Tải bản đầy đủ (.pdf) (37 trang)

hiện trạng quản lý chất thải nguy hại trên thế giới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.79 KB, 37 trang )

MỞ ĐẦU
Vấn đề quản lý chất thải nguy hại nói chung và xử lý chất thải nguy hại nói
riêng hiện đang là vấn đề hết sức bức xúc đối với công tác bảo vệ môi trường của
các nước trên Thế giới cũng như của Việt Nam.Cùng với sự phát triển công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, các đô thị, các ngành sản xuất, kinh doanh và dịch vụ
được mở rộng và phát triển nhanh chóng, một phần đóng góp tích cực cho sự phát
triển kinh tế của đất nước, mặt khác tạo ra một số lượng lớn chất thải rắn bao gồm:
chất thải sinh hoạt, chất thải công nghiệp, chất thải y tế, chất thải nông nghiệp, chất
thải xây dựng trong đó có một lượng đáng kể chất thải nguy hại đã và đang là
nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường, từ quy mô nhỏ, đến ảnh hưởng trên quy mô
rộng lớn và tác động xấu tới sức khoẻ, đời sống con người và chất lượng môi
trường chung.Vì vậy, một trong những vấn đề cấp bách của công tác bảo vệ môi
trường ở nước ta nói riêng và thế giới nói chung hiện nay là quản lý chất thải, đặc
biệt là chất thải nguy hại.
CHƯƠNG 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ
CHẤT THẢI NGUY HẠI
1.Khái niệm về chất thải nguy hại.
Khái niệm về thuật ngữ “chất thải nguy hại” lần đầu tiên xuất hiện vào thập
niên 70 của thế kỷ trước tại các nước Âu – Mỹ, sau đó mở rộng ra nhiều quốc gia
khác . sau một thời gian nghiên cứu phát triển , tuỳ thuộc vào sự phát triển khoa
học kỹ thuật và xã hội cũng như quan điểm của mỗi nước mà hiện nay trên thế giới
có nhiều cách định nghĩakhác nhau về chất thải nguy hại trong luật và các văn bản
dưới luật về môi trường .Chẳng hạn như:
• Chất thải nguy hại là những chất có độc tính , ăn mòn , gây kích thích, hoạt
tính , có thể cháy , nổ mà gây nguy hiểm cho con người và động vật (định
nghĩa của Philipine)
• Chất thải nguy hại là những chất mà do bản chất và tính chất của chúng có
khả năng gây nguy hại đến sức khoẻ con người hoặc môi trường , và tính
chất này yêu cầu các kỹ thuật xử lý đặc biệt để loại bỏ hoặc giảm đặc tính
nguy hại của nó (định nghĩa của Canada).
• Trong Đạo luật RCRA(Đạo luật về thu hồi và bảo tồn tài nguyên của


Mỹ):chất thải (ở các dạng rắn , lỏng , bán rắn và các bình khí) có thể được
coi là chất thải nguy hại khi:
 Nằm trong danh mục chất thải nguy hại do Cục Bảo vệ môi trường
Hoa Kỳ (EPA) đưa ra.
 Có một trong 4 đặc tính (khi phân tích) do EPA đưa ra gồm cháy nổ ,
ăn mòn , phản ứng và độc tính . Các phân tích để thử nghiệm này
cũng do EPA quy định.
 Được chủ nguồn thải (hay nhà sản xuất) tự công bố là chất thải nguy
hại.
• Chất thải nguy hại là chất thải chứa các chất hoặc hợp chất có một trong
những đặc tính gây nguy hại trực tiếp (dễ cháy, dễ nổ, làm ngộ độc, dễ ăn
mòn, dễ lây nhiễm và các đặc tính gây nguy hại khác), hoặc tương tác với
những chất khác gây nguy hại cho môi trường và cho sức khoẻ con người
(Quy chế quản, lý chất thải nguy hại kèm theo Quyết định số 155/1999/QĐ-
TTg ngày 16/7/1999 của Thủ tướng Chính phủ). Danh mục các chất thải
nguy hại được ghi trong phụ lục kèm theo của Quy chế quản lý chất thải
nguy hại nêu trên. Bên cạnh khái niệm trên về chất thải nguy hại còn có một
số khái niệm khác, như: Chất thải nguy hại là chất thải có một trong 5 đặc
tính sau: dễ phản ứng, dễ bốc cháy, ăn mòn, độc hại và phóng xạ.
Qua các định nghĩa được nêu ở trên cho thấy hầu hết các định nghĩa đều đề
cập đến đặc tính (cháy – nổ,ăn mòn , hoạt tính và độc tính ) của chất thải nguy hại .
Có định nghĩa đề cập đến trạng thái của chất thải (rắn , lỏng , bán rắn , khí), gây tác
hại do bản thân chúng ta khi tương tác với các chất khác , có định nghĩa thì không
đề cập . Nhìn chung , nội dung của các định nghĩa thường sẽ phụ thuộc rất nhiều
vào tình trạng phát triển khoa học – xã hội của mỗi nước. Trong các định nghĩa nêu
trên có thể thấy rằng định nghĩa về chất thải nguy hại của Mỹ là rõ ràng nhất và có
nội dung rộng nhất.Việc này sẽ giúp cho công tác quản lý chất thải nguy hại được
dễ dàng hơn.
2.Nguồn gốc phát sinh và phân loại chất thải nguy hại.
2.1. Nguồn gốc phát sinh chất thải nguy hại.

Do tính đa dạng của các loại hình công nghiệp , các hoạt động thương mại
tiêu dùng , các hoạt động trong cuộc sống hay các hoạt động công nghiệp mà chất
thải nguy hại có thể phát sinh từ nhiều nguồn khác nhau. Việc phát thải có thể do
bản chất của công nghệ , hay trình độ dân trí dẫn đến việc thải chất thải có thể là vô
tình hay cố ý . Tuỳ theo cách nhìn nhận mà có thể phân thành các nguồn thải khác
nhau, nhìn chung có thể chia các nguồn phát sinh chất thải nguy hại thành 4 nguồn
chính như sau:
• Từ các hoạt động công nghiệp (ví dụ khi sản xuất thuốc kháng sinh sử dụng
dung môi metyl clỏua, xi mạ sử dụng xyanit, sản xuất thuốc trừ sâu sử dụng
dung môi là toluen hay xylen…).
• Từ hoạt động nộng nghiệp (ví dụ sử dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật độc
hại).
• Thương mại (quá trình nhập – xuất các hàng độc hại không đạt yêu cầu cho
sản xuất hay hàng quá hạn sử dụng )
• Từ việc tiêu dùng trong dân dụng (ví dụ việc sử dụng pin, hoạt động nghiên
cứu khoa học ở các phòng thí nghiệm , sử dụng dầu nhớt bôi trơn, ắc quy
các loại…).
Trong các nguồn thải nêu trên thì hoạt động công nghiệp là nguồn phát sinh
chất thải nguy hại lớn nhất và phụ thuộc rất nhiều vào loại ngành công nghiệp . So
với các nguồn thải khác , đây cũng là nguồn thải mang tính thường xuyên và ổn
định nhất . Các nguồn thải từ dân dụng hay từ thương mại chủ yếu không nhiều ,
lượng chất thải tương đối nhỏ , mang tính sự cố hoặc do trình độ nhận thức và dân
trí của người dân . Các nguồn thải từ các hoạt động nông nghiệp mang tính chất
phát tans diện rộng, đây là nguồn rất khó kiểm soát và thu gom , lượng thải này
phụ thuộc rất nhiều vào khả năng nhận thức cũng như trình độ dân trí của người
dẩnn trong khu vực.
2.2.phân loại chất thải nguy hại.
 Phân loại theo tính chất nguy hại
 Phân loại theo mức độ độc hại
 Phân loại theo loại hình công nghiệp

 Phân loại theo khả năng quản lý và xử lý
CHƯƠNG 2:HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
2.1.TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
2.1.1.Lịch sử hình thành và phát triển của quản lý chất thải nguy hại
Trên thế giới việc quản lý chất thải nguy hại đã hình thành và có những thay
đổi mạnh mẽ trong thập niên 60 và đã trở thành một vấn đề môi trường được quan
tâm hàng đầu trong thập niên 80 của thế kỷ XX.Điều này có thể thấy đây là hệ quả
của cuộc cách mạng khao học kỹ thuật và sự phát triển kinh tế xã hội của các quốc
gia trên toàn cầu.
Sự phát triển của các loại hình công nghiệp ,sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng ,
hưởng thụ vật chất …đã dẫn đến một lượng lớn chất thải ra môi trường trong số đó
có các chất thải nguy hại và độc hại.Ngoài ra bên cạnh đó các cuộc chiến tranh
nhằm giải quyết các mâu thuẩn khu vực hay các cuộc nội chiến cũng góp phần đưa
một lượng lớnchất độc hại vào môi trường.Từ các nguyên nhân trên làm phát sinh
sự gia tăng của các loại hình chất thải nguy hại có thể kể đến như : sự phát triển
của khoa học kỹ thuật ( khoa học phân tích , y học ,độc chất học…), nhận thức của
chủ thải và cộng đồng , hành vi cố tình , sự yếu kém của của bộ máy quản lý…đã
dẫn đến các hậu quả bi thảm do chất thải nguy hại gây ra như : thuỷ ngân, PCB
(polyclorinated biphenyl), PBB (polybrominated biphenyl), Cd, DDT(gây ung thư)

Từ những thực tế như vậy , trên thế giới các quốc gia đặc biệt là các nước
tiên tiến như Châu Âu, Mỹ ,Nhật ,Úc …ngày càng hoàn thiện bộ Luật bảo vệ môi
trường của mình, và trong đó các quy chế quản lý các chất thải nguy hại là các
thành phần không thể thiếu được của bộ Luật.Mặc dù vẫn còn nhiều khác biệt
trong nội dung các điều khoản của các bộ Luật giữa những quốc gia khác nhau,
nhưng nhìn chung các bộ Luật điều đã chỉ rõ được mối quan tâm của nhà nước đối
với công tác quản lý chất thải nguy hại . Vượt ra ngoài biên giới quốc gia, những
công ước quốc tế có liên quan đến việc quản lý chất thải nguy hại cũng đã lần lượt
ra đời , nói lên được sự cảnh báo cùng các mối quan tâm sâu sắc của toàn nhân loại
đối với các chất thải nguy hiểm đang tồn tại và đe doạ cuộc sống xung quanh

chúng ta và cần phải có sự phối hợp hành động của nhiều quốc gia trong việc quản
lý các chất thải nguy hiểm này.
Vấn đề quản lý chất thải nói chung và quản lý chất thải nguy hại nói riêng ở
nước ta và một số nước trên thế giới là vấn đề rất nhạy cảm. Bởi vì chất thải sinh ra
ngày càng nhiều , trong đó lượng chất thải nguy hại là đáng kể . Các hoá chất độc
hại tồn lưu trong chiến tranh , các loại thuốc bảo vệ thực vật không còn giá tri sử
dụng hiện còn tồn đọng khá nhiều buộc chúng ta phải xử lý , trong khi đó năng lực
quản lý chất thải nguy hại nói chung và xử lý chất thải nguy hại nói riêng của
chúng ta còn quá yếu.
Ngoài ra, chúng ta còn thiếu những văn bản cần thiết về mặt pháp luật và
chính sách.Chúng ta cần có thêm nhiều những văn bản cụ thể hơn nữa cho từng
khâu trong quản lý chất thải nguy hại từ việc phân loại tại nguồn thu gom, lưu trữ ,
vận chuyển, tái sử dụng , tái chế cho đến khâu xử lý cuối cùng . Mặt khác chúng ta
chưa có tiêu chuẩn cụ thể để xác định thế nào là chất thải rắn nguy hại , vấn đề này
rất quan trọng bởi vì chi phí cho xử lý chất thải nguy hại tốn kém hơn nhiều so với
xử lý chất thải thông thường , cho nên phải xác định một cách chính xác chất thải
nguy hại để xử lý. Trong tiêu chuẩn về chất thải nguy hại , nồng độ chất nguy hại
giữ vai trò then chốt , nếu quy định nồng độ quá thấp thì có khi gây thiệt hại lớn về
kinh tế , ngược lại, nếu quy định nồng độ quá cao thi sẽ bỏ lọt nhiều loại chất thải
nguy hại không được xử lý theo yêu cầu và sẽ là nguy cơ gây ô nhiễm môi trường
nghiêm trọng .Về mặt cơ chế , chính sách , chúng ta hoàn toàn chưa có gì cụ thể để
khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư, tham gia vào việc quản lý chất thải
nguy hại.
2.1.2.Các thành phần của hệ thống quản lý chất thải nguy hại.
Một hệ thống quản lý chất thải nguy hại thành công phải bao gồm 4 thành phần cơ
bản như sau :
• Luật pháp (pháp lý): đây là thành phần cơ bản quan trọng , là nền tảng quan
trọng chi phối các thành phần còn lại.
• Triển khai và cưỡng chế : nếu chỉ có bộ khung pháp lý cho việc quản lý chất
thải nguy hại không thì chưa đủ mà còn cần phải có các quy chế , hướng dẫn

và quy định thực hiện ban hành kèm. Trong khi triển khai cần phải có các
giải pháp cưỡng chế thi hành luật trước khi có các biện pháp kiểm soát cụ
thể nào đó.
• Thiết bị (phương tiện) : là các phương tiện , thiết bị cần thiết , phù hợp để có
thể quản lý thích hợp chất thải nguy hại.
• Dịch vụ trợ giúp : muốn kiểm soát chất thải nguy hại hiệu quả cần phải có
một cơ sở hạ tầng về mặt kỹ thuật tốt. Cần phải có một năng lực nhất định về
phòng thí nghiệm , các thông tin kỹ thuật và tư vấn các kế hoạch đào tạo để
cung cấp.
Qua đó thấy rằng hệ thống quản lý chất thải nguy hại là sự tổ hợp của các nhân
tố với nhau và hình thành nên một hệ thống bao gồm hai phần chính : hệ thống
quản lý hành chính pháp luật và một hệ thống kỹ thuật bảo trợ. Nhìn chung tương
tự như quản lý chất thải rắn ,có thể phân chia hệ thống chất thải nguy hại thành
một hệ thống quản lý hành chính và một hệ thống quản lý kỹ thuật . Hai hệ thống
này luôn bổ sung và hổ trợ nhau trong việc quản lý chất thải nguy hại . Tuỳ thuộc
vào khoa học kỹ thuật , kinh tế và xã hội mà hệ thống quản lý hành chính là tiền đề
cho sự phát triển của hệ thống quản lý kỹ thuật hay ngược lại.Nhìn chung mối quan
hệ của hai hệ thống này là quan hệ tương hổ và liên kết chặt chẽ với nhau.
2.2. Hệ thống quản lý chất thải nguy hại.
2.2.1.Hệ thống quản lý hành chính chất thải nguy hại
Hệ thống quản lý hành chính chất thải nguy hại bao gồm các công tác về
hoạch định chính sách , kế hoạch chiến lược trong công tác quản lý, hoạch định các
chương trình giáo dục , giảm thiểu chất thải nguy hại , quản lý các văn bản giấy tờ
liên quan đến loại hìnhn thải , chủ thải , vận chuyển, lưu trữ và xử lý …Tóm lại
một yêu cầu quan trọng đối với hệ thống này là quản lý chặt chẽ được lượng chất
thải nguy hại ntừ nơi phát sinh đến công đoạn xử lý sau cùng và phải đảm bảo phù
hợp với cơ chế quản lý chung của nhà nước và các văn bản quy chế pháp luật.
Ngoài ra trong một phạm vi nhỏ (áp dụng cho chủ thải) , thì việc quản lý
cũng bao gồm các công tác triển khai những chương trình giảm thải , kê khai các
văn bản giấy tờ liên quan đến chất thải nguy hại theo quy định , phân loại , dán

nhãn chất thải như quy định và xây dựng các chương trình ứng cứu khi có sự cố
xảy ra.
2.2.2.Hệ thống quản lý kỹ thuật chất thải nguy hại
Trong một hệ thống quản lý kỹ thuật chất thải nguy hại, nhất là hệ thống cần
áp dụng cho nước ta và các nước trên thế giới cũng phải bao gồm các khâu liên
quan từ nguồn phát sinh đến các kỹ thuật xử lý sau cùng . Về cơ bản có thể chia hệ
thống quản lý thành 5 giai đoạn:
• Giai đoạn 1:là giai đoạn phát sinh chất thải từ các nguồn , trong phần này để
giảm lượng thải doanh nghiệp có thể áp dụng các biện pháp giảm thiểu tại
nguồn khác nhau.
• Giai đoạn 2: là giai đoạn bao gồm các công tác thu gom và vận chuyển trong
nội vi công ty và vận chuyển ra ngoài.
• Giai đoạn 3: là giai đoạn gồm các công tác xử lý thu hồi .
• Giai đoạn 4: là giai đoạn vận chuyển cặn , tro sau xử lý.
• Giai đoạn 5: là giai đoạn chôn lấp chất thải.
2.3. Lợi ích trong quản lý chất thải nguy hại.
2.3.1.Lợi ích trong ngăn ngừa phát sinh chất thải nguy hại
 Lợi ích kinh tế
• Giảm bớt chi phí cho công tác quản lý chất thải nguy hại
• Giảm chi phí về nguyên vật liệu và năng lượng do sử dụng có
hiệu quả hơn.
• Tăng lợi thế cạnh tranh trên thị trường :cải thiện hình ảnh doanh
nghiệp.
 Lợi ích môi trường và xã hội
• Giảm rủi ro đối với công nhân ,cộng đồng và các thế hệ sau.
• Góp phần đáp ứng tiêu chuẩn môi trường hiện hành , giúp bảo
vệ môi trường tốt hơn .
• Góp phần bảo tồn tài nguyên và năng lượng.
• Cải thiện mối quan hệ với cộng đồng xung quanh khu vực nhà
máy.

2.3.2.Lợi ích trong tái sinh tái chế chất thải nguy hại
 Lợi ích kinh tế
• Đem lại thu nhập cho người lao động .
• Tiết kiệm chi phí mua nguyên liệu , khai thác tài nguyên thiên
nhiên.
• Giảm chi phí xử lý chất thải nguy hại.
 Lợi ích môi trường và xã hội
• Giảm lượng chất thải nguy hại thải ra môi trường phải xử lý.
• Giảm khai thác tài nguyên quá mức .
• Giải quyết công ăn việc làm cho người lao động .
• Giảm rủi ro đối với môi trường và sức khoẻ cộng đồng vì giảm
lượng phát sinh chất thải nguy hại.
2.3.3.Lợi ích trong tổng hợp chất thải nguy hại
 Lợi ích kinh tế
• Chiến lược quản lý phù hợp làm giảm đáng kể chi phí cho hệ
thống quản lý .
• Hệ thống quản lý chất thải nguy hại phải tiếp cân theo cách
ngăn ngừa sự phát sinh.
• Hạn chế sự thất thoát nguyên vật liệu , năng lựợng trong san
xuất.
• Giảm chi phí cho quản lý chất thải nguy hại tại cơ sở .Giảm chi
phí trong đổ bỏ , phát thải vào môi trường (phí môi trường),
giảm tiền nạp thuế, phí chất thải nguy hại.
 Lợi ích môi trường và xã hội
• Tránh được ô nhiễm và suy thoái môi trường.
• Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
• Giảm rủi ro đối với môi trường và sức khoẻ cộng đồng.
• Góp phần đẩy mạnh công tác xã hội hoá việc thu gom, vận
chuyển , tái chế , xử lý , tiêu huỷ chất thải nguy hại.
• Tạo công ăn việc làm thu hút đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau.

CHƯƠNG 3:CÁC NGUYÊN TẮC CHUNG VÀ QUY TRÌNH QUẢN
LÝ CHẤT THẢI NGUY HẠI
3.1.Các nguyên tắc chung.
Trong công tác kiểm soát ô nhiễm môi trường: Phòng ngừa ô nhiễm là nguyên tắc
chủ đạo, khắc phục và phục hồi là quan trọng. Đồng thời, trong bất kỳ một lĩnh
vực, đối tượng nào cũng cần tuân thủ những nguyên tắc sau:
 Đảm bảo sự phát triển kinh tế - xã hội một cách bền vững.
 Đảm bảo tính lồng ghép: Phối hợp liên ngành; Lồng ghép các khu vực, các
ngành, các đối tượng kiểm soát.
 Giảm lượng và độ độc của chất thải nguy hại tại nguồn thải
 Xử lý chất thải:
• Tách các chất thải nguy hại
• Biến đổi hoá tính, sinh học nhằm phá huỷ các chất thải nguy hại hoặc
biến thành các chất ít nguy hại hơn.
• Thải bỏ các chất thải nguy hại theo đúng kỹ thuật để không gây tác
hại tới môi trường và sức khoẻ cộng đồng.
3.2.Quy trình quản lý chất thải nguy hại.
Kiểm soát có hiệu quả quá trình phát sinh, lưu giữ xử lý, tái chế và tái sử
dụng, chuyên chở, thu hồi và chôn lấp các chất thải nguy hại có ý nghĩa cực kỳ
quan trọng, nhằm bảo vệ sức khỏe và môi trường chuẩn mực, cũng như quản lý tài
nguyên thiên nhiên và phát triển bền vững. Do chất thải nguy hại có thể tồn lưu
những độc tính trong một thời gian dài, có khi hàng thế kỷ, nên cần sớm giảm thiểu
lượng chất thải nguy hại được thải bỏ. Việc giảm thiểu lượng thất thải nguy hại có
thể được thực hiện thông qua các biện pháp giảm lượng chất thải phát sinh tại
nguồn, xử lý, tái chế hoặc tái sử dụng chất thải. Cần phải xử lý chất thải trước khi
thải bỏ nhằm hạn chế tới mức thấp nhất những ảnh hưởng của chúng tới môi
trường. Việc xử lý này có thể thực hiện theo các phương pháp: Xử lý cơ học; phân
huỷ nhiệt hoặc phương pháp hoá/lý/sinh học. Chất thải nguy hại sau xử lý (xử lý
hoá/lý/sinh học hay xử lý nhiệt) sẽ được thải bỏ. Bước này sẽ được thực hiện
bằngphương pháp chôn lấp an toàn.

Có 5 giai đoạn trong toàn bộ quy trình quản lý chất thải nguy hại bao gồm:
 Giai đoạn 1 - Quản lý nguồn phát sinh chất thải
 Giai đoạn 2 - Thu gom và vận chuyển
 Giai đoạn 3 - Xử lý trung gian
 Giai đoạn 4 - Chuyên chở chất thải nguy hại đến giai đoạn xử lý tiếp theo.
 Giai đoạn 5 - Thải bỏ chất thải (chôn lấp cuối cùng).
Xử lý chất thải nguy hại được ưu tiên đối với phương pháp giảm, quay vòng và
tái sử dụng. Tuy nhiên phương án xử lý này thường chỉ dùng đối với một số
loại rác thải như rất độc, chất quý hiếm có giá trị cần tái chế Bên cạnh đó
phương án xử lý này có những hạn chế như: đầu tư kinh phí cao, cần có kỹ
thuật, tính chất đa dạng của chất thải, Do vậy, cần xem xét đến các phương án
xử lý khác như chôn lấp, thiêu đất, bê tông hoá Có nhiều quá trình xử lý chất
thải nguy hại, nhưng có thể tóm lược lại thành 4 quá trình chính như sau:
• Quá trình hoá lý: Tách chất thải nguy hại từ pha này sang pha khác,
hoặc để tách pha nhằm giảm thể tích dòng thải chứa chất thải nguy
hại.
• Quá trình hoá học: Biến đổi hoá học các chất thải nguy hại thành chất
không độc hại hoặc ít nguy hại.
• Quá trình sinh học: Phân huỷ sinh học các chất thải độc hại hữu cơ.
Các quá trình kỹ thuật khác loại bỏ chất thải nguy hại như: Đốt phế
thải, giảm thể tích phế thải. Tuy nhiên, có một số loại phế thải không
nên sử dụng bằng quá trình đốt như là chất phóng xạ, chất thải dễ nổ.
Thực tế cho thấy, không có một quá trình đơn lẻ nào có thể xử lý triệt để chất thải
nguy hại mà dây chuyền xử lý bao gồm một tập hợp các quá trình xử lý trên hợp và
bổ sung cho nhau để đạt hiệu quả xử lý tốt.
 Giai đoạn 1 - Quản lý nguồn phát sinh chất thải
Các chất thải nguy hại thường phát sinh từ các nguồn thải khác nhau, chúng
không có khả năng giảm thiểu, phục hồi, tái sinh và tái sử dụng cần được xử lý và
thải bỏ theo một trình tự nhất định. Quản lý nguồn phát sinh cần phải nắm vững và
quản lý các thông tin về nguồn phát sinh chất thải nguy hại: Trong địa phương có

các nguồn phát thải nào? Lượng phát thải là bao nhiêu? Thành phần và tính chất
độc hại của các chất thải đó. Ở nhiều nước đã tiến hành thủ tục đăng ký và cấp giấy
phép đối với các nguồn thải chất thải nguy hại, nhất là đối với các ngành công
nghiệp. Nhiều khi cơ quan quản lý môi trường tiến hành khảo sát, đo lường, phân
tích các nguồn thải chất nguy hiểm cụ thể để đảm bảo các thông tin về nguồn thải
chất nguy hại là chính xác, đồng thời cũng tiến hành kiểm tra sự tuân thủ luật lệ về
quản lý chất thải nguy hại của các chủ nguồn thải, yêu cầu tất cả các chủ nguồn
thải phân loại và tách các chất thải nguy hại với các chất thải thông thường, đôi khi
người ta còn phân loại thành phần chất thải nguy hại và chất thải rất nguy hại. Để
quản lý tốt các loại chất thải sinh hoạt nguy hại, cần tuyên truyền giáo dục xây
dựng tập quán cho nhân dân tự giác tách riêng chất thải nguy hại và bỏ vào túi ni-
lông đặc trưng. Cần phải truyền bá các thông tin về chất thải nguy hại, nâng cao
hiểu biết về tác động nguy hại đối với sức khoẻ cộng đồng, làm sao cho mọi chủ
nhân của các nguồn chất thải nguy hại ý thức hết trách nhiệm của mình và biết
cách quản lý chất thải nguy hại ngay từ nguồn phát sinh, áp dụng các biện pháp
giảm thiểu chất thải nguy hại và không đổ thải chất thải nguy hại lẫn lộn với chất
thải thông thường. Sau đây là một số nguồn chính phát sinh thất thải nguy hại:Chất
thải nguy hại phát sinh từ sản xuất công nghiệp.
Rất nhiều loại công nghiệp, trong quá trình sản xuất, phát sinh ra các chất thải độc
hại. Các ngành công nghiệp thường thải ra chất thải nguy hại như là: công nghiệp
hoá chất, công nghiệp luyện kim, công nghiệp hoá dầu, công nghiệp sơn, mạ, công
nghiệp thuộc da, công nghiệp nhuộm, công nghiệp điện tử, công nghiệp hoá hữu cơ
phân tử, v.v Các phòng thí nghiệm, nghiên cứu có tính chất tương tự cũng phát
sinh các chất thải nguy hại tương tự. Chế biến chất dẻo - Khói thải do đốt nhiên
liệu - Bụi, các khí NOx, SO2, CO.
Chất thải nguy hại phát sinh từ sinh hoạt và thương mại:Trong sinh hoạt đô
thị và thương mại hiện đại cũng thường phát sinh chất thải nguy hại, tuy không
nhiều, nhưng nếu không có nhận thức và hiểu biết đầy đủ thì cũng là một nguy cơ
đối với sức khoẻ cộng đồng. Các chất thải nguy hại phát sinh từ sinh hoạt và
thương mại đô thị thường là: các bao bì chai lọ đựng thuốc diệt ruồi: diệt muỗi

đựng chất táy rửa, sát trùng mạnh. đồ dùng điện tử hư hỏng. đèn nê-ông hỏng, các
ắcquy, pin hết hạn sử dụng. vật liệu bảo dưỡng ô tô, xe máy dần cặn, v.v Ở các
đô thị hiện đại. Ở nước ngoài, người ta ước lượng phát sinh chất thải nguy hại từ
sinh hoạt đô thị khoảng 6 kg trên mỗi người, mỗi tháng.
Chất thải nguy hại phát sinh từ các cơ sở khám, chữa bệnh :
Bao gồm các mô tế bào, các bộ phận của cơ thể con người cắt bỏ ra, chất bài
tiếtcủa bệnh nhân, các mô cấy vi khuẩn, vi trùng, xác động vật thí nghiệm, bông
băng, các loại thuốc và hoá dược liệu hư hỏng, quá thời gian sử dụng, các dụng cụ
y tế sắc nhọn, các ống tiêm, v.v.
 Giai đoạn 2: Phân lập, thu gom và vận chuyển
Giai đoạn này thực hiện nhiệm vụ thu gom toàn bộ chất thải nguy hại phát
sinh từ các nguồn thải khác nhau và được chuyển đến khu xử lý và thải bỏ hoặc
đến trạm trung chuyển hay đến nơi lưu giữ tạm thời, tuỳ thuộc vào điều kiện và
khả năng cụ thể của từng khu vực và của các đơn vị, cơ sở phát sinh ra nguồn thải.
Việc thu gom chất thải rắn nguy hại từ các nguồn khác nhau tuỳ thuộc vào
điều kiện, khả năng cụ thể của nguồn thải. Rác thải nguy hại trước khi xử lý phải
được phân loại để giảm chi phí cho vấn đề xử lý tiếp theo.Công việc đầu tiên phải
phân thành 2 loại:
• Rác thải thường.
• Rác thải nguy hại.
Trong các cơ sở thải ra nguồn thải nguy hại cần có các thùng đựng riêng cho
các loại rác này ngay từ đầu. Sau đó phân chia rác thải nguy hại thành các loại trên
cơ sở phân theo công nghệ để đạt hiệu quả xử lý cao.Để hạn chế tác động nguy hại
đối với sức khoẻ của người phân loại cần có biệnpháp phòng tránh an toàn trong
việc thu gom và phân loại (khẩu trang, găng tay, que nhọn, ủng, mũ, quần áo
riêng ).
Việc phân lập và thu gom rác thải nguy hại phải được áp dụng ngay từ khâu
đầu phát sinh ra rác thải. Công tác thu gom và xử lý rác thải nguy hại yêu cầu phải
có thiết bị và phương tiện an toàn. Tác động tích cực của công tác thu gom và vận
chuyển chất thải rắn:

 Quản lý và kiểm soát có hiệu quả chất thải rắn.
 Giảm bớt số lượng bãi trung chuyển rác.
 Giảm tối đa sự rò rỉ rác thải nguy hại.
 Loại bỏ tình trạng sử dụng lại rác thải không được phép dùng (ví dụ: dùng
bùn,
cặn bã của bùn bể phối để trồng rau hoặc để lấp với mục đích chiếm dụng đất trái
phép).
 Cải tiến tình trạng hiện nay làm cản trở giao thông do thu dọn rác thải bằng
tay.
 Cải thiện điều kiện lao động cho công nhân.
Phế thải công nghiệp và phế thải bệnh viện gồm có hai thành phần: loại
không nguy hại và nguy hại, do đó, yêu cầu đặt ra là phải tách các thành phần nguy
hại để đưa đi xử lý theo quy trình riêng. Nếu có điều kiện nên xử lý ngay tại nơi
phát sinh ra chất thải hoặc phải được thu gom, vận chuyển và xử lý bằng những
thiết bị đặc biệt, kín, an toàn đến nơi xử lý, sau đó đưa đi chôn lấp hoặc đúc thành
khối đem chôn lấp ở những khu vực riêng, đảm bảo kỹ thuật, không gây ảnh hưởng
và ô nhiễm môi trường. Kỹ thuật giảm thiểu chất thải rắn nguy hại và việc lựa chọn
các kỹ thuật này sẽ phụ thuộc vào chủng loại, số lượng các chất thải rắn nguy hại
phát sinh, phụ thuộc vào quy mô của các nhà máy, xí nghiệp và khả năng về tài
chính và kỹ thuật của nhà máy xí nghiệp trong việc thay đổi các quá trình sản
xuất Những kỹ thuật này có thể là những công nghệ cao, những giải pháp có chi
phí cao cho đến những giải pháp có chi phí thấp, dễ áp dụng như giải pháp kiểm
kê, những chương trình đào tạo hay bảo dưỡng.
Hiện tại có rất nhiều phương cách thu gom và vận chuyển như:
 Thu gom và vận chuyển bằng các xe chở rác:
Loại này thường được sử dụng để thu gom và vận chuyển CTCN dạng rắn. Chất
thải được chất lên xe bằng máy xúc bánh lốp hoặc guồng xúc và đổ xuống bằng
cách nghiêng thân ben.
 Thu gom và vận chuyển bằng các xe có cẩu xếp dỡ:
Loại xe này có kiểu thân giống với các thiết bị cơ khí bốc dỡ như là cần cẩu hay

bàn nâng phía sau.
 Thu gom và vận chuyển bằng xe hút chân không chở bùn:
Loại xe này có thể hút bùn hay chất thải lỏng lên thùng theo cách làm giảm áp suất
bằng bơm chân không. Đường kính ống hút của xe này rộng hơn ống trong xe chân
không dùng để thu phân bể phối để giải quyết các chất lỏng có độ nhớt cao.
 Thu gom và vận chuyển bằng hệ thống thùng rời:
Hệ thống này sử dụng loại xe tải chuyên dụng với thiết bị bốc dỡ bằng container có
thể tháo rời. Do đó, với một xe có khả năng chở nhiều loại container riêng biệt.
 Thu gom và vận chuyển chất thải bằng xe tải lớn chở chất thải dạng lỏng:
Đây là loại xe tải thường kín, nó có thể chở một số dạng chất thải lỏng có độ nhớt
thấp khác nhau theo những khoang được trang bị trong thùng chứa này.
 Thu gom và vận chuyển khác:
Tuỳ đặc điểm loại chất thải khác mà lựa chọn phương án vận chuyển cho phù hợp.
 Giai đoạn 3 - Xử lý trung gian
Trong giai đoạn này, chất thải được xử lý để giảm về khối lượng, được ổn
định, giảm thiểu hoặc loại bỏ độc tính và làm cho phù hợp hơn đối với khâu thải
bỏ cuối cùng. Các phương pháp xử lý gồm xử lý cơ học, xử lý hoá học, sinh
học và nhiệt. Có thể xử lý kết hợp hoặc riêng rẽ tuỳ theo loại rác.Một số biện
pháp xử lý trung gian chất thải nguy hại là:
• Chất thải lỏng như các dung môi sẽ được xử lý bằng phương pháp ơn
định hoá/làm cứng với xi măng và chất phụ gia khác.
• Chất thải chứa axít và kiềm đầu tiên sẽ được xử lý bằng phương pháp
trung hoà sau đó được cố định nếu cần thiết.
• Bùn thải được tách ra khỏi nước hoặc làm khô, sau đó được ổn định.
• Dầu thải sẽ được đốt trong các lò đốt nhỏ cùng với than nếu cần thiết.
• Nhựa thải không chứa các chất nguy hiểm sẽ được chôn tại khu chôn lấp
chất thải.
Sau đây là các phương án xử lý trung gian cụ thể:
Việc ngăn ngừa và giảm thiểu sự ô nhiễm đối với chất thải công nghiệp nguy hại là
hết sức quan trọng. Việc tái sử dụng và thu hồi chất thải rắn công nghiệp nguy hại

cũng không thể xem nhẹ. Thường có các phương pháp xử lý như sau:
 Xử lý cơ học
 Các quá trình hoá/ lý
 Các quá trình nhiệt
 Chôn lấp.
Trong đó, xử lý cơ học thông thường được dùng để chuẩn bị cho chất thải
trong quá trình xử lý sơ bộ của phương pháp xử lý hoá lý hay xử lý nhiệt. Ví dụ
chất thải cianua rắn cần phải đập thành những hạt nhỏ trước khi được hoà tan để xử
lý hoá học. Cũng tương tự như thế, chất thải hữu cơ dạng rắn cần phải được băm
và nghiền nhỏ rồi cuối cùng được trộn với chất thải hữu cơ dạng rắn khác trước khi
đốt.
Quá trình tiếp theo sau là rất quan trọng để có thể đất có hiệu quả bởi vì chất
thải rắn được bơm vào lò đốt phải thoả mãn những đặc trưng riêng cho một quá
trình cháy hoàn toàn. Cố định (ổn định) hóa được xem như là một quá trình cơ bản,
đặc biệt là ở những nước mà việc kiểm soát các khu chôn lấp chất thải hay khu đổ
thải còn yếu kém. Các chất còn lại sau những quá trình xử lý hoá học thường có
hàm lượng các ô xít kim loại nặng và có thể chứa các sulfit kim loại. Trong điều
kiện môi trường kiềm nhẹ, các chất này không tan và chúng có thể bị tái hoà tan
nếu gặp điều kiện môi trường trung tính hoặc axít nhẹ. Những cặn thải này được cố
định hoá thì các kim loại nặng này không thể tái thất thoát vào môi trường.
 Giai đoạn 4: Chuyên chở chất thải nguy hại đi xử lý tiếp
Cặn thải rắn sau xử lý ở giai đoạn 3 có thể được được chuyên chở tới nơi khác để
xử lý tiếp theo nhằm các mục đích khác nhau trên cơ sở của các điều kiện kinh tế
và kỹ thuật hiện có ở từng nơi, từng lúc.
 Giai đoạn 5. Thải bỏ chất thải
Phần chất thải không còn được tái sử dụng cho bất kỳ mục đích nữa sẽ được mang
thải bỏ bằng cách chôn lấp hoặc thiêu đất.
3.3Các phương pháp xử lý chất thải nguy hại
Khi chưa thực hiện chương trình giảm thiểu chất thải, tải lượng chất thải sinh ra
lớn và tích lũy ngày càng nhiều. Khi đã triển khai các biện pháp giảm thiểu,tận

dụng chất thải, lượng chất thải giảm đi đáng kể nhưng chúng vẫn tồn tại trong môi
trường. Do đó, chúng ta vẫn cần phải tiến hành xử lý, thải bỏ chất thải một cách an
toàn theo các phương pháp được trình bày dưới đây.Trong thời gian nghiên cứu,
tìm kiếm và triển khai các biện pháp giảm thiểu chất thải, các nhà máy vẫn sản
xuất, nên chất thải nguy hại tiếp tục được phát thải vào môi trường. Lượng chất
thải ngày càng gia tăng, do đó chúng ta phải thực hiện xử lý chất thải nguy hại đó.
Khi chưa thực hiện chương trình giảm thiểu chất thải, tải lượng chất thải sinh ra
lớn và tích lũy ngày càng nhiều. Khi đã triển khai các biện pháp giảm thiểu chất
thải, lượng chất thải giảm đi đáng kể nhưng chúng vẫn tồn tại trong môi trường.
Các phương pháp lý hóa là:
Xử lý chất thải nguy hại bằng phương pháp vật lý nhằm tách chất nguy hại ra khỏi
chất thải bằng các phương pháp tách pha.
Xử lý chất thải nguy hại bằng phương pháp hoá học nhằm thay đổi tính chất hoá
học của chất thải để chuyển nó về dạng không nguy hại.
- Lọc. Lọc là phương pháp tách hạt rắn từ dòng lưu chất (khí, lỏng hay kem
nhão…) khi đi qua môi trường xốp (vật liệu lọc). Các hạt rắn được giữ lại ở vật
liệu lọc. Quá trình lọc có thể thực hiện nhờ chênh lệch áp suất gây bởi trọng lực,
lực ly tâm, áp suất chân không, áp suất dư.
- Kết tuả. Kết tuả là quá trình chuyển chất hoà tan thành dạng không tan bằng các
phản ứng hoá học tạo tủa hay thay đổi thành phần haó chất trong dung dịch (thay
đổi pH…), thay đổi điều kiện vật lý của môi trường (hạ nhiệt độ) để giảm độ hoà
tan của hoá chất, phần không tan sẽ kết tinh. Phương pháp kết tuả thường dùng kết
hợp với các quá trình tách chất rắn như lắng cặn, ly tâm và lọc.
- Oxy hoá khử. Phản ứng oxy hoá khử là phản ứng trong đó trạng thái oxy hoá của
một chất phản ứng tăng lên trong khi trạng thái oxy hoá của một chất khác giảm
xuống. Chất cho điện tử là chất khử, chất nhận điện tử là chất oxy hoá. Để thực
hiện quá trình oxy hoá khử, người ta trộn chất thải với hoá chất xử lý (tác nhân oxy
hoá hay khử) hay cho tiếp xúc các hoá chất ở các dạng dung dịch với hoá chất ở
thể khí.
- Bay hơi. Bay hơi là làm đặc chất thải dạng lỏng hay huyền phù bằng phương

pháp cấp nhiệt để hoá hơi chất lỏng. Phương pháp này thường dùng trong giai đoạn
xử lý sơ bộ để giảm số lượng chất thải cần xử lý cuối cùng.
- Đóng rắn và ổn định chất thải
Đóng rắn là làm cố định hoá học, triệt tiêu tính lưu động hay cô lập các thành phần
ô nhiễm bằng lớp vỏ bền vững tạo thành một khối nguyên có tính toàn vẹn cấu trúc
cao.
Phương pháp này nhằm giảm tính lưu động của chất nguy hại trong môi trường;
làm chất thải dễ vận chuyển do giảm khối lượng chất lỏng trong chất thải và đóng
rắn chất thải; giảm bề mặt tiếp xúc chất thải với môi trường tránh thất thoát chất
thải do lan truyền, rò rỉ, hạn chế hoà tan hay khử độc các thành phần nguy hại.
− Đóng rắn là quá trình bổ sung vật liệu vào chất thải để tạo thành khối rắn. Trong
đó có thể có các liên kết hoá học giữa chất độc hại và phụ gia.
− Ổn định là quá trình chuyển chất thải thành dạng ổn định hoá học hơn. Thuật ngữ
này cũng bao gồm cả đóng rắn nhưng cũng bao gồm cả sử dụng các phản ưng hoá
học để biến đổi các thành phần chất độc hại thành chất mới không độc.
− Cố định hoá học là biến đổi chất độc hại thành dạng mới không độc.
− Bao gói là quá trình bao phủ hoàn toàn hay sử dụng hàng rào bao quanh khối
chất thải bằng một chất khác.
Chất kết dính vô cơ thường dùng là ximăng, vôi, pozzolan, thạch cao, silicat. Chất
kết dính hữu cơ thường dùng là epoxy, polyester, nhực asphalt, polyolefin, ure
formaldehyt;
Các phương pháp nhiệt:
Phương pháp đốt
Quá trình đốt là một quá trình biến đổi chất thải rắn dưới tác dụng của nhiệt và
quá trình oxy hóa hoá học. Bằng cách đốt chất thải ta có thể giảm thể tích của nó
đến 80-90%. Nhiệt độ buồng đốt phải cao hơn 800
0
C. Sản phẩm sau cùng bao gồm
khí có nhiệt độ cao bao gồm nitơ và cacbonic, hơi nước, và tro. Năng lượng có thể
thu hồi được từ quá trình trao đổi nhiệt do khí sinh ra có nhiệt độ cao.

Đốt thùng quay. Lò đốt thùng quay được sử dụng để xử lý các loại chất thải nguy
hại ở dạng rắn, cặn, bùn và cũng có thể ở dạng lỏng. Thùng quay hoạt động ở nhiệt
độ khoảng 1100
0
C.
Đốt. Đốt là quá trình oxy hoá ở nhiệt độ cao bằng oxy không khí. Bằng cách đốt
chất thải nguy hại, ta có thể giảm thể tích của nó đến 80-90%. Nhiệt độ buồng đốt
phải cao hơn 800
0
C. Sản phẩm cuối cùng của quá trình đốt là các chất không nguy
hại như nước, CO
2
, …
¬ Đốt bằng phương pháp phun chất lỏng. Chất thải nguy hại dạng lỏng được đốt
trực tiếp trong lò đốt bằng cách phun vào vùng ngọn lửa hay vùng cháy của lò phụ
thuộc vào nhiệt trị chất thải. Lò đốt được duy trì nhiệt độ khoảng trên 1000
0
C.
Thời gian lưu của chất thải lỏng trong lò từ vài phần giây đến 2,5 giây.
¬ Đốt thùng quay. Lò đốt thùng quay được sử dụng để xử lý các loại chất thải
nguy hại ở dạng rắn, cặn, bùn và cũng có thể ở dạng lỏng. Thùng quay hoạt động ở
nhiệt độ khoảng 1100
0
C.
¬ Đốt có xúc tác. Sử dụng xúc tác cho vào lò đốt để tăng cường tốc độ oxy hoá
chất thải ở nhiệt độ thấp hơn so với lò đốt thông thường (<537
0
C). Phương pháp
này chỉ áp dụng cho chất thải lỏng.
Sử dụng chất thải nguy hại làm nhiên liệu

Đây là phương pháp tiêu hủy chất thải bằng cách đốt cùng với các nhiên liệu thông
thường khác để tận dụng nhiệt cho các thiết bị tiêu thụ nhiệt: nồi hơi, lò nung, lò
luyện kim, lò nấu thủy tinh. Lượng chất thải bổ sung vào lò đốt có thể chiếm 12-
25% tổng lượng nhiên liệu.
Nhiệt phân
Nhiệt phân là quá trình phân hủy hay biến đổi hoá học chất thải rắn xảy ra do
nung nóng trong điều kiện không có sự tham gia của oxy và tạo ra sản phẩm cuối
cùng của quá trình biến đổi chất thải rắn là các chất dưới dạng rắn, lỏng và khí.
Nhiệt phân là quá trình tiêu hủy hay biến đổi hoá học xảy ra do nung nóng trong
điều kiện không có oxy. Quá trình nhiệt phân gồm hai giai đoạn. Giai đoạn một là
quá trình khí hoá. Chất thải được gia nhiệt để tách thành phần dễ bay hơi như khí
cháy, hơi nước… ra khỏi thành phần cháy không hoá hơi và tro. Giai đoạn hai các
thành phần bay hơi được đốt ở điều kiện phù hợp để tiêu hủy hết các cấu tử nguy
hại.
Nhiệt phân bằng hồ quang - plasma. Thực hiện quá trình đốt ở nhiệt độ cao (có thể
đến 10.000
0
C) để tiêu hủy chất thải có tính độc cực mạnh. Sản phẩm là khí H
2

CO, khí axit và tro.
Các phương pháp sinh học
Chất thải nguy hại cũng có thể xử lý bằng phươg pháp sinh học ở điều kiện hiếu
khí và yếm khí như chất thải thông thường. Tuy nhiên, bổ sung chủng loại vi sinh
phải thích hợp và điều kiện tiến hành được kiểm soát chặt chẽ hơn.
• Quá trình hiếu khí. Quá trình xử lý sinh học hiếu khí là quá trình hoạt động
của vi sinh vật chuyển chất hữu cơ thành các hợp chất vô cơ (quá trình
khoáng hoá) trong điều kiện có oxy. Sản phẩm của quá trình là CO
2
, H

2
O,
• Quá trình yếm khí. Quá trình xử lý sinh học hiếu khí là quá trình khoáng hoá
nhờ vi sinh vật ở điều kiện không có oxy. Công nghệ xử lý sinh học yếm khí
tạo thành sản phẩm khí CH
4
chiếm phần lớn, CO
2
và H
2
, N
2
, H
2
S, NH
3
.
CHƯƠNG 4:HIỆN TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ CHẤT THẢI NGUY
HẠI Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI
4.1.Hiên trạng công tác quản lý chất thải nguy hại ở Việt Nam.
Phân loại hoá chất thuốc bảo vệ thựcvật không còn giá trị sử dụng .Theo cấp độ
độc và nguồn gốc của hoá chất thuốc bảo vệ thực vật có thể phân loại như sau:
• Hoá chất thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng: Là loại hoá chất bảo vệ thực
vật được nhà nước Việt Nam cấm lưu hành hay nói một cách khác là chúng
có độc tính cao, bền vững và rất bền vững trong môi trường. Các loại thuốc
cấm sử dụng ở Việt Nam bao hàm các loại thuốc đã được tổ các chức quốc
tế như FAO, WHO, UNEP khuyến cáo và cả một số loại khác nữa để đáp
ứng tình hình thực tế về bảo vệ môi sinh ở Việt Nam.

×