Tải bản đầy đủ (.doc) (62 trang)

Đề cương thi tuyển Cao học ngành Triết môn Lịch sử triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (409.22 KB, 62 trang )

Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học

Nội dung 1: LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG CỔ ĐẠI
I. LỊCH SỬ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI
1. Hoàn cảnh ra đời của triết học Ấn Độ Cổ đại.
a. Điều kiện tự nhiên.
- Ấn Độ là một bán đảo lớn - một "tiểu lục địa" nằm ở miền Nam châu Á; phía
Tây Nam và Đông Nam giáp Ấn Độ Dương, phía Bắc là dãy Hymalaya hùng vĩ án
ngữ theo một vòng cung dài 2.600km.
Điều kiện thiên nhiên và khí hậu của Ấn Độ rất phức tạp. Địa hình vừa có
nhiều núi non trùng điệp, vừa có nhiều sông ngòi với những vùng đồng bằng trù phú;
có vùng khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều, có vùng lạnh giá, quanh năm tuyết phủ, lại
cũng có những vùng sa mạc khô cằn, nóng nực. Tính đa dạng, khắc nghiệt của điều
kiện tự nhiên và khí hậu là những thế lực tự nhiên đè nặng lên đời sống và ghi dấu ấn
đậm nét trong tâm trí người Ấn Độ cổ.
b. Điều kiện kinh tế xã hội.
- Nền văn minh đầu tiên xuất hiện ở Ấn Độ cổ đại cách đây khoảng 4500 - nền
văn minh Sông Ấn -> tồn tại đến khoảng thế kỷ 17 Tr.CN thì bị diệt vong mà không
rõ nguyên nhân.
- Từ khoảng thế kỷ 15 Tr.CN, các bộ lạc du mục người Arya từ Tây bắc tràn
xuống chinh phục Ấn Độ cổ đại, đem theo những phong tục, tập quán, tín ngưỡng,
sau đó bị đồng hoá vào nền văn minh của người Dravida bản xứ ->và trở thành chủ
nhân của Ấn Độ cổ đại. Đây là thời kỳ hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ đầu
tiên của người Arya trên lưu vực sông Hằng và sông Ấn.
- Từ thế kỷ 17 Tr.CN -Ấn Độ trải qua nhiều biến cố với các cuộc chiến tranh
giữa các vương triều và chiến tranh chống sự xâm lăng từ bên ngoài ->Thời cổ đại
của Ấn Độ kéo dài đến thế kỷ thứ 10 SCN.
=> Những đặc điểm nổi bật về kinh tế - xã hội thời kỳ cổ đại ở Ấn Độ là:
+ Sự tồn tại bền vững, dai dẳng của chế độ công xã nông thôn với sở hữu nhà
nước về đất đai.
+ Xã hội được phân hoá thành những đẳng cấp chính: tăng lữ (Brahman), quý


tộc (Ksatriya), bình dân (Vaisya) và tiện nô (Ksudra).
+ Sự thống trị của tôn giáo trên tất các lĩnh vực của đời sống xã hội.
c. Điều kiện về văn hoá.
- Ngay từ thời Vêđa, thiên văn học ấn độ đã bắt đầu xuất hiện. Người Ấn Độ
cổ đã biết sáng tạo ra lịch pháp, phỏng đoán trái đất hình cầu và tự quay quanh trục
của nó. Cuối thế kỷ 5 tr.CN, người Ấn Độ đã giải thích được hiện tượng nhật thực và
nguyệt thực.
+ Về toán học, họ đã phát minh ra chữ số thập phân, tính được trị số pi (π), biết
được những định luật cơ bản về quan hệ giữa cạnh và đường huyền của một tam giác
vuông, biết giải phương trình bậc 2, 3
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 1/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
+ Nền y học ấn độ có từ rất sớm. Ngay trong kinh Vêđa, người ta đã tìm thấy
nhiều tên cây làm thuốc và nhiều phương pháp trị bệnh đơn giản. Vào thế kỷ V
tr.CN, Shursada đã viết sách trình bày thuật chữa bệnh ngoại khoa, bảo trợ thai, vệ
sinh hài nhi, phương pháp dưỡng sinh, tiêu độc
+ Trong nghệ thuật kiến trúc, người Ấn Độ đã có một phong cách kiến trúc độc
đáo, tinh tế, đặc biệt là lối xây dựng chùa chiền, tháp Phật theo kiểu hình tháp vừa có
ý nghĩa triết học, tôn giáo, vừa biểu hiện ý chí, vương quyền.
Tất cả những đặc điểm lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội cùng với sự phát triển
rực rỡ của văn hóa, khoa học Ấn Độ cổ đại là những tiền đề lý luận và thực tiễn
phong phú làm nảy sinh và phát triển những tư tưởng triết học của Ấn Độ cổ đại.
- Văn hoá Ấn Độ cổ, trung được chia thành ba thời kỳ: Văn minh Sông Ấn (TK
25- TK 15 Tr.CN), văn minh Vêda (TK 15 Tr.CN - TK 12 Tr.CN), văn minh Hậu
Vêda (từ TK 7 Tr.CN).
2. Đặc điểm của triết học Ấn Độ cổ đại.
-> Hình thành và phát triển chủ yếu là từ TK 7 Tr.CN trở về sau. Ở thời kỳ này
xuất hiện hai nhóm với các trường phái khác nhau:
+ Các trường phái chính thống thừa nhận quyền uy của kinh Vêda: Samkhya,
Mimansa, Vedalta, Yoga, Nyaya, Vaisesika.

+ Các trường phái không chính thống phủ nhận quyền uy của kinh Vêda:
Lôkayata, Jaina, Đạo phật.
*Đặc điểm chung của triết học ấn Độ cổ, trung đại là:
Thứ nhất, triết học AĐCĐ phát triển rất phong phú nhưng không mang tính
cách mạng; các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống triết học có
trước, không đặt cho mình nhiệm vụ phải sáng tạo ra một hệ thống triết học mới.
Điều đó phản ánh sự trì trệ của xã hội ấn độ cổ đại.
Thứ hai, triết học AĐCĐ gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ sở tín ngưỡng
tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo.
Thứ ba, các hệ thống triết học - tôn giáo ở ấn độ cổ đại đều quan tâm tới vấn đề
nhân sinh quan, đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
*MỘT SỐ TRƯỜNG PHÁI TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ ĐẠI:
I. TƯ TƯỞNG THỜI KỲ VEDA
1. Tư tưởng Kinh Veda.
- Veda là bộ sách cổ nhất của người AĐCĐ cũng như của nhân loại nói chung. Nó
bao gồm: những câu ca dao, vịnh phú, những tập tục, nghi lễ, những bài cúng tế, phù
chú, ma thuật… ->được các bộ tộc người Arya sáng tác ra trong vòng hơn 1000 (lúc
đầu bằng con đường truyền miệng, từ thế kỷ 11- TK 8 TCN ->được chép thành văn
bản).
- Kinh Veda chép bằng tiếng Phạn (Sancrit), gồm 4 bộ kinh sớm là: Rig -
Veda, Sama-Veda, Yajur - Veda và Atharva - Veda; sau đó được bổ sung thêm 2 bộ
kinh trung là Brahmana và Aranyaka; bộ kinh cuối cùng là Upanishad. Có thể nói
Véđa là một tác phẩm tổng hợp, có tính hỗn hợp và có nhiều cách phân chia.
1.1. Giai đoạn từ khoảng 2000 năm tr.CN đến thế kỷ VIII tr. CN
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 2/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
+ Rig - Véđa: Rig, (có nghĩa là "tán ca", tán tụng Véđa)-> Đây là bộ kinh cổ
nhất của nền văn hoá Ấn Độ bao gồm 1017 bài, sau được bổ sung thêm 11 bài dùng
để cầu nguyện, chúc tụng công đức của các vị thánh thần.
+ Sama - Véđa: Tri thức về các giai điệu ca chầu khi hành lễ, gồm 1549 bài.

+ Yajur - Véđa: Tri thức về các lời khấn tế, những công thức, nghi lễ khấn bái trong
hiến tế.
+ Atharva - Véđa: Tách riêng với bộ ba trên, gồm 731 bài văn vần là những lời
khấn bái mang tính bùa chú, ma thuật, phù phép nhằm đem lại những điều tốt lành
cho bản thân và người thân, gây tai họa cho kẻ thù.
Nhìn chung trong các tập Véđa thời kỳ này tập trung phản ánh ước vọng của
người dân thường như mong mưa thuận gió hòa, mong có thức ăn, có gia súc ; đồng
thời phản ánh một tín ngưỡng ma thuật và đa thần giáo, chưa có những khái quát triết
học. Tuy nhiên qua các tập Véđa đã thể hiện sự phát triển của tư duy trừu tượng trong
đó người ta đã thừa nhận một nguyên lý vũ trụ với sức mạnh vô hạn, biểu hiện ra
trong thiên nhiên, trong tinh thần và các nghi lễ.
1.2.Giai đoạn từ thế kỷ VIII tr. CN đến thế kỷ V tr. CN
+ Brahmana: (gọi là Phạn chí hay kinh Bàlamôn), -> gồm những bài cầu
nguyện, giải thích các nghi lễ của Véđa.
+ Aranyaka: -> Nghĩa là suy tưởng trong rừng - kinh rừng, giải thích ý nghĩa
huyền bí của những nghi lễ Véđa và phát hiện những ý nghĩa tượng trưng cao siêu
của Véđa.
+ Kinh Upanishad: ->Là những kinh sách bình chú tôn giáo - triết học, gồm
200 bài kinh giải thích ý nghĩa triết lý sâu xa của những tư tưởng thần thoại, tôn giáo
Véđa. Nó thể hiện một tinh thần mới là giải phóng ý thức khỏi sự ràng buộc của nghi
lễ và bàn đến những vấn đề có ý nghĩa triết học thực sự.
2.1.3. Tư tưởng triết học trong kinh Upanishad
Đây là một trong những bộ kinh quan trọng nhất của kinh Véđa, được biên
soạn qua nhiều thế kỷ (khoảng từ thế kỷ 10 đến thế kỷ 5 tr.CN) bởi các tông phái, các
đạo sĩ trong những hoàn cảnh và địa phương khác nhau.
Khái niệm Upanishad có nghĩa là ngồi trang nghiêm cùng giảng giải lý thuyết
cao siêu, huyền bí với thầy. ("shad" nghĩa là "ngồi"; "upa" nghĩa là "gần"; "ni" có
nghĩa là "trang nghiêm"). Upanishad không phải là một tác phẩm trình bày có hệ
thống, chặt chẽ những quan điểm của một trường phái triết học, mà được viết dưới
hình thức hội thoại giữa thầy và trò. Sự xuất hiện của Upanishad được coi là "bước

nhảy" hoàn toàn từ thế giới quan thần thoại, tôn giáo sang tư duy triết học. Tư tưởng
triết học cơ bản của Upanishad có thể khái quát như sau:
a. Thế giới quan
Upanishad đã đưa ra cách giải thích duy tâm về nguồn gốc của thế giới, coi
Brahman - "Tinh thần vũ trụ tối cao" - là thực thể duy nhất, có trước nhất, tồn tại vĩnh
viễn, bất diệt, là cái từ đó tất cả thế giới này đều nảy sinh ra và nhập về với nó sau khi
chết.
Atman - Linh hồn con người chỉ là sự biểu hiện, là một bộ phận của "Tinh thần
vũ trụ tối cao". Cơ thể con người chỉ là vỏ bọc của linh hồn, là nơi trú ngụ của linh
hồn, là hiện thân của "Tinh thần vũ trụ tối cao" tuyệt đối, bất tử Brahman. Vì toàn bộ
vũ trụ là Brahman nên về bản chất linh hồn là đồng nhất với "Linh hồn tối cao".
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 3/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
b. Nhận thức luận
Upanishad phân sự nhận thức của con người thành hai trình độ khác nhau là hạ
trí (aparâ - vidây) và thượng trí (parâ - vidây). Hạ trí là tri thức phản ánh những sự
vật, hiện tượng riêng lẻ, có hình tướng, danh sắc đa dạng của hiện thực gồm các tri
thức khoa học thực nghiệm, các ngành nghệ thuật. Thượng trí là trình độ vượt qua tất
cả thế giới hiện tượng hữu hình, hữu hạn, thường xuyên biến đổi để nhận thức một
thực tại tuyệt đối, duy nhất, bất diệt (aksara), thường hằng, vô hình và là bản chất của
tất cả những cái đang tồn tại (Brahman). Tuy nhiên, hạ trí cũng có vai trò và công
dụng của nó đối với nhận thức, là phương tiện cần thiết để đưa con người tới hiểu biết
thượng trí.
c. Nhân sinh quan
Upanishad bàn tới vấn đề "luân hồi", "nghiệp báo". Vì Atman "linh hồn" tồn
tại trong thể xác con người trần tục nên ý thức con người lầm tưởng rằng "linh hồn"
đó khác với "linh hồn vũ trụ" bất tử. Những cảm giác, ham muốn dục vọng và hành
động của con người nhằm thỏa mãn những ham muốn đó trong đời sống trần tục đã
gây ra những hậu quả, gieo đau khổ ở kiếp này và cả kiếp sau, gọi là "nghiệp báo"
(Karma). Do vậy, linh hồn bất tử cứ bị giam hãm vào hết thể xác này đến thể xác

khác, bị che lấp, ràng buộc bởi thế giới hiện tượng như ảo ảnh, gọi là sự "luân hồi"
(Samsara), không nhận ra và không trở về đồng nhất với chân bản của mình là
Brahman được.
Muốn giải thoát linh hồn bất tử khỏi vòng vây hãm của luân hồi, nghiệp báo để
đạt tới đồng nhất với "Tinh thần vũ trụ tối cao" tuyệt đối thì con người phải dốc lòng
toàn tâm tu luyện hành động và tu luyện tri thức. Bằng nhận thức trực giác, thực
nghiệm tâm linh, con người mới nhận ra chân bản của mình, khi đó linh hồn bất tử
mới đồng nhất được với "linh hồn vũ trụ tối cao" và bắt đầu "siêu thoát" (moksa).
2. Tư tưởng của hai bộ sử thi Ramayana và Mahabharata.
a. Sử thi Ramayana
- Bộ sử thi này kể về việc hoàng tử Rama và người em cùng cha khác mẹ -
tướng khỉ Hanuman chiến đấu cứu người vợ yêu quý, sinh đẹp là nàng Sita. Nhưng
sau đó lòng nghi kị, ghen tuông đã giết chết nàng Sita khi đang mang trong bụng đứa
con của Rama.
- Tư tưởng chủ yếu trong Ramayana -> là triết lí đạo đức – nhân sinh về cái
thiện, cái ác, đức hy sinh, lòng quả cảm, bổn phận tự nhiên và những mâu thuẫn trong
mỗi người giữa cái cao thượng và thấp hèn.
- Bộ sử thi này còn chứa đựng những yếu tố duy vật tự phát như: không thừa
nhận linh hồn bất tử - cho rằng con người ta sinh ra từ đất -> chết đi ->lại trở về với
đất; tin vào cảm giác, chỉ những gì được cảm giác chứng thực thì mới đáng tin cậy.
b. Sử thi Mahabharata ->là tác phẩm sử thi đồ sộ, được coi là cuốn “bách khoa
toàn thư” không chỉ của nền văn hóa Ana độ mà của cả thế giới.
- Mahabharata ->có nghĩa “đại thi tập về cuộc chiến tranh của dòng họ Bharata”.
- Kể về câu chuyện cuộc chiến kéo dài 18 ngày đêm giữa 5 hoàng tử dòng họ
Pandava với 100 anh em dòng họ Kaurava. Họ đều là thân tộc, con cháu của Bharata,
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 4/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
chỉ vì tranh giành đất đại mà chem. giết lẫn nhau => Câu chuyện phản ánh quá trình
hình thành các quốc gia chiếm hữu nô lệ ở Ấn Độ cổ đại.
->Trong sử thi có lồng ghép những sự tích thần linh, ẩn dụ triết học, phương

châm xử thế…trong đó có phần lắp ghép triết học quan trọng nhất là tác phẩm triết
học nổi tiếng Bhagavad-Gita (Chí tôn ca) ->Đây là lời khuyên của người đánh xe
Krishna (hiện thân của thần Vishnu), mách bảo cho dũng sĩ Arjuna trong đêm trước
trận chiến, thuyết giải về lẽ trời, bổn phận… Ở đó thừa nhận linh hồn là bất tử, thế
giới vạn vật chỉ là ảo ảnh phù du, tinh thần tuyệt đối tối cao mới là bản thể đích thực,
cho nên con người phải hành động theo bổn phận (Dharma) một cách nhiệt tình, vô
tư, dốc sức chiêm nghiệm nội tâm mới tìm ra chân bản, có lòng tin thờ phụng đấng
tối cao mới được siêu thoát (đây là cơ sở của đạo Hinđu).
II. TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO (Trường phái Phật giáo “Buddha”)
- Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối
thế kỷ 6 tr. CN ở miền Bắc ấn Độ, phía Nam dãy Hymalaya, vùng biên giới giữa Ấn
Độ với Nêpan hiện nay. Đạo Phật ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo
Bàlamôn và chế độ đẳng cấp, lý giải căn nguyên nỗi khổ và tìm con đườn giải thoát
con người khỏi nỗi khổ đó.
- Người sáng lập Đạo Phật là Thích Ca Mâu Ni có tên thật là Siddharha (Tất
Đạt Đa) họ là Gautama (Cù Đàm), con trai đầu của vua Suddhodana (Tịnh Phạn)
dòng họ Sakya, có kinh đô là thành Kapilavatthu (Ca- tỳ - la - vệ).
- Phật Thích Ca sinh 8/4/563 tr.CN và mất năm 483 tr.CN. Năm 29 tuổi, ông từ
bỏ cuộc sống vương giả đi tu luyện tìm con đường diệt trừ nỗi đau khổ của chúng
sinh-> Sau 6 năm khổ luyện, ông đã "ngộ đạo", tìm ra chân lý "Tứ diệu đế" và "Thập
nhị nhân duyên".
=>Tư tưởng triết lý Phật giáo ban đầu chỉ truyền miệng, sau đó viết thành văn
thể hiện trong kinh "Tam tạng"(Tripitaka) gồm ba bộ phận: 1) Tạng kinh (Sutra -
pitaka) ghi lời Phật dạy; 2) Tạng luật ( Vinaya - pitaka) gồm các giới luật của đạo
Phật; 3) Tạng luận ( Abhidarma - pitaka) gồm các bài kinh, các tác phẩm luận giải,
bình chú về giáo pháp của các cao tăng, học giả về sau.
a. Quan niệm của Đạo Phật về thế giới - thể hiện bằng bốn tư tưởng chính là:
+ “Vô tạo giả”: Theo đạo Phật thì mọi cái xảy ra đều có nguyên nhân của mình,
cho nên không có nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết quả cuối cùng -> Do
đó đạo Phật không thừa nhận lực lượng sáng tạo thế giới, không thừa nhận thần

thánh. Đây là một tôn giáo vô thần.
+ “Vô ngã”: Mọi cái trong thế giới đều là sự giả hợp của các yếu tố do nhân
duyên hợp nhau mà thành. Ngay cả con người cũng do “ngũ uẩn” hợp lại mà nên.
“Ngũ uẩn” (sắc, thụ, tưởng, hành, thức) hội lại ->thì có ta, tan ra -> thì không
còn ta => cho nên không có cái tôi vĩnh viễn.
Thế giới “vạn pháp” và đời người chỉ là ảo giả, do vô minh mà thành ra “có”,
còn bản chất của nó là “không”.
+ “Vô thường”: Không có một cái gì là trường tồn, bất biến. Tất cả đều biến đổi
trong một vòng khâu vô tận, không ngừng, không nghỉ. Sinh vật thì biến đổi trong
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 5/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
vòng khâu: sinh - trụ - dị - diệt. Vật vô sinh thì biến đổi theo chu trình: thành- trụ -
hoại- không.
+ “Nhân quả tương tục”: Mọi cái xảy ra đều phải có nguyên nhân, nguyên nhân
nào ->thì kết quả ấy “trồng dưa đắc dưa, trồng đậu đắc đậu”. Nhân nhờ có duyên
mới thành ra quả.
b. Triết lý nhân sinh của Đạo Phật - tập trung vào vấn đề giải thoát đời người ra
khỏi vòng luân hồi - nghiệp báo.
- Theo đạo Phật, đời người cũng chịu sự chi phối bởi luật nhân quả, theo đó thì
tổng hợp tất cả các hành vi của một kiếp người sẽ tạo ra nghiệp chướng quy định sự
luân hồi -> tức là chết đi ở kiếp này -> để rồi lại phải sinh ra ở kiếp khác ->do đó sẽ
vĩnh viễn khổ đau -> phải tìm cách để siêu thoát về cõi Niết bàn => toàn bộ triết lý
này được thể hiện bằng thuyết “tứ diệu đế” (tức là bốn chân lý lớn).
+ “ Khổ đế”: Đạo Phật cho rằng đời là một “bể khổ”.
Khổ đế gồm “bát khổ”- Sinh khổ, Lão khổ, Bệnh khổ, Tử khổ, Ái biệt ly khổ,
Oán tăng hội khổ, Sở cầu bất đắc khổ, Ngũ thụ uẩn khổ.
+ “Nhân đế” hay “tập đế”: -> Nỗi khổ của cuộc đời có nguyên nhân của nó,
gồm “Thập nhị nhân duyên”- Vô minh, hành, thức, danh sắc, ục nhập, xúc, thụ, ái,
thủ, hữu, sinh, Duyên lão tử. Trong đó duyên vô minh đầu tiên là khởi đầu cho mọi
sự đau khổ.

+ “Diệt đế”: -> Đạo Phật cho rằng có thể diệt khổ để đạt đến trạng thái “Niết
bàn” (tức là trạng thái tịch diệt, tĩnh lặng, trống rỗng, minh sáng, không sinh, không
diệt).
+ “Đạo đế”: -> Đạo Phật chỉ ra 8 con đường diệt khổ gọi là “bát chính đạo”,
gồm:
1. Chính kiến: Hiểu biết đúng đắn
2. Chính tư duy: Suy nghĩ đúng đắn
3. Chính ngữ: Giữ lời nói phải
4. Chính nghiệp: Giữ đúng trung nghiệp
5. Chính mệnh: Giữ ngăn dục vọng
6. Chính tinh tiến: Rèn luyện không mệt mỏi
7. Chính niệm: Có niềm tin vững chắc vào sự giải thoát
8. Chính định: An định, không bị ngoại cảnh chi phối.
=> Tám con đường trên có thể tóm lại trong ba con đường gọi là “Tam học”:
Giới, Định, Tuệ; được dùng để đối lại ba nguyên nhân chính gây khổ là “Tam độc”:
Tham, Sân, Si.
- Sau khi xuất hiện, đạo Phật phát triển nhanh chóng, phân chia ra thành nhiều
chi phái khác nhau.
- Kinh điển đạo Phật -> được gọi là kinh Tam tạng.
- Từ thế kỷ thứ 9 SCN đạo Phật bắt đầu suy tàn ở Ấn Độ -> cuối thế kỷ thứ 12
thì hoàn toàn sụp đổ dưới sự tấn công của đạo Hồi (được du nhập từ ẢRập vào).
- Trước khi bị diệt vong ở Ấn Độ -> đạo Phật đã kịp lan truyền sang các nước
khác:
+ Lên phía Bắc với phái Bắc tông (Phật giáo Đại Thừa);
+ Xuống phía Nam với phái Nam tông (Phật giáo Tiểu Thừa).
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 6/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
->Ngày nay đạo Phật là một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới với hàng trăm
triệu tín đồ.
=>KẾT LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC ẤN ĐỘ CỔ, TRUNG ĐẠI

- Ấn Độ cổ đại là một trong những nền văn minh sớm của nhân loại.
-Triết học Ấn Độ cổ đại có truyền thống phát triển lâu đời với rất nhiều trường
phái triết học tôn giáo. Thông qua những trường phái này diễn ra cuộc đấu tranh giữa
các xu hướng như duy vật - duy tâm, tôn giáo - vô thần, lạc quan - bi quan…
->Các trường phái này vừa cạnh tranh lẫn nhau, vừa kế tục nhau ->làm hình
thành nhiều phạm trù triết học – tôn giáo có tính đặc trưng như: bản thể không, nhân
quả, giải thoát…
- Triết học Ấn Độ cổ đại đã đặt ra và tìm cách giải quyết nhiều vấn đề về bản thể
luận, nhận thức luận, tâm lý, đạo đức, tâm linh… -> có nhiều đóng gớp quan trọng về
các vấn đề tâm lý học, logic học, triết lý nhân sinh…
- Triết học Ấn Độ cổ đại đã lan truyền và có những ảnh hưởng sâu sắc trong khu
vực và trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 7/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI
1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC TRUNG QUỐC
CỔ, TRUNG ĐẠI.
a.Về địa lý:
Trung Quốc cổ đại là một quốc gia rộng lớn nằm ở Đông-Bắc châu Á, có hai
miền khác biệt.
+ Miền Bắc -> có lưu vực sông Hoàng Hà, khí hậu lạnh lẽo, đất đai khô cằn, cây
cối thưa thớt, ít sản vật;
+ Miền Nam -> có lưu vực sông Dương Tử, khí hậu ôn hoà, đất đai màu mỡ,
nhiều sản vật.
- Có lịch sử lâu đời (từ cuối thiên niên kỷ 3 tr. CN kéo dài tới tận thế kỷ 3 tr. CN
với sự kiện Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến).
b.Về kinh tế - xã hội:
- Thời cổ đại ở Trung Quốc được bắt đầu từ triều đại nhà Hạ (TK 21 Tr.CN -
17Tr.CN) ->kế đến là triều đại nhà Thương (hay là Ân – Thương): (TK 17 -
11Tr.CN); cuối cùng là nhà Chu (TK 11- 3Tr.CN). Nhà Chu gồm hai giai đoạn là Tây

Chu (TK 11 -8 Tr.CN) và Đông Chu (TK 8 - 3Tr.CN).
- Thời Đông Chu (hay còn gọi là thời Xuân thu - Chiến quốc) -> là thời kỳ hình
thành và phát triển các trường phái triết học-> là thời kỳ quá độ từ chế độ CHNL lên
chế độ Phong kiến ở Trung Quốc -> có rất nhiều biến động chính trị, chiến tranh xảy
ra liên miên, các chư hầu nổi lên tranh giành lẫn nhau và lấn át nhà Chu ->làm cho
thể chế nhà Chu dần dần suy tàn.
Nền kinh tề nông nghiệp phát triển mạnh mẽ: đã biết dùng gia súc để kéo cày,
công cụ bằng sắt được sử dụng rộng rãi, đã biết làm thuỷ lợi một cách hệ thống.
+ Ở thời Chiến Quốc chế độ mua bán đất đai xuất hiện, ruộng đất đần dần tập
trung trong tay một số người, họ tiến hành phát canh thu tô -> làm nảy nở quan
QHSX phong kiến.
- Năm 221 Tr.CN -> nhà Tần tiêu diệt nhà Chu để thiết lập nên 1 quốc gia phong
kiến tập quyền ở Trung Quốc -> đất nước chuyển sang thời trung đại.
c.Về văn hoá, khoa học:
- Trung Quốc cổ đại có một nền văn hoá phát triển rực rỡ. Thời Xuân thu –
Chiến quốc được coi là thời kỳ “bách gia chư tử” (trăm nhà trăm thầy), “bách gia
minh tranh” (trăm nhà đua tiếng). Thời kỳ này nổi lên khoảng mười trường phái triết
học lớn nhỏ khác nhau đua tranh với nhau: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Pháp gia, Âm
Dương gia, Danh gia, Nông gia, Tạp gia, Tung hoành gia, Tiểu Thuyết gia.
- Các tri thức khoa học cũng hình thành và phát triển mạnh như: Thiên văn học,
Hoá học, Toán học, Y học
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 8/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
2. Đặc điểm triết học Trung Quốc cổ đại, trung đại.
- Triết học Trung Quốc cổ, trung đại có tính nhân văn sâu sắc, chủ yếu xoay
quanh các vấn đề về con người, đạo đức, ít quan tâm đến các vấn đề về tự nhiên.
- Triết học chú trọng đến lĩnh vực chính trị - đạo đức của xã hội coi việc thực
hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người. -> Có thể nói,
đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự lạc
hậu về khoa học thực chứng của Trung Hoa.

- Triết học nhấn mạnh sự hài hoà, thống nhất giữa xã hội và tự nhiên, sự hoà
đồng giữa con người và thế giới, phản đối sự “thái quá” hay “bất cập”.
- Tư duy triết học còn mang tính trực quan, thiếu tính lôgíc chặt chẽ, tản mạn,
chưa được luận giải và chứng minh một cách hệ thống.
3. Một số trường phái triết học tiêu biểu:
A. NHO GIA ->Khổng Tử sáng lập.
1. KHỔNG TỬ (551 - 479 Tr.CN)
- Tên thật là Khâu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ, sinh ra trong một gia đình quý
phải nhưng nghèo.
- Kinh điển của Nho gia thường được nói đến là Tứ Thư (Trung Dung, Đại Học,
Luận Ngữ, Mạnh Tử) và Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Xuân Thu). Ông viết Kinh
Xuân thu, san định các kinh điển cổ như Dịch, Lễ, Nhạc… Học trò đời sau biên tập
lời Khổng Tử dạy trước đó, chép thành cuốn Luận ngữ.
* Quan niệm về thế giới.
- Quan niệm về vũ trụ, về thế giới của Nho gia -> chủ yếu xoay quanh ba vấn đề
lớn là trời, mệnh và quỷ thần.
+ Về trời:-> có quan niệm dao động về trời. Theo Ông, vạn vật không ngừng
biến đổi, sinh diệt theo đạo của mình. Đạo đó được ông gọi là “thiên lý”-> được hiểu
là sự tương tác giữa hai lực âm và dương, là quy luật tự nhiên, cho nên trời chỉ là giới
tự nhiên, vận hành theo bốn mùa: “trời có nói gì đâu mà bốn mùa vẫn cứ vận hành,
vạn vật cứ sinh hóa mãi”. Nhưng đạo hay thiên lý là cái mầu nhiệm, toàn năng, chi
phối toàn thể vũ trụ mà ông không hiểu được -> cho nên ông lại ví trời như thần: “có
tội với trời thì còn cầu đảo vào đâu được nữa”.
+ Về mệnh trời: ->Khổng Tử cho rằng vạn vật không ngừng biến hoá theo
những nguyên lý màu nhiệm, sâu kín, không ai cưỡng lại được, và ông gọi đó là thiên
mệnh “sống chết tại mệnh, giàu sang là ý của trời".
-> Nhưng ông vẫn khuyên người ta không nên nhắm mắt theo mệnh mà mỗi
người phải tự nỗ lực làm việc mới mong có mệnh tốt.
- Về quỷ thần:->Khổng Tử tin là có quỷ thần.
Theo ông quỷ thần ->do khí thiêng tạo thành, nó có ở mọi nơi và chứng kiến mọi

việc con người làm.
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 9/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
->Nhưng ông lại cho rằng quỷ thần không can thiệp vào công việc của con người
-> cho nên khuyên người ta kính thần mà không nên gần gũi quỷ thần.
* Quan niệm về nhận thức:
- Nhận thức luận của Khổng tử chủ yếu hướng vào lĩnh vực chính trị, đạo đức, ít
quan tâm đến các vấn đề tự nhiên.
- Ông đưa ra rất nhiều phạm trù đạo đức quan trọng như nhân, lễ, nghĩa, trí, tín,
dũng, cung, khoan, mẫn, huệ, trung, hiếu…-> Ông cho rằng năng lực nhận thức của
con người là thiên bẩm, sinh ra đã có sự phân định sẵn: có thượng trí, có trung nhân,
có hạ ngu.
- Ông rất quan tâm đến vấn đề giáo dục con người -> Ông cho rằng việc học có
ba mục đích (Học để hiểu biết, học để hoàn thiện nhân cách, học để làm việc). Ông
chủ trương “hữu giáo vô loại” (giáo dục không phân biệt đẳng cấp, bất cứ ai, hễ là
loại trung nhân đều có thể dạy cho).
->Quy trình dạy học là “tiên học lễ, hậu học văn”. Học văn là học lục nghệ: thi,
thư, xạ, ngự, dịch, nhạc.
* Tư tưởng đạo đức - nhân sinh:
- Vấn đề con người: ->Triết học của Khổng Tử là nền triết học nhân bản, chủ
yếu xoay xung quanh các vấn đề về con người, tính người, đạo đức con người
+ Về tính người: -> "tính tương cận, tập tương viễn" -> nghĩa là tính của con
người khi sinh ra vốn là giống nhau, gần nhau, nhưng do tập nhiễm mà thành ra xa
nhau, khác nhau, kẻ hiền người ác.
=> Từ đó ông chủ trương giáo hoá để đưa người ta trở về bản tính gần nhau ban
đầu ->Như vậy Khổng Tử coi tính của con người vốn là thiện.
+ Về các hạng người: ->Trong xã hội con người có sự phân biệt về nhân cách và
địa vị thành ba hạng (quân tử, kẻ sĩ và tiểu nhân).
Quân tử: -> là những người hoàn thiện về nhân cách, theo ông, người quân tử
phải có 9 điều:

# Khi nhìn ->phải nhìn cho minh bạch,
# Khi nghe ->phải nghe cho rõ ràng,
# Sắc mặt ->phải ôn hoà,
# Tướng mạo ->phải trang nghiêm,
# Nói năng ->phải trung thực,
# Làm việc ->phải trọng sự kính nể,
# Điều gì còn nghi hoặc ->phải hỏi han,
# Khi tức giận ->phải nghĩ đến hậu hoạ,
# Khi thấy lợi ->phải nghĩ đến điều nghĩa.
Kẻ sĩ: ->là những người học hành đỗ đạt để ra làm quan (theo Khổng Tử kẻ sĩ
phải: "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất" - giàu sang
không quyến dũ, khéo khó khong đổi thay, uy vũ không khuất phục).
Tiểu nhân: ->là những kẻ không biết lễ nghĩa, chỉ chạy theo điều lợi.
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 10/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
- Vấn đề đạo đức
Đạo được hiểu là con đường, quy luật tiến hoá của vạn vật. Đạo người -> được
hiểu là con đường đúng đắn phải theo để xây dựng những mối quan hệ xã hội lành
mạnh. Đức -> là tính chất của vạn vật, chỉ những đức tính tốt đẹp mà con người cần
phải có.
=> Thuận theo Đạo -> thì mới có Đức sáng.
=> Tư tưởng đạo đức của Khổng Tử được khái quát trong luân thường đạo lý.
Thường gồm các đức cơ bản (Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, dũng, cung, khoan, mẫn, huệ).
Luân -> là các quan hệ xã hội - đạo đức cơ bản gồm: Vua - tôi, cha - con, chồng - vợ,
anh - em, bè - bạn.
+ Nhân -> là “ái nhân”, “sở kỷ bất dục vật thi ư nhân” - điều gì mình không
thích thì đừng đem đến cho người khác, “kỷ dục lập nhi lập thân, kỷ dục đạt nhi đạt
nhân”.
+ Lễ -> là tế lễ; là phong tục tập quán; là chuẩn mực đạo đức; là quy phạm pháp
luật.

+ Nghĩa -> là làm theo lẽ phải, không mưu lợi cho riêng mình; là việc ta phải
làm, là mệnh lệnh luân lý tối cao cho nên nghĩa -> đối lập với lợi.
+ Trí -> là soi xét thấu đáo vạn vật, hiểu biết điều hay lẽ phải. Tín là giữ lòng tin
với mọi người
+ Ngũ luân: Kinh lễ đã nêu 11 đức liên quan đến ngũ luân: vua nhân, tôi trung,
cha từ, con hiếu, anh lành, em đễ, chồng hoà, vợ thuận, trưởng có ân, ấu ngoan, bằng
hữu giữ đức tín.
* Tư tưởng chính trị - xã hội:
Thời Xuân Thu - Chiến Quốc -> là thời kỳ có nhiều biến động chính trị, danh
thực tranh nhau, đạo lý lễ nghĩa bị suy đồi cho nên Nho gia đã đề xuất nhiều chính
sách mang tính chất cải lương nhằm cải tạo xã hội đương thời.
- Chính danh:
Danh không chỉ là tên gọi mà trước hết là công dụng của vật, chức năng chức
phận của mỗi người.
Danh mà không chính -> thì lời nói không thuận, lời nói không thuận ->thì việc
làm không đúng, hình phạt không đrúng, lễ nghĩa bị bỏ > cần phải chính danh. Làm
cho danh chính ngôn thuận.
=> Chính danh là gọi tên sự vật đúng tên của nó, sử dụng sự vật đúng với công
dụng của nó, làm việc đúng chức năng chức phận của mình. Chính danh là ngôn phải
chính và thân cũng phải chính, cho nên lời nói phải đi đôi với việc làm.
- Đức trị:
Khổng Tử đề cao vai trò, sức mạnh của dân. Ông coi dân là gốc của nước, gốc có
vững thì nước mới yên bình. Vì dân là gốc nước cho nên nước phải lấy dân làm gốc
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 11/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
=> nên Khổng Tử chủ trương lấy lễ nghĩa thay thế cho pháp luật, lấy giáo hoá
thay cho hình phạt -> cho nên ông đưa ra đường lối đức trị, nhân trị hay lễ trị.
Đường lối đức trị của Khổng Tử bao gồm:
+ Giáo hoá dân, dạy cho dân biết lễ nghĩa.
+ Dưỡng dân, nuôi dân cho no đủ, thực hiện chế độ phân phối quân bình.

+ Nêu gương đạo đức để dân tin, dân theo. Thực hện chính sách "thượng hiền".
- Xã hội lý tưởng:
=> Ông mong muốn xây dựng một xã hội đẳng cấp, có tôn ti trật tự, có trên dưới
rõ ràng; các đẳng cấp có trách nhiệm tương trợ, giúp đơc lẫn nhau. Xã hội lấy gia
đình làm cơ sở, trọng hiếu đễ, kính già, yêu trẻ - một xã hội có lễ; xã hội phải no đủ,
lấy nông nghiệp làm nền tảng, coi trọng giáo hoá và công bằng xã hội; phản đối chiến
tranh bạo lực và hình phạt, dùng đức trị, nhân trị, thực hiện chế độ "thượng hiền".
2. MẠNH TỬ (372 - 289 Tr.CN)
- Mạnh Tử tên thật là Kha, tự là Tử Dư, người nước Châu. Ông vốn là học trò
của Tử Tư – cháu nội của Khổng Tử; Tử Tư là học trò của Tăng Sâm - 1 trong số các
học trò cũ của Khổng Tử.
- Mạnh Tử đã phát triển học thuyết của Khổng Tử theo xu hướng duy tâm.
* Bản thể luận và nhận thức luận:
- Bản thể luận: ->Mạnh Tử kế thừa yếu tố duy tâm trong học thuyết của Khổng
Tử, loại bỏ những yếu tố duy vật tự phát của thuyết này, từ đó biến nó thành một
thuyết duy tâm thần bí.
+ Cũng giống như Khổng Tử, Mạnh Tử hoàn toàn tin vào mệnh trời và khuyên
người ta phải phục tùng tuyệt đối mệnh trời. Ông cho rằng không có gì xảy ra mà
không theo mệnh, ta nên tuỳ thuận mà chấp nhận lấy cái mệnh chính đáng ấy.
+ Mạnh Tử coi bản chất của vũ trụ là tâm linh, là vũ trụ đạo lí. Xuất phát từ quan
điểm “thiên nhân cảm ứng” Ông cho rằng đạo trời đồng nhất với đạo lí của con
người, con người là một tiểu vũ trụ bao hàm toàn bộ đại vũ trụ, cho nên “vạn vật đều
có đầy đủ trong ta”, vì thế chỉ cần hiểu được mình là hiểu được trời.
- Nhận thức luận: -> mang nặng tính duy tâm tiên nghiệm.
- Ông cho rằng năng lực nhận thức của con người là tiên thiên, trời phú cho nên
người ta biết được là nhờ vào tâm -> đó là cái biết mà sinh ra đã biết, nên gọi là “sinh
tri” (chẳng hạn biết về lễ, nghĩa, trí tín…; tâm biết được là nhờ vào “lương năng” -
tức là không học mà biết và nhờ vào “lương tri” - tức là không nghĩ mà biết.
-> Như vậy Mạnh Tử không tin vào cảm giác kinh nghiệm mà chỉ tin vào lí tính,
(tức là chỉ tin vào “tâm”, cho rằng phải nhờ “tâm” mới biết được bản tính của mình

và vạn vật).
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 12/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
+ Vì vạn vật đều có đầy đủ trong ta -> cho nên con người chỉ cần tận tâm suy xét
ở mình là có thể biết được trời đất, vạn vật “nếu biết được bản tính của mình là biết
được trời rồi đó”. Tuy nhiên không phải ai cũng có khả năng nhận thức bằng tâm.
“Chỉ những bậc chí thành trong thiên hạ mới biết được cái tính của mình… Biết
được tính của mình thì biết được tính của con người… Biết được tính của con người
thì biết được tính của vạn vật… Biết được tính của vạn vật thì có thể giúp vào việc
sinh hoá của trời đất… có thể cung trời đất tham dự mọi việc” (Trung dung).
* Triết lý đạo đức – nhân sinh
- Về con người và đạo đức con người:
+ Mạnh Tử có quan niệm duy tâm về con người. Ông cho rằng con người gồm
có hai phần (tâm và khí). Khí lưu hành trong vũ trụ, ngưng tụ lại thành hình nên mới
có vạn vật và con người; khí lưu hành trong cơ thể nên con người mới có sinh trưởng.
Tuy nhiên khí không tách rời tâm, tâm là “vị nguyên soái điều khiển khí”. Như vậy
tâm quyết định khí, tinh thần quyết định vật chất.
+ Tâm và khí phải thống nhất với nhau nên cùng với “tồn tâm dưỡng tính” còn
phải “dưỡng khí”-> Muốn vậy phải kết hợp việc nghĩa với việc đạo; phải hiểu đạo lý,
theo đạo và tập nghĩa, làm điều thiện -> phải giáo dục đạo lý cho mọi người; phải
theo chuẩn mực đạo lí của thánh hiền, theo đó người học phải kiên trì, cầu tiến và
người dạy cũng phải luôn sửa mình làm gương.
+ Ông quan tâm đến việc xây dựng một mẫu người lí tưởng (cương trực, cứng
rắn, nhân nghĩa): “Phú quí bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng
khuất” (Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó chẳng đổi thay, uy vũ không khuất
phục).
- Về tính người:-> bản tính của con người vốn là thiện – “nhân chi sơ tính bản
thiện”, nhưng do tập nhiễm mà thành ra khác nhau - kẻ thiện, người ác không phải do
bản tính mà do tư dục, hoàn cảnh.
Ông chỉ ra ba lí do để chứng minh cho tính thiện của con người:

+ Một là: Tính thiện được biểu hiện bằng tứ đức. Tứ đức được bắt nguồn từ tứ
đoan, đó là: Lòng trắc ẩn -> biết thương sót, đó là đầu mối của nhân; lòng từ nhượng
-> biết cung kính, đó là đầu mối của lễ; lòng tu ố -> biết thẹn ghét, đó là đầu mối của
nghĩa; lòng thị phi -> biết phân biệt phải trái, đúng sai, đó là đầu mối của trí.
=>Ai sinh ra cũng có đủ tứ đoan, nếu biết gìn giữ, nuôi nấng nó sẽ trở nên thiện,
nếu không sẽ thành ác.
+ Hai là: Người ta, ai cũng có đủ các “quan năng” để nhận biết, phân biệt phải,
trái, đúng, sai, tốt, xấu cho nên ai cũng có thể trở thành thánh nhân.
+ Ba là: Tính thiện bắt nguồn từ tâm, tâm là cái trời phú, sinh ra đã có. Nếu con
người biết “tồn tâm dưỡng tính”, giữ cho tâm được trong sáng -> nên thiện. Nếu để
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 13/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
vật dục che lấp -> nên ác =>Như vậy, muốn gìn giữ bản tính thiện của con người thì
cần phải giáo dục đạo lí chứ không phải bằng hình phạt cưỡng bức.
* Tư tưởng chính trị - xã hội -> mang nặng tính duy tâm, thần bí, bảo vệ cho
bọn cầm quyền phản động.
+ Ông tuyên truyền chế độ “thần quyền”, cho rằng chính quyền là do trời trao
cho các bậc anh minh để trị dân, cho nên các bậc vua chúa trị dân là thể theo ý trời.
+ Ông cho rằng thánh nhân là người quyết định lịch sử, làm thay đổi thời cuộc;
theo chu kỳ cứ 500 năm một lần, do sự vận hành của ngũ hành, âm dương, lại xuất
hiện thánh nhân trị vì thiên hạ.
+ Ông bảo vệ chế độ phân biệt đẳng cấp trong xã hội, cho rằng theo thiên mệnh
con người ta ngay từ khi sinh ra đã có sự phân hoá thành hai loại (lao tâm và lao lực),
.Trong đó lao lực -> phải nuôi lao tâm, lao tâm ->thì trị lao lực => Do đó cần có sự
phân biệt trên dưới, tôn ti trật tự rõ ràng.
- Mạnh Tử cũng đề xuất nhiều chính sách thể hiện rõ tinh thần trọng dân.
+ Ông đưa ra thuyết “nhân chính” trong trị nước, phản đối chiến tranh thôn tính,
đòi hỏi bọn quý tộc phải giảm hình phạt đối với dân. Ông kêu gọi chế độ “bảo dân”,
lo cho dân được no đủ, an bình, thực hiện chính sách “tỉnh điền” để cho dân có sản
nghiệp, giảm thuế cho dân, giáo hoá dân…

+ Đề cao vai trò, sức mạnh của dân: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi
khinh”(dân là cái quý nhất, sau đó mới đến xã tắc sơn hà, cuối cùng mới là ngôi vua
vì rằng có dân mới có nước, có nước mí có vua) -> Ông vua nào biết trọng dân, biết
lo cho dân thì mới tồn tại, bằng không sẽ bị phế truất.
=>Như vậy, trong trị nước Mạnh Tử chủ trương dùng nhân nghĩa, phản đối bạo
lực.
3. TUÂN TỬ (315 - 230 Tr.Cn)
- Tuân Tử tên thật là Huống, tự là Khanh, người nước Triệu.
- Ông phát triển học thuyết của Khổng Tử theo hướng duy vật. Ông chủ trương
kết hợp lễ nghĩa với pháp luật trong việc trị nước -> Tư tưởng này của ông về sau
được học trò Hàn Phi kế thừa, phát triển trong đường lối Pháp gia.
* Bản thể luận và nhận thức luận
- Bản thể luận: -> phát triển quan điểm duy vật, vô thần tiến bộ về thế giới. Ông
phản đối tư tưởng về thiên mệnh và quỷ thần của Khổng, Mạnh.
+ Ông coi trời chỉ là giới tự nhiên, nó vận hành theo quy luật tự nhiên.
# Ông chia vũ trụ ra thành ba bộ phận là trời - đất - người. Trong đó: “Trời có
bốn mùa, đất có sản vật, người có văn trị”-> mỗi bộ phận này đều vận hành theo quy
luật của riêng mình, cho nên việc trời, việc đất và việc người không liên quan đến
nhau.
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 14/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
# Đạo trời theo Tuân Tử diễn ra theo lẻ tự nhiên nhất định, không liên quan đến
đạo người. Đạo trời chi phối sự biến hóa vạn vật, thay đổi của vũ trụ không phụ thuộc
vào sự sáng suốt hay ngu muội của con người “Không vì vua Nghêu mà còn, không
vì vua Kiệt mà mất, lấy sự trị mà đối phó với nó thì lành, lấy sự loạn đối phó với nó
thì dữ”.
+ Tuân Tử cho rằng mọi việc lành, giữ, an, nguy của con người không phải do
mệnh -> mà do chính hành vi của con người: “Trồng cây cho nhiều và bớt tiêu dùng
thì trời cũng không làm cho người nghèo được cái gốc là cấy trồng mà bỏ, tiêu
dùng mà xa xỉ thì trời không thể làm cho giàu được. Ăn uống mà thiếu thốn, hành

động mà thiếu nghĩ suy thì trời không thể làm cho yên được”. Tiến xa hơn, Tuân Tử
còn cho rằng con người có thể cải tạo được trời đất ->Ông khuyên người ta tích cực
làm việc, cải tạo tự nhiên để làm ra nhiều lúa gạo cho con người.
+ Ông cho rằng quỷ thần không có thật (vô thần) -> đó là do sự sợ hãi của con
người tạo nên: “Đi dạo dưới trăng, cúi đầu trông thấy bóng của mình và vạn vật, lấy
làm sợ mà cho là có quỷ thần”.
- Đối với các hiện tượng tự nhiên như sao sa, nhật thực, nguyệt thực, động đất…
chỉ là sự biến hoá của âm dương, trời đất, nếu lấy làm lạ thì nên, lấy làm sợ thì không
nên. Các hành vi cúng tế, nghi lễ, phong tục, tập quán… chỉ nên coi là hiện tượng văn
hoá để duy trì, đừng nên lấy đó làm tin.
+ Tuân tử giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa lí và khí, tâm và vật. Ông cho
rằng khí -> là cái cấu thành nên vạn vật, phân biệt sự khác nhau giữa vật vô sinh, hữu
sinh và con người: nước, lửa có khí nhưng vô sinh mệnh. Cây cỏ có sinh mệnh nhưng
vô tri. Loài cầm thú có tri nhưng vô lễ nghĩa. Con người có đủ cả khí, sinh mệnh, tri
giác và lễ nghĩa nên con người là cái quý nhất. Ở con người khí có trước và quyết
định lí, vật có trước và quyết định tâm.
- Nhận thức luận: -> thể hiện lập trường duy vật về nhận thức, cho rằng nhận
thức là nhận thức về thế giới vạn vật -> cho rằng con người có thể nhận thức được
các quy luật của thế giới.
+ Ông chia nhận thức ra thành 2 giai đoạn: Cảm tính “thiên quan” và lí tính
“tâm”.
# Nhận thức cảm tính -> dựa vào các thiên quan ->chỉ đem lại cho con người
hiểu biết cái bề ngoài.
# Chỉ có tâm -> mới đem lại cho con người sự hiểu biết đúng đắn về sự vật,
nhưng hoạt động của tâm không thể thiếu hoạt động của các quan năng mà phải bắt
nguồn từ kinh nghiệm.
=> 2 giai đoạn này còn bổ sung cho nhau: tâm -> phải lấy cảm giác làm cơ sở.
Cảm giác -> phải lấy tâm để uốn nắn.
=> Như vậy ông đã giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa hai giai đoạn nhận
thức.

Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 15/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
+ Tuân tử còn giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa khái niệm và sự
vật, giữa danh và thực, giữa cái chung và cái riêng.
# Khái niệm -> là phản ánh của sự vật, được rút ra từ các sự vật qua phân tích,
so sánh, phân loại.
# Danh là -> để chỉ thực nên phải phù hợp với thực: “Danh là để trỏ thực, trên
là để làm sáng tỏ sang hèn, dưới là để phân biệt cái giống nhau và cái khác nhau của
thực”. Có danh chung -> để biểu thị sự giống nhau, có danh riêng -> để biểu thị sự dị
biệt. Danh là do con người quy ước với nhau mà thành, nên để tránh loạn danh cần có
sự quy định chặt chẽ -> phải dùng pháp luật, quyền thế mà định danh, phận cho rõ
ràng.
# Cái chung -> cái toàn bộ tồn tại thông qua cái riêng, cái cá biệt. Cái chung bao
hàm đại khái cái riêng. Cái chung và cái riêng tuy khác nhau nhưng không tách rời
nhau.
* Tư tưởng chính trị - đạo đức
- Về tính người: -> bản tính của con người là ác, là cá nhân, ích kỷ, vì mình
trước hết: “nhân chi sơ tính bản ác”.
+ Nếu để cho người ta hành động theo bản tính tự nhiên, thoả mãn những dục
vọng sinh lí của mình -> thì sẽ gây nên nạn trộm cướp, vô luân.
=> phải kết hợp giáo hoá và hình phạt để kìm chế tính ác: “Sinh ra khuôn uốn là
vì có cái cây cong quẹo, bày ra dây mực là vì có sự không thẳng, lập quân thượng,
sính lễ nghĩa là vì người có tính ác”.
=> Tính ác không phải là vĩnh viễn mà vẫn có thể sửa được nhờ vào giáo dục,
rèn luyện và hình phạt tạo thành thói quen làm thiện.
- Về trị nước:-> kết hợp đức trị với pháp trị (giáo hoá với hình phạt trong việc trị
nước).
-> Ông cho rằng con người khác với cầm thú vì có tổ chức xã hội và có cuộc
sống tập thể -> Để duy trì điều đó và kiềm chế tính ác của con người tất yếu phải có
lễ nghĩa và pháp luật, có nhà nước đứng ra để điều hành.

-> Ông thừa nhận chế độ phân biệt đẳng cấp trong xã hội xuất phát từ sự khác
nhau về điều kiện sống, thói quen (chứ không phải khác nhau về quyền sở hữu tư liệu
sản xuất).
Tóm lại: So với các học thuyết khác, Nho gia có nội dung phong phú và mang
tính hệ thống hơn cả; hơn thế nữa, nó còn là hệ tư tưởng chính thống của giai cấp
thống trị Trung Hoa suốt hơn hai ngàn năm của xã hội phong kiến. Để trở thành hệ tư
tưởng chính thống, Nho gia đã được bổ sung và hoàn thiện qua nhiều giai đoạn lịch
sử trung đại: Hán, Đường, Tống, Minh, Thanh, nhưng tiêu biểu hơn cả là dưới triều
đại nhà Hán và nhà Tống, gắn liền với tên tuổi của các bậc danh Nho như Đổng
Trọng Thư (thời Hán), Chu Đôn Di, Trương Tải, Trình Hạo, Trình Di, Chu Hy (thời
Tống). Quá trình bổ sung và hoàn thiện Nho gia thời trung đại được tiến hành theo
hai xu hướng cơ bản:
Một là, hệ thống hóa kinh điển và chuẩn mực hóa các quan điểm triết học của
Nho gia theo mục đích ứng dụng vào đời sống xã hội, phục vụ lợi ích thống trị của
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 16/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
giai cấp phong kiến; vì thế Đổng Trọng Thư đã làm nghèo nàn đi nhiều giá trị nhân
bản và biện chứng của Nho gia cổ đại. Tính duy tâm thần bí của Nho gia trong các
quan điểm về xã hội cũng được đề cao. Tính khắc nghiệt một chiều trong các quan hệ
Tam cương, Ngũ thường thường được nhấn mạnh.
Hai là, hoàn thiện các quan điểm triết học về xã hội của Nho gia trên cơ sở bổ
sung bằng các quan điểm triết học của thuyết Âm Dương - Ngũ hành, những quan
niệm về bản thể của Đạo gia, tư tưởng về pháp trị của Pháp gia … Vì vậy, có thể nói:
Nho gia thời trung đại là tập đại thành của tư tưởng Trung Hoa. Nho gia còn có sự
kết hợp với cả tư tưởng triết học ngoại lai là Phật giáo. Sự kết hợp các tư tưởng triết
học của Nho gia với những tư tưởng triết học ngoài Nho gia đã có ngay từ thời Hán
và ít nhiều có cội nguồn từ Mạnh Tử. Tuy nhiên, sự kết hợp đạt tới mức nhuần
nhuyễn và sâu sắc chỉ có dưới thời nhà Tống (960 - 1279).
B. ĐẠO GIA -> Lão Tử (TK 6 – 5 TCN): Đạo Đức Kinh
- Người có công hoàn thiện tư tưởng của Đạo gia là Trang Tử (396 - 286 Tr.CN)

với cuốn Nam hoa kinh. Ngoài ra còn có Đương Chu (395 – 335 Tr.CN) chuyên bàn
về các vấn đề nhân sinh.
a. LÃO TỬ (cuối thời Xuân thu)
Lão Tử tên thật là Lý Nhĩ, tự là Bá Đương hay còn gọi là Lão Đam. Ông là
người nước Sở, vốn làm quan giữ sách cho nhà Chu, về sau từ quan về ở ẩn trong núi.
Ông viết cuốn “Đạo đức kinh”.
* Bản thể luận
- Học thuyết về Đạo:
+ Tư tưởng về “đạo” chiếm vai trò cực kỳ quan trọng trong suốt triết học lão Tử.
Nó là nền tảng của mọi vấn đề khác -> chi phối xuyên suốt toàn bộ học thuyết của
ông.
Đạo là bản thể, vừa là gốc, bản chất, vừa là quy luật chi phối vạn vật. Nó là một
cái trừu tượng, hỗn độn, không rõ ràng, không đồng nhất với những cái đang tồn tại
trong tự nhiên. “Có vật hỗn độn mà nên, nó chứa đựng tất cả, nó sinh ra trước trời
đất, lặng thầm biết bao, cô đơn biết bao. Nó đứng một mình không đổi. Nó trở về với
chính nó và có thể là mẹ của thiên hạ Ta không biết nó tên gì nên mới đặt tên cho
là Đạo và gượng cho là lớn” (Đạo đức kinh).
+ Đạo là sự thống nhất giữa “Vô” và “Hữu”, (“Vô” là thể của Đạo, “Hữu” là
dụng của Đạo).
# “Vô” -> là vô danh, vô phác, không có tên gọi, không có hình thể do đó “Đạo
khả Đạo phi thường Đạo, Danh khả Danh phi thường Danh” (Đạo đức kinh).
# Đạo -> còn là “Hữu” vì nó sinh ra vạn vật và tồn tại ngay trong vật, mỗi vật
đều là biểu hiện của Đạo lớn. (Tuy nhiên Đạo không đồng nhất với vạn vật vì vạn vật
có hình thể và có tên gọi).
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 17/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
+ Đạo còn là quy luật chi phối vạn vật, không gì thoát ra được nên gọi là “Đạo
pháp tự nhiên”.
- Tư tưởng về phép biện chứng: ->là sự phát triển về sự biến dịch trong “Kinh
Dịch”.

+ Toàn thể vũ trụ, theo Lão Tử bị chi phối bởi 2 quy luật phổ biến: luật Quân
bình và luật Phản phục.
# Luật Quân bình giữ cho các sự vật vận động được cân bằng, không để cho cái
gì thái hóa. Cái gì khuyết -> sẽ được tròn đầy; cong -> thẳng; cũ -> mới, -> đó là
đạo tự nhiên.
# Luật Phản phục -> làm cho sự biến đổi diễn ra trong 1 vòng tròn khép kín, lặp
đi lặp lại không ngừng nhưu: Xuân – hạ - thu – đông thay đổi; lúc sinh, lúc tử, lúc
yếu, lúc mạnh,
+ Tư tưởng về biện chứng của ông còn được thể hiện ở việc thừa nhận tính mâu
thuẫn của hiện thực. Mỗi sự vật đều là thể thồng nhất của các mặt đối lập. Các mặt
đối lập vừa xung khắc với nhau, vừa nương tựa vào nhau, chuyển hoá vào nhau “họa
là tựa của phúc, phúc là chỗ náu của họa”. (Đạo Đức kinh) -> trong họa có phúc.
* Nhận thức luận:
- Ông có quan điểm bất khả tri về Đạo (cho rằng Đạo không thể nhận thức được
bằng giác quan và trí tuệ thông thường -> mà phải bằng trực giác tâm linh).
- Đạo gia coi thường nhận thức cảm tính và trí tuệ thông thường (vì cho rằng
chúng chỉ giúp con người nhận thức các hiện tượng, nhưng con người hiểu càng
nhiều về vật thì càng xa với Đạo): “Càng đi xa càng biết ít. Người quân tử ngồi
trong nhà không ra ngoài mà biết được việc thiên hạ, không nhòm qua khe cửa mà
biết được đạo trời”.
* Tư tưởng đạo đức – nhân sinh (hay là thuyết vô vi)
- Triết lí vô vi: -> Nền tảng của tư tưởng chính trị đạo đức của Đạo gia là triết lý
“vô vi”.
“Vô vi” -> có nghĩa là không làm gì trái với tự nhiên, cho nên tất cả những gì là
giả tạo, nhân tạo đều phải được bãi bỏ.
“Vô vi” trong Đạo Đức kinh có 3 ý nghĩa chính:
+Vạn vật đều có bản tính tự nhiên của mình, chúng tòn tại, vận động, biến hóa
theo lẻ tự nhiên (ví dụ; bản tính tự nhiên của cá ->lội dưới nước; chim -> bay trên trời
=> nghĩa là sống với vốn tự nhiên).
+ “Vô vi” còn có nghĩa là tự do “tuyệt đối” không bị ràng buộc bởi, dục vọng,

đam mê, ham muốn nào (ai chạy theo ham muốn, đam mê nào -> sẽ đánh mất chính
bản thân họ).
+ “Vô vi” còn có nghĩa là luôn bảo vệ, giữ kín bản tính tự nhiên của mình, biết
ngăn chặn, bài trừ những gì làm tổn hại đến bản tính tự nhiên.
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 18/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
- Về đạo đức: Trong cuộc sống, Đạo vô vi đòi hỏi phải tôn trọng bản tính tự
nhiên của người, của vật, không được dùng sức mạnh để chiếm đoạt, sống hoà đồng
với tự nhiên. Các chuỷân mực đạo đức cơ bản là: cần kiệm, từ ái, không tranh giành.
* Tư tưởng chính trị - xã hội:
- Vô vi trị: Trong chính trị, Đạo vô vi đòi hỏi phải từ bỏ những cái trói buộc con
người, do con người tự nghĩ ra như pháp luật, lễ nghĩa, danh lợi Đạo gia chủ trương:
“vô vi nhi trị”- Nếu trong xã hội mọi người đều không làm gì thì xã hội tự nó thịnh
trị.
- Xã hội lí tưởng: đó là một xã hội nước nhỏ, dân ít, không ai đi xa, có ngựa xe
không ngồi, có gươm đao không dùng, bỏ văn tự, người ta trở về thuật thắt nút ghi
dấu, hai nước cạnh nhau vẫn nghe thấy gà gáy, chó sủa mà đến già chết vẫn không
qua lại…
=>Tư tưởng của Lão Tử về “đạo”, phép biện chứng, học thuyết “vô vi” là rất sâu
sắc và độc đáo, trình độ tư duy lí luận cao - > những quan điểm đó của ông đã đóng
góp đáng kể vào sự phát triển của tư tưởng triết học phương Đông.
Trong cái “lờ mờ”, “hỗn độn” và gợi mở -> ông làm cho người đời sau kinh
ngạc, thán phục trước sức mạnh của tư duy trừu tượng.
Song, Ông không thoát khỏi hạn chế bởi điều kiện lịch sử khi giải quyết vấn đề
bản thể luận, nhận thức luận, hay phép biện chứng. Nhưng dù sao về phương diện
lịch sử, chúng ta cũng phải nghiên mình trước di sản tài hoa và sắc sảo của ông ->
người đời sau tôn ông là Thái Thượng Lão Quân.
2. ĐƯƠNG CHU (khoảng 395 – 335 Tr.CN).
Đương Chu, tự là Tử Cư, là người nước Vệ. Ông chủ yếu bàn đến các vấn đề
triết lí nhân sinh.

* Bản thể luận:
- Đương Chu mang quan niệm duy vật không triệt để về thế giới -> đó là mọi
đều xảy ra theo nguyên lí tất yếu, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con
người, không do lực lượng thần thánh hay ma quỷ chi phối.
-> Mọi cái, theo bản tính tự nhiên, có sinh ắt có diệt, có sống ắt có chết: “Đời
sống vạn vật, con người theo bản tính tự nhiên tự sinh, tự diệt; thân thể tự nó khoẻ
mạnh, tự nó bạc nhược”. Tuy nhiên cái nguyên lí tất yếu là cái mầu nhiệm, khó hiểu
nên ông gọi đó là “thiên mệnh”.
* Triết lí nhân sinh.
- “Tồn ngã”: Con người là sản phẩm cao quý nhất của tự nhiên, sinh ra từ đạo tự
nhiên, cho nên đã sinh ra rồi thì phải bảo tồn sự sống của mình. Con người có thiên
tính “tồn ngã”: “Con người, bản chất giống trời đất, có đức tính của Ngũ hành, là
loài tối linh trong vạn vật. Thân ta không phải của ta, nhưng đã có chúng rồi thì
không thể diệt chúng được”.
-> Để tồn ngã thì phải “quí sinh” và “trọng kỉ”.
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 19/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
+ “Quí sinh” -> là quí mạng sống của mình, nhưng đồng thời phải tôn trọng sự
sống của người và vạn vật ->cho nên không dung bạo lực để xâm chiếm, không can
thiệp thô bạo vào bản tính tự nhiên của vạn vật và người khác -> Do đó con người
phải sống hoà đồng với tự nhiên, coi ta như vật, coi vật như ta, không phân biệt sống
- chết, giàu – nghèo, quí - tiện… =>Như vậy quí mạng sống nhưng cũng sãn sang đón
nhận cái chết.
+ “Trọng kỉ” -> là phải tìm cách đáp ứng mọi nhu cầu, thị hiếu tự nhiên của
mình. Từ đó Ông đề cao quyền tự do cá nhân, kêu gọi chủ nghĩa khoái lạc, sống hết
mình, nhưng đồng thời không làm phương hại đến người khác.
- “Vị ngã”: ->là vì mình trước hết. Đây là cốt lõi của triết lí nhân sinh của Ông.
+ “Vị ngã” là yêu mình trước hết: “Yêu ngươì nước gần hơn người nước xa, yêu
người trong nước hơn người ngoài nước, yêu cha mẹ hơn người ngoài, yêu mình hơn
hết”.

+ “Vị ngã” là sống theo đúng bản tính tự nhiên của mình, không ham sống sợ
chết; không luỵ vật, không bị danh vọng, tiền tài tri phối; không bị ràng buộc bởi luân
lí, lễ nghĩa cứng nhắc.
+ “Vị ngã” là sống vì mình mà không hại người, không cho ai hay lấy của ai cái
gì: “Đương Chu này, mất một sợi lông chân mà làm lợi cho thiên hạ cũng không cho,
mà có đem cả thiên hạ phụng dưỡng bản thân mình cũng không nhận”. Cho nên vị
ngã không phải là chủ nghĩa cá nhân ích kỉ.
* Tư tưởng chính trị - xã hội:
- Xuất phát từ tư tưởng “vị ngã” mà phản đối mọi đường lối đức trị, pháp trị (vì
chúng hạn chế tự do cá nhân, trái với đạo tự nhiên).
“Người ta dùng cách thưởng phạt để khuyên ngăn, dùng danh vọng và pháp
luật để cấm đoán; người ta canh cánh đua nhau để được cái hư danh một thời, cầu
cạnh hư vinh sau khi chết; cứ nhớ tới cái phải trái mà không dám cho tai mắt được
theo sở thích của mình, làm mất cái lạc thú trước mắt, không được thoả thuê phóng
túng lúc nào cả. Như vậy có khác gì gông cùm không?”.
->Ông phản đối bọn Nho, Mặc chỉ ham sống lâu, ham danh vọng, địa vị, ham
tiền tài nên không được thanh thản, luôn sợ quỉ thần, sợ kẻ có quyền…
->Ông kêu gọi trị nước phải bằng đạo vô vi, vị ngã: “Nếu mọi người đều không
chịu mất một cái lông chân mình, đều không muốn làm lợi cho thiên hạ thì thiên hạ
tự trị”.
3. TRANG TỬ (369 – 286 Tr.Cn ):
- Tên thật là Trang Chu, người nước Tống. Ông từng làm quan “Tất viên” cho
xứ Mông, sau đó từ quan về sống cuộc sống thanh bạch, giản dị -> Ông viết tác phẩm
“Nam hoa kinh”.
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 20/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
* Bản thể luận và nhận thức luận
- Học thuyết về Đạo: Kế thừa học thuyết về Đạo của Lão Tử ->Trang Tử đã biến
học thuyết này thành duy tâm, thần bí.
+ Nếu như Đạo của Lão Tử là sự thống nhất giữa vô và hữu -> thì Đạo của Trang

Tử là hư vô: “Trong cái không sinh cái có, cái có không thể lấy cái có làm cơ sở”.
+ “Đạo sinh ra tinh thần, còn tinh khí mới sinh ra hình thể”, như vậy đạo là tinh
thần (khác với Lão Tử coi đạo là vô thức).
+ Đạo sinh ra vạn vật và tồn tại thong qua vạn vật, cho nên mỗi vật, dù lớn hay
bé, sang hay hèn… đều là biểu hiện của Đạo, nên Đạo tồn tại mọi nơi.
+ Sinh ra từ Đạo tự nhiên nên vạn vật có bản tính tự nhiên của mình, chúng biến
đổi không ngừng, sinh diệt, sống chết theo lẽ tự nhiên.
- Nhận thức luận: -> chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng của Lão Tử và Huệ Tử -
người thuộc môn phái Danh gia.
+ Giống như Lão Tử, Trang Tử có quan niệm bất khả tri về Đạo. Ông cho rằng
Đạo không thể nhận thức được bằng giác quan và trí tuệ thông thường: “Đạo chẳng
có thể nghe được, nghe được không còn là Đạo. Đạo chẳng có thể thấy được, thấy
được không phải là nó nữa. Có thể nào lấy trí để hiểu cái hình dung của cái không
có hình dung được chăng? Vậy thì không nên đặt tên cho nó”. Nên để hiểu Đạo phải
bằng con đường trực giác tâm linh, muốn vậy phải sống hòa đồng với thiên nhiên
(câu chuyện “đọc thánh nhân”).
+ Trong quan niệm về vạn vật Trang tử chịu ảnh hưởng bởi chủ nghĩa tương đối
của Huệ Thi, phát triển nó thành hoài nghi luận, xóa nhòa danh giới giữa các vật. Ông
cho rằng sinh ra từ đạo tự nhiên nên mỗi người, mỗi vật đều có bản tính tự nhiên của
mình: Cái là lớn so với vật này lại là bé so với vật khác, cái là tốt với người này lại là
xấu với người khác… “Không gì lớn bằng sợi lông mùa thu mà núi Thái sơn lại là
nhỏ. Không ai thọ bằng đứa trẻ chết yểu mà Bành tổ lại là yểu”. Vì vạn vật là tương
đối nên nhận thức của con người về chúng cũng chỉ là tương đối. Từ đó Trang Tử cho
rằng mọi tri thức đều là chủ quan, không có chân lí khách quan (Mao Đường và Lệ
Cương là những người đẹp nổi tiếng, nhưng nhìn thấy thì chim bay, cá lặn, thú bỏ
chạy, vậy là không đẹp). Từ đó Ông kêu gọi không nên phân biệt mà coi tất cả là
“đồng nhất thể”: “Trời đất với ta cùng sinh, vạn vật với ta là một”.
* Tư tưởng chính trị - đạo đức:
- Thể theo bản tính tự nhiên con người phải sống “vô vi, vô sự”, không can thiệp
vào trạng thái tự nhiên của vạn vật: “Trâu ngựa có bốn chân, thế là tự nhiên. Ràng

đầu ngựa, xỏ mũi trâu, thế là người. Cho nên bảo chớ lấy người hại trời, lấy việc hại
mệnh”.
- Trong đạo trị nước Ông cũng chủ trương vô vi vô sự, phản đối việc dùng lễ
nghĩa, pháp luật trói buộc con người như trói buộc trâu ngựa, như thế là trái với tự
nhiên.
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 21/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
4. MẶC GIA.
a. MẶC TỬ (479 – 381 Tr.Cn) -> người sáng lập ra đường lối Mặc gia
Mặc Tử: ->họ Mặc, tên Địch. Tư tưởng của ông được thể hiện trong cuốn sách
Mặc Tử gồm 71 thiên (nay còn 53 thiên).
* Bản thể luận và nhận thức luận:
- Ông phản đối thiên mệnh ->cho rằng con người tự mình quyết định vận mệnh
của mình -> mọi sự giàu hay nghèo, sống hay chết, hoạ hay phúc không phải do số
mệnh quy định ->mà là do hành vi con người gây nên, “do sức ta chưa đủ, lực ta
chưa mạnh”.
=>Ông cho rằng chỉ cần chăm làm và tiết kiệm trong tiêu dùng thì sẽ no đủ. Còn
nếu tin vào mệnh trời và chờ mệnh thì trên sẽ không lo việc chính trị mà xã hội thành
ra loạn, dưới sẽ không chịu làm việc mà thành ra nghèo đói.
- Không tin vào “thiên mệnh”, nhưng lại tin vào Trời và quỷ thẩn. Mặc Tử cho
rằng chí Trời là nguyên tắc tối cao cho hành vi của con người, Trời và quỷ thần luôn
công minh ban thưởng cho những người làm tốt và trừng phạt những kẻ làm xấu:
“Vua vũ, vua Thang, vua Thang làm việc, trên thì tôn Trời, giữa thờ quỷ thần, dưới
yên lòng dân cho nên ý Trời nói rằng: Người này gồm yêu hết thảy những kẻ mà ta
yêu, làm lợi hết thảy những kẻ mà ta muốn làm lợi… Bởi vậy Trời mới khiến cho
sang thì làm đến thiên tử, giàu có cả thiên hạ, cơ nghiệp để lại cho con cháu muôn
đời. Vua Kiệt, vua Trụ, vua U, vua Lệ làm việc, trên thì chê Trời, giữa chê quỷ thần,
dưới rẻ người. Cho nên ý Trời nói rằng: Người này phân biệt những kẻ ta yêu ra để
mà ghét, còn những kẻ ghét người thì hắn cho được rộng rãi, hậu hỹ. Bởi vậy, Trời
mới khiến cho không hết tuổi thọ, không được trọn đời”. ( “Mặc Tử”, Minh quỷ).

- Nhận thức luận:
- Ông đề cao vai trò của nhận thức kinh nghiệm và thực tiễn -> đưa ra thuyết
“Tam biểu”, lấy đó làm tiêu chuẩn cho chân lý:
+ “Bản”(gốc) là dựa vào chí của trời và việc làm của thành vương đời trước;
+ “Nguyên”(nguồn) là dựa vào tai mắt trăm họ;
+ “Dụng” là đem áp dụng vào thực tế xem có đem lại lợi cho trăm họ hay không.
=> với thuyết “tam biểu” , Mặc Tử đã có sự đóng góp quý giá vào việc phát triển
lí luận nhận thức trong triết học Trung Quốc cổ đại.
=>Như vậy, trong nhận thức luận, ông đặc biệt coi trọng tác dụng của kinh
nghiệm cảm giác và đã thấy được vai trò của thực tế khách quan trong nhận thức.
(ông cho rằng cái gì lỗ tai, con mắt không cảm thấy là khong có).
* Tư tưởng chính trị - xã hội:
- Mặc Tử đưa ra thuyết “Kiêm ái”, kêu gọi mọi người bằng tình yêu thương lẫn
nhau mà duy trì trật tự xã hội.
- “Kiêm ái” là gồm yêu tất thảy, không phân biệt thân hay sơ, sang hay hèn, xa
hay gần, ta hay người.
- “Kiêm ái” là thể theo ý trời, là có lợi cho tất cả mọi người “kiêm tương ái, giao
tương lợi” ->cho nên kiêm là đúng, biệt là sai.
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 22/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
=>Để “kiêm ái” thì phải thống nhất được ý chí của mọi người từ trên xuống
dưới, phải thực hiện chính sách “Thượng đồng” (tức là dưới nhất nhất phải nghe theo
trên) “điều gì bề trên bảo là đúng thì cũng phải cho là đúng, điều gì bề trên nói là sai
thì cũng phải bảo là sai ”.
- Để thực hiện “Thượng đồng” thì phải thực hiện chính sách “Thượng hiền” (tức
là phải lựa chọn người hiền tài ra làm quan giúp nước và vua phải là người hiền tài
nhất).
2. PHÁI HẬU MẶC:
- Phái Hậu Mặc thời Chiến quốc gồm 5 đại diện là Tường Lý, Tường Phu, Khổ
Hoạch, Đăng Lăng, Sỹ dĩ.

- Phái Hậu Mặc phát triển quan điểm duy vật về thế giới, coi vật chất là bất diệt,
thừa nhận vận động diễn ra trong không gian và trong thời gian, coi vận động là vận
động cơ học và tìm cách phân loại các hình thức vận động máy móc. Họ cho rằng
thuộc tính của sự vật là khách quan chứ không phụ thuộc vào chủ quan con người.
- Phái Hậu Mặc phát triển quan điểm duy vật về nhận thức.
+ Họ cho rằng nhận thức phải có 2 yếu tố là hoạt động cảm nhận của các quan
năng (Ngũ lộ) và tác động của các vật thể lên chúng.
Họ chia nhận thức thành 2 giai đoạn là cảm tính (Ngũ lộ) và lý tính (Tâm) (trong
đó tâm mới đem lại sự hiểu biết sâu sắc vì tâm liên kết các cảm giác thành chỉnh thể)
-> Một hòn đá trắng và cứng (nhờ mắt mà biết là trắng, nhờ thân mà biết là cứng),
muốn biết nó vừa trắng vừa cứng phải nhờ tâm liên kết.
+ Họ cho rằng tri thức có ba nguồn gốc: “Văn tri” ->nhờ người khác truyền thụ
mà có; “thân tri” -> do giác quan đêm lại; “thuyết tri” -> nhờ suy luận mà có.
+ Có bốn loại hiểu biết là:
Hiểu biết về “danh” – tên gọi,
hiểu biết về “thực” - vật,
hiểu biết về “hợp” – danh tương ứng với thực,
hiểu biết về “hành động” – thông qua hành động thực tế để xem danh có tương
ứng thực hay không.
=>Họ đi gần đến quan niệm coi thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý với quan
niệm “phù hợp thì thắng”.
+ Họ phát triển các phép suy luận lôgíc với 6 phương pháp biện luận là: phép
hoặc, phép giả, phép bắt chước, phép so sánh, phép tương tự và phép suy.
KẾT LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT HỌC TRUNG HOA CỔ ĐẠI:
1. Triết học Trung Quốc là nền triết học có 1 truyền thống lịch sử lâu dài, chứa
đựng cuộc đấu tranh tư tưởng sâu sắc giữa TGQ duy tâm, tôn giáo với TGQ duy vật
tiến bộ -> các cuộc đấu tranh này phản ánh cuộc đấu tranh giữa các giai tầng xã hội
có địa vị đối lập nhau.
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 23/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học

2. Triết học TQCĐ có nhiều trường phái, học thuyết khác nhau, bàn về hầu hết
các vấn đề quan trọng như: bản thể luận, nhận thức luận, triết lí nhân sinh đạo đức, tư
tưởng chính trị -> nên có những đóng góp quan trọng cho kho tàng tri thức của nhân
loại.
3.Triết học TQCĐ ra đời và phát triển trong giai đoạn XT-CQ ->đây là thời kỳ
XHTQ có nhiều biến động chính trị, kinh tế xã hội và các thành tựu khoa học ->nên
nó quan tâm đến vấn đề nhân sinh – chính trị.
4. Triết học TQCĐ là nền triết học phong phú với các tính chất và khuynh hướng
đa dạng. Triết học CĐTQ không được trình bày 1 cách chặt chẽ logic mà chủ yếu sử
dụng các châm ngôn, ẩn dụ, ngụ ngôn triết học hay với ý tứ thâm trầm, sâu sắc.
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 24/62
Đề cương thi Cao học - môn Lịch sử triết học
Nội dung 2: TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
I. HOÀN CẢNH RA ĐỜI VÀ ĐẶC ĐIỂM TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI
1.Hoàn cảnh ra đời.
- Hy Lạp cổ đại là một vùng đất rộng lớn, bao gồm miền nam bán đảo Ban Căng,
nhiều hòn đảo thuộc biển Ê giê, phía đông kéo dài đến vùng Tiểu á.
- Hy Lạp cổ đại là một vùng đất rộng lớn, bao gồm miền nam bán đảo Ban Căng,
nhiều hòn đảo thuộc biển Ê giê, phía đông kéo dài đến vùng Tiểu á. Từ TK XV đến
TK XT TCN chế độ cộng sản nguyên thuỷ dần dần tan rã, chế độ chiếm hữu nô lệ ra
đời thay thế, dẫn đến những biến đổi sâu sắc đến đời sống xã hội, phân hoá xã hội
thành hai giai cấp cơ bản là chủ nô và nô lệ.
- Kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương mại phát triển.
- Nhiều cuộc chiến tranh xảy ra gây nên những biến động lớn về chính trị: Thắng
lợi của Hy Lạp trong cuộc chiến chống Ba Tư TK V TCN đã tạo nên một đế chế Hy
Lạp cổ đại với liên minh của 300 thành bang; chiến tranh giữa các thành bang làm
suy yếu Hy Lạp cổ đại và cuối cùng bị La Mã chinh phục TK II TCN.
- Khoa học tự nhiên tương đối phát triển như: toán học, vật lý học, thiên văn học.
=>Tất cả những tiền đề kinh tế, xã hội, khoa học, văn học, nghệ thuật nói trên là
những điều kiện cho sự phát triển rực rỡ của triết học cổ Hy Lạp. Như Ăng-ghen nói,

“Nếu không có chế độ nô lệ, thì cũng không có nhà nước Hy Lạp, không có khoa học
và nghệ thuật Hy Lạp”.
2. Đặc điểm triết học Hy Lạp cổ đại
- Triết học HLCĐ là sự kết tinh những gì tinh túy nhất của nhận thức nhân loại
từ PTSX thứ nhất ->PTSX thứ 2 ở phương Tây -> vì vậy ở đó đã dung chứa hầu hết
các vấn đề cơ bản của TGQ và là 1 hệ thống tập hợp tri thức về tự nhiên, con người,
mặc dù chưa thoát khỏi trạng thái phôi phai mộc mạc nhưng vô cùng phong phú,
muôn hình, muôn vẻ
- Triết học HLCĐ quan tâm đến vấn đề con người, khẳng định con người là vốn
quý, là trung tâm của thế giới. Mặc dù, con người ở đây cũng chỉ là con người cá thể,
giá trị thẩm định chủ yếu ở khía cạnh đạo đức, giao tiếp và nhận thức.
- Triết học HLCĐ mang tính duy vật tự phát và biện chứng sơ khai, cố gắng giải
thích các SVHT trong 1 khối duy nhất thường xuyên vận động và biến đổi không
ngừng. Với ý nghĩa đó, những tư tưởng biện chứng của triết học HLCĐ đã làm thành
hình thức đầu tiên của phép biện chứng.
II. MỘT SỐ TRIẾT GIA TIÊU BIỂU.
1. HÊRACLIT (520 – 460TCN) ->người sáng lập ra phép biện chứng cổ đại.
a. Bản thể luận: ->cho rằng lửa là bản nguyên của thế giới: “Tất cả đều trao đổi
với lửa và lửa trao đổi với tất cả như vàng thành hàng hóa và hàng hóa thành vàng”
Thực hiện: Lê Tấn Công – Trang 25/62

×