Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

việc bảo vệ môi trường và rachel carson, một nhà sinh vật biển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (447.11 KB, 62 trang )

Đề tài nghiên cứu khoa học
việc bảo vệ môi trường và Rachel Carson, một nhà sinh vật biển
I. Sự cần thiết của việc áp dụng ISO 14000:
1. Giới thiệu về ISO - Tổ chức quốc tế tiêu chuẩn hoá
1.1. ISO là gì?
ISO là tên viết tắt của Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hoá (International
Organization For Standardization), được thành lập vào năm 1946 và chính
thức hoạt động vào ngày 23/2/1947, nhằm mục đích xây dựng các tiêu chuẩn
về sản xuất, thương mại và thông tin. ISO có trụ sở ở Genera (Thuỵ Sĩ) và là
Tổ chức Quốc tế chuyên ngành có các thành viên là các cơ quan tiêu chuẩn
Quốc gia của 111 nước. Tuỳ theo từng nước, mức độ tham gia xây dựng các
tiêu chuẩn ISO có khác nhau, ở một số nước, Tổ chức tiêu chuẩn hoá là các
cơ quan chính thức hay bán chính thức của Chính phủ. Tại Việt Nam, Tổ
chức tiêu chuẩn hoá là Tổng cục tiêu chuẩn đo lường Chất lượng, thuộc Bộ
Khoa học - Công nghệ và Môi trường. Mục đích của các tiêu chuẩn ISO là tạo
điều kiện cho các hoạt động trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên toàn cầu trở nên
dễ dàng, tiện dụng hơn và đạt được hiệu quả. Tất cả các tiêu chuẩn do ISO đặt
ra đều có tính chất tự nguyện. Tuy nhiên, thường các nước chấp nhận tiêu
chuẩn ISO và coi nó có tính chất bắt buộc.
Hiện nay, ISO có khoảng trên 180 Uỷ ban kỹ thuật chuyên dự thảo các
tiêu chuẩn trong từng lĩnh vực. Các nước thành viên của ISO lập ra các nhóm
tư vấn kỹ thuật nhằm cung cấp tư liệu đầu vào cho các Uỷ ban kỹ thuật và đó
là một phần của quá trình xây dựng tiêu chuẩn. ISO tiếp nhận tư liệu của đầu
vào từ các Chính phủ các ngành và các bên liên quan trước khi ban hành một
tiêu chuẩn. Sau khi tiêu chuẩn dự thảo được các thành viên chấp thuận, nó
được công bố và tiêu chuẩn Quốc tế. Sau đó mỗi nước lại có thể chấp nhận
một phiên bản của tiêu chuẩn đó làm tiêu chuẩn quốc gia của mình.
1.2. Tính chất của ISO:
1.2.1. Tính thống nhất:
Tổ chức ISO đưa ra những thủ tục về xây dựng tiêu chuẩn, những thủ tục
này được đưa ra công khai và rõ ràng cho tất cả các bên tham gia vào tổ chức


ISO ở khắp nơi trên thế giới. Hệ thống ISO có khả năng giải quyết những vấn
Đề tài nghiên cứu khoa học
đề khác nhau. Tiêu chuẩn ISO là nơi thể hiện một sự nhất trí cao nhất có thể
có được giữa các bên tham gia vào tổ chức đối với những vấn đề liên quan
đến kỹ thuật cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hoá,
dịch vụ và những ý kiến của mọi người.
1.2.2. Uy tín:
ISO được khắp nơi trên thế giới biết đến. Sở dĩ có được uy tín như vậy,
một phần là do tính trung lập của tổ chức. ISO có được vị trí cao trong các tổ
chức quốc tế (các tổ chức đại diện của liên hợp quốc, Tổ chức thương mại
quốc tế, phòng thương mại quốc tế ). Trong nhiều ngành, ví dụ như cơ khí,
dệt, công nghệ thông tin tiêu chuẩn ISO được áp dụng một cách rộng rãi và
được đánh giá rất cao.
1.2.3. Phạm vi tiêu chuẩn hoá rộng:
ISO xử lý một loạt các hoạt động của con người cũng như bí quyết trong
sản xuất kinh doanh, từ cái nhỏ nhất như những đặc điểm tính năng và kích
thước đến các vấn đề lớn như hệ quản lý môi trường trong công ty - ISO cũng
hợp tác với những tổ chức quốc tế như đại diện của Liên Hiệp Quốc, thông
qua những thoả thuận làm việc với IEC (Uỷ ban Điện tử - kỹ thuật thế giới)
và ITU (Hiệp hội viễn thông thế giới).
1.2.4. Quản lý phân quyền:
ISO là một tổ chức có qui mô lớn. Trong đó có sự tham gia của khoảng
130 nước, hơn 800 ủy ban và tiểu ban kỹ thuật, ngoài ra, các tiểu ban và uỷ
ban này còn được sự trợ giúp của nhóm làm việc. Tất cả các tiểu ban và uỷ
ban này đều chịu sự điều hành chung của Ban Quản lý công nghệ. Chủ tịch uỷ
ban chịu trách nhiệm chỉ đạo để dẫn đến việc thống nhất về mặt kỹ thuật cần
thiết. Bộ phận thư ký của các uỷ ban, nơi làm các công tác về hành chính và
các giấy tờ thủ tục sao cho phù hợp với qui định của tổ chức ISO, do các
thành viên của ISO lập ra. Cơ cấu quản lý phân quyền hỗ trợ để đảm bảo rằng
các quyết định đưa ra, trước đó, đã được thực hiện rất chu đáo và đáng tin

cậy. Những quyết định đó được đưa ra với các thủ tục đơn giản và mức chi
phí tối thiểu.
1.2.5 Cơ cấu hạ tầng quốc gia:
Đề tài nghiên cứu khoa học
Hệ thống ISO không thể thực hiện chức năng của mình mà không có một
cơ sở hạ tầng quốc gia vững chắc của thành viên ISO. Hạ tầng cơ sở quốc tế
tạo ra hàng nghìn tiêu chuẩn quốc tế thống nhất trong đề xuất tham gia vào
ISO hàng năm, lựa chọn và hướng dẫn hàng chục nghìn cá nhân đang phục vụ
trong các tổ chức mang tính quốc gia để bảo vệ quan điểm của quốc gia mình
trước các uỷ ban của ISO. Các quốc gia thành viên của ISO là tổ chức đại
diện cao nhất về tiêu chuẩn của mỗi nước đó và họ có đủ khả năng để xử lý
những ý kiến đóng góp từ các quốc gia yêu cầu hệ thống ISO làm việc hiệu
quả hơn.
1.2.6. Sự hỗ trợ mang tính khu vực:
Rất nhiều thành viên của ISO cùng lúc cũng là thành viên của các tổ
chức khu vực có chương trình hợp tác với ISO trong việc tiêu chuẩn hoá và
những liên quan đến tiêu chuẩn. Những thành viên này đảm bảo mối quan hệ
hợp tác với ISO với tư cách là thành viên đầy đủ đống thời họ cũng tham gia
vào việc hoạch định và thống nhất những tiêu chuẩn quốc gia và khu vực sao
cho phù hợp với những tiêu chuẩn quốc tế.
2. Hệ thống quản lý môi trường:
2.1. Bộ tiêu chuẩn ISO 14000:
2.1.1. Quá trình ra đời và phát triển:
Hét trong những nhà hoạt động xã hội đã đề cập đến việc bảo vệ môi
trường và Rachel Carson, một nhà sinh vật biển. Cuốn sách "Mùa xuân yên
tĩnh" năm 1962 của bà đã rất nổi tiếng trong việc khuyến khích mọi người
quan tâm đến sinh thái. Trong những năm 60 và 70, con người đã nhận thấy
vấn đề môi trường thế giới đang nghiêm trọng. Tình trạng ô nhiễm môi
trường xung quanh -môi trường tự nhiên đang ở mức báo động- vì vậy vào
năm 1969, Quốc hội Mỹ đã thông qua luật bảo vệ môi trường. Năm 1971, hội

nghị môi trường thế giới đã được triệu tập tại Stockhom. Tại đây, hai kết quả
quan trọng dã được thông báo: Thứ nhất là chương trình môi trường (UNEP)
của Mỹ đã được thiếp lập; Thứ hai là hội đồng thế giới môi trường và phát
triển (WCED) đã được thiết lập. Năm 1987, WCED đã xuất bản 1 báo cáo
kêu gọi các ngành công nghiệp xây dựng hệ thống quản lý môi trường.
Đề tài nghiên cứu khoa học
Năm 1992, hội nghị về môi trường và phát triển của Mỹ (hay còn gọi là
hội nghị thượng đỉnh Trái đất) ở Rio de Janeiro, đó là kết quả của báo cáo của
WCED. Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế. ISO được đề nghị tham gia. Trong
suốt năm 1991, ISO cùng với hội đồng quốc tế về kỹ thuật mạng thiết lập nên
nhóm tư vấn chiến lược về môi trường (SAGE) với sự tham dự của 25 nước
SAGE cho rằng việc nhóm ISO xây dựng tiêu chuẩn quản lý môi trường quốc
tế và các công cụ thực hiện và đánh giá là rất thích hợp. ISO cam kết thiết lập
tiêu chuẩn quản lý môi trường quốc tế tại hội nghị thượng đỉnh tại Rio de
Janiero năm 1992. Ngay trong năm này, ISO thành lập Uỷ ban kỹ thuật 207
(TC 207) là cơ quan chịu trách nhiệm xây dựng hệ thống quản lý môi trường
quốc tế và các công cụ cần thiết để thực hiện hệ thống này. Công việc của TC
207 được chia trong 6 tiểu ban và 1 nhóm làm việc đặt biệt. Canada là ban thư
ký của uỷ ban kỹ thuật TC 207 và 6 quốc gia khác đứng đầu 6 tiểu bang.
2.1.2. Bộ tiêu chuẩn ISO 14000:
Ban kỹ thuật 207 (TC207) do tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế - ISO thành
lập để xây dựng các tiêu chuẩn ISO 14000. Cũng giống như tiêu chuẩn chất
lượng ISO 9000, tiêu chuẩn về hệ thống quản lý môi trường tập trung vào hệ
thống quản lý hơn là các hoạt động kỹ thuật. ISO muốn tìm kiếm tiêu chuẩn
mới tương tự về cơ cấu và triết lý để những nơi áp dụng tiêu chuẩn ISO 9000
có thể xây dựng hệ thống quản lý chất lượng song song với tiêu chuẩn ISO
14000.
Bộ tiêu chuẩn ISO 14000 bao gồm các tiêu chuẩn liên quan với hệ thống
quản lý môi trường (như ISO 14001, 14024 ) và những tiêu chuẩn liên quan
với các công cụ quản lý môi trường.

Sơ đồ: Hệ thống tiêu chuẩn ISO 14000
ISO 14000. Bé tiªu chuÈn vÒ
qu¶n lý m«i trêng
ISO 14000. Bé tiªu chuÈn vÒ
qu¶n lý m«i trêng
HÖ thèng qu¶n lý
m«i trêng
HÖ thèng qu¶n lý
m«i trêng
KiÓm tra ®¸nh gi¸
m«i trêng
KiÓm tra ®¸nh gi¸
m«i trêng
§¸nh gi¸ kÕt qu¶
ho¹t ®éng m«i trêng
§¸nh gi¸ kÕt qu¶
ho¹t ®éng m«i trêng
KhÝa c¹nh m«i trêng trong
tiªu chuÈn vÒ s¶n phÈm
KhÝa c¹nh m«i trêng trong
tiªu chuÈn vÒ s¶n phÈm
Ghi nh·n sinh th¸i
Ghi nh·n sinh th¸i
§¸nh gi¸ chu tr×nh sèng
cña s¶n phÈm
§¸nh gi¸ chu tr×nh sèng
cña s¶n phÈm
Đề tài nghiên cứu khoa học
2.1.3. Các bước áp dụng ISO 14000:
Bước 1: Chuẩn bị và lập kế hoạch tiến hành dự án

+ Thành lập ban chỉ đạo dự án. Bổ nhiệm đại diện lãnh đạo về môi trường.
+ Trang bị cho Ban chỉ đạo các kiến thức cơ bản về môi trường và quản
lý môi trường.
+ Thực hiện đánh giá ban đầu về môi trường.
+ Lập kế hoạch hành động.
+ Xây dựng chính sách môi trường và cam kết của lãnh đạo này với toàn
thể cán bộ, nhân viên trong công ty.
+ Phân tích và xem xét những khía cạnh môi trường và những ảnh hưởng
của chúng, so sánh với các điều khoản luật hiện hành và những yêu cầu khác
có liên quan.
+ Đặt ra những mục tiêu, chỉ tiêu và các chương trình quản lý môi trường.
Bước 2: Xây dựng và lập văn bản hệ thống quản lý môi trường:
+ Trang bị kiến thức chi tiết về các yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 14000
cho nhóm thực hiện dự án và các cán bộ lãnh đạo.
+ Xây dựng chương trình quản lý môi trường.
+ Lập kế hoạch cụ thể và phân công cán bộ chuyên trách từng phần công
việc cụ thể cho xây dựng hệ thống.
+ Tổ chức đào tạo về hệ thống tài liệu và kỹ năng viết văn bản.
+ Xem xét và cung cấp đầu vào cho những qui trình văn bản nhằm bao
quát các khía cạnh môi trường, các ảnh hưởng và các nhân tố của hệ thống
quản lý môi trường.
+ Xây dựng sổ tay quản lý môi trường.
Bước 3: Thực hiện và theo dõi hệ thống quản lý môi trường.
Đề tài nghiên cứu khoa học
+ Đảm bảo về nhận thức và thông tin liên lạc cho mọi thành viên trong
tổ chức để thực hiện hệ thống quản lý môi trường một cách hiệu quả.
+ Sử dụng các kỹ thuật năng suất xanh như các công cụ hỗ trợ nâng cao
hiệu quả hoạt động môi trường.
+ Theo dõi và kiểm tra việc thực hiện hệ thống quản lý môi trường, thực
hiện các hành động cần thiết nhằm đảo bảo sự phù hợp với các yêu cầu của

tiêu chuẩn, các chương trình về môi trường, các qui trình và sở tay quản lý
môi trường.
Bước 4: Đánh giá và xem xét.
+ Trang bị kiến thức về đánh giá nội bộ hệ thống quản lý môi trường cho
lãnh đạo và các cán bộ chủ chốt của công ty.
+ Thiết lập hệ thống đánh giá nội bộ và hệ thống xem xét của lãnh đạo.
+ Thực hiện chương trình đánh giá hệ thống quản lý môi trường nội bộ
theo các yêu cầu của tiêu chuẩn ISO 14000.
+ Báo cáo kết quả của đợt đánh giá trên lên lãnh đạo để xem xét, thực
hiện các hành động khắc phục.
Bước 5: Đánh giá - xem xét và chứng nhận hệ thống.
+ Tổ chức tiến hành đánh giá trước chứng nhận để đảm bảo chất lượng
của hệ thống.
+ Lựa chọn cơ quan chứng nhận phù hợp và xin đăng ký chứng nhận.
+ Chuẩn bị cho cơ quan chứng nhận tiến hành đánh giá hệ thống văn bản
và đánh giá thực trạng của tổ chức.
+ Xem xét kết quả đánh giá ban đầu của cơ quan chứng nhận và thi hành
các biện pháp khắc phục đối với những điểm không phù hợp.
+ Nhận chứng chỉ từ cơ quan chứng nhận.
Bước 6: Duy trì chứng chỉ
+ Thực hiện các hành động khắc phục
+ Thực hiện đánh giá giám sát
+ Tổ chức các kỳ hợp xem xét của lãnh đạo.
+ Không ngừng cải tiến.
2.1.4. Phạm vi của ISO 14000:
Đề tài nghiên cứu khoa học
Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế - ISO đã qui định phạm vi của ISO
14000 " Tiêu chuẩn này qui định các yêu cầu đối với hệ thống quản lý môi
trường, tạo thuận lợi cho một tổ chức đề ra chính sách và mục tiêu, có tính
đến các yêu cầu pháp luật và thông tin về các tác động môi trường đáng kể.

Tiêu chuẩn này không nêu lên các chuẩn cứ về kết quả hoạt động môi trường
cụ thể".
Tiêu chuẩn ISO 14000 không có tính chất bắt buộc, mà được xây dựng
dựa trên sự tự nguyện của mỗi công ty. Điều này cũng đã được khẳng định
trong chiến lược phát triển của ISO. Vì vậy, ISO 14000 có thể áp dụng cho
bất kỳ tổ chức nào mong muốn:
+ Thực hiện, duy trì và cải tiến hệ thống quản lý môi trường.
+ Tự đảm bảo sự phù hợp của mình với chính sách môi trường đã công bố.
+ Chứng minh sự phù hợp đó cho các tổ chức khác.
+ Được chứng nhận phù hợp cho hệ thống quản lý môi trường của mình
do một tổ chức bên ngoài cấp.
+ Tự xác định và tuyên bố phù hợp với Tiêu chuẩn.
2.1.5. Mục đích của ISO 14000:
Mục đích tổng thể của tiêu chuẩn quốc tế này là hỗ trợ trong việc bảo vệ
môi trường và kiểm soát ô nhiễm đáp ứng với yêu cầu của kinh tế - xã hội.
Mục đích cơ bản của ISO 14000 là hỗ trợ các tổ chức trong việc phòng
tránh các ảnh hưởng của môi trường phát triển từ hoạt động, sản phẩm hoặc
dịch vụ của tổ chức. Hơn nữa, tổ chức thực hiện ISO 14000 có thể đảm bảo
rằng các hoạt động môi trường của mình đáp ứng và sẽ tiếp tục đáp ứng với
các yêu cầu luật pháp. ISO 14000 cố gắng đạt được mục đích này bằng cách
cung cấp cho tổ chức "các yếu tố của một hệ thống quản lý môi trường có
hiệu quả".
2.2. Hệ thống quản lý môi trường - ISO 14001:
2.2.1. Khái niệm:
ISO đã đưa ra định nghĩa về hệ thống quản lý môi trường (HTQLMT)
như sau: "là một phần của hệ thống quản lý chung bao gồm cơ cấu tổ chức,
các hoạt động lập kế hoạch, trách nhiệm, qui tắc, thủ tục, quá trình và nguồn
Đề tài nghiên cứu khoa học
lực để xây dựng và thực hiện, xem xét và duy trì chính sách môi trường".
Theo định nghĩa này, việc thiết lập và áp dụng theo chính sách môi

trường là yếu tố tiên quyết của hệ thống quản lý môi trường. Vì vậy
HTQLMT là một phần của hệ thống quản lý chung của tổ chức có đề cập đến
các khía cạnh môi trường của các hoạt động của tổ chức đó.
2.2.2. Các yêu cầu của HTQLMT:
Để đảm bảo việc áp dụng HTQLMT đạt hiệu quả cao. Thì việc tuân thủ
đúng các yêu cầu đóng vai trò quan trọng, quyết định sự thành công. Các yêu
cầu bao gồm:
2.2.2.1. Cam kết của lãnh đạo:
Cam kết của lãnh đạo phải được thể hiện từ giai đoạn bắt đầu thực hiện
và trong suốt quá trình duy trì thực hiện HTQLMT. Nếu thiếu sự cam kết của
lãnh đạo trong việc thiết lập các mục tiêu của ISO 14001 thì sẽ không có cơ
hội để hoà hợp và thực hiện thành công HTQLMT.
2.2.2. 2. Tuân thủ chính sách môi trường:
Chính sách môi trường do lãnh đạo lập ra hoặc lập ra dưới sự chỉ đạo của
lãnh đạo, đây là tài liệu hiệu dẫn để lập ra các đường lối chung, các khuynh
hướng môi trường, các nguyên tắc hành động đối với tổ chức. Chính vì vậy,
các tổ chức, doanh nghiệp áp dụng bộ tiêu chuẩn này cần phải tuân thủ
nghiêm ngặt các chính sách này.
2.2.2.3. Lập kế hoạch môi trường:
Công tác lập kế hoạch môi trường bao gồm việc xác định các hoạt động
có thể tác động đến môi trường, đồng thời tổ chức cũng phải xác định các yêu
cầu pháp luật và các yêu cầu khác mà tổ chức phải tuân thủ. Cuối cùng các
doanh nghiệp cần tổ chức lập kế hoạch để thực hiện các mục đó.
2.2.2.4. Cơ cấu tổ chức và trách nhiệm:
Trong HTQLMT cần thực hiện việc phân công vai trò trách nhiệm đối
với từng cấp liên quan. Theo đó, tÊt cả mọi nhân viên trong doanh nghiệp đều
phải hiểu rõ cơ cấu và trách nhiệm của bản thân.
2.2.2.5. Đào tạo nhận thức và năng lực:
Lãnh đạo phải có trách nhiệm đảm bảo cho tất cả mọi nhân viên đều có
Đề tài nghiên cứu khoa học

kiến thức về khía cạnh môi trường, chính sách môi trường và cam kết của
lãnh đạo. Thực hiện các khoá đào tạo và kết quả đánh giá được thiết lập trong
HTQLMT.
2.2.2.6. Thông tin liên lạc nội bộ và bên ngoài:
Tổ chức phải thiết lập các kênh thông tin liên lạc một bộ và bên ngoài
đúng lúc và có hiệu quả.
2.2.2.7. Kiểm soát các tài liệu và hoạt động môi trường liên quan:
Để thực hiện được, tổ chức phải có hệ thống kiểm soát tài liệu nhằm đảm
bảo các thủ tục được ban hành và áp dụng đúng; và các thay đổi đều phải tuân
theo thủ tục được phê duyệt.
2.2.2.8. Sự chuẩn bị sẵn sàng và đáp ứng với tình trạng khẩn cấp:
Được thực hiện và được chứng minh qua các khoá đào tạo tập huấn và
thực hành cụ thể trong HTQLMT.
2.2.2.9. Kiểm tra - đánh giá - hành động khắc phục phòng ngừa:
HTQLMT phải chuyển đổi các ý kiến phản hồi từ lần kiểm tra, giám sát
và đo lường các kết quả hoạt động môi trường thành các hành động khắc phục
và phòng ngừa. Đây là bước quan trọng trong chu trình lập kế hoạch - thực
hiện - kiểm tra - khắc phục (PDCA) của HTQLMT.
2.2.2.10. Xem xét của lãnh đạo:
HTQLMT phải được lãnh đạo xem xét định kỳ về tính phù hợp, đầy đủ,
hiệu quả nhằm tạo cơ hội cải tiến liên tục.
2.2.2.11. Cải tiến liên tục:
Cần xây dựng hệ thống để xác định các cơ hội cải tiến HTQLMT. Cải
tiến liên tục xuất hiện khi loại bỏ được nguyên nhân gốc rễ của sự không phù
hợp, tuy nhiên cải tiến liên tục cũng có thể là kết quả của việc thiết lập các
quá trình mới thay thế quá trình cũ, thay đổi công nghệ hoặc chiến lược mới.
2.2.3. Lợi Ých của việc thực hiện hệ thống quản lý môi trường theo ISO
14001:
Khảo sát các tổ chức ISO về lợi Ých của việc áp dụng ISO 14001 tại các
doanh nghiệp ở Châu Âu và Châu Á đều đưa ra kết luận rằng, việc thực hiện

hệ thống quản lý môi trường theo ISO 14001 đã mang lại cho các doanh
Đề tài nghiên cứu khoa học
nghiệp những lợi Ých to lớn, không chỉ trong việc bảo vệ, cải thiện môi
trường, mà còn đem lại những khoản lợi nhuận lớn. Đồng thời cũng là công
cụ hiệu quả giúp doanh nghiệp quảng bá thương hiệu của mình trên thị
trường. Điều đó được thể hiện ở các mặt:
+ Về mặt thị trường:
- Nâng cao uy tín và hình ảnh của Doanh nghiệp với khách hàng.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh nhờ nâng cao hiệu quả kinh tế trong hoạt
động môi trường.
- Phát triển bền vững nhờ đáp ứng các yêu cầu của cơ quan quản lý môi
trường và cộng đồng xung quanh.
+ Về mặt kinh tế:
- Giảm thiểu mức sử dụng tài nguyên và nguyên liệu đầu vào,
- Giảm thiểu mức sử dụng năng lượng.
- Nâng cao hiệu suất các quá trình sản xuất và cung cấp dịch vụ.
- Giảm thiểu lượng rác thải tạo ra và chi phí xử lý.
- Tái sử dụng các nguồn lực/tài nguyên.
- Tránh các khoản tiền phạt về vi phạm yêu cầu pháp luật về môi trường.
- Giảm thiểu chi phí đóng thuế môi trường.
- Hiệu quả sử dụng nhân lực cao hơn nhờ sức khỏe được đảm bảo trong
môi trường làm việc an toàn.
- Giảm thiểu các chi phí về phúc lợi nhân viên liên quan đến các bệnh
nghề nghiệp.
- Giảm thiểu tổn thất kinh tế khi có rủi ro và hoặc tai nạn xảy ra.
+ Về mặt quản lý rủi ro:
- Thực hiện tốt việc đề phòng các rủi ro và hạn chế thiệt hại do rủi ro gây
ra,
- Điều kiện để giảm chi phí bảo hiểm,
- Dễ dàng hơn trong làm việc với bảo hiểm về tổn thất và bồi thường.

- Tạo cơ sở cho hoạt động chứng nhận, công nhận và thừa nhận:
- Được sự đảm bảo của bên thứ ba,
- Vượt quá rào cản kỹ thuật trong thương mại,
Đề tài nghiên cứu khoa học
-Cơ hội cho quảng cáo, quảng bá.
2.3. ISO 14024 - Nhãn sinh thái:
2.3.1. Khái niệm:
Theo tổ chức tiêu chuẩn quốc tế (ISO) đưa ra định nghĩa: "Nhãn sinh
thái là sự khẳng định, biểu thị thuộc tính môi trường của sản phẩm hoặc dịch
vụ có thể dưới dạng một bản công bố, biểu tượng và biểu đồ trên sản phẩm
hoặc nhãn bao gãi, trong tài liệu về sản phẩm, tạp chí kỹ thuật, quảng cáo
hoặc các hình thức khác".
Nhãn sinh thái cho thấy mức độ giảm thiểu tác động xấu của sản phẩm
đến môi trường trong tất cả giai đoạn hoặc trong mét giai đoạn vòng đời của
sản phẩm về bản chất, Nhãn sinh thái là một thông điệp truyền tải tính ưu việt
đối với môi trường của sản phẩm.
Về hình thức, nhãn sinh thái có thể dưới dạng một bản công bố, biểu
tượng hoặc biểu đồ gắn trên sản phẩm hoặc bao gãi.
Mục đích chung của nhãn sinh thái nhằm khuyến khích nhu cầu tiêu thụ
và cung cấp các loại sản phẩm, dịch vụ Ýt gây tác động xấu đến môi trường,
do đó có vai trò quan trọng trong thúc đẩy cải thiện môi trường.
2.3.2. Các yêu cầu cơ bản về nhãn sinh thái:
Để đảm bảo vai trò truyền tải thông tin đến không chỉ người tiêu dùng
hiện đại, người tiêu dùng tiềm Èn mà cả người sử dụng nhãn về vấn đề bảo vệ
môi trường. Nhãn sinh thái cần bảo đảm các yêu cầu sau:
2.3.2.1. Nhãn sinh thái phải được phản ánh chinh xác, trung thực và có thể
xác minh được.
Nhãn sinh thái cần phải bảo đảm phản ánh chính xác, trung thực khía
cạnh lợi Ých môi trường của sản phẩm, không áp đặt những khía cạnh môi
trường không tồn tại hoặc quá cường điệu lợi Ých môi trường nhằm tao sự tín

nhiệm, tin tưởng của người tiêu dùng. Đồng thời nhãn sinh thái phải có thể
xác minh được bằng những phương pháp khoa học, phương tiện hiện đại về
những khía cạnh, lợi Ých môi trường của sản phẩm đã được công bố.
2.3.2.2. Nhãn sinh thái không được gây ra sự hiểu nhầm hoặc khó hiểu.
Nhãn sinh thái phải đơn giản, dễ hiểu, những điểm về nội dung khi được
Đề tài nghiên cứu khoa học
công bố phải rõ ràng, biểu tượng, biểu đồ không được quá phức tạp.
2.3.2.3. Nhãn sinh thái có thê so sánh.
Ngoài mét số nhãn sinh thái được xây dựng dựa trên những tiêu chí có
thể so sánh, VD: hàm lượng tái chế nhiều hơn 10% Những có những nhãn
sinh thái không được xây dựng theo kiểu vây. Tuy nhiên, những nhãn sinh
thái này vẫn có khả năng so sánh được để đảm bảo tính nổi trội về môi trường
so với các sản phẩm có cùng chức năng.
2.3.2.4. Nhãn sinh thái không được tạo ra những rào cản không cần thiết cho
hoạt động thương mại.
Nhãn sinh thái được thiết kế cho loại sản phẩm cụ thể, trong điều kiện về
phạm vi, thời gian, và không gian khác nhau nên sẽ dẫn đến những sự khác
biệt về tiêu chuẩn, trong việc chứng nhận và cấp nhãn. Vì vậy, sự thừa nhận
lẫn nhau của nhãn sinh thái ở một khía cạnh hoặc toàn bộ qui trình được
khuyến khích nhằm giảm bớt sự khác biệt này.
2.3.2.5. Nhãn sinh thái phải tạo ra được sự cải thiện môi trường liên tục dưa
trên những định hướng thị trường.
Tính năng môi trường của nhãn sinh thái là một ưu thế cạnh tranh giữa
những người cung cấp vì vậy cần không ngừng cải thiện liên tục, tăng sự linh
hoạt trong việc đánh giá và nâng cao hơn lợi Ých môi trường sẽ ngày càng
củng cố và nâng cao ưu thế đó. Để làm được điều này, người cung cấp phải
thường xuyên cải tiến công nghệ, kỹ thuật, thay thế bằng những sản phẩm Ýt
gây ảnh hưởng xấu đến môi trường.
2.3.3. Lợi Ých của việc áp dụng nhãn sinh thái ISO 14024:
2.3.3.1. Đối với môi trường:

Việc áp dụng nhãn sinh thái đã đem lại nhiều lợi Ých đối với môi trường
gắn với quá trình sản xuất, phân phối, tiêu dùng và loại bỏ sản phẩm. Quá
trình phân phối, tiêu dùng sẽ tự loại bỏ những sản phẩm chưa dán nhãn, góp
phần làm môi trường được cải thiện. Cũng có thể coi nhãn sinh thái là một
thông điệp đồng thời là hàng rào phi thuế quan, cản trở việc thâm nhập thị
trường của những sản phẩm chưa dán nhãn.
2.3.3.2. Đối với chính phủ:
Đề tài nghiên cứu khoa học
Việc áp nhãn sinh thái đối với sản phẩm sẽ giúp chính phủ quản lý tốt
hơn vấn đề môi trường quốc gia, quản lý tình hình lưu thông phân phối hàng
hoá và dịch vụ trên thị trường, theo dõi tốt việc chăm sóc sức khỏe của nhân
dân, và thực hiện tốt các mục tiêu mà nhà nước đề ra.
2.3.3.3. Đối với doanh nghiệp:
Áp dụng nhãn sinh thái sẽ đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi Ých.
Đó là:
- Giúp bảo vệ môi trường.
- Đáp ứng các kỳ vọng của khách hàng về sản phẩm
- Cải thiện được các cơ hội thị trường.
- Nâng cao được chất lượng sản phẩm
- Tiết kiệm được chi phí do giảm thời gian chế biến, giảm nguyên liệu
đầu vào, giảm tỷ trọng sai sót và hỏng hóc.
- Khai thác được những lợi thế cạnh tranh, nâng cao hình ảnh, uy tín của
công ty.
- Thoả mãn được các yêu cầu của đối tác và giúp doanh nghiệp cạnh
tranh hiệu quả.
2.3.3.4. Đối với người tiêu dùng:
Nhãn sinh thái chính là nguồn cung cấp các thông tin tin cậy, đầy đủ cho
khách hàng giúp họ có những hiểu biết hơn về môi trường, về những lợi Ých
do việc sử dụng sản phẩm có nhãn sinh thái mang lại. Đồng thời cũng giúp
cho người tiêu dùng có được những chỉ dẫn, hướng dẫn lựa chọn đúng đắn và

phù hợp khi mua một sản phẩm bất kỳ.
2.4. Sự cần thiết phải áp dụng bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường ISO
14000:
Bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường ISO 14000 là các tiêu chuẩn mang
tính chất tự nguyện với các tổ chức và doanh nghiệp. Để xây dựng một hệ
thống quản lý môi trường phù hợp với tiêu chuẩn đòi hỏi những nỗ lực và chi
phí không hề nhỏ. Vậy tại sao các tổ chức, doanh nghiệp lại mong muốn được
chứng nhận ISO 14000? Để trả lời câu hỏi này, chúng ta sẽ phân tích từng
khía cạnh, nguyên nhân của sự cần thiết phải áp dụng ISO 14000.
Đề tài nghiên cứu khoa học
2.4.1. Xuất phát từ thực trạng ô nhiễm môi trường và tính cấp thiết của vấn
đề bảo vệ môi trường.
Ô nhiễm môi trường không phải là vấn đề mới. Từ những thập niên 60
và 70, con người đã bàn nhiều đến tình trạng này. Tuy nhiên, có thể thấy sự
liên hệ giữa ô nhiễm rộng rãi trên toàn thế giới và cuộc cách mạng vÒ công
nghiệp. Từ giữa thế kỷ XIX đến nay, cách mạng công nghiệp đã bùng nổ
mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới, từ các nước phát triển đến những nước
đang phát triển. Kéo theo đó, trong những năm gần đây, cùng với vấn đề bùng
nổ dân số, việc nhân lên của các nhà máy tại các thành phố đã gây ra những
tác động nghiêm trọng đến môi trường. Việc tăng nhanh số lượng chủng loại
các chất thải độc hại từ các ngành nông nghiệp đã tạo ra các tác động rất nguy
hại đến môi trường. Biểu hiện rõ rệt của những tác động trên: nguồn nước bị ô
nhiễm nặng, không chỉ những mạch nước ngầm, sông, suối, hồ mà thậm chí
nước mưa, nguồn nước thường được coi là trong sạch nhất cũng đã trở thành
nguồn gây độc cả đối với thực vật, động vật và con người. Tầng OZON bảo vệ
môi trường đang giảm dần, tầng khí quyển bị ảnh hưởng hiệu ứng nhà kính và
đang nóng dần lên. Theo các nhà khoa học, những chất thải Chloroflourocarbons
hay CFC của ngành công nghiệp dung môi gây ra hiện tượng đó. Các hiện
tượng trên là dấu hiệu cảnh tỉnh con người hãy bảo vệ cải thiện môi trường.
Muốn làm được như vậy, không chỉ dừng lại ở việc thay đổi trang thiết bị

công nghệ hiện đại, nâng cao trình độ sản xuất của công nhân, mà ngay từ các
cáp lãnh đạo phải thiết lập hệ thống các kế hoạch, mục tiêu về quản lý môi
trường trong tổ chức, doanh nghiệp mình. ISO 14000. Bộ tiêu chuẩn về quản
lý môi trường sẽ giúp các doanh nghiệp trong việc sản xuất kinh doanh có
hiệu quả, đồng thời giảm thiểu tác hại đến môi trường.
2.4.2. Xu hướng quốc tế hoá:
Ngày nay xu thế quốc tế thương mại diễn ra mạnh mẽ. Các nước trên thế
giới đang không ngừng mở rộng trao đổi thương mại. Sự tồn tại tình trạng
thiếu cân bằng những tiêu chuẩn hoá của mỗi quốc gia, vô hình chung sẽ trở
thành hàng rào cản trở thương mại quốc tế. Hiện nay trên thế giới, tiêu biểu là
các nước thuộc EU, Nhật Bản, Mỹ đã đặt ra những tiêu chuẩn môi trường rất
Đề tài nghiên cứu khoa học
khắt khe đối với những sản phẩm - dịch vụ xuất - nhập khẩu. Đó là rào cản,
đồng thời cũng là ưu thế cạnh tranh đối với các doanh nghiệp đã áp dụng ISO
14000 - Bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường. Dự kiến trong năm nay, Việt
Nam sẽ gia nhâp WTO, bên cạnh những cơ hội sẽ có được là những thách
thức và áp lực cạnh tranh khá lớn thị trường quốc tế. Do vậy, muốn hướng
vào các thị trường xuất khẩu lớn trên thế giới thì ngoài việc tập trung vào mục
tiêu kinh tế các doanh nghiệp phải quan tâm hơn nữa đến vấn đề môi trường
và phúc lợi xã hội.
2.4.3. ISO 14000 bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
Người tiêu dùng trên toàn thế giới nói chung có 8 quyền được cộng đồng
quốc tế thừa nhận - 8 quyền này đã được thể hiện trong Pháp lệnh Bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng:
- Được thảo mãn những nhu cầu cơ bản
- Đựơc an toàn
- Được thông tin
- Được lựa chọn
- Được lắng nghe
- Được bồi thường

- Được giáo dục
- Được có môi trường vững bền, lành mạnh.
Ngày nay người tiêu dùng không chỉ dừng lại ở những đòi hỏi được mua
- sử dụng những sản xuất - dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Mà họ còn
mong muốn và yêu cầu những sản phẩm đó không gây nguy hại cho bản thân
người tiêu dùng và môi trường. Điều đó đã được Pháp luật Việt Nam và quốc
tế qui định. ISO 14000 là các tiêu chuẩn về quản lý môi trường được áp dụng
cho các tổ chức và doanh nghiệp dựa trên chiến lược phát triển bền vững.
Việc áp dông ISO 14000 là phù hợp với xu thế thời đại và yêu cầu của thị
trường. Đây là lợi thế to lớn, công cụ cạnh tranh hiệu quả cho các doanh
nghiệp, tổ chức này trong việc chiếm lĩnh thị trường, phát triển thương hiệu.
2.5. Bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc áp dung
ISO14000:
Đề tài nghiên cứu khoa học
Ngày này, bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường - ISO 14000 không còn
mới mẻ lạ lẫm, mà ngày càng được áp dụng rộng rãi trên phạm vi toàn thế
giới. Theo thống kê năm 2004: Có danh sách 10 nước có số lượng tổ chức,
doanh nghiệp áp dung ISO 14000 hàng đầu trên thế giới.(bảng 1 - phụ lục)
Các nước đi đầu trong việc áp dụng ISO 14000 đã để lại những bài học
kinh nghiệm:
2.5.1. Vai trò của Nhà nước:
Nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và thực hiện Bộ
tiêu chuẩn ISo 14000. Trước tiên, Nhà nước đưa ra định hướng, chiến lược,
thực hiện công tác đối ngoại như tham gia vào các tổ chức, công ước, hiệp
định quốc tế có liên quan đến các tiêu chuẩn về quản lý môi trường và một số
công việc khác mà tư nhân không thể đảm nhiệm được. Đồng thời khi các tổ
chức tư nhân độc lập thực hiện việc cấp và quản lý các chứng nhận về
ISO14000 thi phải có trách nhiệm báo cáo với cơ quan quản lý Nhà nước,
Nhà nước chỉ tài trợ một phần cho hoạt động.
2.5.2. Xây dựng một cơ cấu chuyên ngành:

Các chương trình đều có một cơ quan đứng ra chịu trách nhiệm quản lý
toàn bộ hoạt động đối với từng công việc cụ thể, cơ quan này sẽ thành lập và
giao trách nhiệm cho từng bộ phận thực hiện. Các chương trình khác nhau sẽ
có cơ cấu tổ chức khác nhau, nhưng đều phải đảm bảo thực hiện việc đÒ ra
mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể từng giai đoạn.
2.5.3. Lựa chọn sản phẩm là giai đoạn quyết định sự thành công - thất bại
của chương trình:
Việc lựa chọn sản phẩm được thực hiện theo các đề xuất từ phía công
chúng, các bên liên quan hoặc trong quá trình chứng nhận và khảo sát nhu cầu
của người tiêu dùng. Việc lựa chọn sản phẩm được tuân thủ theo một thủ tục
chặt chẽ để đảm bảo sản phẩm được lựa chọn sẽ mang lại hiệu quả là đáp ứng
nhu cầu của người tiêu dùng, tạo ra tính định hướng thị trường cho sản phẩm.
2.5.4. Xây dựng tiêu chí phù hợp, quá trình cấp chứng nhận phải công khai
và định ra mức phí hợp lý:
Phải xây dựng được tiêu chí phù hợp với tiêu chí quốc tế và khả năng
Đề tài nghiên cứu khoa học
của doanh nghiệp. Để làm được như vậy, đầu tiên phải có một nhóm khởi
thảo tiêu chí, sau đó lấy ý kiến rộng rãi từ công chúng để đảm bảo sự tin cậy
và minh bạch của tiêu chí. Đồng thời phải xoá bỏ sự phân biệt đối xử với các
nhà sản xuất nước ngoài.
Khi các tiêu chí được công bố thì các doanh nghiệp, tổ chức đều có thể
đệ trình đơn xin cấp chứng nhận ISO 14000. Tuy nhiên việc tiến hành đánh
giá, kiểm tra phải diễn ra công khai, việc cấp chứng nhận phải nhanh chóng,
kịp thời dựa trên kết quả đánh giá chính xác. Nếu các doanh nghiệp nào chưa
đáp ứng đủ yêu cầu và qui định, phải nhanh chóng trả lời người nộp đơn và
giải thích cụ thể. Đồng thời trong thời gian doanh nghiệp đã được chứng
nhận, phải định kỳ kiểm tra việc tuân thủ các tiêu chí của bộ tiêu chuẩn, từ
cấp lãnh đạo đến từng phân xưởng sản xuất, để đề ra những hành động vừa
thúc đẩy hoạt động sản xuất của doanh nghiệp vừa cải thiện môi trường.
Việc xây dựng, cấp và quản lý chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường

phải được các cơ quan chức năng đặt ra những mức phí hợp lý. Một số nước
đã có quy định về việc giảm mức phí này cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
tiêu biểu là tại các nước đang phát triển. Nhằm giảm bớt gánh nặng về tài
chính cho các doanh nghiệp này trong quá trình tham gia vào chương trình
xây dựng bộ tiêu chuẩn môi trường tại các doanh nghiệp, khuyến khích các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm bảo theo nguyên tắc là không gây ra rào cản.
2.5.4. Giải đáp kịp thời, nhanh chóng những vướng mắc của các doanh
nghiệp về ISO 14000:
Ngày nay, áp dụng ISO 14000 tại các doanh nghiệp đang trở thành xu
thế tất yếu. Tuy nhiên, các doanh nghiệp lại chưa hiếu đúng, hiểu sâu về bộ
tiêu chuẩn quản lý môi trường vì vậy việc giải đáp kịp thời, nhanh chóng
những vướng mắc đó của các doanh nghiệp là điều kiện cho sự thành công,
hiệu quả trong việc áp dông ISO 14000. Các thắc mắc thường gặp:
- Không biết tổ chức chúng tôi có cần ISo 14000 không?
- Lợi Ých từ ISO 14000?
- Để triển khải một dự án ISO14000, cần bao nhiều thời gian?
- Dự kiến chi phí một dự án ISO14000 là bao nhiêu?
Đề tài nghiên cứu khoa học
- Để chứng nhận ISO14000, Tổ chức chúng tôi có nhất thiết phải thỏa
mãn hết các yêu cầu pháp luật về môi trường?
Đề tài nghiên cứu khoa học
II. tổng quan về ngành dệt may , Thực trạng quản lý môi trường và tình
hình áp dụng ISO14000:
1. Ngành dệt may và tổng công ty dệt may Việt Nam:
1.1. Vài nét về ngành dệt may:
1.1.1. Đặc điểm:
Việt Nam, nước có khí hậu cận nhiệt đới gió mùa với trên 80 triệu dân
cư và tỷ lệ tăng trưởng GDP vào loại cao trên thế giới (7%-8%/ năm), là nơi
rất thuận lợi cho việc phát triển ngành công nghiệp dệt may. Trên thực tế, dệt
may đã trở thành một trong những ngành kinh tế trọng điểm và có đóng góp

to lớn trong nền kinh tế quốc dân của nước ta, đặc biệt là đóng góp trong kim
ngạch xuất khẩu. Bằng chứng là năm 2005, dệt may là một trong sáu ngành
xuất khẩu lớn của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu đứng thứ hai cả nước.
Đây là một ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động và sản xuất
ra mặt hàng phục vụ cho việc may mặc là một trong những nhu cầu thiết yếu
của con người. Ở nước ta, dệt may đã có mặt từ rất lâu và đã có ảnh hưởng
sâu sắc đến đời sống nhân dân.
Trước hết, yêu cầu nguyên liệu của ngành dệt may hoàn toàn có thể đáp
ứng được ở nước ta do sự tồn tại và phát triển của các vùng nguyên liệu rộng
lớn. Ngành dệt may phát triển sẽ thúc đẩy nghề trồng dâu nuôi tằm vốn phù
hợp với điều kiện khí hậu và kinh nghiệm nuôi trồng của nhân dân.
Yêu cầu của dệt may về nguồn nhân lực cũng không quá khắt khe, chủ
yếu là về số lượng chứ không đòi hỏi cao về trình độ. Dân cư Việt Nam đông
đảo và có trình độ tương hợp nên ngành dệt may sẽ gải quyết được việc làm
cho đại đa số lao động trong nước.
Trình độ công nghệ cho ngành dệt may không cao, Việt Nam có khả
năng đáp ứng được. Với hệ thống máy móc thiết bị cũ, các doanh nghiệp dệt
may đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể song họ vẫn rất quan tâm đầu tư
mua sắm các thiết bị hiện đại của ngành dệt may thế giới như: dây chuyền
chải thô CX-4000 của Ý, máy ghép của Thuỵ Sỹ, máy lạnh CIAT của Pháp,
YORT của Mỹ, máy nhuộm cao áp Đài Loan, máy dệt kim của Bỉ, …
Đề tài nghiên cứu khoa học
Các thị thường xuất khẩu chủ yếu của dệt may nước ta là EU, Mỹ, Nhật
Bản, trong đó Mỹ,EU là thị trường chủ lực. Mỗi thị thường này có các đặc
điểm khác nhau và tại đây chúng ta gặp phải sự cạnh tranh lớn của các cường
quốc dệt may như Trung Quốc, Ên Độ, …
Về tác động đến môi trường, dệt may gây ra một số ảnh hưởng tiêu cực
đến môi trường bởi bụi, tiếng ồn, nước thải và các hoá chất độc hại. Cùng với
sự phát triển của ngành, lượng chất thải này sẽ càng lớn mà công nghệ xử lí
hiện nay khó có thể đảm nhận được. Bên cạnh đó ngành dệt may còn có một

số sản phẩm gây ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ người tiêu dùng. Điều này cần
được khắc phục để ngành sẽ ngày càng phát triển cao và khẳng định hơn nữa
vai trò của mình trong nền kinh tế trong những năm sắp tới,.
1.1.2. Thuận lợi:
Nước ta có điều kiện phù hợp với việc phát triển ngành dệt may không
chỉ về khí hậu, nguồn nhân lực, nguyên liệu mà còn về hình hình phát triển
kinh tế, xã hội . Các yêu cầu về nguồn lực các yếu tố đầu vào đều có thể được
đáp ứng đầy đủ: có rất nhiều nơi, nhiều cơ sở đào tạo nghề dệt may; các vùng
nguyên liệu, các nơi sản xuất truyền thống đang được khôi phục và đầu tư
phát triển .
Đầu ra cho sản phẩm ngành dệt may dễ dàng vì Việt Nam có thị trường
tiêu thụ trong nước rộng lớn và các thị thường xuất khẩu tiềm năng tại Mỹ,
EU, Nhật Bản, Nhu cầu về sản phẩm dệt may cũng tăng nhanh trong những
năm gần đây do sù quan tâm của người dân tới vấn đề ăn mặc và việc họ chịu
chi trả nhiều hơn cho các sản phẩm mang tính thời trang.
Nước ta có truyền thống lâu đời trong lĩnh vực dệt may và đã xây dựng
được một vị thế tương đối ổn định trên thị trường trong nước và trên thế giới:
năm 2005, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam đứng thứ 2 trong nước,
thứ 16 trên thế giới và là nhà xuất khẩu lớn thứ 7 tại Mỹ. Ngành dệt may nước
ta được đánh giá cao trong mắt bạn bè quốc tế và dần có sức cạnh tranh với
hàng dệt may Trung Quốc.
Theo số liệu của Quỹ hỗ trợ phát triển, hiện tổ chức tài chính này đã cho
vay vốn ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu cho trên 2.200 doanh nghiệp với doanh sè
Đề tài nghiên cứu khoa học
cho vay khoảng 30.000 tỷ đồng, để thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đối với
những hàng hoá là thế mạnh của Việt Nam trong đó có ngành dệt may. Những
đơn vị được hỗ trợ đều mở rộng được thị thường, gia tăng xuất khẩu.
Nhà nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng của ngành nên đã chú
trọng phát triển dệt may thành ngành kinh tế trọng điểm, mũi nhọn. Thủ
tướng Chính phủ, ngoài các chính sách khuyến khích đầu tư , đã phê duyệt

các chiến lược phát triển và với nhiều cơ chế hỗ trợ thực hiện chiến lược phát
triển ngành dệt may Việt Nam đến năm 2010 một cách rất chi tiết.
Như vậy có thể khẳng định dệt may nước ta có rất nhiều điều kiện thuận
lợi và trên thực tế đã được quan tâm phát triển. Tuy nhiên, ngành còn có rất
nhiều khó khăn cần khắc phục.
1.1.3. Khó khăn:
Tiềm năng phát triển của nước ta cao song lại chưa tận dụng và khai
thác được triệt để. Vẫn xảy ra tình trạng khan hiếm lao động ở các khu công
nghiệp . Quan hệ lao động trong ngành dệt may - lĩnh vực cần nhiều lao động
nhất - đang rất căng thẳng. Tình hình đình công liên miên và cuối năm 2005
và đầu năm 2006 tác động đến hầu hết doanh nghiệp. Một trong những
nguyên nhân trực tiếp dẫn đến các vụ đình công gần đây là chế độ chính sách
ở một số doanh nghiệp chưa thoả đáng đồng thời cách thức gải quyết cũng
chưa hợp lí.
Ngành dệt may nước ta chưa khai thác được tiềm năng phát triển vùng
nguyên liệu trong nước và chất lượng nguyên liệu trong nước chưa cao nên
vẫn phải nhập 80% từ nước ngoài. Chính vì thế, mỗi biến động giá cả nhập
khẩu bông, hoá chất, tơ sợi trên thị thường ảnh hưởng trực tiếp tới tất cả các
doanh nghiệp dệt may.
Năng lực sản xuất của các doanh nghiệp dệt may trong nước không đủ
đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về số lượng, chất lượng của sản phẩm vải,
may mặc của người tiêu dùng. Cụ thể, tổng số 200 doanh nghiệp nội địa sản
xuất ở mức hạn chế (500 triệu mét vải/năm), trong chỉ có 30% là đủ tiêu
chuẩn xuất khẩu ,
Đề tài nghiên cứu khoa học
Khả năng cạnh tranh của từng doanh nghiệp bị hạn chế từ chất lượng sản
phẩm, chủng loại sản phẩm, kinh doanh theo giá FOB ( mua đứt bán đoạn),
trình độ công nghệ cho đến việc đầu tư các loại thiết bị chuyên dụng phục vụ
may sản phẩm chất lượng cao.
Mặc dù Trung Quốc hiện tại bị áp hạn ngạch dệt may với 34 chủng loại

mặt hàng từ năm 2006 đến 2008 nhưng nhiều mặt hàng của Việt Nam vẫn
phải cạnh tranh trực tiếp với Trung Quốc. Đối với các đối thủ "vừa tầm" hơn
như Ên Độ, Pakistan, công suất của Việt Nam cũng chỉ bằng 50-70% đối thủ.
Dệt may Việt Nam chưa sản xuất được những mặt hàng có giá trị cao và chủ
yếu vẫn là làm gia công, luôn lo lắng về vấn đề nguyên phụ liệu.
Các nhà hoạch định chiến lược chưa đánh giá được hết mình và không
đánh giá đúng thực lực của các đối thủ cạnh tranh. Điều này đã làm hạn chế
khả năng tăng trưởng xuất khẩu của ngành dệt may.
Môi trường đầu tư kinh doanh ngành chưa ổn định, khó thu hút đầu tư
nước ngoài trong khi nguồn vốn trong nước còn hạn chế. Do môi trường đầu
tư và kinh doanh rất bất ổn, một số nhà đầu tư Đài Loan vào lĩnh vực dệt may
đã có động thái dừng lại, thậm chí đối với cả dự án nhà máy dệt đã xây xong
80%.
Các chính sách với ngành chưa nhất quán, cơ chế quản lí hạn ngạch cho
năm sau chưa rõ ràng. Nhiều thủ tục vẫn gây khó khăn cho các doanh nghiệp.
Sự phân bố các doanh nghiệp chưa hợp lí, chưa có các khu công nghiệp
riêng để chuyên môn hoá sản xuất và chưa di dời, chuyển địa điểm sản xuất
về những địa phương có nguồn lao động lớn.
Dự báo trong năm nay, Vinatex phải đối mặt với 4 khó khăn lớn: Thứ
nhất, đó là vấn đề hạn ngạch, do Việt Nam vẫn chưa là thành viên WTO nên
vẫn phải chịu hạn ngạch đối với thị trường lớn nhất là Mỹ, lên tới 60% kim
ngạch xuất khẩu; Thứ hai, chi phí đầu vào tiếp tục tăng, trong khi nhiều doanh
nghiệp phải giảm giá để cạnh tranh cả trong nước và thế giới; Thứ ba, sức Ðp
cạnh tranh tại thị trường nội địa rất lớn, do Việt Nam phải thực hiện giảm
thuế nhập khẩu còn 0% - 5% để hội nhập hoàn toàn vào AFTA; Thứ tư, là
những tác động trái ngược khi Mỹ và EU tái áp đặt hạn ngạch đối với Trung
Đề tài nghiên cứu khoa học
Quốc, các doanh nghiệp trong nước phải đối phó với nguy cơ bị các doanh
nghiệp Trung Quốc chuyển tải bất hợp pháp qua Việt Nam hoặc tiêu thụ đồ
tại thị trường Việt Nam qua buôn lậu.

1.2. Tổng công ty dệt may Việt Nam:
1.2.1. Tình hình phát triển:
1.2.1.1. Trước khi thành lập tập đoàn ( tháng 12/ 2005):
Tổng công ty dệt may Việt Nam thành lập từ năm 1995 theo mô hình
công ty 91 với hơn 60 đơn vị thành viên, có nhiều đơn vị có quy mô lớn, hoạt
động theo mô hình công ty mẹ - công ty con.
Tổng công ty có 3 trường đào tạo, 3 viện nghiên cứu chuyên ngành đã
cung ứng dịch vụ cho nhiều đơn vị ngoài tổng công ty. Tổng công ty là hạt
nhân cho mọi hoạt động.
Quan hệ giữa tổng công ty với các đơn vị thành viên chủ yếu là quan hệ
hành chính. Khi thành lập, công ty bao gồm các đơn vị do nhà nước cấp vốn
100%, không khuyến khích được các nguồn vốn xã hội. Sự gắn bó với nhau
về lợi Ých kinh tế, công nghệ, thị trường,… không rõ ràng. Từ đó dẫn đến
mục tiêu tích tụ, tập trung tài sản, tài chính ở tổng công ty và các công cụ chi
phối như thương hiệu, thị thường chưa mạnh.
Trong quá trình hoạt động, do cơ chế thị thường, đã có nhiều công ty tự
phát hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con là công ty dệt may Hà Nội,
công ty dệt Phong Phú, công ty dệt miền Trung Hoà Thọ, công ty dệt Nam
Định, công ty may Việt Tiến, công ty may Nhà Bè, …
Sau 10 năm hoạt động, tổng công ty đã có sự đóng góp đáng kể vào sự
tăng trưởng của ngành dệt may Việt Nam. Mặc dù với số lao động 105000
người, chỉ chiếm 10% so với lao động công nghiệp của toàn ngành nhưng
năm 2004 đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp gần 9.500 tỷ đồng, chiếm
32% giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành. Tổng công ty và các đơn vị
nòng cốt đã hỗ trợ tích cực cho việc phát triển công nghiệp dệt may địa
phương.
Đến cuối năm 2005, ngành dệt may đã trải qua 1 năm thực hiện bãi bỏ
hạn ngạch (từ ngày 1/1/2005) giữa các nước WTO. Điều này tạo lợi thế cho
Đề tài nghiên cứu khoa học
các cường quốc dệt may như Trung Quốc, Ên Độ, … tăng nhanh lượng hàng

xuất khẩu và khả năng cạnh tranh về giá vì không phải chịu phí quota. Trong
khi đó, thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam là Mỹ vẫn bị áp đặt hạn
ngạch. Các chi phí đầu vào như xơ, sợi tổng hợp, xăng dầu, phí vận chuyển,
kho bãi… tăng do biến động của giá dầu thế giới, làm giảm sức cạnh tranh
của hàng dệt may Việt Nam. Các doanh nghiệp thuộc tổng công ty đang trong
giai đoạn đổi mới sắp xếp lại doanh nghiệp, nên có biến động về lao động và
đội ngũ cán bộ quản lý …
Toàn ngành dệt may cuối năm ngoái đã dừng lại, tụt hậu so với yêu cầu.
Các nguyên nhân khách quan là do sức Ðp của quá trình hội nhập, sự bất lợi
của Việt Nam so với các thành viên WTO…Các nguyên nhân chủ quan là do
các doanh nghiệp thiếu nhạy bén, phản ứng chậm khi thị trường và các điều
kiện kinh doanh thay đổi, chưa chủ động tiếp cận thị trường, khách hàng. Một
số doanh nghiệp sau cổ phần hoá, có xu hướng muốn đảm bảo an toàn, tránh
rủi ro đã chuyển sang sản xuất hàng gia công xuất khẩu làm cho tổng doanh
thu giảm sút. Có những doanh nghiệp chưa tập trung đẩy mạnh công tác xuất
khẩu nên tổng doanh thu còn thấp.
Tuy trong điều kiện khó khăn, các doanh nghiệp thành viên của tổng
công ty dù có nhiều yếu kém nhưng cũng có một số doanh nghiệp đã nỗ lực
nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, bảo đảm việc làm cho 98285 lao động
với mức thu nhập khá cho công nhân (bình quân 1,370 triệu
đồng/người/tháng). Năm 2005, Vinatex đạt 16.265 tỷ đồng doanh thu, tăng
10,9% so với năm trước, trong đó kim ngạch xuất khẩu (tính đủ nguyên phụ
liệu) đạt gần 900 triệu USD, tăng 9,7%. Mặc dù mức tăng trưởng sản xuất
không cao bằng những năm gần đây nhưng lợi nhuận phát sinh đã đạt trên
151 tỷ đồng, tăng gần 61% so với năm 2004. Riêng 6 tháng đầu năm 2005,
tổng công ty đã đạt được 4.445,9 tỉ đồng giá trị sản xuất công nghiệp, 7.793,4
tỉ đồng doanh thu; Kim ngạch xuất khẩu của tổng công ty đạt 224,4 triệu
USD, tăng 11,8% so với cùng kì năm 2004, trong đó thị thường chủ lực là Mỹ
tăng 14,7%, EU tăng 9,7%, Nhật Bản tăng 19%.
Đề tài nghiên cứu khoa học

Các doanh nghiệp có kim ngạch xuất khẩu cao là công ty dệt may Hà
Nội ( Hanoisimex), dệt kim Đông xuân, dệt may Hoà Thọ, dệt Phong Phó,
May 10, May Việt Tiến, May Nhà bè… Nhiều sản phẩm của các công ty này
được người tiêu dùng ưa thích. Nổi bật trong đó là sự bứt phá ngoạn mục của
Hanosimex (Trong cơ chế thị thường, với sự năng động và nhạy bén, từ chỗ
chỉ có mặt hàng sợi chủ yếu bán trong nước, Hanosimex đã bứt phá, đầu tư
mạnh để có thêm các sản phẩm dệt kim, khăn bông và Denim (vải bò)…Sau
gần 10 năm giá trị tổng sản lượng tăng 8 lần, doanh thu tăng 2,95 lần, xuất
khẩu tăng 3,55 lần, thu nhập bình quân của người lao động tăng 2,4 lần… Với
việc đầu tư xây dựng nhà máy dệt vải Denim, công ty đã đi tắt, đón đầu Hiệp
định thương mại Việt Mỹ , mở ra thị thường xuất khẩu đầy tiềm năng. Chỉ sau
3 năm đi vào sản xuất, doanh thu từ mặt hàng này tăng gấp 3 lần, gải quyết
việc làm cho hơn 200 lao động. Hanosimex hứa hẹn bước phát triển bền vững
trong thời hội nhập) và sự nổi lên của May 10 thành một thương hiệu mạnh
(Từ năm 1992 đến nay, công ty đạt tốc độ tăng trưởng 20-30%/năm. Doanh
thu qua các năm liên tục tăng: năm 2002 là 254 tỉ đồng, năm 2003 là 350 tỉ
đồng, năm 2004 là 457 tỉ đồng… doanh thu nội địa thường chiếm 20-25%
tổng doanh thu toàn Công ty).
Đặc biệt, công ty cổ phần May 10 đã xây dựng và được cấp chứng chỉ
ISO 9001: 2000 và ISO 14000, tăng thêm niềm tin cho khách hàng ở các nước
phát triển.
Cuối năm 2005, tổng công ty đã đệ trình đề án phát triển thành tập đoàn
dệt may Việt Nam để trình Thủ tướng chính phủ với mục tiêu đề án tập đoàn
sẽ tập trung vào khắc phục những hạn chế cơ bản của mô hình tổng công ty
91 vốn có nhiều bất cập sau 10 năm hoạt động.
1.2.1.2. Tình hình phát triển từ khi chuyển sang mô hình tập đoàn:
Ngày 1/12/2005, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt đề án thành lập tập
đoàn dệt may Việt Nam trên cơ sở sắp xếp, tổ chức lại tổng công ty dệt may
Việt Nam (Vinatex) và các đơn vị thành viên. Đến ngày 8/12/2005, tổng công
ty tuyên bố chuyển đổi thành Tập đoàn dệt may Việt Nam.

×