những vướng mắc phát sinh trong quá
trình thực hiện các quy định của pháp luật về thanh tra. Ngoài ra những hướng dẫn
"bị động" (việc trả lời các vướng mắc trong các cuộc thanh tra do các cơ quan
thanh tra cấp dưới đang tiến hành hoặc những vấn đề khác liên quan đến hoạt động
thanh tra) cũng chưa trở thành "thói quen" nên mối quan hệ giữa các cơ quan thanh
tra cũng trở nên rời rạc.
Theo chương trình hàng năm hoặc đột xuất, ngành thanh tra cũng tổ chức các
hội nghị tổng kết hoặc trao đổi kinh nghiệm nghiệp vụ thanh tra nhưng thực chất ít
hiệu quả mà mang nặng tính hình thức, gặp gỡ giao lưu trong ngành nhiều hơn là
thảo luận trao đổi về nghiệp vụ thanh tra.
17
PHẦN HAI

NỘI DUNG CÁC MỐI QUAN HỆ TRONG HỆ THỐNG THANH TRA
NHÀ NƯỚC.
I. Mối quan hệ giữa Thanh tra Chính phủ với các cơ quan thanh tra nhà nước
khác.
Điều 10 Luật thanh tra quy định
Cơ quan thanh tra nhà nước (…) chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ
chức và nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ; và
Điều 14 Luật thanh tra quy định
Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính
phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Chính phủ.
Theo quy định của pháp luật, trong hệ thống các cơ quan thanh tra nhà nước,
Thanh tra Chính phủ có vị trí cao nhất, thực hiện quản lý nhà nước về công tác
thanh tra. Mối quan hệ của thanh tra Chính phủ với các cơ quan thanh tra nhà nước
thông qua công tác chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ đối với
Thanh tra bộ, Thanh tra tỉnh.
Thanh tra Chính phủ vừa là cơ quan ngang bộ, vừa là cơ quan cao nhất trong
hệ thống cơ quan thanh tra nhà nước, có chức năng thanh tra trong phạm vi quản lý
nhà nước của Chính phủ và là cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực. Do đó,
trong mối quan hệ với các cơ quan cấp dưới trực tiếp là thanh tra cấp tỉnh, Thanh
tra bộ, Thanh tra Chính phủ chỉ đạo, hướng dẫn một cách toàn diện trên các mặt
công tác, tổ chức, nghiệp vụ thanh tra. Thanh tra Chính phủ còn có thẩm quyền chỉ
đạo tiến hành các cuộc thanh tra diện rộng, phối hợp quyết định việc bổ nhiệm các
chức danh lãnh đạo cơ quan thanh tra tỉnh, thanh tra bộ, việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo, phòng ngừa và đấu tranh chống tham nhũng …
18
Với vị trí là cơ quan cao nhất trong hệ thống thanh tra nhà nước và có trách
nhiệm quản lý nhà nước về công tác thanh tra, Thanh tra Chính phủ có nhiều mối
quan hệ với các tổ chức thanh tra khác và đóng vai trò to lớn trong việc tăng cường
tính hệ thống của các tổ chức thanh tra, cụ thể như sau:

Về công tác: Thanh tra Chính phủ chỉ đạo, hướng dẫn công tác thanh tra
thông qua việc xây dựng chương trình kế hoạch thanh tra hàng năm và hướng dẫn
các tổ chức thanh tra khác xây dựng chương trình, kế hoạch thanh tra của mình.
Về tổ chức: Công tác tổ chức bao gồm tổ chức bộ máy và công tác cán bộ.
Vai trò của thanh tra Chính phủ được thể hiện ở việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách
chức người đứng đầu cơ quan thanh tra cấp bộ và cấp tỉnh cụ thể là theo qui định
của Luật Thanh tra thì Chánh thanh tra bộ, Chánh thanh tra cấp tỉnh do Bộ trưởng,
Chủ tịch tỉnh bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng thanh
tra. Thanh tra Chính phủ quy định các tiêu chuẩn chức danh; quy định ngạch, bậc,
chế độ tiền lương đối với cán bộ, thanh tra viên; tổ chức thi nâng ngạch; bổ nhiệm
các chức danh Thanh tra viên, Thanh tra viên chính, Thanh tra viên cao cấp.
Đối với cơ quan Thanh tra bộ, mối quan hệ về tổ chức của Thanh tra Chính
phủ còn thể hiện ở quy định: Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ và yêu cầu công tác
quản lý nhà nước của Bộ, ngành; Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ thống
nhất với Tổng thanh tra trình Chính phủ qui định về tổ chức và hoạt động của
Thanh tra bộ.
Về hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra:
Đây là một nội dung quan trọng trong mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp giữa
Thanh tra Chính phủ và các cơ quan thanh tra nhà nước khác. Nội dung này thể
hiện rõ vai trò của Thanh tra Chính phủ trong công tác quản lý nhà nước về thanh
tra. Nội dung này bao gồm hướng dẫn nghiệp vụ thanh tra; nghiệp vụ về giải quyết
khiếu nại tố cáo; nghiệp vụ về phòng ngừa và chống tham nhũng, hướng dẫn thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của các cơ quan, tổ chức, cá nhân. Những nội
dung này được Thanh tra Chính phủ hướng dẫn thông qua các hình thức phổ biến
pháp luật, mở các lớp tập huấn ngắn hạn đối với các cán bộ thanh tra, tổ chức các
cuộc tọa đàm trao đổi kinh nghiệm, tư vấn các vụ việc cụ thể…
19
Duy trì và tăng cường mối quan hệ hướng dẫn công tác nghiệp vụ của Thanh
tra Chính phủ với các cơ quan thanh tra nhà nước khác là một trong những yếu tố
quan trọng thể hiện tính hệ thống chặt chẽ trong các tổ chức thanh tra.

Về nhiệm vụ bồi dưỡng nghiệp vụ đối với đội ngũ cán bộ, công chức làm công
tác thanh tra: Do đặc thù của công tác thanh tra, cơ cấu tổ chức của các cơ quan
thanh tra cũng có những đặc điểm riêng không như các cơ quan quản lý nhà nước
theo ngành, lĩnh vực khác. Ngành thanh tra không tổ chức thành ngành dọc và cơ
cấu tổ chức cũng như biên chế của các tổ chức thanh tra do cơ quan quản lý nhà
nước cùng cấp quyết định. Nhưng để thống nhất xây dựng đội ngũ cán bộ thanh tra
có phẩm chất đạo đức, năng lực cũng như trình độ nghiệp vụ trên phạm vi toàn
quốc. Thanh tra Chính phủ với tư cách là cơ quan chuyên môn của Chính phủ về
công tác thanh tra, thực hiện việc lãnh đạo đối với toàn bộ hệ thống thanh tra nhà
nước, chịu trách nhiệm trước Chính phủ, trước Thủ tướng Chính phủ về công tác
thanh tra trong toàn quốc. Do vậy, Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm tổ chức việc
bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác thanh tra dưới
các hình thức phù hợp.
Nội dung bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra bao gồm: tổ chức các lớp tập trung;
Thanh tra Chính phủ kết hợp với các bộ, ngành, địa phương tổ chức các lớp theo
yêu cầu nhằm nâng cao nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ thanh tra chuyên trách, cán
bộ quản lý các cấp.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức ngành thanh tra có vai trò rất
quan trọng, được xác định là một khâu trong chế độ công chức của ngành. Công tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là căn cứ của việc phát triển và quy hoạch
cán bộ ngành thanh tra. Thanh tra Chính phủ chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng
và xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức hiểu biết pháp luật, nắm vững kiến
thức chuyên môn và các kỹ năng đặc thù của ngành thanh tra, trên cơ sở đó hoàn
thành tốt nhiệm vụ được nhà nước giao phó.
II. Nội dung mối quan hệ giữa Thanh tra Chính phủ với Thanh tra bộ,
ngành.
20
Mối quan hệ chỉ đạo, phối hợp của Thanh tra Chính phủ với thanh tra các bộ,
cơ quan ngang bộ (gọi chung là Thanh tra bộ) được thể hiện ở hai nội dung:
- Quản lý Nhà nước về công tác thanh tra;

- Thanh tra các vụ việc thuộc thẩm quyền.
Thực tiễn hoạt động của ngành thanh tra đã chứng minh, mối quan hệ chỉ
đạo, phối hợp giữa Thanh tra Chính phủ và Thanh tra các bộ là mối quan hệ cơ bản,
mang tính thường xuyên, liên tục. Tuỳ theo yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể của từng giai
đoạn cách mạng Việt Nam mà việc chỉ đạo, phối hợp, của Thanh tra Chính phủ với
Thanh tra các bộ có những bước phát triển khác nhau, phù hợp với nhiệm vụ chung
của toàn ngành.
Nhằm khắc phục tình trạng phân tán, chồng chéo về tổ chức thanh tra ở các
bộ, ngành, bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của Bộ trưởng để kiểm soát chặt chẽ,
toàn diện đối với hoạt động thanh tra trong các lĩnh vực do bộ, ngành thực hiện
chức năng quản lý nhà nước, Luật thanh tra xác định có tính nguyên tắc mỗi bộ,
ngành có một tổ chức thanh tra. Thanh tra bộ sẽ là đầu mối giúp Bộ trưởng quản lý
toàn bộ công tác thanh tra, kể cả thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành.
Thanh tra chuyên ngành có thể được đặt tại bộ, nằm trong cơ cấu tổ chức của thanh
tra bộ hoặc ở các cục, tổng cục được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước chuyên
ngành, các bộ phận thanh tra này vẫn là cơ quan của thanh tra bộ, do Thanh tra bộ
chỉ đạo về công tác, tổ chức và nghiệp vụ.
Đối với các bộ quản lý theo ngành dọc hoặc có các cục, tổng cục được giao
chức năng quản lý nhà nước chuyên ngành được tổ chức theo hệ thống dọc thì
Thanh tra bộ còn được đặt tại các cơ quan của bộ, ngành đặt tại địa phương (như
Thanh tra Ngân hàng, Thanh tra Công an, Thanh tra Quốc phòng, Thanh tra Thống
kê). Tuy nhiên, các bộ phận này còn chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Thủ trưởng cơ
quan quản lý cùng cấp.
Thanh tra bộ chịu sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng, đồng thời chịu sự chỉ
đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức, nghiệp vụ của Thanh tra Chính phủ, nhiệm vụ
21
chủ yếu của Thanh tra bộ do Bộ trưởng giao, Thanh tra Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra.
Mối quan hệ giữa Thanh tra Chính phủ và Thanh tra bộ chủ yếu thể hiện trên
lĩnh vực hướng dẫn công tác, tổ chức, cử cán bộ chuyên trách theo dõi giúp đỡ

Thanh tra bộ về nghiệp vụ thanh tra, tổng hợp kết quả công tác thanh tra, tổng kết
kinh nghiệm về công tác thanh tra của các bộ báo cáo Thủ tướng để xây dựng
chương trình, kế hoạch thanh tra trong từng thời kỳ.
Thanh tra Chính phủ tổ chức bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra đối với đội ngũ
cán bộ, công chức làm công tác thanh tra trong các cơ quan thanh tra bộ, góp phần
nâng cao trình độ chuyên môn, kịp thời cập nhật kiến thức về quản lý nhà nước nói
chung và công tác thanh tra nói riêng, giúp nâng cao hiệu quả công tác thanh tra
của bộ, ngành.
Mối quan hệ của Thanh tra Chính phủ và Thanh tra bộ còn thể hiện thông
qua quyền hạn của Tổng thanh tra. Trong công tác tổ chức, Chánh thanh tra bộ do
Bộ trưởng bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng thanh
tra. Việc tăng cường mối quan hệ giữa Thanh tra Chính phủ và Thanh tra bộ trong
công tác tổ chức, hoạch định cán bộ là rất cần thiết, qua đó xây dựng đội ngũ cán
bộ thanh tra đáp ứng được yêu cầu của công tác.
Tổng thanh tra có quyền kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét trách
nhiệm, xử lý người có hành vi vi phạm thuộc quyền quản lý của Thủ tướng hoặc
phối hợp với người đứng đầu các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
trong việc xem xét trách nhiệm, xử lý người có hành vi vi phạm thuộc quyền quản
lý của cơ quan, tổ chức đó.
Trong quan hệ công tác, Tổng thanh tra có quyền đề nghị Bộ trưởng thanh
tra trong phạm vi quản lý của bộ. Trên thực tế, Thanh tra Chính phủ thực hiện công
tác thanh tra hành chính trong phạm vi thẩm quyền, quá trình tiến hành các hoạt
động thanh tra, phát hiện những dấu hiệu vi phạm trong ngành, lĩnh vực thuộc
quyền quản lý của bộ thì đề nghị Bộ trưởng tiến hành thanh tra. Mối quan hệ này
nhằm tránh tình trạng có những lỗ hổng không đáng có trong công tác thanh tra,
22
đồng thời khẳng định nguyên tắc Thanh tra bộ có trách nhiệm thực hiện công tác
thanh tra chuyên ngành trong phạm vi quản lý nhà nước của bộ.
Trong công tác xây dựng các văn bản pháp quy phục vụ công tác thanh tra.
Tổng thanh tra có quyền kiến nghị Bộ trưởng đình chỉ việc thi hành hoặc huỷ bỏ

những quy định do bộ đó ban hành trái với các văn bản pháp luật của Nhà nước,
của Tổng thanh tra về công tác thanh tra; nếu Bộ trưởng không đình chỉ hoặc huỷ
bỏ văn bản đó thì trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. Thực hiện công tác quản
lý nhà nước về thanh tra, Thanh tra Chính phủ thường xuyên tiến hành rà soát các
văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực thanh tra, trường hợp phát hiện các văn
bản pháp quy do bộ ban hành trái với các văn bản pháp luật của nhà nước, của
Tổng thanh tra về công tác thanh tra thì có quyền kiến nghị Bộ trưởng đình chỉ
hoặc hủy bỏ. Quy định này nhằm bảo đảm tính thống nhất của các văn bản quy
phạm pháp luật trong lĩnh vực thanh tra và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Tổng thanh tra có quyền xem xét những vấn đề mà Chánh thanh tra bộ không
nhất trí với Bộ trưởng về công tác thanh tra và đề nghị Bộ trưởng xem xét lại;
trường hợp Bộ trưởng, không xem xét hoặc đã xem xét nhưng Tổng thanh tra
không nhất trí thì báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định. Mối quan hệ này thể
hiện rõ tính độc lập tương đối giữa các cơ quan thanh tra và Thủ trưởng cơ quan
quản lý nhà nước cùng cấp.
Như vậy, nội dung mối quan hệ giữa Thanh tra Chính phủ và Thanh tra bộ là
thường xuyên và có ý nghĩa quan trọng trong công tác thanh tra nói chung và công
tác thanh tra trong từng bộ, ngành nói riêng. Trong những năm qua công tác thanh
tra đã góp phần lập lại trật tự, kỷ cương, trên các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội,
gắn liền nhiệm vụ chống tham nhũng với việc làm trong sạch bộ máy nhà nước,
thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đảm bảo chính xác,
kịp thời, đúng pháp luật.
Để đạt được những kết quả đó là do sự phối hợp, chỉ đạo của Thanh tra
Chính phủ với thanh tra các bộ, ngành một cách hợp lý, khoa học, vì vậy công tác
thanh tra không thể tách rời mối quan hệ chỉ đạo của Thanh tra Chính phủ với
thanh tra các bộ, ngành. Trong thời gian tới, Thanh tra Chính phủ cần phải tăng
23
cường chỉ đạo, phối hợp thanh tra các bộ, ngành để hoạt động thanh tra ổn định, đi
vào nề nếp, có hiệu quả, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ được Nhà nước giao phó. Mối
quan hệ chỉ đạo, phối hợp của Thanh tra Chính phủ với thanh tra các bộ, ngành cần

được gắn kết chặt chẽ và phải được thể chế bằng các văn bản quy phạm pháp luật
để công tác thanh tra ngày càng có hiệu lực, hiệu quả cao.
III. Mối quan hệ giữa Thanh tra chính phủ với cơ quan Thanh tra hành
chính địa phương.
Điều 13 Luật thanh tra quy định
Các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính gồm có:
1. Thanh tra Chính phủ;
2. Thanh tra tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là Thanh tra
tỉnh);
3. Thanh tra huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Thanh tra
huyện).
Theo quy định của Luật thanh tra, cơ quan thanh tra theo cấp hành chính ở
Trung ương gồm Thanh tra Chính phủ; các cơ quan thanh tra theo cấp hành chính ở
địa phương bao gồm: Thanh tra tỉnh, thanh tra huyện. Nội dung mối quan hệ của
Thanh tra Chính phủ với các cơ quan thanh tra nhà nước ở địa phương được thể
hiện thông qua việc chỉ đạo, hướng dẫn các mặt công tác như sau.
1. Mối quan hệ của Thanh tra Chính phủ với Thanh tra tỉnh
Điều 14. Luật Thanh tra quy định
Thanh tra Chính phủ là cơ quan của Chính phủ, chịu trách nhiệm trước Chính
phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra và thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn thanh tra trong phạm vi quản lý nhà nước của Chính phủ.
Điều 17. Luật Thanh tra quy định
Thanh tra tỉnh là cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, có
trách nhiệm giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp quản lý nhà nước về công tác thanh tra
24
và thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra hành chính trong phạm vi quản lý nhà
nước của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Chánh thanh tra tỉnh do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp bổ nhiệm, miễn
nhiệm, cách chức sau khi thống nhất với Tổng thanh tra.
Thanh tra tỉnh chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ chức và nghiệp vụ

của Thanh tra Chính phủ.
Đây là mối quan hệ giữa cơ quan thanh tra nhà nước cấp trên và cơ quan
thanh tra nhà nước cấp dưới trực tiếp. Theo quy định của Luật Thanh tra, Thanh tra
Chính phủ và Thanh tra tỉnh đều là tổ chức thanh tra theo cấp hành chính, về cơ bản
chức năng, nhiệm vụ và tính chất hoạt động có những điểm chung, điểm khác nhau
cơ bản là phạm vi hoạt động của Thanh tra Chính phủ trên toàn quốc, trong khi đó
Thanh tra tỉnh chỉ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra
trong phạm vi cấp tỉnh. Mối quan hệ giữa cấp trên và cấp dưới được thể hiện thông
qua quyền hạn của Thanh tra Chính phủ là thanh tra việc thực hiện chính sách,
pháp luật, nhiệm vụ của các Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; thanh tra vụ việc có liên quan đến trách nhiệm quản lý của nhiều tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương.
Thanh tra Chính phủ và Thanh tra tỉnh là các cơ quan có chức năng thanh tra
hành chính. Do đó, có những nhiệm vụ chung nên trong quá trình tổ chức triển khai
thực hiện nhiệm vụ, giữa Thanh tra Chính phủ và Thanh tra tỉnh có mối quan hệ chỉ
đạo, hướng dẫn và phối hợp mật thiết với nhau. Mối quan hệ giữa Thanh tra Chính
phủ với Thanh tra tỉnh thể hiện toàn diện trên các mặt chỉ đạo, hướng dẫn về công
tác, tổ chức nghiệp vụ; bồi dưỡng nghiệp vụ thanh tra đối với đội ngũ cán bộ, công
chức thanh tra cấp tỉnh.
Về chỉ đạo, hướng dẫn công tác:
Tổng Thanh tra có quyền đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh thanh tra
trong phạm vi quản lý của Uỷ ban nhân dân tỉnh cấp tỉnh. Trong công tác thanh tra,
nếu phát hiện những quy định của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh trái với văn bản của Tổng thanh tra về công tác thanh tra, thì Tổng
25

×