Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

tái cân bằng cho chiến lược tái cân bằng phân bổ nguồn lực cho chiến lược ngoại giao của hoa kỳ ở khu vực châu á – thái bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 42 trang )


TÁI CÂN BẰNG CHO CHIẾN LƯỢC TÁI CÂN BẰNG
Phân bổ nguồn lực cho chiến lược ngoại giao
của Hoa Kỳ ở khu vực Châu Á – Thái Bình dương



Lưu Dục Huy



TLD #03
TÀI LIỆU DỊCH TLD-04

Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ
Một ấn phẩm của VEPR
ii


Tái cân bằng cho Chiến lược tái cân bằng
Phân bổ nguồn lực cho chiến lược ngoại giao
của Hoa Kỳ ở khu vực Châu Á – Thái Bình dương
1



Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ
2


Biên dịch: Hoàng Thu Hiền


3


Hiệu đính: Nguyễn Thế Phương
4





Quan điểm được trình bày trong bài viết này là của (các) tác giả và không nhất
thiết phản ánh quan điểm của dịch giả hoặc VEPR và VCES.


1
Nguồn: Committee on Foreign relations United States Senate (2014), “Re-balancing the rebalance: Resourcing
U.S.Diplomatic Strategy in the Asia-Pacific Region”, April 17,
2
Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Hoa Kỳ, Quốc hội khóa 113, Kỳ họp thứ 2, 17/02/2014.
3
Cộng tác viên Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES).
4
Nghiên cứu viên Khoa Quan hệ Quốc tế, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TPHCM.
© 2014 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES)
Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR)
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tài liệu dịch TLD-04

Phạm Nguyên Trường dịch


TÁC PHẨM DỊCH DC-21
Nguyễn Đôn Phước dịch
TÁC PHẨM DỊCH DC-20
iii

MỤC LỤC

THƯ TRÌNH ĐÍNH KÈM 1
TÓM TẮT 2
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ 6
Những khuyến nghị chiến lược 6
Các khuyến nghị hỗ trợ thực thi 7
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA TÁI CÂN BẰNG 11
PHÂN BỔ NGUỒN LỰC CHO TÁI CÂN BẰNG 14
Cam kết ngoại giao 14
Ngoại giao công chúng 16
Kỹ năng quản lý nhà nước về kinh tế 19
Quan hệ đối tác phát triển 23
Cấu trúc khu vực 25
Xây dựng năng lực đối tác 27
Xã hội dân sự và Nhân quyền 29
TRUNG QUỐC VÀ TÁI CÂN BẰNG 31
THỰC THI TI CÂN BẰNG 34









TLD-04
1

THƯ TRÌNH ĐÍNH KÈM
Thượng viện Hoa Kỳ, Ủy ban Đối ngoại,Washington, DC, 17/4/2014

GỬI CÁC BẠN ĐỒNG NGHIỆP: Báo cáo này được thực hiện bởi nhm đa số trong Uỷ ban,
với mục tiêu xem xét quá trình quyết định các yếu tố phi quân sự trong chính sách của chính
quyền Tng thống Obama nhằm theo đui Tái cân bằng chiến lược hướng về Châu Á – Thái
Bình dương.
Với tư cách là Chủ tịch của Ủy ban này, tôi tin rằng chúng ta c nghĩa vụ và trách nhiệm
đảm bảo các nguồn lực an ninh quốc gia được phân b một cách hiệu quả nhằm giải quyết
những ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ - và nhằm tăng cường thời gian, nỗ lực
cũng sự chú ý cần thiết nhằm bảo vệ an ninh, sự thịnh vượng cũng như thúc đẩy các giá trị
của chúng ta. Nhận thấy được tầm quan trọng đối với các lợi ích về an ninh, kinh tế, chính trị
và ngoại giao của Hoa Kỳ, một chính sách Tái cân bằng thành công cần phải nhấn mạnh tới
việc đảm bảo một cam kết lâu dài của Hoa Kỳ đối với khu vực Châu Á – Thái Bình dương,
và làm như vậy xuyên suốt tất cả các hoạt động của chính phủ Hoa Kỳ.
Như báo cáo này nhận thấy, mặc dù có tiến triển ở một số lĩnh vực, việc thực thi Tái cân
bằng cho đến nay là không đồng đều, xuất hiện rủi ro quá trình tái cân bằng có thể kết thúc
một cách không trọn vẹn. Báo cáo này cung cấp thêm một số hiểu biết và quan điểm về Tái
cân bằng và đưa ra những khuyến nghị về cách thức làm thế nào để phân b nguồn lực một
cách hợp lý và thực thi Tái cân bằng hiệu quả nhằm đạt được những mục tiêu chiến lược về
gia tăng sự thịnh vượng, an ninh, các giá trị dân chủ và phát triển con người ở khu vực Châu
Á – Thái Bình Dương.

Robert Menendez,
Chủ tịch,
TLD-04

2

TÓM TẮT
Vào năm 1900, cố Ngoại trưởng John Hay tuyên bố rằng ”Địa Trung Hải là đại dương của
quá khứ, Đại Tây dương là đại dương của hiện tại, và Thái Bình dương là đại dương của
tương lai”. Hơn 100 năm sau, lời tiên đoán của ông đã trở nên hiện thực hơn bao giờ hết. Các
nền kinh tế khu vực Châu Á - Thái Bình Dương là những thị trường ngày càng quan trọng đối
với hàng hoá xuất khẩu của Hoa Kỳ như các mặt hàng chế biến và tài nguyên thiên nhiên.
Đồng thời, một tỷ trọng ngày càng lớn hơn của thương mại toàn cầu đi qua các tuyến đường
biển trong khu vực, nhấn mạnh vai trò cần thiết của Hoa Kỳ trong việc tiếp tục giúp đỡ duy
trì an ninh hàng hải và thúc đẩy n định khu vực. Các hàm ý về mặt kinh tế và chiến lược là
rất rõ ràng: sự thịnh vượng và an ninh trong tương lai của chúng ta gắn bó mật thiết với sự
thịnh vượng và an ninh của khu vực Châu Á-Thái Bình dương, và chính sách cũng như nguồn
lực của Chính phủ Hoa Kỳ cũng cần phải phản ánh thực tế này.
Chính quyền Tng thống Obama thừa nhận nhu cầu này khi cam kết “tái cân bằng” mối
quan tâm và nguồn lực của Chính phủ Hoa Kỳ cho khu vực Châu Á-Thái Bình dương. Chiến
lược này có mục tiêu tăng cường sự can dự về mặt kinh tế, ngoại giao và an ninh của Hoa Kỳ
trong khu vực, cả song phương và đa phương, với một cách tiếp cận "toàn bộ các thành phần
của chính phủ" mang tính phối kết hợp cao để thực thi chính sách. Về mặt khái niệm, “Tái
cân bằng” được coi như là một trong những sáng kiến chính sách đối ngoại nhìn xa trông
rộng và tham vọng nhất của chính quyền Tng thống Obama.
Hoa Kỳ đã thúc đẩy thành công các giai đoạn ban đầu trong việc thực thi những khía
cạnh quân sự của chính sách “Tái cân bằng”. Nhưng nếu xét đến các mục tiêu chiến lược và
chính sách rộng lớn hơn, điều quan trọng là các yếu tố phi quân sự cũng cần được thực thi với
tốc độ và sức nặng tương đương. Một phương pháp tiếp cận "không cân bằng" hoặc không
tận dụng hết nguồn lực để tái cân bằng đe dọa sẽ làm suy yếu các mục tiêu của chính sách
này, và hậu quả là, giảm triển vọng về sự thịnh vượng và an ninh lớn hơn ở cả khu vực châu
Á-Thái Bình dương và của Hoa Kỳ.
Ủy ban Đối ngoại Thượng viện có nghĩa vụ và trách nhiệm đảm bảo rằng các nguồn lực
được phân b hiệu quả và phù hợp đối với tất cả các ưu tiên chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ

và để thúc đẩy thời gian, sự chú ý và sự tập trung cần thiết của Chính phủ Hoa Kỳ vào các
lĩnh vực chính sách đối ngoại và an ninh quốc gia quan trọng nhưng chưa được phân b
nguồn lực hợp lý, bao gồm, đầu tiên và quan trọng nhất, là các vấn đề Tây bán cầu và sự cần
TLD-04
3

thiết phải nhấn mạnh hơn nữa vào kỹ năng quản trị kinh tế của các nhà nước ở Tây bán cầu.
Khu vực Châu Á-Thái Bình dương là quan trọng đối với các lợi ích về an ninh, kinh tế, chính
trị và ngoại giao của Hoa Kỳ, và mục đích của báo cáo này là để cung cấp thêm những góc
nhìn sâu sắc và quan điểm chính sách về tái cân bằng trong bối cảnh rộng hơn liên quan tới
phạm vi của các nghĩa vụ và cam kết toàn cầu quan trọng với lợi ích an ninh quốc gia của
Hoa Kỳ.
Với lý do đ, báo cáo đề cập đến câu hỏi làm thế nào để kết nối mục tiêu, cách thức và
phương tiện một cách hiệu quả nhất trên tất cả các khía cạnh phi quân sự của tái cân bằng.
Bản báo cáo đề xuất cách thức mà chính quyền và Quốc hội có thể giúp chỉ ra những nhận
thức (một số đúng đắn, mốt số thì không được như vậy) về sự chậm chạp trong việc triển khai
các yếu tố về ngoại giao, kinh tế và xã hội dân sự của Tái cân bằng. Trong khi đ, do thẩm
quyền của Ủy ban tại Thượng viện, báo cáo này không đi vào chi tiết về việc phát triển hơn
nữa các liên minh quân sự của chúng ta trong khu vực, báo cáo c vũ những tiến bộ trong
việc nâng cấp quan hệ liên minh của chúng ta với Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Thái Lan,
và Philippines. Báo cáo cũng nhận ra rằng chính sách tái cân bằng nhất thiết phải bắt đầu với
các liên minh và sự đi mới cũng như cải tiến các liên minh đ nhằm đáp ứng những thách
thức của thế kỷ XXI phải là hòn đá tảng trong chính sách của Hoa Kỳ ở khu vực.
Các phương pháp thực thi chính sách cũng quan trọng như chính kết quả của chính sách
đ: làm thế nào mà một chính sách đang được theo đui và nhận thức có thể ảnh hưởng đến
thành công của chính nó nhiều như các cơ chế thực tế của việc thực thi chính chính sách ấy.
Để thành công, tái cân bằng đầu tiên phải chỉ ra được các nguồn lực được phân b như thế
nào bên trong nội bộ Chính phủ Hoa Kỳ, và sau đ là việc chúng được triển khai tới khu vực
ra sao. Đã c một số tiến bộ. Quốc hội đã dự đoán được sự cần thiết của chính sách tái cân
bằng khi chính Quốc hội đã khuyến khích tạo ra một chức vụ hoàn toàn mới: Đại sứ Hoa Kỳ

tại ASEAN; Bộ Ngoại giao đã sáng tạo ra các chương trình ngoại giao và trợ giúp mới trong
khu vực, ví dụ như Sáng kiến Hạ lưu sông Mekong (LMI) và Sáng kiến Cam kết chiến lược
khu vực Châu Á-Thái Bình dương; Chính phủ Hoa Kỳ tham gia Hội nghị Thượng đỉnh Đông
 vào năm 2011; và Đại diện Thương mại Hoa Kỳ đang theo đui việc mở rộng và hoàn
thiện Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình dương - TPP, cũng như một số hiệp ước đầu tư song
phương. Hơn nữa, các cơ quan xúc tiến thương mại như Ngân hàng Xuất nhập khẩu, Tng
công ty Đầu tư tư nhân nước ngoài, Cơ quan Thương mại và Phát triển Hoa Kỳ đã gia tăng
cam kết tài chính của họ với khu vực.
TLD-04
4

Tuy nhiên, Bộ Ngoại giao đã không gia tăng một cách đáng kể các nguồn lực dành cho
cam kết ngoại giao cho Cục các vấn đề Đông  và Thái Bình dương. Mức biên chế trong Bộ
Thương mại đã không tăng đáng kể, cản trở doanh nghiệp Hoa Kỳ trong việc tận dụng lợi thế
của các triển vọng thương mại mới. Hỗ trợ phát triển của Hoa Kỳ đối với khu vực gia tăng
một cách khiêm tốn trong đề xuất ngân sách năm tài khoá 2015, nhưng vẫn còn thấp hơn các
mức đề xuất của vài năm trước đây, và cách tiếp cận hỗ trợ phát triển của Hoa Kỳ cần được
cập nhật và nâng cấp.
Ngược lại, Bộ Quốc phòng đã tiến lên một cách nhanh chóng với nguồn lực dồi dào.
Những kế hoạch dứt khoát với mục đích di chuyển các tài sản mới tới khu vực bao gồm 2,500
thủy quân lục chiến tới Darwin, Australia, điều động thêm một tiểu đoàn lục quân tới Hàn
Quốc, 2 tàu khu trục có chức năng phòng thủ tên lửa đến Nhật Bản, lên đến 4 tàu chiến đấu
gần bờ (Littoral Combat Ships) tại Singapore, cũng như khả năng tăng cường luân chuyển
quân đội ở Philippines và tăng cường hợp tác quốc phòng với Việt Nam, Malaysia và những
nước khác. Bộ Quốc phòng đã hành động nhanh hơn và mạch lạc hơn các đối tác dân sự nhỏ
hơn khác trong việc tái cân bằng các nguồn lực.
Trong khi hầu hết các chính phủ đã bày tỏ ủng hộ một sự can dự nhiều hơn của Hoa Kỳ
ở khu vực, chiến lược tái cân bằng hiện nay chủ yếu vẫn được xem là một chiến lược quân sự
đơn thuần, một nhận thức xuất phát từ việc các thành tố mang tính dân sự của tái cân bằng
không được đầu tư đúng mức. Kết quả là, một số nước trong khu vực nhìn nhận tái cân bằng

như một nỗ lực để kiềm chế một Trung Quốc đang trỗi dậy, vốn có thể giới hạn khả năng sẵn
sàng của họ trong việc làm sâu sắc thêm sự hợp tác và phối hợp với Hoa Kỳ. Trong khi Hoa
Kỳ xem xét xem làm thế nào để định hình và dự đoán một cách đầy đủ hơn các yếu tố ngoại
giao công chúng của tái cân bằng, cần phải hiểu rõ rằng chính sách này nhằm mục tiêu mở
rộng sự can dự và các cam kết của Hoa Kỳ, chứ không nhằm kiềm chế Trung Quốc; Tái cân
bằng tìm cách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an ninh khu vực, và cải thiện phúc lợi
con người vì lợi ích của tất cả các quốc gia, và không gây thiệt hại cho một quốc gia cụ thể
nào.
Quốc hội cũng phải có nhiệm vụ ph biến với các cử tri trong nước và các đối tác trên
toàn cầu những lợi ích mà họ có thể có khi Hoa Kỳ can dự nhiều hơn vào khu vực Châu Á-
Thái Bình dương. Đối với trong nước, cần phải chỉ rõ rằng chi tiêu an ninh quốc gia không
giới hạn cho quân đội nhưng được mở rộng ra các khoản kinh phí dành cho ngoại giao và các
TLD-04
5

nỗ lực trợ giúp phát triển, điều này có thể giúp ngăn chặn các tình huống mà Hoa Kỳ có thể
phải sử dụng tới lực lượng vũ trang. Ngoài ra, để có thể cung cấp đầy đủ nguồn lực và thực
hiện thành công Tái cân bằng sẽ đòi hỏi Quốc hội phải có những bước đi lập pháp uỷ quyền
và các bước chuẩn y ngân sách mới. Như các sự kiện gần đây ở châu Âu và Trung Đông đã
chứng minh, bất kỳ nỗ lực nào của chính quyền nhằm di chuyển các nguồn lực và tiền bạc từ
những vùng khác đến khu vực Châu Á-Thái Bình Dương đều có giới hạn. Hơn nữa, do Hoa
Kỳ cũng c lợi ích sống còn ở các khu vực khác - bao gồm cả Tây bán cầu, một khu vực mà
thông thường nguồn lực cho Bộ Ngoại giao, USAID, và tng thể các nỗ lực của Chính phủ
Hoa Kỳ được phân b khá ít - một chính sách tái cân bằng như vây cần phải được thực thi
một cách cẩn thận và đặt trong bối cảnh của một chiến lược toàn cầu rộng lớn hơn.
Với môi trường ngân sách bị hạn chế và những lời kêu gọi không nhượng bộ từ một số
thành viên trong Quốc hội nhằm cắt giảm một cách cực kỳ mạnh mẽ tất cả các khoản chi tiêu
của chính phủ ở nước ngoài, việc tìm kiếm nguồn tiền mới cho Tái cân bằng sẽ là một thách
thức. Nhưng để tái cân bằng có thể thành công, Quốc hội phải tìm ra cách để huy động ngân
sách.

Hiện tại, chính quyền có thể nâng cao hiệu quả và tính bền vững của chính sách tái cân
bằng bằng cách gia tăng sự tham gia của khu vực dân sự, tăng cường các quan hệ đối tác
ngoại giao, và trao quyền cho các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Chúng tôi nhận ra có những rào cản
quan liêu mang tính thể chế, rào cản chính trị và văn ha trong việc thực hiện Tái cân bằng
của Hoa Kỳ. Hơn nữa, chúng ta biết rằng việc tăng cường quan hệ với một số quốc gia sẽ bị
cản trở bởi hồ sơ về nhân quyền và quản trị của họ, cũng như những thách thức khác. Tuy
nhiên, thất bại trong việc triển khai đầy đủ các nguồn lực dân sự Hoa Kỳ tại trung tâm mới
của kinh tế toàn cầu sẽ làm suy yếu các mục tiêu đã nêu trong chính sách tái cân bằng và làm
suy yếu các lợi ích lớn hơn của Hoa Kỳ.
TLD-04
6

MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ
Các khuyến nghị dưới đây đặt ra một số bước đi mà chính quyền và Quốc hội có thể thực
hiện nhằm phân b tài nguyên và thực hiện Tái cân bằng một cách phù hợp để đáp
ứng mục tiêu chiến lược tăng cường sự thịnh vượng, an ninh, các giá trị dân chủ và
phát triển con người tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương.
Những khuyến nghị chiến lược
Tái cân bằng phản ánh sự cần thiết trong việc tiếp cận khu vực Châu Á-Thái Bình Dương
thông qua một phương pháp mang tính phối hợp cao, và toàn diện từ phía chính phủ. Nhưng
phương pháp đ đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ hóa và liên kết tốt hơn nữa các yếu tố quân
sự-an ninh với các yếu tố ngoại giao, kinh tế và xã hội dân sự, để tất cả hoạt động một cách
song hành và tương hỗ lẫn nhau. Ví dụ, có một logic kết nối các hoạt động quân sự và an
ninh dựa trên nền tảng liên minh và đơn phương với cách tiếp cận dựa trên cấu trúc khu vực,
các lợi ích hàng hải chung, xây dựng năng lực của các đối tác, ủng hộ các quy tắc và tiêu
chuẩn quốc tế, làm sâu sắc thêm các liên minh, và ngoại giao công chúng của Chính phủ Hoa
Kỳ. Tuy nhiên, logic đ chỉ hoạt động nếu các nguồn lực được phân b đầy đủ trên tất cả các
khuôn kh hoạt động của Chính phủ và được triển khai một cách mạch lạc, trình tự, và cân
bằng. Để đạt được các mục tiêu của tái cân bằng, chính quyền cần phải:
Phát triển một phương pháp tiếp cận mang phối kết hợp cao, và dài hạn cho các yếu tố

không liên quan đến Bộ quốc phòng trong chính sách tái cân bằng, với các mục tiêu và thời
hạn cho Tái cân bằng được thiết lập từ các cơ quan dân sự - bao gôm cả Nhà Trắng và Cục
quản lý hành chính và giám sát ngân sách Hoa Kỳ - và được kết nối với chu kỳ uỷ quyền và
chuẩn y ngân sách hàng năm của Quốc hội. Quá trình làm chính sách tiêu chuẩn vẫn chưa
phù hợp trong việc chuyển dịch các nguồn lực mà Tái cân bằng yêu cầu.
Tuyên truyền tốt hơn các mục tiêu và phương pháp của Tái cân bằng tới công chúng Hoa
Kỳ cũng như các đồng minh và đối tác của chúng ta. Khi mà việc duy trì một tầm nhìn tích
cực là rất quan trọng, việc đưa ra các tuyên bố chính sách mạnh mẽ nhưng lại không được hỗ
trợ bởi các kết quả chính sách rõ ràng sẽ tạo ra một khoảng cách lớn giữa kỳ vọng và thực tế.
Xét đến rủi ro của việc hành động không đi đôi với lời nói, những điểm nhấn của tái cân bằng
nên đi theo xu hướng Hoa Kỳ hứa ít đi nhưng làm nhiều hơn.
TLD-04
7

Hiểu đúng và chính xác khu vực, thông qua một chính sách tái cân bằng hiệu quả, là rất
cần thiết để hiểu đúng chính sách về Trung Quốc. Và với việc Trung Quốc hiện nay là nền
kinh tế lớn thứ hai thế giới và sở hữu một sức mạnh quân sự hùng hậu, hiểu đúng chính sách
về Trung Quốc là rất cần thiết để chọn đúng chính sách cho khu vực và toàn cầu. Mặc dù Tái
cân bằng không phải “chỉ” nhằm vào Trung Quốc, nhưng chắc chắn “cũng” sẽ hướng tới
Trung Quốc, bao gồm cả những câu hỏi về hướng đi tương lai của Trung Quốc. Trung Quốc
sẽ đóng một vai trò nhất định trong quá trình phát triển các chế độ ở khu vực. Nhưng tái cân
bằng nên tìm cách định hình và khuyến khích sự phát triển của một Trung Quốc tích cực và
năng suất, vốn được hy vọng sẽ hoàn toàn ủng hộ các chuẩn tắc và thể chế mang tính hợp tác
và xây dựng cao và tuân theo các luật lệ chung và luật pháp quốc tế trong khu vực. Để đạt
được những mục tiêu đ, chính quyền nên:
Làm rõ hơn mối liên kết cần thiết giữa chính sách song phương với Trung Quốc và bản
thân Tái cân bằng cũng như điều phối tốt hơn chính sách bên trong nội bộ Chính phủ
Hoa Kỳ và với các đối tác khác trong khu vực.
Làm sâu sắc thêm và làm mới lại các liên minh, xây dựng các quan hệ hợp tác mới - đặc
biệt là với Đông Nam  – phối hợp các liên minh và các đối tác vào một mạng lưới tiếp cận

nơi mà Hoa Kỳ đng vai trò xúc tác quan trọng. Cốt lõi của chính sách và chiến lược Hoa Kỳ
trong khu vực nằm ở các liên minh và đối tác của chúng ta – đng vai trò chính yếu trong sự
thành công của tái cân bằng và chính sách của Hoa Kỳ ở khu vực và xa hơn.
Các khuyến nghị hỗ trợ thực thi
Cam kết ngoại giao: Để tăng cường các mối quan hệ song phương và theo đui các lợi
ích của Hoa Kỳ tại khu vực Châu Á – Thái Bình dương một cách tốt hơn, Chính quyền Hoa
Kỳ nên:
- Tăng cường nhân sự và nguồn lực cho Cục các vấn đề Đông  và Thái Bình dương
(EAP) cả ở trụ sở chính tại Bộ Ngoại giao và ở nước ngoài, cũng như các cơ quan dân sự
khác hoạt động trong khu vực
- Mở rộng và cải thiện sự phối hợp và chia sẻ thông tin về sự phát triển và thực thi chính
sách Châu Á – Thái Bình dương giữa các cơ quan.
- Gửi các chuyên gia cấp bộ tới khu vực một cách thường xuyên hơn.
TLD-04
8

Ngoại giao công chúng: để tăng cường tốt hơn nữa các hoạt động kinh doanh, văn ha và
liên kết về giáo dục giữa công dân Hoa Kỳ và công dân của các nước Châu Á – Thái Bình
dương khác, Bộ ngoại giao nên:
- Gia tăng gấp đôi nỗ lực nhằm thu hút và tạo điều kiện để nhiều sinh viên Hoa Kỳ đến
học tập ở Đông Bắc và Đông Nam  hơn nữa.
- Đảm bảo xử lý nhanh hơn và chấp nhận nhiều hơn đối với quá trình cấp các loại visa
không định cư cho du lịch, hội thảo và các chương trình trao đi.
- Gia tăng nguồn lực cho ngoại giao công chúng và phối hợp tốt hơn các cố gắng ngoại
giao công chúng của Cục các vấn đề Đông  – Thái Bình dương với các cục khác của Bộ
ngoại giao.
Kỹ năng quản lý nhà nước về kinh tế: Để tăng cường quan hệ hợp tác kinh tế song
phương, tạo nhiều cơ hội kinh doanh cho Hoa Kỳ, thực hiện đúng và giám sát các hiệp ước
thương mại đa phương phức tạp, Chính quyền Hoa Kỳ nên:
- Tăng cường khả năng tư duy chiến lược trong việc thiết lập chính sách kinh tế khu vực

bằng cách lập ra một văn phòng mới ở Châu Á – Thái Bình dương của Cục Kinh tế và các
vấn đề Kinh doanh và t chức lại các cục chức năng khác thuộc Bộ Ngoại giao để tạo ra các
văn phòng riêng biệt ở Châu Á – Thái Bình dương nếu có thể.
- Tuyển đủ nhân viên vào các vị trí phụ trách ngoại thương (Foreign Commercial Staff –
FCS) ở Châu  và tăng cường số lượng nhân viên ở những quốc gia có tiềm năng tăng trưởng
tốt nhất, bao gồm Việt Nam, Indonesia, Hàn Quốc và Trung Quốc. Thêm vào đ, cải thiện
khả năng phối kết hợp của ngành ngoại giao thương mại bằng cách tích hợp các nhân viên
FCS vào Bộ Ngoại giao.
- Tiếp tục theo đui một cách quyết liệt các thoả thuận thương mại song phương, bao
gồm Hiệp định đầu tư song phương (BIT) với Trung Quốc, cùng với những thỏa thuận
thương mại lớn hơn như Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình dương (TPP). Thêm vào đ là
khuyến khích Philippines, Indonesia và Đài Loan tham gia vào TPP hoặc các thảo luận
thương mại song phương và tăng cường vị trí nhân sự cũng như các chuyến viếng thăm của
Đại diện thương mại Hoa Kỳ (USTR) để đáp ứng các yêu cầu ngày càng mở rộng của cơ
quan này.
TLD-04
9

Các đối tác phát triển: để cải thiện kết quả phát triển con người ở khu vực Châu Á –
Thái Bình Dương và đặt cơ sở cho sự phát triển kinh tế lớn hơn, Bộ ngoại giao và USAID
nên:
- Gia tăng mức độ tài trợ phát triển trong khu vực và tìm kiếm các cơ hội hợp tác nhiều
hơn giữa các cơ quan hỗ trợ xuất khẩu và các cơ quan phát triển của Hoa Kỳ.
- Thể chế hóa những thành công của Sáng kiến hạ lưu sông Mekong (LMI) và phát triển
thêm các chương trình hỗ trợ sự kết nối của ASEAN cũng như các chương trình có khả năng
kết hợp hoạt động giữa nhân viên của các cơ quan trong nội bộ Chính phủ Hoa Kỳ và các đại
sứ quán trong khu vực.
- Tăng quy mô hợp tác công-tư và tìm kiếm các cơ hội hợp tác tài trợ với các đồng minh
Châu Âu và các đồng minh, đối tác khác, cũng như Trung Quốc.
Cấu trúc khu vực: Để mở rộng và chuyển đi vai trò của Hoa Kỳ trong các thể chế đa

phương ở Châu Á – Thái Bình dương, vốn sẽ đng một vai trò thiết yếu trong việc phát triển
các tiêu chuẩn và quy tắc về kinh tế và an ninh trong khu vực, chính quyền nên:
- Ủng hộ nhiều hơn về mặt ngoại giao và cống hiến nhiều nguồn lực hơn cho sự phát
triển của các thể chế khu vực để giải quyết các vấn đề an ninh hàng hải.
- Tận dụng chuyên môn và khả năng của Hoa Kỳ trong hỗ trợ nhân đạo, giảm nhẹ thiên
tai và tìm kiếm cứu nạn để tạo dựng vai trò lãnh đạo đối với những vấn đề này ở các thể chế
đa phương khu vực.
- Gia tăng mức độ và nhịp độ cam kết với các t chức đa phương trong khu vực.
Xây dựng năng lực đối tác: Để tăng cường mối quan hệ giữa Hoa Kỳ với các đối tác
song phương và thay đi cách tiếp cận đa phương của chúng ta tới khu vực, chính quyền Hoa
Kỳ nên:
- B sung mô hình quan hệ song phương “trục - nan hoa” như hiện nay trở thành một
cách tiếp cận mang tính mạng lưới-trung tâm nhiều hơn, nơi mà Hoa Kỳ giúp tạo điều kiện
xây dựng một mạng lưới các mối quan hệ trong vùng.
- Gia tăng khả năng nhận thức liên quan tới lĩnh vực hàng hải của các đồng minh và đối
tác bằng cách tăng cường hỗ trợ song phương về hàng hải và tạo điều kiện hợp tác khu vực về
các vấn đề an ninh biển.
TLD-04
10

- Mở rộng hợp tác với những đồng minh có năng lực cũng như các thể chế khu vực và
gia tăng trợ giúp về pháp quyền hướng đến cả các vấn đề của từng quốc gia lẫn các vấn đề đa
phương.
Xã hội dân sự và Nhân quyền: Để cải thiện tình hình nhân quyền ở khu vực Châu Á –
Thái Bình dương, vốn là một giá trị căn bản ở Hoa Kỳ, và có thể cải thiện khả năng phát triển
kinh tế, chính quyền Hoa Kỳ nên:
- Tăng cường cam kết với các quốc gia đang tìm kiếm cơ hội cải thiện hồ sơ nhân quyền
của họ, khuyến khích những cải thiện cụ thể với lời hứa tăng cường mối quan hệ kinh tế.
- Mở rộng các chương trình hỗ trợ nhằm tăng cường pháp quyền, an ninh hàng hải và
ngoại giao công chúng, vốn có thể b sung vào mục tiêu thúc đẩy nhân quyền trong khu vực.

- Tăng cường ủng hộ cho các t chức như Quỹ châu Á (Asia Foundation) và Trung tâm
Đông – Tây (East-West Center) nhằm giúp xây dựng khả năng nhân quyền ở khu vực và phát
triển một nhóm nhân sự của chính quyền cũng như các công dân Hoa Kỳ với chuyên môn,
khả năng và tham vọng để nâng cao các giá trị của Hoa Kỳ và lợi ích ở khu vực.
Đối với Quốc hội: Để tăng cường vai trò của nhánh lập pháp trong Tái cân bằng và gia
tăng tính hiệu quả cũng như lợi ích của chính sách, Quốc hội Hoa Kỳ nên:
- Gia tăng mức độ tài trợ và xem xét các phương pháp ủy quyền mới cho các Bộ ngành
và cơ quan liên quan trong việc thực thi Tái cân bằng.
- Gia tăng số lượng và tần suất thăm viếng của các phái đoàn Quốc hội đến Châu Á –
Thái Bình dương để nhấn mạnh tầm quan trọng của khu vực và xây dựng quan hệ với các đối
tác. Tương tự, nên có nhiều hơn các thành viên của Quốc tội tiến hành gặp gỡ các quan chức
khu vực khi họ tới thăm Washington, D.C.
- Dành cho Hoa Kỳ một ghế trong bàn đàm phán ở diễn đàn quốc tế quan trọng về các
vấn đề hàng hải bằng cách đưa lời khuyên và đồng ý phê chuẩn Công ước Liên Hợp Quốc về
Luật Biển (UNCLOS). Thêm vào đ là phê duyệt các cải cách của IMF nhằm gia tăng tỉ lệ
tham gia của các nền kinh tế mới ni trong khu vực vào t chức này, kéo họ sâu hơn vào hệ
thống quốc tế đang tồn tại.


TLD-04
11

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA TÁI CÂN BẰNG
Sự trỗi dậy của khu vực Châu Á – Thái Bình dương là sự chuyển biến địa – chính trị đáng kể
duy nhất của thế kỷ XXI. Trong 20 năm qua, đng gp của Trung Quốc và Ấn Độ đã tăng
gấp 3 lần trong tng kinh tế thế giới. Đến năm 2025, khu vực Châu Á – Thái Bình dương sẽ
chiếm gần một nửa tng sản lượng kinh tế thế giới. Năm 2011, tng xuất khẩu của Hoa Kỳ
vào khu vực Châu Á- Thái Bình dương là 895 tỷ USD và chiếm 60% tng giá trị xuất khẩu
của Hoa Kỳ. Giá trị xuất khẩu đ đã tạo ra việc làm n định trong những ngành công nghiệp
và dịch vụ quan trọng của Hoa Kỳ. Sự năng động về kinh tế trong khu vực đi kèm với những

thách thức và kh khăn của quát trình biến đi môi trường an ninh, bao gồm nguy cơ về các
chương trình vũ khí hạt nhân của Triều Tiên, các tranh chấp về an ninh hàng hải và chủ
quyền biển vẫn đang diễn ra cũng như các thách thức an ninh phi truyền thống như tội phạm
xuyên quốc gia và những hệ quả của biến đi khí hậu.
Được xây dựng dựa trên những cố gắng ban đầu từ năm 2009 nhằm tập trung thêm sự
chú ý vào khu vực Châu Á – Thái Bình dương, chính quyền của Tng thống Obama vào mùa
thu năm 2011 và đầu năm 2012 đã chính thức thông báo rằng họ sẽ gia tăng vai trò của Hoa
Kỳ ở khu vực Châu Á – Thái Bình dương. Để làm được điều này, chính quyền Obama đã tìm
kiếm giải pháp nhằm tăng vai trò ưu tiên của khu vực trong kế hoạch quân sự cũng như trong
chính sách đối ngoại và chính sách kinh tế của Hoa Kỳ. Cùng với việc di chuyển lính Hoa Kỳ
ra khỏi Iraq và kế hoạch rút lĩnh Hoa Kỳ ra khỏi Afghanistan, các quan chức trong chính
quyền nói rằng họ dự định “Tái cân bằng” sự chú ý và nguồn lực của Hoa Kỳ trong việc lập
kế hoạch cho các thách thức và cơ hội trong tương lai, đặc biệt là ở khu vực châu Á – Thái
Bình dương, phản ánh nhận thức về tầm quan trọng đang lớn dần của khu vực đối với những
lợi ích của Hoa Kỳ.
Trong bài báo đăng trên tạp chí Foreign Policy tháng 10 năm 2011 với tiêu đề “Thế kỷ
Thái Bình dương của Hoa Kỳ”, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton đã viết rằng chính
quyền Obama sẽ tiếp tục “cử đi hầu như đầy đủ các tài sản ngoại giao của chúng ta…tới tất
cả các quốc gia và ngóc ngách của khu vực Châu Á – Thái Bình dương”. Hơn nữa, Bản điều
chỉnh Ngân sách Quốc Hội năm tài khoá 2013 của Bộ Ngoại giao đối với các hoạt động ở
nước ngoài có nhắc đến chính sách tái cân bằng của chính quyền Obama như là một động cơ
chính yếu trong các mục tiêu ở khu vực:
TLD-04
12

Để đẩy mạnh chính sách xoay trục của chính quyền Obama về Đông  và Thái Bình
Dương, Chính phủ Hoa Kỳ sẽ duy trì sự hiện diện trong khu vực như là một đối tác ưu việt
trong các lĩnh vực thương mại và đầu tư, bảo vệ an ninh cũng như là ví dụ cho dân chủ và
công tác quản trị tốt. Chiến lược mới dành cho khu vực Châu Á – Thái Bình Dương sẽ định
hướng hoạt động của các Cục, bao gồm tiếp thêm sức mạnh cho mối quan hệ vốn đã mạnh

mẽ với các đồng minh hiệp ước, xây dựng các quan hệ hợp tác mới với các nước mới ni
trong khu vực, gắn kết với các thể chế đa phương, mở rộng thương mại và đầu tư, thiết lập
một sự hiện diện quân sự trên diện rộng cũng như tăng cường dân chủ, nhân quyền và pháp
quyền.
Trong khi quân đội Hoa Kỳ đã tiến hành một số động thái triển khai nguồn lực quan
trọng và gây chú ý ở khu vực Châu Á – Thái Bình dương, các cơ quan dân sự Hoa Kỳ lại
không thể hiện một sự dịch chuyển rõ ràng những ưu tiên của mình. Mặc dù hầu hết các nhà
hoạch định chính sách và phân tích trong khu vực (không kể Trung Quốc) đều hoan nghênh
Tái cân bằng, một chỉ trích thường được nghe về sáng kiến này là nó quá tập trung vào các
vấn đề quân sự và cần phải được đa dạng ha. Các lãnh đạo quân sự Hoa Kỳ cũng đã công
nhận vai trò quan trọng của các khía cạnh phi quốc phòng của Tái cân bằng. Giữa năm 2012,
cựu Bộ trưởng Quốc phòng Leon Panetta đã nói về “vai trò chính yếu mà ngoại giao, thương
mại và phát triển sẽ được thể hiện trong cam kết của chúng ta đối với khu vực [Châu Á –
Thái Bình dương]”
1
và Bộ trưởng Quốc phòng hiện tại Chuck Hagel, trong một bình luận
viết chung với Bộ trưởng Thương mại Penny Pritzker, đã viết về vấn đề làm thế nào mà “các
ràng buộc kinh tế và các mối liên hệ giữa công dân với công dân của Hoa Kỳ với các quốc
gia khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, Thái Lan và Philippines sẽ tạo ra sự n định
cần thiết để các quốc gia khu vực Thái Bình Dương có thể tập trung vào việc mang đến một
tương lai dung hợp, hòa bình và thịnh vượng.”
2

Một chính sách tái cân bằng thành công cần phải nhấn mạnh thông điệp chiến lược rằng
n đại diện cho sự cam kết lâu dài của Hoa Kỳ đối với khu vực, đảm bảo với các đối tác rằng
chúng ta sẽ ủng hộ và đảm bảo cho chính sách đ được duy trì trong thời gian dài. Điều này
sẽ đòi hỏi Chính phủ Hoa Kỳ phải hoạt động trên tất cả các mặt trận, chứ không chỉ đơn


1

U.S. Department of Defense, “Secretary of Defense Speech: Shangri-La Security Dialogue,” June 02 2012,

2
The Wall Street Journal, “America is Committed to Asia,” February 17, 2014,
.
TLD-04
13

thuần là công việc của Bộ Quốc phòng. Các lực lượng quân sự có thể được điều chỉnh vào
hay ra khỏi khu vực trong một thời gian tương đối ngắn, tuy nhiên những khoản đầu tư phát
triển, thương mại và ngoại giao chủ chốt của Hoa Kỳ trong dài hạn là khó có thể thay thế
được, thể hiện một cam kết mạnh mẽ, toàn diện hơn đối với khu vực. Nhưng với quá trình
thực thi cho đến nay của Chính phủ Hoa Kỳ là không đồng đều, tái cân bằng có thể kết thúc
một cách không trọn vẹn.


















TLD-04
14

PHÂN BỔ NGUỒN LỰC CHO TÁI CÂN BẰNG
Thực thi hiệu quả tái cân bằng đòi hỏi phải phân b các nguồn lực một cách đồng thời với
nhiệm vụ được đề ra. Khi so sánh với các Cục khác trong khu vực, Cục EAP thuộc Bộ Ngoại
giao được phân b ngân sách dưới mức phù hợp cho một khu vực sở hữu tầm vóc lớn và vị trí
quan trọng đối với những lợi ích kinh tế và chiến lược của Hoa Kỳ hiện tại và trong tương lai.
Nếu Hoa Kỳ muốn gia tăng cam kết và ảnh hưởng của mình tại khu vực Châu Á – Thái
Bình dương, thì việc cần làm là phải cải thiện các cố gắng trên một loạt các lĩnh vực, bao
gồm cam kết ngoại giao, ngoại giao công chúng, kỹ năng quản trị nhà nước về kinh tế, phát
triển quan hệ đối tác, xây dựng khả năng của các đối tác, cấu trúc khu vực, xã hội dân sự và
nhân quyền.
Cam kết ngoại giao
Những đồng đô la được sử dụng chắc chắn không phải cách duy nhất để đánh giá tính
hiệu quả của ngoại giao trong thế kỷ XXI, nhưng chính ngân sách chứ không phải chỉ là
những lời nói hoa Hoa Kỳ mới là một chỉ dẫn hàng đầu cho thấy cam kết thực sự của một
chính phủ. Từ điểm thuận lợi này, mức độ chuẩn chi ngân sách mà chính quyền yêu cầu trong
năm tài khoá 2015 cho Văn phòng các vấn đề Đông  và Thái Bình dương (EAP) không
phản ánh tầm quan trọng trong thẩm quyền kinh tế và chiến lược của cơ quan này hay chính
sách tái cân bằng mà Chính phủ Hoa Kỳ mong muốn thực thi tại khu vực. Ngân sách của năm
tài khoá 2015 phân b cho các cam kết ngoại giao của EAP đứng áp chót trong số 6 Cục khu
vực, hoặc 8% tng số ngân sách, mặc dù 35 quốc gia trong khu vực chiếm gần 1/3 tng dân
số thế giới lẫn GDP. Hơn nữa, nguồn ngân sách cho EAP đã giảm gần 12% kể từ đỉnh điểm
năm tài khoá 2011.
Một vài cơ quan dân sự Hoa Kỳ vừa gia tăng số nhân viên được triển khai ở nước ngoài
tại khu vực Đông . Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ USAID vừa tăng nhân sự ở khu vực
Đông  từ 84 người vào tháng 9 năm 2008 lên 183 vào tháng 6 năm 2013. Trong cùng thời
gian này, Bộ Ngân khố đã tăng nhân sự từ 3 lên 10 người, và Bộ Thương mại từ 78 lên 91

người, mặc dù Bộ Nông nghiệp giảm từ 59 xuống 55 người. Tỷ lệ nhân viên được triển khai
ở Đông  của các cơ quan này ở thay đi với biên độ lớn. 183 nhân viên ở Đông  của
USAID chỉ chiếm 11% tng số nhân viên ở nước ngoài của USAID và 10 nhân viên của Bộ
Ngân khố chỉ chiếm 17% tng số nhân viên ở nước ngoài của Bộ này. Bộ Công thương và Bộ
TLD-04
15

Nông nghiệp lần lượt triển khai 41% và 31% tng số nhân viên ở nước ngoài tại khu vực
Đông .
Bảng 1: Dữ liệu dân số và kinh tế vùng và Phân bổ nguồn lực vùng của Bộ Ngoại giao
(% tổng thế giới)
Xếp
hạng
Dân số vùng#
GDP vùng*#
Thương mại 2
chiều với Hoa
Kỳ*#
Ngân sách yêu
cầu Bộ Ngoại
giao năm tài
khóa 2015*
Ngân sách yêu cầu
Hỗ trợ của Hoa
Kỳ theo vùng năm
2015*
1
Đông  và
Thái Bình
Dương

2250795287
(33%)
Châu Âu và Á
Âu
29723060
(46%)
Tây bán cầu
1545800
(39%)
Cận Đông
1555,7
(35%)
Cận Đông 6986,0
(36%)
2
Nam và trung
tâm châu Á
1726997019
(24%)
Đông  và
Thái Bình
Dương
19792200
(31%)
Đông  và
Thái Bình
Dương
1226000
(31%)
Nam và trung

tâm châu Á
1213
(27%)
Châu Phi
6934,8
(36%)
3
Châu Âu và Á
Âu
1348804078
(19%)
Tây bán cầu
7729000
(12%)
Châu Âu và Á
Âu
813800
(21%)
Châu Âu và Á
Âu
601,2
(14%)
Nam và trung tâm
châu Á
2959,2
(15%)
4
Châu Phi
925764585
(13%)

Cận Đông
3317660
(5%)
Cận Đông
215000
(5%)
Châu Phi
379,9
(9%)
Tây bán cầu
1326,7
(7%)
5
Tây bán cầu
633071719
(8,7%)
Nam và trung
tâm châu Á
2580791
(4%)
Châu Phi
91650
(2%)
Đông  và Thái
Bình Dương
342,6
(8%)
Đông  và Thái
Bình Dương
810,7

(4%)
6
Cận Đông
396755169
(5%)
Châu Phi
1379665
(2%)
Nam và trung
tâm châu Á
74329
(2%)
Tây bán cầu
332
(8%)
Châu Âu và Á Âu
492,3
(3%)
Chú thích: *: Triệu đô la Hoa Kỳ; #: Số liệu năm 2013
Nguồn: CIA World Factbook, Đại diện Thương mại Hoa Kỳ, WB, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ
Xét đến phạm vi lợi ích của Hoa Kỳ và sự đa dạng của các cơ quan Chính phủ hiện diện
tại khu vực Châu Á – Thái Bình dương, giải quyết thoả đáng các vấn đề phức tạp trong khu
vực sẽ đòi hỏi các nỗ lực mang tính kết nối của Chính phủ và các phương thức chia sẻ thông
tin cần phải được thể chế hoá. Các cơ quan đại diện của Hoa Kỳ tại Châu  dường như đang
áp dụng cách tiếp cận như trên đối với các vấn đề thương mại bằng cách lập ra các Nhóm đặc
trách Phối hợp liên cơ quan về Thương mại (Interagency Commercial Task Forces), và xuất
hiện tiềm năng lớn trong việc áp dụng cách tiếp cận này đối với các mục tiêu ở tầm khu vực.
TLD-04
16


Sẽ cần có thêm những chuyến thăm cấp cao tới khu vực. Đại diện thương mại Hoa Kỳ
đến Đông  chỉ 8 lần trong suốt nhiệm kỳ đầu của chính quyền Obama, trong khi con số này
lần lượt là 23 và 18 trong 2 nhiệm kỳ của Tng thống Bush. Và trong khi Tng thống Obama
và những quan chức chủ chốt trong nội các đến thăm khu vực trong thời gian vừa qua với tần
suất giống như những chính quyền trước (ngoại trừ cựu Bộ trưởng Ngoại giao Clinton, người
đến khu vực thường xuyên hơn các vị tiền nhiệm), những cam kết cao cấp hơn, đặc biệt là với
các thể chế khu vực, sẽ gửi đi một tín hiệu quan trọng.
Bảng 2: Nhân viên tại nước ngoài của Cục các vấn đề Đông Á – Thái Bình Dương
Cơ quan Hoa Kỳ
9/2008
6/2013
%
USAID
84
183
11%
Kho bạc
2
9
16%
Thương mại
70
79
36%
Nông nghiệp
56
51
39%
Năng lượng
4

6
26%
Nguồn: Uỷ ban Nghiên cứu của Quốc hội
Ngoại giao công chúng
Ngoại giao công chúng tận dụng những tài sản vĩ đại nhất của Hoa Kỳ: người dân và các
giá trị của chúng ta. Khi công dân của các quốc gia khác phát triển các mối liên kết về học
thuật, tôn giáo, xã hội dân sự và kinh doanh với người Hoa Kỳ từ tất cả các khía cạnh của
cuộc sống, họ biết chúng ta là ai, chúng ta đại diện cho điều gì và bằng cách nào chúng ta
đng gp cho một thế giới an toàn và thịnh vượng hơn. Những định kiến và kiến thức ph
quát sai lầm sẽ tự động sụp đ do sức nặng của chính chúng, và được thay thế bằng một hiểu
biết rõ ràng hơn về một Hoa Kỳ thật sự đa dạng và sống động. Đối với người Hoa Kỳ, những
mối liên hệ giữa cá nhân với cá nhân này thúc đẩy sự hiểu biết tốt hơn về lịch sử, văn ha và
ngôn ngữ của những quốc gia khác. Những hiểu biết sâu sắc này truyền cảm hứng cho các
học bng Fulbright và chương trình Peace Corps, nằm trong những trụ cột khác của chính
sách ngoại giao công chúng Hoa Kỳ, và những chính sách này nên đng một vai trò quan
trọng trong chính sách đối ngoại khi Hoa Kỳ đang trong quá trình tạo dựng các mối quan hệ
mạnh mẽ hơn tại Châu Á – Thái Bình dương.
Ngân sách của Bộ ngoại giao dành cho ngoại giao công chúng, vốn tài trợ cho các
chương trình học bng và trợ cấp như Chương trình Fulbright, vẫn luôn duy trì ở mức không
đi trong các năm tài khoá từ 2010 đến 2013, và đã tăng nhẹ trong năm tài khoá 2014 trước
khi lại đi ngang trong đề xuất ngân sách cho năm tài khoá 2015. Hơn nữa, không có một sự
TLD-04
17

gia tăng đáng kể nào trong tng số người Hoa Kỳ du học ở khu vực châu Á giữa các năm học
2009-10 và 2011-12, và tình hình tương tự cũng xảy ra với số sinh viên châu Á không mang
quốc tịch Trung Quốc học ở Hoa Kỳ. Trong khi sinh viên Trung Quốc đang đ xô vào các
trường ở Hoa Kỳ với số lượng vô cùng lớn, số sinh viên Hoa Kỳ học ở Trung Quốc tăng lên
không đáng kể, mặc dù có 100,000 suất học bng Strong Initiative (Sáng kiến Mạnh mẽ - một
chương trình được thiết kế để đưa nhiều sinh viên Hoa Kỳ đến Trung Quốc hơn) và 20,000

suất học bng của chính phủ Trung Quốc. Để phát triển tốt hơn mối liên hệ giữa cá nhân với
cá nhân vốn rất quan trọng đối với lợi ích và sự phát triển của Hoa Kỳ, chính quyền phải cố
gắng hơn nữa để khuyến khích nhiều người Hoa Kỳ đến du học tại Trung Quốc và các nước
khác trong khu vực. Cụ thể hơn, cần tập trung cố gắng vào khu vực Đông Nam ; tng số
sinh viên Hoa Kỳ ở Đông Nam  trong năm học 2011-12 chỉ chiếm ít hơn 1/5 tng số sinh
viên Hoa Kỳ ở Đông Á.
Bảng 3: Số lượng và phần trăm các chuyến thăm tới Châu Á – Thái Bình Dương
của Tổng thống và Người đứng đầu các cơ quan dân sự trong nhiệm kỳ thứ 2
của Tổng thống Bush và nhiệm kỳ đầu của Tổng thống Obama

Nhiệm kỳ thứ hai của Tng
thống Bush
Nhiệm kỳ thứ nhất của Tng
thống Obama
Số chuyến
thăm
% trên tng số
Số chuyến
thăm
% trên tng số
USAID
1
9%
3
12%
Kho bạc
9
28%
9
32%

Thương mại
10
20%
11
48%
Nông nghiệp
4
31%
5
50%
Năng lượng
3
9%
6
27%
Đại diện Thương mại Hoa Kỳ
18
36%
8
22%
Bộ Ngoại giao
28
11%
51
20%
Tng thống
12
15%
10
24%

Nguồn: Uỷ ban Nghiên cứu của Quốc hội
Xét đến tầm quan trọng của liên minh Hoa Kỳ - Nhật, chính quyền cũng nên hành động
nhằm chặn lại sự giảm sút của số du học sinh Nhật Bản tại Hoa Kỳ (từ 42,215 trong năm học
2004-5 xuống còn 19,568 trong năm 2012-13), một phần sụt giảm là do nền văn ha mang
tính đoàn thể hẹp hòi của Nhật Bản đánh giá thấp bằng cấp của Hoa Kỳ. Hoa Kỳ có thể làm
giảm tác động này bằng cách thúc đẩy các chương trình học nước ngoài kéo dài theo học kỳ
hoặc cả năm ở Hoa Kỳ, cung cấp nhiều học bng cao học hơn và hỗ trợ cho các mạng lưới
cựu sinh viên Nhật Bản từng du học ở Hoa Kỳ.
TLD-04
18

Với Đông Nam , ngân sách yêu cầu trong năm tài khoá 2015 của chính phủ sẽ tài trợ
cho một chương trình trao đi học thuật mới mang tên “Sáng kiến các nhà lãnh đạo trẻ Đông
Nam ” cũng như mở một trường Đại học Fulbright ở Việt Nam. Những chương trình này
phản ánh sự cần thiết cần phải “tái cân bằng trong tái cân bằng” đối với khu vực, và chính
quyền nên theo đui xu hướng này trong các chương trình, cơ quan và bộ ngành khác.
Nhưng trao đi sinh viên chỉ là một cách để thúc đẩy các mối quan hệ liên cá nhân với
khu vực. Các phương pháp khác bao gồm giảm các hạn chế về du lịch và tăng cấp thị thực
(như mức tăng 36% từ năm tài khoá 2011 đến năm tài khoá 2012 đối các visa không định cư
cấp cho các công dân Trung Quốc) để thúc đẩy thời gian làm việc ngắn hạn ở các công ty đa
quốc gia, các hội thảo chuyên môn, các sáng kiến kinh doanh chung và liên doanh nghiên cứu,
cũng như mở rộng các cơ hội trao đi ở các cấp độ khác nhau trong chính phủ Hoa Kỳ, bao
gồm ở cấp liên bang và chính quyền địa phương.
Cần có nhiều nhân sự và sự hợp tác tốt hơn để cải thiện ngoại giao công chúng. Trong
khi yêu cầu ngân sách trong năm tài khoá 2015 của chính phủ mong muốn tạo ra 3 vị trí mới
phụ trách ngoại giao công chúng để ủng hộ tái cân bằng, việc truyền đạt hiệu quả chính sách
này sẽ cần nhiều tài nguyên hơn nữa. Thêm vào đ, Bộ Ngoại giao cần hành động để tích hợp
chính sách ngoại giao công của EAP với chính sách của các Cục và cơ quan dân sự khác của
Hoa Kỳ.
Ở một góc độ rộng hơn, Chính phủ Hoa Kỳ cần hiệu chỉnh tốt hơn thông điệp của tái cân

bằng tới công chúng Hoa Kỳ và rộng hơn là với thế giới. Mặc dù các bài phát biểu và tuyên
bố chính sách mở rộng là rất cần thiết để có thể tạo ra một cái nhìn tích cực, nhưng nếu không
được hỗ trợ bởi những kết quả rõ ràng sẽ tạo ra khoảng cách giữa kỳ vọng và thực tế. Chính
quyền sẽ làm tốt hơn nếu quay trở lại với chiến lược truyền tải thông điệp trước đây của tái
cân bằng, vốn nói ít làm nhiều. Chế độ quan liêu có thể khiến quá trình thực thi chính sách bị
chậm lại, và chính quyền phải cẩn thận để lời nói không đi quá xa so với thực tế.




TLD-04
19

Bảng 4: Sinh viên ở khu vực Đông Á – Thái Bình Dương đang học ở Hoa Kỳ
và sinh viên ở Hoa Kỳ đang học ở khu vực Đông Á – Thái Bình Dương

Du học sinh ở Hoa Kỳ
Du học sinh ở Đông  – Thái Bình
Dương
2009/10
2012/13
% thay đi
2009/10
2011/12
% thay đi
Tng số
299,008
408251
37%
39499

41722
6%
Trung Quốc
127,628
244156
75%
13910
16365
18%
Nhật Bản
24,842
19568
-21%
6166
5283
-14%
Hàn Quốc
19,568
70627
-2%
2137
2695
26%
Đài Loan
72,153
21867
-18%
850
820
-4%

Indonesia
26,685
7670
10%
221
369
67%
Malaysia
6,190
6791
9%
125
176
41%
Myanmar
695
955
37%
18
3
-83%
Philippines
3815
3215
-15%
238
273
15%
Singapore
4051

4558
13%
841
1130
34%
Thái Lan
8531
7314
-15%
1231
1437
17%
Việt Nam
13112
16098
23%
686
878
28%
Úc
3296
4121
25%
9962
9324
6%
New
Zealand
1103
1311

31%
3113
2969
-5%
Nguồn: Học viện Giáo dục Quốc tế
Kỹ năng quản lý nhà nước về kinh tế
Như Ngoại trưởng Kerry từng phát biểu, “chính sách ngoại giao là chính sách kinh tế,”
3

và kỹ năng quản lý kinh tế là cơ hội tốt nhất để Hoa Kỳ có thể làm sâu sắc thêm các mối quan
hệ với khu vực có nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới.
4
Chính quyền đang theo đui
một chiến lược hai hướng trong việc sử dụng chính sách ngoại giao để thúc đẩy tăng trưởng
của nền kinh tế Hoa Kỳ, cũng được biết đến như ngoại giao thương mại, trong khi dùng các
cam kết kinh tế để ủng hộ các ưu tiên chính sách đối ngoại.
Phát triển và thực thi một chiến lược dài hạn kết hợp ngoại giao thương mại với cam kết
kinh tế là một công việc phức tạp và có thể không nhận được sự chú ý mà n đáng được nhận
từ các quan chức, những người thường xuyên dập tắt những nỗ lực thương mại mới nhất. Bộ
ngoại giao vì thế nên tạo ra nhiều dư địa hơn cho công tác tư duy chiến lược về ngoại giao
thương mại và cam kết kinh tế bằng cách mở thêm một văn phòng Đông  – Thái Bình


3
United States Senate Committee on Foreign Relations, “Senator John Kerry’s Opening Statement at
Nomination Hearting to be U.S. Secretary of State,” January 2013,
/>hearing-to-be-us-secretary-of-state- .
4
International Monetary Fund, “World Economic Outlook Database,” October 2013,


TLD-04
20

dương trong Cục các Vấn đề Kinh tế và Kinh doanh. Cục Dân chủ, Nhân quyền và Lao động
cũng đã thực hiện bước đi tương tự vào năm 2013. Bộ Ngoại giao cũng nên mở rộng Văn
phòng Chính sách Kinh tế của EAP, vốn có ít nhân viên và không thể hoàn thành một cách
hiệu quả những trách nhiệm đang ngày một lớn của mình.
Để có thể thu được lợi ích từ việc tăng cường thương mại và đầu tư ở khu vực Châu Á –
Thái Bình dương cần thiết phải gia tăng nguồn lực và nhân sự, đặc biệt nếu các thoả thuận
thương mại chưa từng có trong khu vực như TPP được thực hiện và tận dụng hiệu quả bởi
các doanh nghiệp Hoa Kỳ. Trong khi Bộ Thương mại đang cân nhắc về kế hoạch điều động
thêm các nhân viên mới của Phòng Ngoại thương (Foreign Commercial Service (FCS) tới
khu vực, mức độ gia tăng nhân viên cần phải đi cùng với quá trình tái tích hợp các nhân viên
FCS vào Bộ Ngoại giao, vốn có thể cải thiện khả năng hợp tác liên ngành về ngoại giao
thương mại.
Trong khi USTR có một danh mục đầu tư cực kỳ quan trọng và mở rộng chưa từng có,
thì việc thiếu vốn và nhân sự đã khiến các tham vọng đầu tư kể trên khó có thể được đáp ứng,
chưa kể đến các thách thức và cơ hội trong tương lai. Ngoài TPP, USTR cũng đang tiến hành
tham vấn liên quan tới Hiệp định khung về Thương mại và Đầu tư với Đài Loan, đàm phán
Hiệp định đầu tư song phương với Trung Quốc và Ấn Độ, cũng như mở rộng cam kết với
ASEAN. Khi những thỏa thuận này trở thành hiện thực, USTR sẽ yêu cầu nhiều vốn hơn cho
nhân sự và đi lại để bảo vệ lợi ích kinh tế của Hoa Kỳ bằng cách đảm bảo các hiệp định
thương mại được thực thi một cách đúng đắn.
Chính quyền đã biến TPP trở thành trọng tâm của chính sách thương mại Hoa Kỳ trong
khu vực và cơ sở của tái cân bằng. TPP có mục tiêu tạo ra một chuẩn mực mới về thương mại
trong khu vực dựa trên một số nguyên tắc, và mang tính mở đối với tất cả các thành viên của
APEC (và có thể là tất cả thành viên của ASEAN trong tương lai). Trong tháng 11 năm 2012,
chính quyền đã đưa ra sáng kiến Cam kết Mở rộng Kinh tế Hoa Kỳ - ASEAN dựa trên một
thỏa thuận cũ hơn và nhằm mục tiêu giúp các thành viên ASEAN không thuộc TPP đáp ứng
các chuẩn mực vốn sẽ là điều kiện giúp các nước này trở thành thành viên của TPP trong

tương lai. Sáng kiến tập trung vào những mục tiêu giới hạn như tinh giản quy trình thủ tục và
tạo lập nguyên tắc ở những lãnh vực như đầu tư và công nghệ truyền thông. Một vài thành
viên của ASEAN thể hiện nỗi lo sợ rằng TPP có thể làm suy yếu những nỗ lực nhằm xây
dựng sự gắn kết lớn hơn trong nhm và đưa ra quan điểm rằng hiệp định Đối tác Kinh tế
TLD-04
21

Toàn diện Khu vực (Regional Comprehensive Economic Partnership – RCEP) là một sự thay
thế dung hợp hơn. Nhưng đây không phải là sự lựa chọn bắt buộc 1 trong 2: các hiệp định
đều không mang tính loại trừ lẫn nhau và đã có 7 quốc gia thuộc APEC đều đã là thành viên
của cả hai hiệp định.
Xét đến vai trò quan trọng đối với những lợi ích của Hoa Kỳ về thương mại và cam kết
kinh tế với khu vực, một TPP mang tiêu chuẩn cao là cần thiết để bảo vệ các doanh nghiệp
Hoa Kỳ khỏi các hoạt động kinh doanh không công bằng và cho phép họ tận dụng lợi thế
cạnh tranh. TPP đưa ra những cơ hội đáng để xem xét, đặc biệt với sự tham gia của một vài
thành viên mới như Nhật Bản và kỳ vọng rằng Hàn Quốc và những nền kinh tế tiêu biểu khác
đang nghiêm túc xem xét tham gia vòng đàm phán tiếp theo. Theo USTR, thỏa thuận TPP sẽ
chiếm 37% tng lượng xuất khẩu của Hoa Kỳ và bao gồm các thị trường nước ngoài vốn có
thể tạo ra 4 triệu việc làm ở Hoa Kỳ.
5
Do đ, một thỏa thuận TPP hoàn thiện và được thực thi
hiệu quả có thể là mối lợi lớn cho các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ và giúp chính quyền đạt được
các mục tiêu của Sáng kiến Xuất khẩu Quốc gia (National Export Initiative – NEI) như tăng
xuất khẩu lên 2 lần và hỗ trợ 2 triệu việc làm cho người Hoa Kỳ. Một phần trong nỗ lực trên
là thông báo của chính quyền trong tháng 10 năm 2013 về các kế hoạch nhằm tăng cường
chương trình SelectUSA (Lựa chọn Hoa Kỳ) vốn thúc đẩy đầu tư vào Hoa Kỳ bằng cách đưa
các khuyến nghị đầu tư vào hồ sơ của các Đại sứ Hoa Kỳ và nhân viên của họ. Những cố
gắng này sẽ vô cùng cần thiết để các công ty châu Á – Thái Bình dương tăng cường đầu tư
vào Hoa Kỳ, với tng số vốn đã lên đến hơn 400 tỷ USD và trực tiếp thuê hơn 900000 lao
động Hoa Kỳ.

6








5
Office of the United States Trade Representative, “The Trans-Pacific Partnership: Economic Benefits,”
December 2013,
.
6
Organization for International Investment, “Insourcing Fact,” August 2012,
Số liệu việc làm là một dự báo dựa trên tỷ lệ FDI mà Châu Á
đầu tư vào Hoa Kỳ.
TLD-04
22

Bảng 5: Hoạt động của các cơ quan thúc đẩy thương mại ở Châu Á – Thái Bình dương
(Đơn vị: Triệu USD)
Cơ quan
Năm tài
khóa 2008
2009
2010
2011
2012
2013

Ngân hàng
Xuất - nhập
khẩu






Ủy thác
1841,6
3987,4
2340,7
7057,7
6945,8
7078,9
% trên thế
giới
12,8%
19,0%
9,6%
21,6%
19,4%
25,9%
% thay đi
so với năm
trước
_
116,5%
-41,3%

201,5%
1,6%
-1,9%
Dư nợ
16163
18554,2
17183
21270,3
25463,2
29820,3
% trên thế
giới
27,6%
27,3%
22,8%
23,9%
23,9%
26,2%
% thay đi
so với năm
trước
_
14,8%
-7,4%
23,8%
19,7%
17,1%
OPIC







Cam kết
61
110
245
948
539
528
% trên thế
giới
4,6%
3,2%
9,7%
34,6%
14,8%
13,4%
% thay đi
so với năm
trước
_
80,3%
122,7%
286,9%
-43,1%
-2,0%
Dư nợ
1096

1135
1216
2019
2404
2694
% trên thế
giới
9,7%
8,5%
8,7%
14%
14,7%
14,9%
% thay đi
so với năm
trước
_
3,6%
7,1%
66%
19,1%
12,1%
TDA






Tài trợ

14,6
12,1
13,5
14,8
13,6
17,1
% trên thế
giới
31,5%
28,3%
27,2%
36%
30,9%
41,2%
% thay đi
so với năm
trước
_
-17,4%
11,2%
10%
-8,3%
25,8%
Nguồn: Báo cáo thường niên của Ngân hàng Xuất – nhập khẩu và TDA.
Số liệu của OPIC lấy từ OPIC
Các cơ quan tài chính liên bang cũng là một trụ cột quan trọng trong kỹ năng quản trị
kinh tế của Hoa Kỳ và đã dần tăng cường phân b nguồn lực tới khu vực Châu Á – Thái Bình
dương trong vài năm qua. Trong giai đoạn từ năm tài khoá 2008 đến 2013, tng số vốn của
Ngân hàng Xuất Nhập khẩu (Ex-Im) ở khu vực Châu Á – Thái Bình dương tăng hơn 14 tỷ

×