Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

tiểu luận trường phái cổ điển với các mô hình tăng trưởng của david ricardo, tân cổ điển (mô hình cobb – douglas), mô hình tăng trưởng của trường phái keynes

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.54 KB, 10 trang )

Trường phái cổ điển với các mô hình tăng trưởng của David Ricardo, tân
cổ điển (mô hình Cobb – Douglas), Mô hình tăng trưởng của trường phái
Keynes ( mô hình tăng trưởng của Harrob – Domar ), Mô hình tăng trưởng
của Solow, Mô hình tăng trưởng hiện đại của Samuelson
Trong lịch sử phát triển của mình nền kinh tế đã chuyển mình qua rất nhiều
các giai đoạn khác nhau và ứng mỗi giai đoạn đó hình thành các lý thuyết và mô
hình kinh tế đặc trưng tương ứng. Các lý thuyết và mô hình đó đã có vai trò
quan trọng diễn tả những quan điểm cơ bản nhất về sự phát triển kinh tế qua các
thời kì thông qua các biến số kinh tế và mối liên hệ giữa chúng. Và trải qua các
thời kì khác nhau các lý thuyết và mô hình kinh tế này cũng không ngừng phát
triển và hoàn thiện dựa trên cơ sở kế thừa và phát triển các lý thuyết và mô hình
trước nó để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Dưới đây là một số mô
hình tăng trưởng kinh tế với những quan điểm về yếu tố nguồn lực và tác động
của chúng tới tăng trưởng kinh tế.
1. Trường phái cổ điển với mô hình tăng trưởng của David Ricardo
Trường phái cổ điển xuất hiện vào những năm đầu của thế kỉ XIX với hai đại
diện tiêu biểu là Adam Smith và David Ricardo.
Adam Smith (1723-1790) ông được coi là người sáng lập ra kinh tế học với tác
phẩm tiêu biểu la “của cải của đất nước”,theo ông chính lao động được sử dụng
trong những hoạt động có ích, có hiệu quả là nguồn gốc tạo ra giá trị của xã hội.
Số công nhân “hữu ích và hiệu quả” cũng như năng suất lao động của họ phụ
thuộc vào lượng tư bản tích lũy. Adam Smith coi sự gia tăng tư bản là yếu tố
quyết định đến tăng trưởng kinh tế. Ông đưa ra hai học thuyết cơ bản:
1
- Học thuyết về “Giá trị lao động” : ông cho rằng lao động là nguồn gốc
cơ bản tạo ra mọi của cải cho đất nước.
- Học thuyết “Bàn tay vô hình” : theo ông nếu không bị chính phủ kiểm
soát, người lao động sẽ bị lợi nhuận thúc đẩy để sản xuất hàng hóa và
dich vụ cần thiết và thông qua thị trường tự do này lợi ích cá nhân sẽ
gắn với lợi ích xã hội. Từ đó ông phủ nhận vai trò của Chính phủ trong
việc điều tiết và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.


David Ricard (1772-1823) ông được coi là tác giả xuất sắc nhất của trường
phái cổ điển. Ông đã kế thừa các tư tưởng của Adam Smith và chịu ảnh hưởng
của tư tưởng dân số học của T.H Malthus để sáng lập ra học thuyết của riêng
mình “Mô hình tăng trưởng của Ricardo”.
Các giả định của mô hình tăng trưởng của Ricardo:
- Lao động (L) là nguồn gốc tạo ra của cải
- Yếu tố nguồn vốn (K) là yếu tố trực tiếp tăng sản lượng. Nên không có
sự xuất hiện của chính phủ vì chi của chính phủ không sinh lời và làm
giảm động lực tích lũy của doanh nghiệp.
- Nền kinh tế truyền thống : nông ngiệp là yếu tố chi phối.
- Quy luật lợi tức biên giảm dần theo quy mô. Yếu tố công nghệ tác động
yếu ớt, coi như bằng không.
Nội dung của mô hình
Theo Ricardo có 3 yếu tố tác động tới tăng trưởng là: lao động(L),
vốn(K), và đất đai (R).
Như vây có hàm sản xuất như sau : Y = f (L, K, R )
Theo Rcardo trong 3 yếu tố nêu trên thì đất đai (R) là yếu tố quan trọng nhất.
Đất đai chính là giới hạn của tăng trưởng. Vì khi sản xuất nông nghiệp gia tăng
trên những đất đai kém màu mỡ hơn thì giá lương thực, thực phẩm sẽ tăng lên.
Do đó tiền lương danh nghĩa tăng lên, lợi nhuận của nhà tư bản giảm. Cho tới
2
khi đất đai đạt điểm dừng tại Ro và Y sẽ đạt sản lượng tối đa, tại đó sẽ là giới
hạn của tăng trưởng. Khi đó nền kinh tế chia làm hai khu vực, khu vực 1: nông
nghiệp trì trệ tuyệt đối, khu vực 2 là khu vực công nghiệp. Như vậy, khi chưa
đến điểm dừng Ro thì R là yếu tố quyết định tăng trưởng, khi đạt điểm dừng Ro
thì tích lũy cho khu vực công nghiệp mới là yếu tố quyết định tăng trưởng.
Như vậy lý luận của Ricardo là : tăng trưởng là hàm của tích lũy, tích lũy là
hàm của lợi nhuận,lợi nhuận lại phụ thuộc vào chi phí sản xuất lương thực, chi
phí sản xuất lương thực phụ thuộc vào đất đai. Do đó đất đai là giới hạn đối với
sự tăng trưởng.

2.Mô hình tăng trưởng của trường phái tân cổ điển (mô hình Cobb –
Douglas)
Trường phái tân cổ điển xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX là thời kì đánh dấu sự
chuyển biến mạnh mẽ của khoa học kĩ thuật với một loạt các phát minh khoa
học và các nguồn tài nguyên được khai thác phục vụ cho quá trình sản xuất.
Người đứng đầu cảu trường phái này là Marshall (1842-1924) với tác phẩm
chính “các nguyên lý của kinh tế học”.
Giả định của mô hình
3
- Đặt nền kinh tế dưới tác động mạnh của yếu tố công nghệ.
- Vốn là yếu tố trực tiếp tạo nên sản lượng.
- Quy luật lợi tức giảm dần theo quy mô vẫn chi phối.
Nội dung của mô hình
Theo mô hình của trường phái tân cổ điển có các yếu tố tác động tới tăng
trưởng là: lao động (L), vốn (K),tài nguyên thiên nhiên (R), và khoa hoc – công
nghệ (T). Như vậy hàm sản xuất là:
Y = f ( K, L, R, T )
Theo mô hình này các nhà kinh tế học tân cổ điển đã chia các yếu tố nguồn
lực ra làm 2 nhóm:
- K, L, R : nhóm các yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng
- T : yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu.
Hàm sản xuát Cobb- Douglas :
Theo như hàm sản xuất Cobb – Douglas đã mô hình hóa sự phát triển qua số
liệu của các nước và đã lượng hóa cụ thể sự đóng góp của các yếu tố nguồn lực
tới tăng trưởng. Và các nhà kinh tế của trường phái tân cổ điển cho rằng công
nghệ có vai trò quan trọng nhất tới tăng trưởng kinh tế.
Các nhà kinh tế học tân cổ điển bác bỏ quan điểm cho rằng sản xuất đòi hỏi
tỷ lệ nhất định lao động và vốn, do đưa yếu tố công nghệ vào họ cho rằng có
nhiều cách kết hợp giữa lao động và vốn trong sản xuất và phát triển nó thành
các đương đồng sản lượng. Do đó có nhiều con đường để tăng trưởng kinh tế

bằng cách sử dụng các công nghệ khác nhau phù hợp với điều kiện của mỗi
quốc gia.
Tính chất kế thừa và sự tiến bộ của mô hình tăng trưởng của trường phái
tân cổ điển : trường phái tân cổ điển đã kế thừa mô hình tăng trưởng của trường
phái cổ điển và phát triển nó lên bậc cao hơn, hoàn thiện hơn.
4
Tính kế thừa : cũng giống như mô hình tăng trưởng của trường phái cổ điển
mô hình của các tân cổ điển cũng bao gôm các yếu tố : lao động, vốn, đất đai
( L,K,R ) là các nhân tố tăng trưởng kinh tế. Cả hai mô hình đều phủ nhận vai
trò của chính phủ trong viêc điều tiết nền kinh tế, ủng hộ thị trường tự do chịu
điều tiết của “ bàn tay vô hình “.
Sự tiến bộ : mô hình tăng trưởng của trường phái tân cổ điển đã nhận ra vai
trò của yếu tố công nghệ và cho răng nó là yếu tố quan trọng nhất tác động tới
tăng trưởng, nhờ có công nghệ mà có nhiều cách kết hợp đầu vào trong sản xuất.
3. Mô hình tăng trưởng của trường phái Keynes ( mô hình tăng trưởng của
Harrob – Domar )
Học thuyết kinh tế của trường phái Keynes ra đời vào những năm 30 của thế kỉ
XX sau cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933, khi mà các lý thuyết
trước đó đã không còn phù hợp với điều kiện mới. Năm 1936, J.Maynard
Keynes ( 1883 – 1946) cho ra đời tác phẩm “ lý thuyết chung về việc làm, lãi
suất và tiền tệ “ đã đánh dấu sự ra đời của trường phái Keynes.
Các giả định của mô hình tăng trưởng Harrob – Domar
- Cố định công nghệ. Hàm sản xuất không có yếu tố T.
- Quy luật lợi tức cận biên giảm dần không chi phối sản xuất.
- Tổng đầu tư = tổng tiết kiệm = tổng mức vốn sản xuất gia tăng
Nội dung của mô hình
Hàm sản xuất : Y = f ( L, K, R )
Theo đó các nhân tố tác động tới tăng trưởng chỉ gồm có : lao động L, nguồn
vốn K , và đất đai R. Để tăng trưởng kinh tế cần đầu tư vào vốn dự trữ. Hay nói
cách khác tiết kiệm (S) và đầu tư (I) là yếu tố quyết định tăng trưởng trong mô

5
hình Harrob – Domar. Chính vì vậy ở đây đã có sự xuất hiện vai trò của chính
phủ trong việc điều tiết các nguồn tiết kiệm, tích lũy, đầu tư.
Mô hình cũng đưa ra cách tính hệ số ICOR có ý nghĩa trong thực tế trong việc
đánh giá năng lực quản lý, giá cả của đầu tư trong hoàn cảnh yếu tố công nghệ
như nhau, trình độ công nghệ, mức độ khan hiếm của các yếu tố nguồn lực.
Có thể nói mô hình Harrob – Domar được thể hiện bằng hàm sản xuất giản
đơn nhất và nổi tiếng nhất được sử dụng trong nghiên cứu, phân định và phát
triển kinh tế. Mô hình được sử dụng phổ biến trong các nước đang phát triển,
dược xem là một phương pháp đơn giản để xem xét mối quan hê tăng trưởng và
nhu cầu tư bản. Và trong một số trường hợp nó tỏ ra rất hữu ích trong tăng
trưởng của các quốc gia trên thế giới thông qua việc huy động vốn.
Tính chất kế thừa và sự tiến bộ của mô hình
Tính kế thừa : mô hình tăng trưởng Harrob Domar đã kế thừa và phát triển từ
mô hình tăng trưởng của Ricardo như đều đưa ra 3 nhân tố tác động tới tăng
trưởng là : L, K, R và đều không đưa yếu tố T vào trong hàm sản xuất.
Sự tiến bộ : mô hình khẳng định vai trò quan trọng của chính phủ trong việc
điều tiết, ổn định và tăng trưởng nền kinh tế. Yếu tố nguồn lực R ở đây không
chỉ đơn thuần là đất đai mà được mở rộng lên thành tài nguyên thiên nhiên.
4.Mô hình tăng trưởng của Solow
Năm 1956 dựa trên tư tưởng thị trường tự do của trường phái tân cổ điên
Robert Solow đã xây dựng mô hình tăng trưởng mới. Ông chia các yếu tố nguồn
lực ra làm hai nhóm : L, K, R là nhóm yếu tố tăng trưởng theo chiều rộng, T là
yếu tố tăng trưởng theo chiều sâu tuy nhiên T vẫn là yếu tố ngoại sinh. Ông cho
6
rằng T mới là yếu tố quyết định tới tăng trưởng, các nhân tố còn lại sẽ vấp phải
điểm dừng tại giới hạn của nó, chỉ có T mới tạo nên tăng trưởng liên tục.
Hàm sản xuất : Y = f ( K, L, R, T ) . Theo mô hình này cho biết tiết kiệm, tăng
dân số và tiến bộ công nghệ có ảnh hưởng như thế nào tới sản lượng cũng như
tốc độ tăng trưởng kinh tế. Một điểm đáng chú ý của mô hình là Solow đã đưa

những tính toán của mình trên các con số bình quăn trên đầu người, điều này
đảm bảo một sự tăng trưởng một cách hợp lý, công bằng hơn và đơn giản hóa
tính toán. Solow cũng giải thích được sự có khoảng cách của các nền kinh tế,các
tính chất hội tụ của nền kinh tế -hay sự san bằng cách biệt giàu nghèo giũa các
quốc gia bằng lý thuyết đi tắt đón đầu.
Với các lý thuyết trong mô hình tăng trưởng của mình ta thấy rằng Solow đã
kế thừa và hoàn thiện mô hình tăng trưởng của Harrob – Domar với việc thêm
yếu tố công nghệ T vào mô hình tăng trưởng đã khắc phục được khiếm khuyết
của mô hình Harrob Domar. Hơn nữa cho dù là nhà kinh tế của trường phái tân
cổ điển ủng hộ thị trường tự do nhưng Solow cũng không phủ định hoàn toàn
vai trò của Chính phủ. Như vậy rõ ràng mô hình của Solow đã có sự kế thừa kết
hợp cả hai mô hình tăng trưởng của hai trường phái tân cổ điển và Keynes và
phát triển lên thành một mô hình tăng trưởng mới của mình.
5.Mô hình tăng trưởng hiện đại của Samuelson
Sau một thời gian áp dụng lý thuyết của trường phái Keynes các nước có xu
hướng quá nhấn mạnh vai trò của các chính sách kinh tế, do đó lại hạn chế mức
độ tự điều chỉnh của thị trường và xuất hiện những trở ngại mới cho quá trình
tăng trưởng. Trong bối cảnh đó,một trường phái kinh tế mới ra đời vào những
năm 40 của thế ki XX,lý thuyết kinh tế mới này ủng hộ xây dựng một nền kinh
tế hỗn hợp có sự kết hợp một cách hợp lý giữa “ bàn tay hữu hình “ và “bàn tay
vô hình”. Thực chất đó là sự xích lại gần nhau của học thuyết kinh tế tân cổ điển
7
và học thuyết kinh tế của Keynes. Tuy nhiên đó không chỉ là một phép cộng
toán hoc đơn thuần mà là một sự kết hợp với những sư phát triển quan trọng.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại thống nhất với sự xác định mô hình
kinh tế tân cổ điển về các yếu tố nguồn lực là K, L, R, T và nâng R lên thành tài
nguyên thiên nhiên chứ không chỉ là đất đai như trước. Và thống nhất kiểu phân
tích của hàm Cobb – Douglas về sự tác động của các yếu tố nguồn lực
Samuelson gọi những yêu tố này là nguồn gốc của sự tăng trưởng. Tuy nhiên
ông đưa R vào K và gọi T là TEF : hiệu quả sản xuất. yếu tố lao động L không

chỉ đơn thuần là lao động tay chân thụ động nũa mà giáo dục trở nên quan trọng
với lực lượng lao động có trình độ tác động lên hiệu quả sản xuất đóng góp vào
TEF.
Lý thuyết tăng trưởng kinh tế hiện đại cũng thống nhất với quan điểm của
trường phái tân cổ điển về mối quan hệ giữa các yếu tố. Các nhà sản xuất kinh
doanh có thể lựa chọn sử dụng công nghệ nhiều vốn hoặc nhiều lao động. Và do
đó mô hình cũng thống nhất với mô hình Harrob Domar về vai trò của vốn đầu
tư đối với tăng trưởng kinh tế. Samuelson cho rằng một trong những đặc trưng
cơ bản của nền kinh tế hiện đại là “ kỹ thuật tiên tiến hiện đại dựa vào việc sử
dụng vốn lớn “. Do đó vốn là yếu tố quan trọng để phát huy tác động của yếu tố
khác, quy luật cận biên không chi phối bởi có hai loại đàu tư, đó là đầu tư vào tư
bản cố định và đầu tư vào tri thức, giáo duc, công nghệ mà đầu tư này không
chịu ảnh hưởng của quy luật lợi tức cận biên mà còn tác động tới tăng trưởng
nhiều hơn khi đầu tư. Vì vậy, trong tính toán kinh tế ngáy nay hệ số ICOR vẫn
được coi là cơ sở để xác định tỷ lệ đầu tư cần thiết phù hợp với tốc độ tăng
trưởng kinh tế.
Tóm lại,có thể nói lý thuyết kinh tế hoc hiện đại đã giải quyết các vướng mắc,
khắc phục những nhược điểm của các mô hình kinh tế trước đó, và hơn nữa nó
8
đã đánh giá một cách có hệ thống chính xác, đầy đủ và rõ ràng vai trò của các
yếu tố nguồn lực và mối quan hệ giữa chúng.
9
Tóm lại,có thể nói lý thuyết kinh tế hoc hiện đại đã giải quyết các vướng mắc,
khắc phục những nhược điểm của các mô hình kinh tế trước đó, và hơn nữa nó
đã đánh giá một cách có hệ thống chính xác, đầy đủ và rõ ràng vai trò của các
yếu tố nguồn lực và mối quan hệ giữa chúng.
10

×