Tải bản đầy đủ (.pdf) (34 trang)

xử lý đất ô nhiễm vi sinh vật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.07 KB, 34 trang )

Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
VIỆN KHCN & QL MÔI TRƯỜNG
*****
BỘ MÔN XỬ LÍ Ô NHIỄM VÀ THOÁI HÓA ĐẤT
Tiểu luận:
GVHD: GS. TSKH Lê Huy Bá
SVTH: Bùi Thị Ngân
Lớp : ĐHMT3A
MSSV: 0770347
Tp Hồ Chí Minh, ngày0 3, tháng 05, năm 2010
Mục lục
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
1
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
Phần Mở Đầu:
Các nhà khoa học môi trường thế giới đã cảnh báo rằng: cùng với ô nhiễm
nguồn nước, ô nhiễm không khí thì ô nhiễm đất đai cũng là vấn đề đáng báo động
hiện nay, đặc biệt trong việc sử dụng nông dược và phân hoá học. Ô nhiễm đất
không những ảnh hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp và chất lượng nông sản,
mà còn thông qua lương thực, rau quả ảnh hưởng gián tiếp tới sức khoẻ con
người và động vật. Nguồn gây ô nhiễm này chủ yếu là chất thải chưa qua xử lý
của người và động vật, nước thải bệnh viện, nước thải sinh hoạt trong đó nguy
hại lớn nhất là chất thải chưa được xử lý khử trùng của các bệnh viện truyền
nhiễm. Rất nhiều vi khuẩn và ký sinh trùng tiếp tục sinh sôi nảy nở trong đất,
bám vào các cây trồng nông nghiệp và truyền vào cơ thể người, động vật.
Ngoài những nguồn ô nhiễm trên, các hoạt động tưới không thích đáng, chặt cây
rừng, khai hoang cũng tạo thành các hiện tượng rửa trôi, bạc mầu, nhiễm
phèn trong đất. Theo thống kê, hàng năm diện tích đất này trên thế giới tăng từ
5.000.000 đến 11.000.000 ha
Có thể thấy rằng vấn đề sử lí đất ô nhiễm đang là vấn đề bức thiết dặt ra
cho môi quốc gia. Vì vậy trong bài tiểu luận này xin được trình bày một số biện


pháp sử lí ô nhiễm đất do vi sinh vật. Đất thường bị nhiễm vi sinh vật trên một
diện tích lớn nên các phương pháp ở đây là những phương pháp xử lí đất tại chỗ.
Ta có thể thu gom đất ô nhiễm để xử lí bằng nhiều phương pháp khác nhau
nhưng rất tốn kém không hiệu quả.
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
2
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
Phần Nội Dung
1. Ô nhiễm vi sinh vật trong môi trường đât.
1.1 Khái niệm:
Ô nhiễm vi sinh vật trong môi trường đất là sự suất hiện với số lượng bất
thường các vi sinh vật gây hại cho người, động vật, cây trồng trong đất. Các vi
sinh vật đó có thể là vi khuẩn, virus, nấm, protozoa. Vấn đề ô nhiễm vi sinh vật
trong môi trường đất dễ dẫn đến các dịch bệnh gây thiệt hại lớn cho mùa màng và
là nguyên nhân của nhiều loại bệnh cho con người, động vật tiếp xúc với đất.
Ảnh hưởng của tính chất đất đến sự tồn tại, sự hấp thu các vi sinh vật gây ô
nhiễm.
• Kích thước các hạt đất: đất càng mịn, khả năng giữ vi sinh vật trong đất
càng lớn và ngược lại các hạt đất lớn sẽ tăng sự di chuyển của vi sinh vật
đi xa
• Thành phần của đất: bao gồm các cation, khoáng chất tạo ra sự khác biệt
pH; ion sắt, nhôm và pH trong đất thấp làm tăng khả năng hấp thụ vi sinh
vật trên bề mặt đất; cation làm tăng sự hấp thu của đất do hạn chế lực đẩy
giữa vi sinh vật và các hạt đất; các chất hữu cơ, axit humic và fulvic làm
giảm tính bám của virus trên mặt đất
• Theo Birton, 1999 vi sinh vật gây bệnh sống lâu trong đất có nhiệt độ
thấp, mùa đông sống lâu hơn trong mùa hè; các vùng ôn đới khả năng
sống lâu hơn vùng nhiệt đới; Ánh sáng chiếu trực tiếp giết chết vi sinh vật
nhanh hơn vùng không có ánh sáng; nếu không bị tái nhiễm, vi sinh vật
gây ô nhiễm sống trên bề mặt đất ngắn hơn trong lớp đất sâu.

• Các mẫu đất có khả năng giữ nước cao làm tăng thời gian tồn tại của bào
tử vi sinh vật: đất cát mầm bệnh sống ít hơn so với đất thịt và đất mùn; các
vùng đất mực nước ngầm thấp, ẩm ướt có nguy cơ lan truyền vi sinh vật ra
môi trường xung quanh nhanh hơn và rộng hơn.
• Sự cạnh tranh của hệ sinh vật trong đất: một số loài vi sinh vật môi trường
có khả năng cạnh tranh sự sinh tồn của vi sinh vật gây bệnh trong đất;
nhiều loại thực khuẩn thể, protozoa có khả năng diệt vi khuẩn gây bệnh,
hạn chế sự tồn tại của chúng trong đất; các mẫu đất có hệ sinh vật phong
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
3
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
phú quá trình vô cơ nhanh cũng làm giảm khả năng sống sót của mầm
bệnh.
• Đặc điểm vi sinh vật: các vi khuẩn có nha bào như B.anthrasis,
Clostridium tetani, Clostridium perfringens… có khả năng tồn tại lâu hơn
so với các vi khuẩn không có nha bào. Vi khuẩn gây bệnh đường ruột tồn
tại trong đất lâu hơn so với các loại vi khuẩn khác.
Chiều sâu
đất(cm)
Vi khuẩn Xạ khuẩn Nấm mốc Rong tảo
3 – 8 9750000 2080000 119000 25000
20 – 25 2179000 245000 50000 5000
35 – 40 570000 49000 14000 500
65 – 75 11000 5000 6000 100
135 – 145 1400 3000
Nguồn gốc của ô nhiễm vi sinh trong đất có thể đến từ việc sử dụng chất
thải chăn nuôi cho đồng ruộng như bón phân ủ không đúng cánh, tưới nước thải,
chôn lấp gia cầm, gia súc nhiễm bệnh, nước rỉ rác, ô nhiễm chất thải hữu cơ dễ
phân hủy sinh học trong đất.
1.2 Vi khuẩn:

Đất là môi trường mà vi sinh vật cư trú nhiều nhất so với các môi trường
khác, trong đó phần đa làvi khuẩn chiếm số lượng nhiều nhất. Phần lớn các loại
vi khuẩn gây bệnh thường gặp đều có thể tồn tại và sinh trưởng tốt trong đất. Ở
đây xin đề cập đến một số vi sinh vật gây ô nhiễm truyền bệnh cho con người.
Staphylococcus aureus.
Các bệnh về đường hô hấp, da và nhiễm trùng vết thương bề ngoài ở
người đều có nguồn gốc phổ biến là do Staphylococcus aureus. Khi S. aureus
phát triển trong thực phẩm, nó có thể sản xuất một độc tố gây bệnh. Mặc dù nấu
chín tiêu diệt các vi khuẩn, các độc tố sản sinh này bền và có thể không được tiêu
diệt được.Ở điều kiện thích hợp, S. aureus phát triển nhanh chóng, và nhiều
chủng có thể sản xuất độc tố. Độc tố heatstable nguy hiểm hơn là bản thân vi
khuẩn. Nó gây ra viêm dạ dày ruột nặng (viêm niêm mạc dạ dày). Triệu chứng
thường gặp là buồn nôn, nôn mửa, nôn khan, rút bụng, ra mồ hôi, ớn lạnh, yếu,
xung yếu, sốc, suy hô hấp, và hạ nhiệt độ cơ thể.
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
4
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
Clostridium perfringens
C. perfringens được tìm thấy trong đất, bụi và đường tiêu hóa của động
vật và con người. Nó là một vi khuẩn kị khí gây bệnh. Khi thực phẩm có chứa
một số lượng lớn C. perfringens được tiêu thụ, các vi khuẩn sản xuất ra độc tố
trong đường ruột gây ra bệnh tật, gồm 5 loại độc tố từ A đến E. Tiêu chảy và đau
bụng nghiêm trọng là các triệu chứng phổ biến nhất khi ăn phải đồ ăn chứa vi
khuẩn này.
Salmonella
Hiện có hơn 2.000 loài vi khuẩn Salmonella. Bệnh do nhiễm salmonella là
một trong những nguyên nhân phổ biến nhất của bệnh từ thực phẩm. Triệu chứng
bao gồm tiêu chảy, đau quặn bụng, ói mửa và sốt, mà thường kết thúc trong vòng
1-7 ngày. Trong những trường hợp cực đoan, nó có thể gây phản ứng viêm khớp
và nhiễm trùng nghiêm trọng.

Escherichia coli
E. coli là một nguyên nhân quan trọng gây tiêu chảy ở các nước đang phát
triển và các địa phương của vệ sinh kém. Có ít nhất bốn nhóm E. Coli :
enterotoxigenic, enterinvasive, hemorrhagic, and enteropathogenic. Mỗi dòng có
những đặc trưng khác nhau. Một số giống sản xuất ra một loại độc tố heatstable,
mà không thể bị phá hủy bởi nhiệt, hoặc độc tố một không bền nhiệt, có thể được
phá hủy bởi nhiệt, hoặc họ sản xuất cả hai. Căn bệnh này cũng tương tự như dịch
tả, tiêu chảy gây mất nước. các chủng khác xâm nhập các tế bào của ruột, gây ra
các triệu chứng giống như bệnh lỵ tương tự như shigellosis.
E. coli O157: H7 gây ra một căn bệnh nghiêm trọng đặc trưng bởi tiêu chảy ra
máu và đau bụng nghiêm trọng, với khoảng 61 ca tử vong một năm. Các nguồn
chủ yếu của vi khuẩn trong môi trường có lẽ là phân của người nhiễm bệnh,
nhưng cũng thể do hồ chứa động vật. Đất và nước không được khử trùng là các
nguồn có khả năng nhất cho sự nhiễm bẩn E. coli của thực phẩm.
Listeria monocytogenes
Listeria monocytogenes là một loại vi khuẩn có thể tồn tại trong các điều
kiện bất lợi,nó có thể phát triển trong một phạm vi pH từ 5,0-9,5 mà vẫn tăng
trưởng tốt. Những người có hệ miễn dịch kém như trẻ sơ sinh, người già, và cá
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
5
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
nhân bị bệnh rất dễ bị bệnh bởi các loài của Listeria. Ở người, nhiễm phải vi
khuẩn này có thể biểu hiện một căn bệnh giống như cúm hoặc các triệu chứng có
thể quá nhẹ mà họ đi không chú ý đến. Đôi khi vi khuẩn Listeria có thể nhân lên
trong cơ thể, gây nhiễm trùng huyết (máu nhiễm độc). Trong giai đoạn này,
Listeria có thể truy cập tất cả các vùng cơ thể, bao gồm các bào thai của phụ nữ
mang thai. Nếu bệnh xảy ra trong ba tháng cuối của thai kỳ, sinh vật có thể làm
cho thai nhi sẽ được hủy bỏ hoặc chết lưu. Nhiễm trùng huyết và viêm màng não
có thể xảy ra ở người lớn. Listeria được tìm thấy ở khắp mọi nơi trong tự nhiên.
Clostridium botulinum

Có bảy loại Clostridium botulinum, A đến G. Chúng là loài vi khuẩn sinh
bào tử chịu nhiệt tốt. Tất cả các loại sản xuất neurotoxins đều gây độc đối với
người và động vật. Một số loài nguy hiểm hơn những loài khác. Độc tố được hấp
thu vào máu thông qua hô hấp hoặc dạ dày và ruột. Ngộ độc thực phẩm kết quả
sau khi tiêu thụ thức ăn, nơi C.botulinum phát triển và sản xuất độc tố. Sau khi
hấp thu, chất độc hại này không thể phục hồi liên kết với dây thần kinh ngoại vi.
Các triệu chứng bao gồm buồn nôn, nôn, mệt mỏi, chóng mặt, nhức đầu, khô da,
miệng, rát cổ họng và táo bón,, tê liệt cơ bắp, tầm nhìn giảm, và khó thở. Những
biểu hiện là từ 4 đến 36 giờ sau khi tiêu thụ thức ăn có chứa độc tố.
Campylobacter jejuni
C. jejuni lần đầu tiên được phân lập từ phân tiêu chảy của con người vào
năm 1971. Kể từ đó nó đã liên tục được công nhận là một sinh vật gây bệnh ở
người. C.jejuni là loại vi khuẩn không phát triển dưới 86 F, đòi hỏi ít hoặc không
có ôxy cho sự tăng trưởng, phát triển chậm, ngay cả trong điều kiện tối ưu, và
không cạnh tranh tốt với các vi sinh vật khác. Campylobacteriosis được cho là
một nguyên nhân hàng đầu của bệnh dạ dày ruột cấp tính trong các triệu chứng
bao gồm tiêu chảy ở người. Triệu chứng, đau bụng, buồn nôn và sốt. Một số
lượng nhỏ của Campylobacter jejuni có thể gây bệnh. Tiếp xúc với đất nhiễm
phân người và động vật là nguyên nhân gây bệnh cho người thông qua đất ô
nhiễm đối với các nước đang phát triển.
Bacillus cereus
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
6
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
B. cereus được tìm thấy trong bụi, đất và gia vị. Nó có thể sống sót nấu ăn
bình thường như là một bào tử chịu nhiệt, và sau đó nó sản sinh một số lượng lớn
các tế bào nếu nhiệt độ lưu trữ không chính xác. Các bào tử có thể có mặt trên
các loại nguyên liệu thực phẩm, và nó có khả năng tồn tại ở nhiệt độ cao. Hai
độc tố của vi khuẩn Bacillus cereus gây nên bệnh từ thực phẩm. Nó gây tiêu chảy
thường xảy ra trong vòng 8 đến 20 giờ nhiễm.

1.3 Virus:
Virus có kích thước rất nhỏ bé. Chúng sống ký sinh trong các tế bào khác
và chỉ có thể nhìn thấy chúng qua kính hiển vi điện tử. Virus ký sinh trong tế bào
nên nó phụ thuộc vào tế bào chủ về năng lượng và các chất hoá sinh để sao chép
tổng hợp protein. Chúng sử dụng ngay bộ máy hoá sinh của tế bào chủ để sinh
sản cho nên sự nhân lên của virus sẽ làm chết hoặc hỏng tế bào, gây ra những căn
bệnh rất nguy hiểm có thể lây lan thành đại dịch trên quy mô lớn hoặc có tính
toàn cầu. Vius là nguyên nhân của rất nhiều đại dịch nguy hiểm ở người như
AIDS, cúm (H5N1, H1N1,…), sởi, đậu mùa, bại liệt, viêm não Nhật Bản, viêm
gan B. Vì vậy sẽ rất nguy hiểm nếu môi trường sống của chúng ta bị nhiễm bởi
các loại virus này.
Đối với cây trồng. Virus tạo ra rất nhiều điều bất thường có thể làm thay
đổi hình thức và dáng vẻ từ chop rễ đến đỉnh ngọn của. Hai ảnh hưởng dễ thấy
nhất là sự chuyển sang màu vàng và sự chết mô. Các triệu chứng này có thể xảy
ra riêng biệt hoặc cùng một lúc. Các virus chỉ gây bệnh cho một số loại cây ở
điểm bị thủng, nơi nó tấn công các tế bào ở gần vết thương, phần nhiều các virus
gây bệnh theo cách lưu dẫn (nội hấp) trên cây chủ và làm thiệt hại rất nhiều.
Virus tấn công bện trong một cây chủ thường tồn tại ở đó suốt cuộc đời của cây.
Ở những cây sinh sản theo cách dinh dưỡng, sự tồn tại dai dẳng đem tới việc các
đoạn của bị lây lan hoặc những phần tách chiết có mang virus.
Các triệu chứng về virus biến thiên nhiều và không những tùy thuộc nơi
loại cây chủ mà còn tùy thuộc nới nòi virus và nơi điều kiện môi trường như ánh
sáng, nhiệt độ và dinh dưỡng. Thời gian giữa sự nhiễm bệnh và sự phát hiện triệu
chứng cũng tùy thuộc nới virus và điều kiện môi trường.Nhiều giống virus không
những làm đổi màu trong mô cây chủ mà còn hạn chế sự phát triển của cây và
làm cho cây cằn cỗi mất sinh lực. Hầu hết các loại virus không thể sống sót trong
một thời gian dài bên ngoài tế bào thực vật sống. Đó là nguyên nhân tại sao virus
hiếm nếu chúng ta giết chết cây bị nhiễm. Hầu hết các triệu chứng do virus gây ra
đều giảm năng suất và chất lượng hoa của cây.
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân

7
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
Một vài loại cây trồng như khoai tây, rau diếp hay hoa cúc, sản lượng giảm
có thể thấy chỉ trong một vụ. Và thông thường thì sự giảm sản lượng này đủ để
chứng minh được có sự hiện diện của virus. Tuy nhiên, các loài phát triển chậm
thì khó có thể xác định được sự có mặt của virus chỉ trong một mùa vụ.
Triệu chứng gây ra bởi virus thì rất nhiều. Chúng có thể không biểu hiện,
mặc dù tồn tại trong cây, và gây ra các triệu chứng không nhìn thấy được. Hoặc
những triệu chứng này có thể biểu hiện rất ít, không rõ, và có khi bị hoại tử.
Vì tính đa dạng của các loài, nên các triệu chứng này cũng rất khác nhau,
thậm chí khác nhau trên từng cây Mỗi cây là một cá thể và phản ứng khác nhau
với sự nhiễm virus. Một cây nhìn bình thường các thể có nhiều triệu chứng nhiễm
virus trên bông, hoặc không có. Như vậy, rất khó có thể dự đoán chính xác virus
có nhiễm và biểu hiện trên cây hay không.Các triệu chứng gây ra bởi bệnh virus
có thể nhầm lẫn với các bệnh khác và cũng như các triệu chứng rối loạn sinh lý
khác. Nhiều triệu chứng gây bệnh như bệnh úa vàng, bệnh đốm hay vệt hoại tử.
Bệnh nấm và vi khuẩn, các vấn đề sinh lý như cường độ ánh sáng, chế độ phân
bón và chế độ nước cũng gây nên các triệu chứng tương tự. Với kinh nghiệm
trồng có thể phân biệt được các dấu hiệu đó với các triệu chứng được gây ra từ
virus.Với một vài kinh nghiệm, nhà vườn vẫn có thể học cách nhận biết bằng mắt
thường, tuy nhiên, có thể nhầm lẫn. Các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm ra nguyên
nhân tại sao một vài loài biểu hiện những triệu chứng nghiêm trọng, trong khi
một vài loài khác bị nhiễm vẫn khỏe mạnh. Điều này cho thấy sự cần thiết để
thiết lập nên một quy trình chuẩn đoán bệnh virus chính xác hơn để bảo đảm
được các loại thực vật sạch virus.
1.4 Nấm
Nấm cũng là một loài vi sinh vật gây nên rất nhiều căn bệnh khó chịu cho
người và động vật, nhưng đặc biệt nhất là tác hại của nó lên cây trồng. Vì vậy
trong phần này xin đề cập đến tác hại của đất bị ô nhiễm bởi nấm gây nên cho
cây trồng.

Nấm và các vi sinh vật giống nấm gây bệnh là các vi sinh vật dị dưỡng -
chúng cần
một nguồn dinh dưỡng bên ngoài để phát triển và sinh sản. Các bệnh thối rễ và
thân do tác nhân gây bệnh tồn tại trong đất là nguyên nhân gây thiệt hại năng suất
nghiêm trọng cho cây trồng ở Việt Nam. Tính chất trồng trọt quanh năm tại các
vùng châu thổ Việt Nam, sự lan truyền của các tác nhân gây bệnh trong nước
tưới, thoát nước kém, cây giống không sạch bệnh và khí hậu nhiệt đới là những
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
8
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
yếu tố tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các bệnh này. Bệnh do các tác
nhân có nguồn gốc từ đất gây ra các triệu chứng không điển hình, như còi cọc,
vàng lá, héo và chết cây. Những bệnh này do một số tác nhân gây bệnh phổ biến,
bao gồm nấm, vi khuẩn gây bệnh và tuyến trùng ký sinh thực vật. Những tác
nhân gây bệnh liệt kê ở Bảng 10.1 có những đặc tính chính sau:
• chúng tồn tại trong đất qua một thời gian dài khi không có mặt ký chủ, và
nguồn bệnh trong đất tăng dần qua vài năm (chu kỳ mùa vụ)
• chúng đều có phổ ký chủ rộng, ngoại trừ các dạng loài (formae speciales) của
Fusarium oxysporum
• chúng có thể lan truyền theo:
– nước tưới
– đất do động vật và người mang
– giống bị nhiễm bệnh (củ khoai tây, củ gừng, cây giống)
• chúng thường không phân tán nhờ gió.
Vi khuẩn gây bệnh héo cũng có thể tồn tại trong hạt giống.
Các tác nhân và đặc tính các loại nấm gây bệnh phổ biến ở Việt Nam được trình
bày trong bảng sau:
Tác nhân gây bệnh Bệnh Phổ ký chủ Tồn tại Nhận xét
Phythium species
a

(P.aphanidermatum,
P.myriotilum,
P.spinosum)
Chết cây non,
thối rễ con,
thối rễ
Rộng Bào tử trứng
trong đất
Du động
bào tử lan
truyền qua
nước trong
đất và nước
mưa hoặc
tưới nước
Phytophthora
palmivora
a

Nhiều bệnh ở
rễ cây, thân,
lá, và quả của
cây trồng lâu
năm
Rộng Bào tử hậu,
sợi nấm
trong tàn dư
cây bệnh và
có thể cả bào
tử trứng

trong đất
Du động
bào tử lan
truyền qua
nước trong
đất và nước
mưa hoặc
tưới nước
Phytophthora
capsici
a

Thối gốc (héo
nhanh) hồ
tiêu, thối rễ ớt
và các bệnh
Rộng Bào tử hậu,
sợi nấm
trong tàn dư
cây bệnh,
Du động
bào tử lan
truyền qua
nước trong
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
9
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
khác trên ruộng
và có thể cả
bào tử trứng

trong đất
đất và nước
mưa hoặc
tưới nước
Phytophthora
nicotianae
a
Thối nõn dứa
và các bệnh
khác
Rộng Bào tử hậu,
sợi nấm
trong tàn dư
cây bệnh,
trên ruộng
và có thể cả
bào tử trứng
trong đất
Bào tử hậu
trong đất du
động bào tử
lan truyền
qua nước
trong đất và
nước mưa
trong nước
tưới
Fusarium
oxysporum,
f.sp.lycopersici

a
Héo
Fusarium
Cà chua Bào tử hậu
trong đất
xâm nhiễm
cả rễ cây
không phải
là ký chủ
Mạch dẫn
hóa nâu
Fusarium
oxysporum,
f.sp.pisi
a
Héo
Fusarium
Đậu Hà Lan Bào tử hậu
trong đất
xâm nhiễm
cả rễ cây
không phải
là ký chủ
Mạch dẫn
hóa nâu
Fusarium
oxysporum,
f.sp.cubense
a
Héo

Fusarium
Chuối Bào tử hậu
trong đất
xâm nhiễm
cả rễ cây
không phải
là ký chủ
Mạch dẫn
hóa nâu
Sclerotinia
sclerotiorum
Thối thân và
quả
Rộng Hạch nấm
lớn,màu đen
trong đất
Hạch nấm là
dấu hiệu
chuẩn đoán
trên đồng
ruộng
Sclerotium rolfsii Thối gốc thân Rộng Hạch nấm Hạch nấm là
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
10
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
tròn, nhỏ,
màu nâu
trong đất
dấu hiệu
chuẩn đoán

trên đồng
ruộng
Rhizoctonia sp
a
Cây chết non,
thối rễ và
thân
Rộng Hạch nấm
hoặc sợi
nấm điển
hình trên tàn
dư cây bệnh
trong đất
Hạch nấm là
dấu hiệu
chuẩn đoán
cho một số
loài trên
đồng ruộng,
sợi nấm
phân nhanh
vuông góc
trong mẫu
cấy trên môi
trường
Verticillium
alboatrum
ab
Héo
verticillium

Rộng Sợi nấm
trong tàn dư
cây bệnh
Mạch dẫn
nâu hóa
Verticillium
dahliae
ab
Héo
verticillium
Rộng Hạch nấm
cực nhỏ
trong đất, sợi
nấm trong
tàn dư cây
bệnh
Mạch dẫn
nâu hóa
Ralstonia
solanacearum
a
Héo vi khuẩn Rộng Vi khuẩn
trong đất,
tàn dư cây
trồng và vật
liệu nhân
giống
Thân hóa
nâu và dịch
khuẩn là

những đặc
tính chuẩn
đoán trên
đồng ruộng
meloidogyne Tuyến trùng
nốt sưng
Rộng Tuyến trùng
ngủ,nghỉ
trong đất
Tuyến trùng
cái sống
trong nốt
sưng rễ -
một đặc tính
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
11
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
chuẩn đoán
Tuyến trùng loét rễ
a
Gây nên vết
bệnh trên rễ
và làm cây
còi cọc
Rộng Tuyến trùng
ngủ nghỉ
trong đất
Có thể nhìn
thấy các vết
loét trên rễ

bằng kính
lúp cầm tay
Plasmodiophora
brassiae
Sưng rễ cây
thuộc họ thập
tự
Brassica và
raphanus
Bào tử dạng
bảo tồn
trong đất
Các triệu
chứng sưng
rễ cây
2. Khử trùng xử lí ô nhiễm vi sinh vật trong môi trường đất.
2.1 Khử trùng bằng hơi nước nóng:
2.1.1 Tổng quan:
Nền văn minh cổ như Ấn Độ và Ai Cập đã sử dụng hơi nước sinh ra thông
qua việc sử dụng năng lượng bức xạ mặt trời trên đất tưới nước để khử trùng và
làm sống lại đất canh tác của họ. Trong thời kì hiện đại, khử trùng hơi nước lần
đầu tiên được phát hiện năm 1888 (của Frank ở Đức) và lần đầu tiên được sử
dụng trong thương mại Hoa Kỳ (do Rudd) vào năm 1893 (Baker 1962). Kể từ
đó, nhiều loại máy hơi nước đã được xây dựng để khử trùng nhà kính và đất
vườn ươm (Grossman và Liebman 1995). Trong thập niên 1950, ví dụ, công
nghệ tiệt trùng hơi nước được mở rộng để khử trùng chậu đất và nhà kính kèm
theo sản xuất thương mại của cào hơi nước, máy kéo lưỡi hơi nước cho xông
khói mẫu nhỏ của hoa và cây trồng lĩnh vực khác có giá trị cao (Langedijk 1959).
Ngày nay ,các công nghệ hiệu quả hơn vẫn đang được phát triển
Khử trùng đất bằng hơi nước( hấp đất) là một kĩ thuật trong nghề trồng

trọt mà hơi nước được sử dụng để khử trùng đất trên các cánh đồng hoặc trong
nhà kính. Sinh vật gây hại cây trồng như cỏ dại, vi khuẩn, nấm, vi rút bị giết hại
bởi hơi nóng ảnh hưởng lên cấu trúc tế bào làm chúng bị suy biến. Trong ngành
Sinh học, phương pháp này được coi là khử trùng riêng phần. Nhiệt độ tác động
lâu dài đóng vai trò quan trọng,vì những loại vi khuẩn có thể sinh bào tử bào tử
tồn tại và hồi sinh trong đất sau khi đất được làm lạnh trở lại. đất kém tơi xốp có
thể được chữa khỏi thông qua việc bẻ nhỏ các chất dinh dưỡng bị chặn trong đất.
Hấp đất dẫn đến một vị trí bắt đầu tôt hơn, tăng trưởng nhanh hơn và tăng cường
sức đề kháng chống lại bệnh thực vật và dịch hại. Ngày nay, việc áp dụng hơi
nước nóng được coi là cách tốt nhất và hiệu quả nhất để khử trùng đất bị nhiễm
bệnh, chậu đất và phân hữu cơ. Nó đang được sử dụng như là một thay thế cho
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
12
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
Methyl Brom, sản phẩm đã được đề nghị giảm bớt trong sản xuất và sử dụng bởi
nghị định thư Montreal . Hơi nước có hiệu quả diệt mần bệnh bẵng cách nung
nóng đất đến mức gây ra đông tụ protein hoặc khử hoạt tính enzyme của tế bào vi
sinh vật gây ô nhiễm.
2.1.2 Phương pháp thực hiện:
Đây là phương pháp được thực hiện với các kĩ thuật hiện đại đã được áp dụng ở
nhiều nước tiên tiến trên thế giới:
− Đầu tiên đất được xới xuống độ sâu khoảng 20 cm để tạo khoảng chống
giúp hơi nước đi sâu vào một cách dễ dàng, có thể dùng máy bừa, máy
cày, công cụ chuyên dụng để thực hiện công việc này.
− Khởi động máy khử trùng hơi nước.
− Cho máy bắt đầu hoạt động ở phần đầu mảnh đất cần khử trùng, cài đặt
chế độ tự động để máy tự thực hiện các giai đoạn tiếp theo.
− Trước tiên các máy này sẽ đặt các tấm khử trùng ở phía trước của nó( tấm
làm bằng kim loại, có trọng lượng tương đối lớn dài, diện tích khoảng
1,5m

2
) lên đất.
− Hơi nước được tạo ra với một nồi hơi ở áp suất thấp, được dẫn ra thông
qua một vòi phun hơi nước bên dưới tấm khử trùng phía trước.
− Điều chỉnh thời gian hoạt động của máy tùy thuộc vào từng loại đất và
tính chất loại vi sinh vật gây ô nhiễm dài nhất là từ 2 – 4h( tiêm hơi nước
kéo dài hơn, tiệt trùng các lớp đất sâu hơn).
− Kết thúc chu trình điều trị đất ở chu trình đầu tiên máy di chuyển lên vị trí
tiếp theo và lại tiếp tục hấp đất ở vị trí mới sát vị trí đầu tiên.
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
13
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
2.1.3 Hơi nước cho việc khử trùng:
Ngược lại với các phương pháp khác (chẳng hạn như không khí) nước có
khả năng đo nhiệt cụ thể của nó cao để hấp thụ một lượng lớn năng lượng tại một
nhiệt độ ổn định 100 ° C khi chuyển đổi từ nước thành hơi nước.Năng lượng này
được thoát ra đất để khử trùng.
Theo kết quả phương pháp này có được một mức độ hiệu quả đặc biệt cao
mà tất cả các mầm bệnh hữu cơ bị giết khi đủ thời gian tiếp xúc.
Do nhiệt độ tương đối thấp, chỉ lên đến 100 ° C dẫn đến quá trình ngưng
tụ, đất được bảo vệ khỏi các mối nguy hiểm. Trái ngược với việc sử dụng của
nhiệt khô (ví dụ như khí nóng) đất có thể không bị đốt cháy và không làm hại đến
khả ăng tái sinh của đất. So với các tác nhân hóa học khác, hơi nước có tác dụng
khử trùng toàn diện trên đất. Tất cả các tác nhân hữu cơ gây bệnh bị ảnh hưởng
bởi cái nóng ẩm ướt và thậm chí bị giết sau khi tiếp xúc đủ. Hóa chất chỉ có hiệu
lực một phần, vì chúng chỉ tập trung vào các mầm bệnh đơn lẻ. Nếu đất bị
nhiễm nhiều bệnh khác nhau một chất hóa học tổng hợp là cần thiết nhưng nó có
thể dẫn đến rủi ro rất lớn cho sức khỏe và môi trường.
2.1.4 Lợi ích của hấp đất:
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân

14
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
Khử trùng đất cung cấp một cứu trợ an toàn và nhanh chóng cho các loại
đất thoát khỏi các chất và sinh vật gây hại cho cây trồng như: chất chuyển hóa, vi
khuẩn,virus, nấm,tuyến trùng và các loại sâu khác.Tác dụng tích cực là:
− Cứu trợ sự mệt mỏi đất thông qua kích hoạt các chất hóa học - phản
ứng sinh học.
− Chất dinh dưỡng bị nghẽn trong đất được khai thác và làm cho cây
trồng dễ sử dụng chúng
− Tất cả các hạt giống cỏ dại và cỏ dại bị giết
− Thay thế cho methyl bromide và hóa chất quan trọng khác trong
nông nghiệp
2.1.5 Nguy cơ đất gặp nguy hiểm sau khi khử trùng bằng lơi nước:
Một nguồn tin đặc biệt về sự nguy hiểm của đất tái nhiễm bởi mầm bệnh
sau khi hấp là ô nhiễm sâu hơn. Tùy thuộc vào độ sâu của gốc cây trồng, sinh vật
gây bệnh có thể tiếp cận và làm ô nhiễm các lớp đất sâu hơn. Nó có thể xảy ra
quá trình truyền nhiễm lại tại các lớp đất được hấp ở lớp cao hơn bởi các mầm
bệnh nằm sâu trong lớp đất dưới. Do đó khi đất bị ô nhiễm nặng nên lấy mẫu đất
từ độ sâu đất khác nhau tùy theo độ sâu rễ của cây trồng và kiểm tra về bệnh để
xác định độ sâu cần thiết để hấp. Hơn nữa việc bổ sung vi sinh vật có lợi sau khi
xông hơi vào trong đất có thể tăng cường đáng kể sức đề kháng chống lại các
mầm bệnh xâm nhập và hạn chế tái ô nhiễm rất hiệu quả.Một lưu ý nữa của việc
tái ô nhiễm trên bề mặt thông qua canh tác ví dụ như khi sử dụng các tạp chất
hoặc trồng cây bị ô nhiễm có thể giới hạn hoạt động của các vi sinh vật có lợi
được thêm vào đất.
2.1.6 Kích hoạt lại đất sau khi hấp đất.
Sau khi khử nhiễm của đất bằng hơi nước nóng việc kích hoạt lại nhanh
chóng hoạt động của các vi sinh vật diễn ra. Vào lúc bắt đầu, sinh vật có hại và
có lợi đều được tái sinh. Nhưng vi khuẩn có lợi và nấm tìm thấy điều kiện tốt
hơn và đạt được một sự khởi đầu đáng kể. Nói chung các vi sinh vật có lợi sẽ

thắng thế. Sự hồi sinh có thể nhanh chóng được day trì trở lại vì nhiều lý do khác
nhau: Quan trọng nhất là áp lực cạnh tranh thấp từ các loài khác cũng như sự sẵn
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
15
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
có của các chất dinh dưỡng và các chất hoá học khác có lợi mà bị giải tán bằng
hơi.
Làn sóng đầu tiên kích hoạt lại xuất phát từ khả năng chịu nhiệt ví dụ như
các loài vi khuẩn hình thành bào tử. Hiệu quả của cú sốc nhiệt lên điểm cuối tác
động riêng cho vi khuẩn và nấm. Hơn nữa các vi sinh vật từ các vùng sâu hơn
mà không được điều trị đã được di chuyển lên. Ngoài ra bào tử có thể nảy mần
đến từ không khí, hầu hết trong số đó là nấm. Trong hầu hết các trường hợp đó là
một rào cản mới đối với sự lây lan của mầm bệnh được hình thành nhanh chóng
và có nguồn gốc từ tự nhiên.
Một vài trường hợp hiếm hoi, sinh vật gây bệnh có thể bùng phát ngay
sau khi xông hơi do hoàn cảnh bất lợi, có thể dẫn đến thiệt hại rất lớn. Để ngăn
chặn sự lan truyền của sinh vật gây bệnh sau khi hấp đất đó là việc sáo trộn đất
để vi sinh vật có lợi được tiêm vào di chuyển xuống lớp đất sâu át chế vi sinh vật
có hại.
2.1.7 Phân loại các phương pháp hấp đất bằng hơi nước
2.1.7.1 Hấp với hơi quá nhiệt
Thông qua các phương pháp hiện đại hấp bằng hơi nước quá nhiệt ở 180-
200
0
C việc khử trùng đất tối ưu có thể đạt được. Đất chỉ hấp thụ một lượng nhỏ
độ ẩm. Vi sinh vật hoạt động trở lại một khi đất nguội. Điều này tạo ra một môi
trường tối ưu cho đất canh tác nhanh với cây con và hạt giống. Ngoài ra phương
pháp tích hợp hấp đất khử trùng có thể thúc đẩy một mục tiêu tái định cư theo
định hướng phát triển sinh vật có lợi trong đất. Trong quá trình này, đầu tiên đất
thoát khỏi tất cả các sinh vật và sau đó hồi sinh và vi sinh vật đệm thông qua việc

tiêm đất hoạt hóa dựa trên phân có chứa một hỗn hợp tự nhiên của các vi sinh vật
thuận lợi (ví dụ: Bacillus subtilis, vv).
2.1.7.2 Hấp bằng tấm:
Những tấm hấp có diện tích lớn tấm hấp được sử dụng trong nhà kính để
phun hơi nước. Bề mặt hấp với tấm đặc biệt (tấm hấp) là một phương pháp đã
được thành lập trong nhiều thập kỷ để hấp các khu vực lớn đạt 15-400 m² trong
một bước. Nếu áp dụng đúng cách, tấm hấp là biện pháp đơn giản và rất kinh tế.
Việc sử dụng khả năng chịu nhiệt, một lớp vật liệu không phân hủy được phủ lên
để cách điện tiết kiệm năng lượng lên đến 50%, làm giảm đáng kể thời gian xông
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
16
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
hơi và cải thiện sự thâm nhập. làm việc độc lập với mỗi bước lên đến 400 m² có
thể được hấp trong 4-5 giờ xuống độ sâu 25-30 cm / 90 ° C. Việc sử dụng khả
năng chịu nhiệt và tấm cách điện không phân hủy tổng hợp, dày 5 mm, 500 gr /
m², có thể làm giảm thời gian hấp khoảng 30%. Thông qua một đường ống phun
hơi nước hoặc một ống có đục lỗ, hơi nước được tiêm dưới tấm sau khi nó đã
được đặt ra và làm cho nặng hơn với các bao tải cát.
Việc thực hiện trên khu vực trong một bước làm việc phụ thuộc vào năng
lực của máy phát điện hơi nước (ví dụ như nồi hơi hơi nước). Thời gian hấp phụ
thuộc vào cấu trúc đất cũng như nhiệt độ bên ngoài thường là từ 1-1,5 giờ hấp ở
độ sâu 10cm. bãi đất đạt được đến một nhiệt độ khoảng 85
0
C. Phay để nới lỏng
đất được khuyến cáo sử dụng vì cấu trúc đất lỏng có thể thấm hơi nước dễ dàng.
Máy đào đất bằng mai là một dụng cụ lí tưởng để làm tơi đất. Kết quả tốt nhất có
thể đạt được nếu đất bị vón cục ở sâu phía dưới và cát ở độ sâu thấp hơn.
Hơi công suất
kg / h:
100 250 300 400 550 800 1000 1350 2000

Diện tích m²:
15-
20
30-
50
50-
65
60-
90
80-
120
130-
180
180-
220
220-
270
300-
400
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
17
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
Trong thực tế làm việc với ít nhất hai tấm đồng thời có hiệu quả tốt hơn.
Trong khi một tấm được sử dụng để hấp một tấm để chuẩn bị cho việc bơm tiêm
hơi nước, bởi vậy tránh được việc hấp quá mức cần thiết.
2.1.7.3 Hấp chân không:
Hấp chân không là gây ra thông qua một hệ thống ống di động hoặc cố
định cài đặt trong chiều sâu của khu vực cần hấp, là phương pháp mà đạt đến sự
xâm nhập tốt nhất. Mặc dù chi phí vốn cao, việc lắp đặt cố định của hệ thống
thoát nước hợp lý cho các vùng sâu được sử dụng từ hấp độ sâu có thể đạt tới 80

cm.
Trái ngược với hệ thống thoát nước đặt cố định, ống trong các hệ thống
hút di động được đặt trên bề mặt. Một đường ống hút trung tâm gồm các ống mạ
kẽm, ống nối nhanh được kết nối trong một khoảng cách đều 1,50 m và các đầu
của ống được đẩy vào đất đến độ sâu mong muốn với một công cụ đặc biệt.
Khu vực hấp được bao phủ bằng một tấm hấp đặc biệt và đặt trọng lượng
lên tất cả các phần xung quanh với tấm hấp. hơi nước được tiêm dưới tấm hấp
thông qua một vòi phun và đường hầm bảo vệ. Trong khi với các khu vực ngắn
lên đến 30 m chiều dài hơi nước tiêm phía trước, với các khu vực dài hơn hơi
nước gây ra ở giữa búa đầm bằng cách sử dụng một nhánh nối T-ra để ra cả hai
bên. Ngay sau khi tấm này tăng khoảng 1M do áp lực hơi nước, tuabin hút được
bật. Trước tiên, không khí trong đất được lấy ra thông qua ống hút. Một chân
không được hình thành và hơi nước được kéo xuống.
Trong giai đoạn cuối cùng, khi độ sâu hấp yêu cầu đã được đạt tới, hệ
thống thông gió chạy không ngừng và hơi nước dư thừa được thổi ra ngoài. Để
đảm bảo rằng lượng hơi nước dư thừa không phải bị mất đi luôn, nó được đưa trở
lại dưới tấm. Như với tất cả các hệ thống hấp khác,thời gian hấp bắt buộc là
khoảng 20-30 phút. Thời gian xông hơi là khoảng 1 giờ cho mỗi 10 cm chiều sâu
hấp. Yêu cầu hơi nước là khoảng 7-8 kg / m². Yêu cầu quan trọng nhất, như với
tất cả các hệ thống hấp, là đất cũng được nới lỏng trước khi hấp, để đảm bảo sự
thâm nhập tối ưu.
2.1.7.4 Hấp áp suất âm.
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
18
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
Kỹ thuật áp suất âm tạo ra nhiệt độ đất thích hợp tại một độ sâu 60 cm và
kiểm soát hoàn toàn các tuyến trùng, nấm và cỏ dại. Trong kĩ thuật này, hơi nước
được đưa vào dưới vỏ hấp và buộc phải nhập xâm nhập vào đất ở áp lực âm. Áp
suất âm được tạo ra bởi một quạt hút không khí ra khỏi đất thông qua ống
polypropylene đã được đục lỗ chôn dưới đất. Hệ thống đòi hỏi phải thường

xuyên cài đặt đường ống có lỗ đục vào trong đất, ở độ sâu ít nhất là 60 cm phải
được bảo vệ vì việc cày xới có thể ảnh hưởng
đến chúng.
2.1.7.5 Hấp với chụp hút:
Hấp với một chụp hút là một thiết bị di
động bao gồm các vật liệu chống ăn mòn như
nhôm, được đặt vào trong khu vực để hấp.
Trái ngược với tấm hấp, chi phí chuyên sâu
các bước công việc như đặt ra và tăng trọng các tấm không xảy ra, tuy nhiên khu
vực hấp cho mỗi bước công việc nhỏ theo kích thước của nắp đậy này.
Ngoài trời, chụp đậy được thực hiện thủ công hoặc thông qua máy kéo với
một ứng lực đặc biệt treo tại 4 điểm. Thời gian hấp khoảng 30 phút cho một sự
xâm nhập xuống độ sâu 25 cm. Nhiệt độ 90 ° C có thể đạt được. Trong nhà kính
lớn ổn định,chụp được gắn vào rãnh. Chúng được nâng lên và di chuyển bởi các
bình khí nén. Mũ chụp nhỏ và vừa đến 12m ² được nâng lên một cách thủ công
bằng cách sử dụng một đòn bẩy tới hạn hoặc di chuyển bằng điện với cuộn dây
tời đặc biệt.
2.1.7.6 Hấp bằng kẹp:
Hấp kẹp, được phát triển trong
một dự án trong số các DEIAFA, Đại học
Turin (Italy, www.deiafa.unito.it) và
Ferrari Costruzioni Meccaniche , đại diện
cho một sự kết hợp của chiều sâu và bề
mặt hấp, cung cấp một phương pháp hiệu
quả để tạo ra hơi nước nóng vào trong
đất. hơi nước được đồng thời đẩy vào đất
từ mặt và sâu xuống dưới . Để thực hiện
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
19
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật

mục đích này, nơi khử trùng phải được trang bị với một hệ thống phun hơi sâu,
được bao phủ với một mũ chụp. Hơi nước đi vào đất từ phía trên và phía dưới
cùng một lúc. Tấm không thích hợp, vì một áp suất cao lên đến 30 mm cột nước
phát sinh bên dưới tấm bảo vệ.
Kẹp hấp cung cấp một số lợi thế. Một mặt, ứng dụng năng lượng có thể
được tăng lên đến 120 kg hơi nước mỗi m² / h. So với các phương pháp hấp đất
khác hơi có thể tiết kiệm năng lượng lên đến 30% có thể đạt được và giảm
nguyên liệu . Việc tăng năng lượng sử dụng dẫn đến làm nóng nhanh của đất làm
giảm sự mất nhiệt. Mặt khác, chỉ có một nửa số thời gian hấp thường xuyên là
cần thiết.
So sánh với các phương pháp hấp phun hơi nước khác liên quan đến sản
lượng hơi nước và nhu cầu năng lượng. Rõ ràng, hấp kẹp đạt được năng suất lớn
nhất và nhu cầu năng lượng thấp nhất. Việc kết hợp một phần kẹp hấp là một
phương pháp kết hợp nâng cao để hấp những khu vực đã được trồng và cố ý để
lại trong những vùng không được sử dụng. Để tránh nguy cơ nhiễm trùng lại của
dịch hại ở trở lại các khu vực hấp từ các khu vực không được xử lí, sinh vật có
lợi trực tiếp có thể được tiêm vào đất đã được vệ sinh thông qua một loại đất kích
hoạt (ví dụ như phân trộn đặc biệt). Sử dụng kẹp hấp một phần mở ra tiềm năng
tiết kiệm hơn nữa trong quá trình hấp.
Phương pháp xông hơi
Lượng hơi nước tối
đa
Nhu cầu năng lượng
Hấp tấm
6 kg / m
2
h
khoảng 100 kg hơi nước / m
3


Hấp sâu ( tấm + chân
không)
14 kg / m
2
h
khoảng 120 kg hơi nước / m
3

Hấp mũ chụp (Alu)
30 kg / m
2
h
khoảng 80 kg hơi nước / m
3

Hấp mũ chụp (thép)
50 kg / m
2
h
khoảng 75 kg hơi nước / m
3

GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
20
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
Hấp kẹp
120 kg / m
2
h
khoảng 60 kg hơi nước / m

3

2.2 Phun xông đất với hóa chất khử trùng:
2.2.1 Tổng quan:
Phun khử trùng là một phương pháp kiểm soát dịch hại đó là hoàn toàn lấp đầy
khu vực bằng khí thuốc trừ sâu hoặc chất phun khói nghẹt thở hoặc đầu độc các
sinh vật gây hại bên trong . Phương pháp này được sử dụng để kiểm soát sinh vật
gây hại trong các tòa nhà, đất, hạt giống, và sản xuất và cũng được sử dụng trong
hàng hóa suất khẩu hoặc nhập khẩu để ngăn ngừa sự chuyển giao các sinh vật kỳ
lạ . Phương pháp này cũng ảnh hưởng đến cấu trúc tế bào sinh vật, ảnh hưởng
đến cấu trúc vật lý của các loài gây hại.
Đất xông hơi khử trùng là phương tiện hiệu quả nhất của việc giảm vi sinh
vật, côn trùng, tuyến trùng gây bệnh trong đất, và giống một số loài cỏ dại. Mặc
dù một số chất phun xông đất được đăng ký để sử dụng trong vườn ươm cây lâm
nghiệp, nhưng hiệu quả nhất là những công thức methyl bromide, chloropicrin.
Việc chế tạo hỗn hợp gồm 67 phần trăm và methyl bromide chloropicrin 33 phần
trăm có hiệu quả nhất trong việc giảm nấm soilborne giai đoạn bào tử có khả
năng chịu, như là những người gây ra than, đen, và Cylindrocladium thối gốc trên
cây lá kim và gỗ cứng. Việc xây dựng 98 phần trăm và methyl bromide
chloropicrin phần trăm 2 là sử dụng rộng rãi, nơi một phổ rộng hơn xông khói đất
là cần thiết cho nhiều loại dịch hại đất. Đất xông hơi khử trùng là tương đối đắt
tiền, và không có lý do để làm nó kém.
2.2.2 Phương pháp thực hiện:
Phun xông khử trùng thường liên
quan đến các giai đoạn sau:
− Trước tiên khu vực được
phun khử trùng phải được
khoanh vùng để tạo ra một
môi trường kín
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân

21
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
− Tiếp theo phun xông chất khử trùng vào đất .
− Cách li đất trong một thời gian cần thiết để các khí xông khói thấm vào đất
và giết vi sinh vật gây ô nhiễm đất.
− Khi đất đã tiếp xúc đủ thời gian với chất khử trùng theo dõi độ an toàn của
đất để sử dụng bình thường
2.2.3 Những hạn chế của phương pháp phun hóa chất khử trùng:
Hợp chất hóa học khử trùng cho đất rất dễ dàng sử dụng và cần ít thời gian
thực hiện .Nhưng các hợp chất hiện nay có một phạm vi hiệu lực tương đối thấp,
chỉ có một hoặc một vài sinh vật gây bệnh cụ thể hoặc bị khống chế. Hơn nữa
việc áp dụng các tác nhân hóa học luôn luôn đi kèm với việc tồn dư hóa chất
trong một thời gian dài làm suy thoái đất hay bốc ra ngoài không khí đất.
Đặc biệt, nếu hóa chất khử trùng cho đất không được áp dụng đúng liều
lượng tập trung trong đất sẽ gây hậu quả lớn và tích lũy trong thực vật mà tác hại
của nó đối với thực vật và con người không thể lường trước được.
Bên cạnh nguy cơ hình thành kháng thể không loại trừ được , các kháng
thể này có thể bùng phát gây hậu quả nặng nề mà con người chưa thể kịp tổng
hợp loại hóa chất mới để diệt trừ chúng. Vì vậy khi áp dụng tác nhân hóa học
thậm chí có thể làm nặng thêm các triệu chứng của bệnh.
Do sự không chắc chắn của các phản ứng hóa học phụ ảnh hưởng xấu cho
đất khử trùng nên phương pháp này nên được áp dụng rất cẩn thận, đặc biệt khi
sủa dụng lên đất dùng để sản xuất lương thực thực phẩm.
2.2.4 Hóa chất sử dụng cho khử trùng đất:
2.2.4.1 Methyl bromide:
Methyl bromide là một chất khí không màu hoặc
chất lỏng dễ bay hơi mà thường không mùi, nhưng có
mùi như chloroform như ở nồng độ cao. Từ một chất khí
ở nhiệt độ bình thường, nó được nén và áp dụng như
một chất lỏng. Methyl bromide không phải là chất tự

GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
22
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
phát cháy, nhưng nó đặt ra một mối nguy hiểm khi tiếp xúc với tia lửa hoặc ngọn
lửa. Mặc dù ổn định dưới nhiệt độ và áp suất bình thường, khi bị nung nóng nó
dễ phân hủy, methyl bromide phát ra độc tính cao và có tính ăn mòn thải của
bromides.
Methyl bromide ( MeBr, CH
3
Br) là một chất hóa học độc hại, trước đây
nó được sử dụng rất phổ biến cho khử trùng đất, vào năm 2005 nó bị cấm sử
dụng vì chất này được cho là gây suy giảm tầng ozon. Methyl brom là một loại
hóa chất khử trùng có hiệu quả cao được sử dụng cách đây chừng 70 năm để
kiểm soát vi sinh vật, sâu bệnh, giun tròn, cỏ dại, và những tác nhân gây bệnh ở
hơn 100 cây trồng khác nhau.
Con người sẽ gặp nguy hiểm nếu hít phải khí này. Hít phải 1.600 ppm cho
10-20 giờ, hoặc 7.900 ppm đối với 1,5 giờ là nguy hiểm cho con người. Mức
thấp nhất được tìm thấy qua đường hô hấp gây ra độc tính trên người là 35 ppm
trong không khí. Methyl bromide là một chất độc tích lũy nguy hiểm. Triệu
chứng đầu tiên thường là do tổn thương hệ thần kinh, và có thể bị hôn mê từ 48
giờ đến chừng vài tháng sau khi tiếp xúc. Ngay sau khi hít phải liều lượng lớn,
các triệu chứng có thể bao gồm đau đầu, chóng mặt, buồn nôn, tức ngực đau
bụng, và cổ họng khô. Từ ba đến 12 giờ sau khi hít phải hơi, các triệu chứng bao
gồm khản giọng, mắt mờ, mù tạm thời, rối loạn tâm thần, và đổ mồ hôi. Triệu
chứng nặng hơn có thể bao gồm sưng phổi, tắc nghẽn; xuất huyết máu trong não,
tim,thận, lá lách, tổn thương nặng; và tê liệt toàn thân. Cái chết có thể xảy ra
trong vòng 10-30 giờ, thường là do suy hô hấp. Mặc dù hấp thụ qua da không
phải là một tuyến đường quan trọng đối với nhiễm độc methyl bromide, tuy vậy
làn da bị ảnh hưởng do tiếp xúc với hóa chất này. Methyl bromide có thể gây ra
mụn nước to lớn nhưng hiếm khi sâu đủ để tiêu diệt toàn bộ lớp da. Nhiễm một

lượng nhỏ trên da hoặc liên hệ với mắt dẫn đến khó thở và ngứa. Nếu hấp thụ
qua da, có thể dẫn đến buồn nôn và nôn. Quần áo dày có thể làm chậm sự bốc hơi
của thuốc từ da. Tiếp tục tiếp xúc với da có thể gây ra tử vong. Nếu ăn thực vật
nhiễm methyl bromide có thể gây run tay, và co giật.
Methyl bromide được coi là một tế bào chất kích thích tăng trưởng mạnh
và do đó một chất xúc tiến tiềm năng phát triển ung thư.tiếp xúc với methyl
bromide đã được đề xuất là nhân tố thông thường có thể có trong hai trường hợp
tử vong của ung thư tinh hoàn. Tỷ lệ tử vong cho bệnh ung thư này là cao hơn
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
23
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
đáng kể so với dự đoán. Trong nghiên cứu khác, methyl bromide gây ra các khối
u trong dạ dày của chuột.
Lượng ion bromide và các chất chuyển hóa của methyl bromide trong dư
lượng thuốc khử trung là tỷ lệ thuận với hàm lượng protein trong cây. Mức cao
hơn của các ion bromide rất có thể sẽ được tìm thấy trong cây giàu protein. Khi
được sử dụng như là một chất xông khói đất, chỉ một lượng nhỏ methyl bromide
được chuyển đổi thành các ion bromide trong khi nhiều khí đi vào khí quyển.
Chuyển đổi methyl bromide thành bromide làm số lượng của hợp chất hữu cơ
trong đất tăng lên. Tỷ lệ suy thoái trong đất phun khử trùng là 6-14% mỗi ngày ở
20
o
C. Đất cát chống lại sự suy thoái này tốt hơn đất mùn.
Methyl brom là một loại thuốc trừ sâu phổ rộng được sử dụng trong việc
kiểm soát côn trùng, tuyến trùng, cỏ dại, mầm bệnh, và động vật gặm nhấm
(Katan, 1999). Tại Mỹ, khoảng 21.000 tấn methyl bromide được sử dụng hàng
năm trong nông nghiệp, chủ yếu cho xông hơi khử trùng đất (85%), cũng như
cho hàng hóa và xử lý kiểm dịch thực vật (10%), và xông hơi khử trùng kết cấu
(5%). Trên toàn cầu, khoảng 72.000 tấn được sử dụng mỗi năm
2.2.4.2 Phosphine:

Phosphine ( tên IUPAC: phosphane) là một hợp
chất có công thức hóa học PH
3.
Nó là một khí độc hại,
không màu, dễ cháy. Phosphine tinh khiết không mùi
nhưng khi tồn tại ở dạng cao phân tử nó có mùi rất nặng
như tỏi hay cá thối, do sự hiện diện thay thế phosphine và diphosphine (P
2
H
4
).
Phosphine cũng là một hợp chất phốt pho hữu cơ. Phosphine có thể được hấp thụ
vào cơ thể bằng đường hô hấp. Phosphine có thể được hấp thụ vào cơ thể bằng
đường hô hấp. tiếp xúc trực tiếp với phosphine lỏng có thể gây ra sự tê cóng mặc
dù không chắc sẽ xảy ra. Các cơ quan tiếp xúc chính của khí phosphine là đường
hô hấp. ở nồng độ 50 ppm gây nguy hiểm ngay lập tức tới cuộc sống và sức khỏe
con. Nhiễm quá mức khí phosphine gây buồn nôn, nôn mửa, đau bụng, tiêu chảy,
khát, tức ngực, khó thở(thở khó khăn); đau cơ bắp, ớn lạnh; trạng thái hôn mê
hoặc ngất sỉu, phù phổi.phosphine đã được báo cáo là có mùi cá thối ở nồng độ
dưới 0,3 ppm.
2.2.4.3 1,3-Dichloropropene
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
24
Tiểu luận : Xử lí đất ô nhiễm vi sinh vật
1,3-Dichloropropene, cũng gọi là Telone hoặc đơn giản là 1,3-D, là một
chất lỏng không màu có mùi thơm. Nó hòa tan trong nước và bốc hơi dễ dàng.
Được sử dụng chủ yếu làm thuốc sát trùng cho đồng ruộng. Nó sử dụng rộng rãi
ở Mỹ và các quốc gia khác, nhưng nó đang dần bị hủy bỏ trong Liên minh châu
Âu.
1,3-Dichloropropene (DCP) gây kích ứng

tại các điểm tiếp xúc. Qua đường hô hấp nó có
thể gây buồn nôn, nôn, kích thích da, mắt, và cổ
họng; khó thở, đau đầu và mệt mỏi. Các hiệu
ứng này thường xảy ra ở các cấp độ tiếp xúc
được ở nồng độ cao hơn nền thấy trong không khí hoặc nước. Chuột mà hít DCP
liên tục trong khoảng 2 tuần có hại cho niêm mạc mũi, và có hại cho phổi. Một
người đàn ông vô tình ăn phải DCP chết với thiệt hại nghiêm trọng đến dạ dày
của mình và các cơ quan xung quanh, nhưng ít có điều tra về ảnh hưởng của nó
thông qua đường tiêu hóa. nghiên cứu động vật có báo cáo thiệt hại cho niêm
mạc dạ dày, phổi tắc nghẽn, khó đi bộ, và các hiệu ứng trên gan và thận từ việc
nhiễm DCP qua đường tiêu hóa ở mức cao. Một vài công nhân đã tiếp xúc với
thuốc trừ sâu có chứa DCP thấy bị dị ứng trên da. Bằng chứng cho việc gây ung
thư của 1-3,dichloropropene ở người là không đủ, nhưng kết quả từ một số bệnh
ung thư sinh trắc nghiệm cung cấp bằng chứng chứng minh đầy đủ nó gây ung
thư ở động vật. Cơ quan quốc tế nghiên cứu ung thư (IARC) đã quyết định rằng
1,3-dichloropropene có thể gây ung thư cho con người.
2.2.4.4 Chloropicrin:
Chloropicrin, còn được gọi là PS, là một hợp chất hóa học có công thức
cấu trúc Cl
3
CNO
2
. Chất lỏng không màu có độc tính cao này đã từng được sử
dụng trong chiến tranh hóa học và hiện nay đang được sử dụng với mục đích làm
chất phun xông khử trùng. Ngày nay chloropicrin, được sử dụng như một xông
khói để kiểm soát dịch hại được tìm thấy trong đất.Mặc dù ít phổ biến hơn nó có
thể được sử dụng như một chất độc cho vật có xương sống, chẳng hạn như thỏ.
Chloropicrin thường được sử dụng kết hợp với chất khử trùng khác như methyl
bromide, fluoride, sulfuryl.
Chloropicrin là một hóa chất có độc tính cao có công thức NIOSH được

sản xuất vào năm1995. Chloropicrin là một tác nhân gây chảy nước mắt và chất
GVHD : GS – TSKH Lê Huy Bá SVTH: Bùi Thị Ngân
25

×