Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

mối quan hệ qua lại giữa đầu tư và tăng trưởng phát triển kinh tế,liên hệ thực tiễn tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (410.95 KB, 68 trang )

Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng và phát triển kinh tế luôn là mục tiêu hướng tới của nhiều quốc
gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Từ khi giành được độc lập năm 1975 và đặc
biệt là từ sau năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà
nước ta luôn đặt mục tiêu phát triển kinh tế lên hàng đầu với định hướng đến năm
2020 Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một nước công nghiệp. Để đạt được mục tiêu
trên thì đầu tư là một yếu tố cực kỳ quan trọng vì đầu tư, nói rõ hơn là đầu tư phát
triển, không những làm gia tăng tài sản của cá nhân nhà đầu tư, mà còn trực tiếp
làm gia tăng tài sản vật chất cho nền kinh tế, có tác động rất mạnh mẽ đến phát triển
kinh tế.
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được tốc độ tăng trưởng kinh
tế tương đối cao, đặc biệt năm 2007, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao nhất trong lịch
sử: 8,5%, những năm 2008, 2009 mặc dù chịu ảnh hưởng chung của suy thoái kinh tế, song
tăng trưởng kinh tế vẫn ổn định ở mức ở mức 6.15% và 5.32%. Một vấn đề cấp thiết được
đặt ra là làm thế nào để duy trì tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế ấy trong một thời gian
dài.
Từ thực trạng kinh tế Việt Nam trong những năm qua cần có một cái nhìn tổng quan
và đánh giá đúng đắn về mối quan hệ qua lại giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển. Nhận
thức được tính chất quan trọng của vấn đề, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Mối quan hệ qua lại
giữa đầu tư với tăng trưởng và phát triển kinh tế”, với mục đích làm rõ một số vấn đề lý
luận và thực tiễn về tác động của đầu tư đến tăng trưởng, phát triển kinh tế và ngược lại.
Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp nhằm phát huy tối đa mối quan hệ này để phục vụ cho
sự nghiệp phát triển đất nước.
1
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MỐI
QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CHUNG
1. Đầu tư


1.1 Khái niệm
Trên góc độ kinh tế học vĩ mô: Đầu tư là hoạt động mua “tư bản hiện vật” như
máy móc, xây dựng nhà xưởng… nhằm thay thế một phần tài sản đã hao mòn để
nâng cao năng lực sản xuất của doanh nghiệp.
Đầu tư nói chung là sự hi sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn
lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Như vậy mục tiêu của mọi công cuộc đầu
tư là đạt được các kết quả lớn hơn so với những hi sinh về nguồn lực mà người đầu
tư phải gánh chịu khi tiến hành đầu tư. Nguồn lực phải hi sinh đó có thể là tiền, là
tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Tóm lại, đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực vào các hoạt động nào
đó nhằm đem lại lợi ích hoặc mục tiêu, mục đích của chủ đầu tư.
1.2 Phân loại
Hoạt động đầu tư được chia thành ba loại: Đầu tư phát triển, đầu tư tài chính,
đầu tư thương mại.
Đầu tư tài chính và đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư chỉ trực tiếp làm tăng
tài sản tài chính của người đầu tư, tác động gián tiếp đến làm tăng tài sản của nền
kinh tế thông qua sự góp tài chính tích lũy của các hoạt động đầu tư này cho đầu tư
phát triển, cung cấp vốn cho hoạt động đầu tư phát triển và thúc đẩy quá trình lưu
thông phân phối các sản phẩm do kết quả của quá trình đầu tư phát triển tạo ra.
Đầu tư phát triển là hoạt động cơ bản của đầu tư, là việc chi dùng vốn trong
hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm tăng thêm hoặc tạo ra những tài sản vật
chất (nhà xưởng, thiết bị, …) và tài sản trí tuệ (tri thức, kĩ năng, …), gia tăng năng
lực sản xuất, tạo thêm việc làm và vì mục tiêu phát triển.
Ba loại hình đầu tư này luôn luôn tồn tại trong nền kinh tế và có mối quan hệ
tương hỗ với nhau. Đầu tư phát triển tạo tiền đề để tăng tích lũy, phát triển hoạt
động đầu tư tài chính và đầu tư thương mại. Ngược lại, đầu tư tài chính và đầu tư
thương mại hỗ trợ và tạo điều kiện để tăng cường đầu tư phát triển.
2
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, chúng ta tập trung chủ yếu vào hoạt
động đầu tư phát triển.
2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế
2.1 Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng
thời gian nhất định (thường là một năm). Sự tăng trưởng thể hiện ở quy mô và tốc
độ. Quy mô tăng trưởng phản ánh sự gia tăng nhiều hay ít, còn tốc độ tăng trưởng
được sử dụng với ý nghĩa so sánh tương đối và phản ánh sự gia tăng nhanh hay
chậm giữa các thời kì. Như vậy, bản chất của tăng trưởng là phản ánh sự thay đổi về
lượng của nền kinh tế.
Có rất nhiều chỉ tiêu để đánh giá sự tăng trưởng kinh tế như: Tổng giá trị sản
xuất (GO- Gross Output); Tổng sản phẩm quốc nội (GDP – Gross Domestic
Product); Tổng thu nhập quốc dân (GNI – Gross National Income); Thu nhập quốc
dân (NI – National Income); Thu nhập quốc dân khả dụng (NDI – National
Disposable Income); thu nhập bình quân đầu người (GDP/người)…
2.2 Phát triển kinh tế
Hiện nay mọi quốc gia đều phấn đấu vì mục tiêu phát triển và trải qua thời gian,
khái niệm về phát triển cũng đã đi đến thống nhất. Phát triển kinh tế được hiểu là
quá trình biến đổi cả về lượng và chất, nó là sự kết hợp chặt chẽ quá trình hoàn
thiện của hai vấn đề kinh tế và xã hội ở mỗi quốc gia. Theo cách hiểu như vậy, phát
triển phải là một quá trình lâu dài và do các nhân tố nội tại của nền kinh tế quyết
định. Nội dung của phát triển kinh tế được khái quát theo ba tiêu thức:
Một là, sự gia tăng tổng mức thu nhập của nền kinh tế và mức gia tăng thu
nhập bình quân trên đầu người. Đây là tiêu thức thể hiện quá trình biến đổi về lượng
của nền kinh tế, là điều kiện cần để nâng cao mức sống vật chất của một quốc gia và
thực hiện những mục tiêu khác của phát triển.
Hai là, sự biến đổi theo đúng xu thế của cơ cấu kinh tế. Đây là tiêu thức
phản ánh sự biến đổi về chất kinh tế của một quốc gia. Để phân biệt các giai đoạn
phát triển kinh tế hay so sánh trình độ phát triển kinh tế giữa các nước với nhau,
người ta thường dựa vào dấu hiệu về dạng cơ cấu ngành kinh tế mà quốc gia đó đạt

được.
Ba là, sự biến đổi ngày càng tốt hơn trong các vấn đề xã hội. Mục tiêu cuối
cùng của sự phát triển kinh tế trong các quốc gia không phải là tăng trưởng hay
chuyển dịch cơ cấu kinh tế mà là việc xóa bỏ nghèo đói, suy dinh dưỡng, sự tăng
lên của tuồi thọ bình quân, khả năng tiếp cận đến các dịch vụ y tế, nước sạch, trình
3
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
độ dân trí giáo dục của quảng đại quần chúng nhân dân v.v… Hoàn thiện các tiêu
chí trên là sự thay đổi về chất xã hội của quá trình phát triển.
2.3 Phát triển bền vững
Phát triển nhanh phải đi đôi với phát triển bền vững, hai mặt tác động lẫn nhau
được thể hiện ở cả tầm vĩ mô và vi mô, ở cả tầm ngắn hạn và dài hạn. Phát triển bền
vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa ba mặt của
sự phát triển gồm : Tăng trưởng kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội và bảo vệ môi
trường.
Phát triển kinh tế về mặt lượng phải đi liền với nâng cao chất lượng, hiệu quả
và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong khi khai thác các yếu tố phát triển theo
chiều rộng, phải đặc biệt coi trọng các yếu tố phát triển theo chiều sâu. Phải gắn
tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, phát triển toàn diện con người, thực hiện
dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, tạo nhiều việc làm, cải thiện đời sống, khuyến
khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói, giảm nghèo. Từng bước thu hẹp khoảng
cách phát triển giữa các vùng. Phải rất coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường
ngay trong từng bước phát triển, không gây ô nhiễm và huỷ hoại môi trường. Phát
triển kinh tế phải đi đôi với việc bảo đảm ổn định chính trị - xã hội; ổn định chính
trị - xã hội là tiền đề, điều kiện để phát triển nhanh và bền vững.
II. MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ
PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.Đầu tư tác động đến tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.1 Đầu tư tác động về mặt tăng trưởng kinh tế
1.1.1 Đầu tư phát triển tác động đến tổng cung của nền kinh tế

Hàm tổng cung- hàm số nêu lên mối quan hệ giữa sự tăng lên của đầu ra với sự
tăng lên của các yếu tố đầu vào (vốn, lao động, tài nguyên thiên nhiên và khoa học
công nghệ) của nền kinh tế được biểu diễn như sau:
Y= f (K, L, R, T)
Một dạng khác là hàm Cobb– Douglas có dạng:
Y = T. K
α
. L
β
. R
γ
. T
Ở đây α, β, γ là các số lũy thừa, phản ánh tỷ lệ cận biên của các yếu tố đầu vào.
Ta thiết lập được mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng của các biến số như sau:
g = t + αk + βl + γr
Trong đó: g: Tốc độ tăng trưởng của GDP
k, l, r lần lượt là tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào
4
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
t: phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học công nghệ
Như vậy, có thể thấy 4 nhân tố của hàm sản lượng là K, L, R, T. Mối quan hệ
đầu tư tác động đến 4 nhân tố này thông qua đó làm tăng sản lượng (quan hệ tác
động thuận chiều) được cụ thể hóa bằng những phân tích lý luận dưới đây:
a. Đầu tư vào vốn
Vai trò của vốn đầu tư đến nền kinh tế còn được thể hiện ở những lý thuyết kinh
tế qua các thời đại. Có rất nhiều nhà kinh tế chứng minh vai trò của vốn đầu tư đến
tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tiêu biểu là mô hình Harrod – Domar. Mô hình
thể hiện mối gia tăng vốn với tổng sản phẩm.
Mô hình Harrod - Domar giải thích mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kinh tế
với yếu tố tiết kiệm và đầu tư vốn.

Để xây dựng mô hình, các tác giả đưa ra 2 giả định:
- Lao động đầy đủ việc làm, không có hạn chế với cung lao động.
- Sản xuất tỷ lệ với khối lượng máy móc.
Nếu gọi: Y : Là sản lượng năm t

Y∆
: Sản lượng gia tăng trong kì
S : Tổng tiết kiệm trong năm
g= : Tốc độ tăng trưởng kinh tế
S= : Tỷ lệ tiết kiệm/GDP
Hệ số k (hệ số ICOR): Tỷ lệ gia tăng của vốn so với sản lượng
Từ công thức: k=
Nếu
IK =∆
, ta có : k=
Ta lại có: I = S = s *Y.
Thay vào công thức tính ICOR, ta có:
5
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
k=

Từ đây suy ra:
R
*
ICO
Ys
Y
=∆
Phương trình phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế:
Y

ICO
Ys
Y
Y
g :
R
*
=

=
Cuối cùng ta có:
RICO
s
g =
Như vậy, theo Harrod - Domar, tiết kiệm là nguồn gốc của tăng trưởng kinh
tế. Muốn gia tăng sản lượng với tốc độ g thì cần duy trì tỷ lệ tích luỹ để đầu tư trong
GDP là s với hệ số ICOR không đổi. Mô hình thể hiện tiết kiệm S là nguồn vốn của
đầu tư I, đầu tư làm gia tăng vốn sản xuất (

K), gia tăng vốn sản xuất sẽ trực tiếp
gia tăng

Y. Cũng lưu ý rằng, do nghiên cứu ở các nước tiên tiến, nhằm xem xét
vấn đề: để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế 1% thì đầu tư phải tăng bao nhiêu, nên
những kết luận của mô hình cẩn được kiểm nghiệm kỹ khi nghiên cứu đối với các
nước đang phát triển như ở nước ta. Ở những nước đang phát triển, vấn đề không
đơn thuần chỉ là duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế như cũ mà quan trọng là phải
tăng với tốc độ cao hơn. Đồng thời do thiếu vốn, thừa lao động, họ thường sử dụng
nhiều nhân tố khác phục vụ tăng trưởng.
Cụ thể hơn vai trò của vốn đầu tư đối với nền kinh tế được thể hiện như sau:

Vốn đầu tư hợp lý tác động tích cực đến tăng trưởng kinh tế
Các chính sách, cơ chế huy động và phân bổ vốn hợp lý không chỉ góp phần
làm gia tăng quy mô vốn trong nền kinh tế mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,
gia tăng mức độ đóng góp của nhân tố vốn trong tốc độ tăng trưởng, do đó, nâng
cao được chất lượng tăng trưởng.
Ngược lại, các chủ trương, chính sách đầu tư không hợp lý, năng lực quản lý
yếu kém có thể dẫn đến sự mất cân đối trong huy động các nguồn lực, hiệu quả và
mức độ đóng góp của các nguồn lực không tương xứng với tiềm năng, dẫn đến
những tác động tiêu cực trong tăng trưởng kinh tế, tạo ra chất lượng tăng trưởng
không cao. Chẳng hạn, với chính sách bao cấp trong đầu tư (qua chế độ cấp phát
6
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
vốn, tín dụng…) một mặt sẽ tạo ra sự khan hiếm và lãng phí vốn trong một số đối
tượng được bao cấp, phân bổ vốn không hợp lý và dẫn đến hiệu quả đầu tư không
cao.
Chính sách đầu tư của một quốc gia, năng lực quản lý hoạt động đầu tư của các
cấp. Các yếu tố của môi trường đầu tư và yếu tố thể chế trong nền kinh tế thị trường
có tác động mạnh đến hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và các nguồn lực khác và sau
cùng tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến năng suất nhân tố tổng hợp TFP
Năng suất nhân tố tổng hợp (Total Factor Productivity – TFP) là chỉ tiêu phản
ánh kết quả sản xuất do sử dụng hiệu quả nhân tố vốn và lao động (Các nhân tố hữa
hình – được xác định bằng số lượng), do tác động của các yếu tố vô hình như cải
tiến quản lý, đổi mới công nghệ, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao trình độ lao động…
Năng suất nhân tố tổng hợp cho biết mức độ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế của
các yếu tố đầu vào bao gồm yếu tố vốn đầu tư, lao động và các yếu tố ngoài hai yếu
tố này.
Sử dụng vốn đầu tư (một nhân tố đầu vào) hiệu quả có ảnh hưởng đến mức tăng
giảm của TFP và do đó tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Tác động của
việc sử dụng vốn đầu tư đến chỉ tiêu năng suất nhân tố tổng hợp không chỉ gồm tác

động trực tiếp mà còn có sự tác động gián tiếp thông qua việc đầu tư vốn vào nhân
tố lao động (một yếu tố đầu vào hữu hình khác) và vào các yếu tố vô hình như nâng
cao trình độ quản lý, cải thiện môi trường thể chế … Đầu tư nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực trực tiếp làm tăng năng suất lao động và ảnh hưởng nhất định đến
năng suất nhân tố tổng hợp do nâng cao trình độ tay nghề, hợp lý hóa quá trình sản
xuất, tổ chức lao động… Từ đó có tác động đến chất lượng tăng trưởng kinh tế. Có
thể nói, TFP chỉ có thể tăng nhanh khi chất lượng nguồn nhân lực gia tăng.
Tác động của việc sử dụng vốn đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH-HĐH
Cơ cấu kinh tế là tổng thể các yếu tố cấu thành nền kinh tế, liên hệ chặt chẽ, tác
động qua lại với nhau trong không gian và thời gian, trong những điều kiện kinh tế
xã hội nhất định, được thể hiện cả về mặt định tính và định lượng, phù hợp với mục
tiêu đã xác định của nền kinh tế. Sử dụng vốn đầu tư hợp lý, hiệu quả theo cách đầu
tư trọng tâm trọng điểm trên cơ sở qui hoạch, kế hoạch đầu tư, xây dựng một cơ chế
đầu tư hợp lý có tác dụng quan trọng trong việc chuyển dịnh, đổi mới cơ cấu kinh tế
ngành, cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ, cơ cấu theo các thành phần kinh tế, cơ cấu
kinh tế thành thị nông thôn… đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế cao.
Nói cách khác, kết quả của hoạt động sử dụng vốn đầu hợp lý là sự thay đổi cơ cấu
7
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
kinh tế theo hướng ngày càng hợp lý hơn, phát triển toàn diện hơn và theo hướng
CNH, HĐH. Điều này đồng nghĩa với việc nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế.
Vốn đầu tư giúp nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế

Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và của nền kinh tế được đánh giá qua
năng lực cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ mà doanh nghiệp và nền kinh tế tạo ra.
Sử dụng vốn đầu tư bất hợp lý, không hiệu quả, công tác qui hoạch, kế hoạch đầu tư
còn nhiều yếu kém dẫn đến chất lượng thấp, giá thành sản phẩm cao và năng lực
cạnh tranh thấp. Trên góc độ đầu tư, để nâng cao năng lực cạnh tranh, một trong các
yếu tố then chốt có tính đột phá là thực hiện đa dạng hóa các nguồn vốn và tăng

cường tính cạnh tranh giữa các nguồn vốn huy động. Bản thân các nguồn vốn, một
trong những nguồn lực cơ bản cho đầu tư, khi được đặt trong môi trường cạnh tranh
và có cơ chế huy động và phân bổ vốn theo tín hiệu của thị trường thì hiệu quả đầu
tư mới được chú trọng đúng mức, do đó chất lượng tăng trưởng mới được đề cao.
Tác động của vốn đầu tư đến chất lượng và giá thành sản phẩm
Chất lượng và giá thành sản phẩm là các chỉ tiêu quan trọng phản ánh mặt chất
của tăng trưởng kinh tế. Chất lượng và giá thành sản phẩm lại chịu sự tác động lớn
của hoạt động tiết kiệm, chống lãng phí thất thoát vốn và việc sử dụng hiệu quả vốn
đầu tư.
Tóm lại, hoạt động sử dụng vốn có tác động quan trọng đến tăng trưởng kinh tế
cả về mặt số lượng lẫn chất lượng.
b. Đầu tư vào lao động
Nguồn lao động trở thành lợi thế cạnh tranh của nhiều nước trên thế giới trong
đó có Việt Nam. Ở những nước này trình độ công nghệ còn nhiều hạn chế, dân số
trong độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ rất cao. Chính vì vậy, hướng đi tốt nhất là tận
dụng lợi thế cạnh tranh của đất nước, tập trung vào những ngành nghề kinh tế sử
dụng nhiều lao động, vốn đầu tư chưa phải là nhiều để thúc đầy sản xuất phát triển.
Vai trò hai mặt của lao động trong quá trình phát triển kinh tế
Lao động một mặt là một bộ phận của nguồn lực phát triển, đó là yếu tố đầu vào
không thể thiếu của quá trình sản xuất. Mặt khác lao động là một bộ phận của dân
số, những người được hưởng lợi ích của sự phát triển kinh tế suy cho cùng đó là
tăng trưởng kinh tế nâng cao đời sống vật chất tinh thần của con người.
Lao động với tăng trưởng kinh tế
Vai trò của lao động với tăng trưởng kinh tế được xem xét qua các chỉ tiêu về
số lượng lao động, trình độ chuyên môn, sức khỏe và sự kết hợp giữa lao động và
các yếu tố đầu vào khác. Các chỉ tiêu được thể hiện tập trung thông qua mức tiền
8
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
công của người lao động khi tiền công của người lao động tăng có nghĩa chi phí sản
xuất tăng lên phản ánh khả năng sản xuất tăng lên. Đồng thời khi mức tiền công

tăng làm cho thu nhập có thể sử dụng của người lao động cũng tăng do đó khả năng
chi tiêu của người lao động tăng . Ở các nước đang phát triển, mức tiền công của
người lao động nói chung là thấp do đó ở những nước này lao động chưa phải là
động lực mạnh cho sự cho sự phát triển. Để nâng cao vai trò của người lao động
trong phát triển kinh tế cần thiết có các chính sách nhằm giảm bớt lượng cung lao
động, đồng thời tạo ra các nguồn lực một cách đồng bộ.
Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là một bộ phận của đầu tư phát triển, nó là
việc chi dùng vốn trong hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm nâng cao và
khuyến khích đóng góp tốt hơn kiến thức, thể lực của người lao động, để đáp ứng
tốt hơn cho nhu cầu sản xuất.
Đầu tư phát triển bao gồm : đầu tư những tài sản vật chất và đầu tư phát triển
những tài sản vô hình. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực là một trong những nội
dung của đầu tư những tài sản vô hình. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm
những nội dung cơ bản sau: đầu tư cho hoạt động đào tạo lực lượng lao động, đầu tư
cho công tác chăm sóc sức khỏe y tế, đầu tư cải thiện môi trường, điều kiện làm
việc của người lao động …
c. Đầu tư vào tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên thiên nhiên là tất cả các nguồn lực của tự nhiên; bao gồm đất đai,
không khí, nước, các loại năng lượng và những khoáng sản nằm trong lòng đất…
Con người có thể khai thác và sử dụng những ích lợi do tài nguyên thiên nhiên ban
tặng để thoả mãn những nhu cầu đa dạng của mình.
Tài nguyên thiên nhiên là một yếu tố nguồn lực quan trọng
Có thể nói tài nguyên thiên nhiên là yếu tố thúc đẩy sản xuất phát triển, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Trong giai đoạn đầu phát triển, các nước đang
phát triển thường quan tâm nhiều đến việc xuất khẩu sản phẩm thô, đó là những sản
phẩm được khai thác trực tiếp từ nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước, chưa
qua chế biến hoặc ở dạng sơ chế. Nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng là cơ sở để
phát triển các ngành sản xuất nông nghiệp, công nghiệp chế biến, các ngành công
nghiệp nặng, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, thủy tinh, sành sứ… Tài
nguyên thiên nhiên chỉ trở thành sức mạnh kinh tế khi con người biết khai thác và

sử dụng một cách có hiệu quả.
Tài nguyên thiên nhiên là cơ sở tạo tích lũy vốn và phát triển ổn định
Có nhiều quốc gia nhờ những ưu đãi của điều kiện tự nhiên đa dạng, phong phú
nên có thể rút ngắn quá trình tích lũy vốn bằng cách khai thác các sản phẩm thô để
9
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
bán hoặc để đa dạng hóa nền kinh tế tạo nguồn tích lũy vốn ban đầu cho sự nghiệp
công nghiệp hóa đất nước.
Hơn nữa, sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt về năng lượng giúp cho
một quốc gia ít bị lệ thuộc hơn vào các quốc gia khác và có thể tăng trưởng một
cách ổn định, độc lập khi thị trường tài nguyên thiên nhiên thế giới bị rơi vào trạng
thái bất ổn.
Từ những giá trị to lớn như vậy của tài nguyên thiên nhiên mà hoạt động đầu tư
rất cần chú trọng đến lĩnh vực này. Phải biết khai thác thể mạnh của từng ngành,
từng vùng mà có hướng đầu tư hợp lý. Vùng có trữ lượng tài nguyên thiên nhiên
phong phú thì ta chú trọng vào công tác khai thác nhưng đi kèm là bảo tồn, tránh
hoạt động đầu tư khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên. Từ đó mới tạo ra được một
hoạt động đầu tư hiệu quả và bền vững, kéo theo đó là tăng lợi nhuận và phát triển
kinh tế.
d. Đầu tư vào khoa học công nghệ
Khoa học là tập hợp những hiểu biết và tư duy nhằm khám phá những thuộc
tính tồn tại khách quan của các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Công nghệ là tập hợp
các phương pháp, quy trình, kĩ năng, bí quyết, công cụ và phương tiện để biến đồi
các nguồn lực thành các sản phẩm hay dịch vụ phục vụ đời sống xã hội.
Đầu tư vào khoa học công nghệ giúp mở rộng khả năng sản xuất, thúc đầy
tăng trưởng và phát triển kinh tế
K.Marx đã dự đoán rằng: đến giai đoạn công nghiệp, việc sản sinh ra sự giàu có
thực sự không phụ thuộc nhiều vào tình trạng chung của khoa học và sự tiến bộ của
kĩ thuật hay sự vận dụng khoa học vào sản xuất.
Dưới tác động của khoa học công nghệ, các nguồn lực sản xuất được mở rộng:

mở rộng khả năng phát hiện khai thác và đưa vào sử dụng các nguồn tài nguyên
thiên nhiên, kể cả tài nguyên tái sinh và không tái sinh làm biến đổi chất lượng
nguồn lực lao động nhờ đó nâng cao năng suất lao động mở rộng khả năng huy
động, phân bổ và sử dụng các nguồn vốn đầu tư một cách có hiệu quả. Khả năng đó
được thể hiện thông qua quá trình hiện đại hóa các tổ chức trung gian tài chính, các
hệ thống thông tin liên lạc, giao thông vận tải.
Khoa học công nghệ tạo điều kiện chuyển từ phát triển kinh tế theo chiều rộng
sang phát triển kinh tế theo chiều sâu.Với vai trò này, khoa học và công nghệ là
phương tiện để chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp và
nền kinh tế tri thức. Trong đó phát triển nhanh các ngành công nghệ cao sử dụng
nhiều lao động trí tuệ là đặc điểm nổi bật.
10
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
Trước đây trong suốt một thời gian dài, quan điểm sự tăng trưởng kinh tế phụ
thuộc nhiều vào các yếu tố vốn, tài nguyên, lao động. Nhưng cách mạng khoa học
kĩ thuật đã chứng minh ngoài các yếu tố trên còn có các yếu tố khác ngày càng giữ
vị trí quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế đó là đổi mới công nghệ, đổi mới tổ
chức quản lý… Đặc biệt khi đứng trước những vấn đề về môi trường, sự cạn kiệt
nguồn tài nguyên thì yếu tố khoa học công nghệ càng trở nên quan trọng. Sự đóng
góp của yếu tố này khó được xác định một cách trực tiếp nhưng được thể hiện qua
việc sử dụng có hiệu quả các yếu tố khác như tăng năng suất lao động, tăng hiệu
quả sử dụng vốn, nâng cao công suất sử dụng máy móc th iết bị.
Thúc đẩy quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ không chỉ đẩy nhanh tốc độ
phát triển của các ngành, mà còn làm cho phân công lao động xã hội ngày càng trở
nên sâu sắc và đưa đến phân chia các ngành thành nhiều phân ngành nhỏ. Xuất
hiện nhiều ngành nhiều lĩnh vực kinh tế mới. Từ đó làm thay đổi cơ cấu kinh tế theo
hướng tích cực. Cơ cấu kinh tế trong nội bộ mỗi ngành cũng biến đổi theo hướng
ngày càng mở rộng quy mô sản xuất ở những ngành có hàm lượng kĩ thuật công
nghệ cao.

Tăng sức cạnh tranh của hàng hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế thị trường
Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp là tối đa hóa lợi nhuận. Muốn vậy các
doanh nghiệp phải sản xuất những mặt hàng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị
trường. Những yêu cầu đó chỉ được thực hiện khi áp dụng tiến bộ khoa học công
nghệ vào trong sản xuất kinh doanh. Nhờ đó không chỉ tạo ra lơi thế trong cạnh
tranh, mà còn tạo ra nhiều loại sản phẩm mới, tăng quy mô sản xuất của doanh
nghiệp, nâng cao vị thế doanh nghiệp trên thị trường. Việc áp dụng tiến bộ khoa học
công nghệ có những tác động sau:
+ Các yếu tố sản xuất như tư liệu sản xuất, lao động ngày càng hiện đại và đồng bộ
+ Quy mô sản xuất mở rộng, thúc đẩy ra đời và phát triển các loại hình doanh
nghiệp mới
+ Tạo nhịp độ cao hơn trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Chiến lược kinh doanh từ chỗ hướng nội, thay thế hàng nhập khẩu chuyển sang
hướng ngoại hướng vào xuất khẩu, từ thị trường trong nước hướng ra thị trường thế
giới, tăng sức canh tranh trên thị trường thế giới.
1.1.2 Đầu tư phát triển tác động đến tổng cầu của nền kinh tế
a. Kích cầu trong tăng trưởng kinh tế:
Các học thuyết kinh tế trước trường phái Keynes thường chủ yếu quan tâm đến
yếu tố cung và đồng nhất sự tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên vào những năm 30 của
11
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
thế kỷ XX khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp diễn ra thường xuyên và lý thuyết của
trường phái Keynes đã ra đời đánh dấu sự phát triển mới về kinh tế. Lý thuyết này
nhấn mạnh đến yếu tố cầu và coi tổng cầu là nguyên nhân của sự tăng trưởng cũng
như suy thoái kinh tế.
Cầu tiêu dùng giảm dẫn đến hàng hóa ế thừa, kinh tế trì trệ: Theo ông khi
mức thu nhập tăng lên thì xu hướng tiêu dùng giảm đi còn xu hướng tiết kiệm trung
bình tăng lên, do đó xu hướng tiết kiệm cận biên sẽ tăng lên. Việc giảm xu hướng
tiêu dùng sẽ dẫn đến tiêu dùng giảm xuống. Cầu giảm dẫn đến hàng hóa ế thừa
không bán được. Các nhà sản xuất bi quan về nền kinh tế sẽ thu hẹp quy mô sản

xuất hoặc nếu không sẽ bị phá sản. Chính những điều này dẫn đến hiện tượng thất
nghiệp xảy ra, tệ nạn xã hội bùng phát. Theo Keynes, sự sụt giảm đầu tư chính là
nguyên nhân của khủng hoảng kinh tế xã hội ở các nước tư bản vào những năm 30.
Cũng theo Keynes tổng cầu tăng sẽ kích thích tổng cung tăng và tạo ra nền kinh
tế đạt tới một sự cân bằng mới ở mức sản lượng cao hơn mức sản lượng cũ từ đó
kinh tế sẽ tăng trưởng.
b. Quan điểm của Keynes về đầu tư với tổng cầu:
Số nhân đầu tư phản ánh vai trò của đầu tư đối với sản lượng. Nó thấy sản
lượng tăng bao nhiêu khi đầu tư tăng một đơn vị.
Công thức
I
Y
k


=
(1)
Trong đó: ∆Y là mức gia tăng sản lượng
∆I là mức gia tăng đầu tư
k là số nhân đầu tư
Từ công thức (1) ta có: ∆Y= k. ∆I
Như vậy, việc gia tăng đầu tư có tác dụng khuyếch đại sản lượng lên số
nhân lần. Trong công thức trên k là số dương lớn hơn 1.
Vì I = S có thể biến đổi công thức (1) thành:
MPCMPSS
Y
I
Y
k
−∆




====
1
11
Trong đó : MPC : khuynh hướng tiêu dùng biên
MPS : khuynh hướng tiết kiệm biên
Nếu MPC càng lớn thì k càng lớn, do đó độ khuyếch đại của sản lượng càng
lớn, sản lượng càng tăng, công ăn việc làm càng gia tăng.
12
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
Thực tế, việc gia tăng đầu tư dẫn đến gia tăng cầu về các yếu tố tư liệu sản xuất
(máy móc thiết bị, nguyên vật liêu…) và qui mô lao động. Sự kết hợp hai yếu tố này
làm cho sản xuất phát triển, kết quả là gia tăng sản lượng nền kinh tế.
Mô hình số nhân phản ánh mối quan hệ giữa thu nhập với tăng đầu tư. Theo
ông, mỗi sự gia tăng về đầu tư đều kéo theo sự gia tăng về nhu cầu bổ sung công
nhân, nâng cao về tư liệu sản xuất. Do vậy làm tăng tiêu dùng, tăng giá bán hàng,
làm tăng việc làm làm cho công nhân và tất cả đều có thu nhập.
Tóm lại đầu tư làm tăng tổng cầu kéo theo sự tăng lên thu nhập và tăng trưởng
kinh tế nói chung.
1.2 Đầu tư phát triển tác động tới chuyển dịch cơ cấu kinh tế
1.2.1 Những lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Những lý thuyết về chuyển dịch cơ cấu kinh tế có những đại diện tiêu biểu là:
Mô hình 5 khu vực của Rostow, mô hình 2 khu vực của Harry Oshima, Lý thuyết
phát triển cân đối của R Nurkse, Rosenstein – Rodan và lý thuyết phát triển không
cân đối (hay các cực tăng trưởng) của A. Hirschman, F. Perrons Nhìn chung các
nhà kinh tế đều cho rằng nền kinh tế xã hội luôn trải qua các giai đoạn phát triển từ
thấp đến cao và kéo theo đó là mỗi giai đoạn đều có một cơ cấu kinh tế đặc trưng
gắn với một yêu cầu riêng về tỉ lệ đầu tư và cơ cấu đầu tư sự thay đổi theo hướng

tích cực của cơ cấu kinh tế. Như Rostow, kinh tế xã hội trải qua các giai đoạn cơ
cấu kinh tế từ nông nghiệp thuần túy, sang nông- công nghiệp trong giai đoạn chuẩn
bị cất cánh, đến cơ cấu công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ ở giai đoạn cất cánh, là
cơ cấu công nghiêp – dịch vụ - nông nghiệp trong giai đoạn trưởng thành, và cuối
cùng xã hội đạt tiêu dùng cao thì cơ cấu kinh tế có dạng dịch vụ - công nghiệp.
Sự thay đổi cơ cấu ngành này được giải thích do xã hội luôn phải tồn tại cơ cấu
đầu tư khác nhau giữa các ngành. Ðể phát triển được, cần phải tập trung đầu tư vào
một số ngành nhất định, tạo ra một "cú hích" thúc đẩy và có tác dụng lôi kéo đầu tư
trong các ngành khác theo kiểu lý thuyết số nhân, từ đó kéo theo sự phát triển của
nền kinh tế. Trong mỗi giai đoạn phát triển, vai trò "cực tăng trưởng" của các ngành
trong nền kinh tế là không giống nhau. Vì vậy, cần tập trung những nguồn lực (vốn
khan hiếm) cho một số lĩnh vực cụ thể trong một thời điểm nhất định. Mặt khác, do
trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hóa, các nước đang phát triển rất thiếu
các nguồn lực sản xuất và không có khả năng phát triển cùng một lúc đồng bộ tất cả
các ngành hiện đại. Vì thế, tập trung phát triển các ngành trọng điểm gần như là một
sự lựa chọn bắt buộc.
13
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
Tóm lại: phát triển kinh tế gắn với một cơ cấu kinh tế phù hợp cho từng giai
đoạn. Đầu tư là giải pháp định hướng cho cơ cấu kinh tế theo kế hoạch. Vậy đầu tư
có vai trò là nhân tố quyết định trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
1.2.2 Lý luận về vai trò của đầu tư với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
a. Đối với cơ cấu ngành kinh tế:
Việc đầu tư vào ngành nào, quy mô vốn là bao nhiêu, đồng vốn được sử
dụng như thế nào đều tác động mạnh mẽ và trực tiếp đến sự phát triển của ngành
nói riêng và của cả nền kinh tế nói chung. Cụ thể, đầu tư sẽ góp phần tăng cường
vật chất kĩ thuật, nâng cao hàm lượng công nghệ qua đó nâng cao năng suất lao
động của ngành. Nhờ đó sẽ tạo ra sản lượng cao hơn với giá thành thấp hơn. Mặt
khác, đầu tư là tiền đề tập trung các nguồn lực khác của nền kinh tế (lao động, tài
nguyên, vốn dư thừa…) cho mục tiêu phát triển ngành. Chính đầu tư chứ không

phải các quyết định hành chính là nhân tố trực tiếp nhất có thể huy động tất cả các
yếu tố đầu vào cần thiết cho sự phát triển của ngành. Không những thế việc đầu tư
còn tạo ra điều kiện vật chất cho sự ra đời của những ngành mới. Sự thay đổi tỉ
trọng giữa các ngành và sự ra đời của những ngành mới chính là chuyển dịch cơ cấu
kinh tế ngành.
b.Đối với cơ cấu lãnh thổ kinh tế:
Có thể dễ dàng nhận thấy bất cứ vùng nào nhận được một sự đầu tư thích hợp
đều có điều kiện để phát huy mạnh mẽ những thế mạnh của mình. Những vùng tập
trung nhiều khu công nghiệp lớn đều là những vùng rất phát triển của một quốc gia.
Những vùng có điều kiện được đầu tư sẽ là đầu tàu kéo các vùng khác cùng phát
triển. Những vùng kém phát triển có thể nhờ vào đầu tư để thoát khỏi đói nghèo và
giảm dần khoảng cách với các vùng khác. Nếu xét cơ cấu lãnh thổ theo góc độ
thành thị và nông thôn thì đầu tư là yếu tố bảo đảm cho chất lượng của đô thị hoá.
Việc mở rộng các khu đô thị dựa trên các quyết định của chính phủ sẽ chỉ là hình
thức nếu không đi kèm với các khoản đầu tư hợp lý. Đô thị hoá không thể gọi là
thành công thậm chí còn cản trở sự phát triển nếu cơ sớ hạ tầng không đáp ứng
được các nhu cầu của người dân. Các dịch vụ y tế, giáo dục… cũng cần được đầu tư
cho phù hợp với sự phát triển của một đô thị.
c.Đối với cơ cấu thành phần kinh tế:
Đối với mỗi quốc gia, việc tổ chức các thành phần kinh tế chủ yếu phụ thuộc
vào chiến lược phát triển của chính phủ. Các chính sách kinh tế sẽ quyết định thành
phần nào là chủ đạo; thành phần nào được ưu tiên phát triển; vai trò; nhiệm vụ của
các thành phần trong nền kinh tế…Ở đây đầu tư đóng vai trò nhân tố thực hiện.
14
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
Tóm lại, nhìn tư góc độ lý thuyết hay thực tiễn đều thấy được mối quan hệ và
vai trò tất yếu của đầu tư phát triển đối với quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế
của mỗi quốc gia.
1.3 Đầu tư tác động tới tiến bộ xã hội
Tiến bộ xã hội phản ánh sự vận động của xã hội từ thấp đến cao, từ đơn giản

đến phức tạp, là sự vận động của xã hội loài người từ hình thái kinh tế xã hội này
đến hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn, hoàn thiện hơn về cơ sở hạ tầng kinh tế
lẫn kiến trúc thượng tầng về pháp lý, chính trị và các hình thức xã hội. Lịch sử xã
hội loài người nói chung bao giờ cũng vận động theo hướng tiến bộ mà mỗi hình
thái kinh tế xã hội là một nấc thang của tiến bộ xã hội. Tiến bộ xã hội mà trung tâm
của nó là vấn đề phát triển con người được xem là tiêu thức đánh giá mục tiêu cuối
cùng của phát triển. Nó được đánh giá qua các khía cạnh chính gồm: một số chỉ
tiêu phản ánh nhu cầu cơ bản của con người và chỉ tiêu về nghèo đói, bất bình đẳng
Lý luận về tác động của đầu tư tới tiến bộ xã hội:
Đầu tư với vai trò là một nhân tố vô cùng quan trọng quyết định trực tiếp tới
tăng trưởng kinh tế cũng đồng thời là một nhân tố gián tiếp góp phần xây dựng một
xã hội tiến bộ. Tất cả những hoạt động đầu tư hợp lý và đúng trọng điểm góp phần
mang lại một nền kinh tế tăng trưởng nhanh thông qua đó nâng cao một số chỉ tiêu
phản ánh nhu cầu của con người, đó là những nhu cầu về mức sống vật chất, nhu
cầu giáo dục, y tế- chăm sóc sức khỏe, nhu cầu về việc làm. Hoạt động đầu tư tác
động tới tăng trưởng kinh tế từ đó nâng cao thu nhập cho người dân, cải thiện mức
sống vật chất sau đó là tiếp cận các dịch vụ cơ bản của xã hội như y tế, giáo dục.
Hoạt động đầu tư cũng trực tiếp cung cấp tạo công ăn việc làm cho người dân, góp
phần giảm tỷ lệ thất nghiệp.
1.4 Đầu tư tác động tới môi trường
Đầu tư trong vai trò là nhân tố thực hiện đối với tăng trưởng và phát triển kinh
tế đã đóng góp một phần không nhỏ trong việc tác động tới môi trường từ nhiều góc
độ.
Ở góc độ tích cực chúng ta có thể nhận thấy thông qua các mục tiêu, kế hoạch
đặt ra trong công tác huy động vốn, nguồn lực vào các vùng kinh tế, các khu vực
kinh tế có môi trường bị ô nhiễm để khắc phục và giảm bớt sự ô nhiễm, phân bổ hài
hòa, cân bằng lại môi trường sinh thái. Những hình thức đầu tư phát triển sản xuất
sử dụng nguyên liệu tái chế, tận dụng, tiết kiệm.
Ở góc độ tiêu cực, vấn đê ô nhiễm môi trường là một thực tế không thể tránh
khỏi. Đầu tư đã tác động một cách trực tiếp và lâu dài, gây ra hậu quả nghiêm trọng

mà cái giá phải trả cho thế hệ mai sau thực sự là một bài toán khó giải. Đầu tư tăng
15
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
trưởng và phát triển kinh tế nhưng cũng đồng thời lấy đi nguồn lực vô cùng lớn
chính là: nguồn tài nguyên thiên nhiên, đó có thể là nguồn tài nguyên thiên hữu hạn
hoặc vô hạn nhưng nếu lấy đi mà không có biện pháp cân đối, tiết kiệm thì hậu quả
mất cân bằng sinh thái, các hiểm họa về môi trường xảy ra là một việc khó lường.
Những hoạt động đầu tư trên cơ sơ nguồn lực sẵn mang tính chất không thể tái tạo
đang ngày càng cạn kiệt nếu không có biện pháp tiết kiệm, sử dụng hợp lý và tìm
kiếm nguyên liệu thay thế. Những hoạt động đầu tư có đầu vào là nguồn tài nguyên
có khả năng tái tạo thì việc cân đối sử dụng hợp lý không được bảo đảm khiến mất
cân bằng sinh thái, không kịp tái tạo thậm chí biến mất. Không chỉ có thế, hoạt động
đầu tư mà đi kèm với nó là những chất thải độc hại thải ra môi trường với ý thức
của các nhà đầu tư chưa cao, chạy theo lợi nhuận cùng với sự kiểm soát trong việc
xử lý chất thải chưa chặt chẽ đã khiến môi trường tự nhiên đang ngày càng ô nhiễm
nặng nề. Môi trường vừa là đầu vào, vừa là đầu ra của tất cả những hoạt động đầu
tư phát triển, tác động của đầu tư tới môi trường có thể là trực tiếp hoặc gián tiếp
nhưng đó cũng chính là một trong những yếu tố quyết đinh cho một nền kinh tế phát
triển và bền vững.
2. Tác động ngược lại của tăng trưởng và phát triển kinh tế đến đầu tư
2.1. Tăng trưởng & phát triển kinh tế góp phần cải thiện môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư phải được hệ thống pháp luật và chính sách của nhà
nước đảm bảo. Hệ thống pháp luật trước hết là luật đầu tư công bằng, hợp lý và
được đảm bảo thực thi trong thực tiễn đối với mọi thành phần kinh tế. tạo dựng một
nền kinh tế thị trường, với những quy luật vốn có phát huy tác dụng tích cực của cơ
chế thị trường. Nhờ đó các nguồn vốn đầu tư được huy động, phân bổ sử dụng có
hiệu quả. Vấn đề này trực tiếp liên quan đến việc hình thành đồng bộ các yếu tố thị
trường (trong đó có thị trường tài chính), đến quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý
nền kinh tế, đến việc hoàn thiện hệ thống chính sách và khuôn khổ pháp lý đảm bảo
cho hoạt động nền kinh tế.

Tăng trưởng và phát triển kinh tế làm cho nền kinh tế có nội lực lớn hơn,
quy mô vốn của toàn bộ nên kinh tế ngày một phát triển. Ngân sách chính phủ ngày
một nhiều tạo điều kiện cho việc đầu tư thêm cho cơ sở hạ tầng ngày một tốt hơn.
Đường xá, cầu cống được xây dựng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn. Điện, nước, dich
vụ viễn thông công nghệ thông tin ngày càng phát triển. Đây chính là những điều
kiện không thể tốt hơn của một môi trường đầu tư để kêu gọi các nhà đầu tư tham
gia đầu tư tìm kiếm lợi nhuận.
Để có thể đảm bảo nguồn vốn cho đầu tư phát triển nền kinh tế phải huy
động vốn thông qua các kênh huy động vốn khác ngoài ngân sách nhà nước. Một
16
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
trong số đó là ODA, FDI, cá nhân, tổ chức,… là những nguồn vốn quan trọng bậc
nhất trong đầu tư phát triển. Để huy động được nhiều hơn những nguồn lực đó nhà
nước chính phủ phải hoàn thiện hơn nữa thể chế chính sách nhằm kêu gọi đầu tư.
Đảm bảo đặt lợi ích của nhà đầu tư lên hàng đầu. Nền kinh tế càng phát triển vốn
đầu tư càng nhiều, yêu cầu hoàn thiện cơ chế chính sách đầu tư càng tăng đi cùng
với nó là môi trường đầu tư ngày một thông thoáng hơn hứa hẹn đem lại nhiều lợi
nhuận hơn cho nhà đầu tư. Tăng trưởng và phát triển kinh tế làm hoàn thiện hơn
môi trường đầu tư thông qua việc hoàn thiện cơ chế chính sách.
2.2. Tăng trưởng và phát triển kinh tế làm tăng tỷ lệ tích luỹ, cung cấp
thêm vốn cho đầu tư:
Vấn đề tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sự hấp dẫn
ngày càng lớn đối với vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài. Vấn đề này liên
quan đến một nguyên tắc mang tính chủ đạo trong việc thu hút vốn đầu tư: Vốn
được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút vốn càng lớn. Thực chất của mối
quan hệ này nằm trong mối quan hệ nhân quả của các sự vật.
Thứ nhất với năng lực tăng trưởng được đảm bảo, năng lực tích lũy của nền
kinh tế có khả năng gia tăng. Khi đó quy mô nguồn vốn trong nước có thể huy động
sẽ được cải thiện.
Thứ hai triển vọng tăng trưởng và phát triển càng cao cũng là tín hiệu tốt thu

hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Từ đó dẫn đến tích lũy được nhiều vốn cung
cấp cho hoạt động đầu tư.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế tạo ra sự tin tưởng vững chắc cho
những nhà đầu tư đã tham gia đầu tư và tạo ra một lực hút lớn lao đối với những
nhà đầu tư còn đang phân vân trong việc có tham gia đầu tư hay không. Tăng
trưởng và phát triển kinh tế giúp hoàn thiện hơn cơ sở hạ tầng kĩ thuật đây chính là
điều kiên tiên quyết để thu hút nguồn đầu tư nước ngoài thông qua FDI và ODA.
Với một nền kinh tế cón đang phát triển như ở nước ta thì đầu tư nước ngoài chính
là một trong những ngồn vốn quan trọng bậc nhất cung cấp cho đầu tư. Làm cho
nguồn vốn đầu tư ngày lớn hơn. Phát triển kinh tế thể hiện một sự tăng lên cả về
chất và lượng của nền kinh tế. Nền kinh tế ngày một hoàn thiện hơn. Cá nhân doanh
nghiệp tổ chức kinh doanh thu được lợi nhuận lớn hơn. Quy mô tích lũy cũng nhờ
đó mà tăng theo.
17
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
2.3. Tăng trưởng kinh tế góp phần hoàn thiện hơn hạ tầng cơ sở vật chất kĩ
thuật.
Xây dựng hạ tầng cơ sở vật chất kĩ thuật là một trong những điều kiện đầu tiên
cấp thiết để tăng trưởng kinh tế . Chính vì vậy xây dựng hạ tầng kĩ thuật là một
trong những phương tiện để đạt được tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế càng tăng
trưởng và phát triển mạnh thì yêu cầu về cơ sở hạ tầng kĩ thuật ngày càng cao thì
yêu cầu đăt ra đối với hạ tầng, cơ sở, vật chất kĩ thuật đó là sự hoàn thiện hơn cả về
lượng và chất. Tăng trưởng kinh tế đi cung với nó là tiến bộ về khoa học kĩ thuật
những tiến bộ này quay trở lại tác động vào cơ sở vật chất kĩ thuật. Điều này góp
phần làm hiện đại hơn cơ sở hạ tâng kĩ thuật phù hợp với sự phát triển của nền kinh
tế đang thay đổi từng ngày.
2.4 Tăng trưởng kinh tế góp phần nâng cao năng lực khoa học kĩ thuật và
công nghệ.
Trong mô hình tiến bộ công nghệ của Solow: Tiến bộ công nghệ ở đây
được hiểu là bất kỳ biện pháp nào cho phép tạo ra nhiều sản lượng hơn. Nên có thể

thấy ở đây phát triển sẽ làm cho khoa học phát triển. Solow cũng đã chỉ ra sự tiến
bộ về khoa học kĩ thuật là một trong những điều kiện quan trọng nhất để tạo ra
lượng sản phẩm nhiều hơn, chất lượng tốt hơn làm cho cuộc sống con người ngày
một sung túc đầy đủ hơn. Đó chính là một trong những điều kiện để phát triển kinh
tế. Chính vậy tăng cường phát triển khoa học kĩ thuật công nghệ là một trong những
vấn đề sống còn trong phát triển kinh tế. Nền kinh tế phát triển tạo điều kiện cho
đầu tư phát triển khoa học kĩ thuật công nghệ ngày một nhiều hơn. Phát triển kinh tế
càng cao yêu cầu đối với chất lượng và mẫu mã sản phẩm cũng khắt khe hơn. Điều
đó bắt buộc các doanh nghiệp nghiên cứu cải tiên công nghệ để không bị các doanh
nghiệp khác đẩy ra khỏi thị trường. Cùng với việc phát triển kinh tế đó là trình độ
dân trí ngày một nâng cao. Tạo điều kiện tiếp thu và phát triển khoa học kĩ thuật
mới cho sản xuất và sinh hoạt.
Chính phủ sẽ có các chính sách nhằm khuyến khích tiến bộ công nghệ như
bao gồm miễn thuế cho hoạt động nghiên cứu và triển khai, có thể chính phủ sẽ trực
tiếp cung cấp vốn cho các nghiên cứu cơ bản. Ngoài ra còn hoàn thiện cơ chế bảo
vệ bản quyền sáng chế đối với các phát minh. Không chỉ vậy kinh tế ngày càng phát
triển cũng làm gia tăng quy mô ngân sách nhà nước. Qua đó cũng làm cho nguồn
vốn đầu tư cho khoa học kĩ thuật tư ngân sách nhà nước ngày một tăng. Đây chính
là tiền đề để nâng cao năng lực khoa học kĩ thuật và công nghệ.
18
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG MỐI QUAN HỆ QUA LẠI GIỮA ĐẦU TƯ
VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
I. ĐẦU TƯ TÁC ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1.Đầu tư tác động tăng trưởng kinh tế.
1.1 Đầu tư tác động đến tổng cung nền kinh tế
1.1.1 Đầu tư vào vốn
a. Nguồn vốn đầu tư trong nước
Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
Năm 1995 vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là 13575 tỷ đồng, năm 2000 đã là

39006 tỷ đồng tức là gấp gần 2,9 lần năm 1995, năm 2009 là 153820 tỷ đồng gấp
3.94 lần năm 2000. Điều này đã cho thấy vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước liên
tục tăng nhanh qua các năm.
Thực hiện vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước năm 2009 ước tính đạt 153,8
nghìn tỷ đồng, vượt 106,8% kế hoạch năm, trong đó vốn trung ương đạt 63,9 nghìn
tỷ đồng; vốn địa phương đạt 89,8 nghìn tỷ đồng.
Năm 2009 vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn thực hiện được 3715,9 tỷ đồng, bằng 125,8% kế hoạch năm; Bộ Công
thương 252,2 tỷ đồng, bằng 106%; Bộ Y tế 1065,1 tỷ đồng, bằng 105,3%; Bộ Văn
hoá, Thể Thao và Du lịch 541,1 tỷ đồng, bằng 100,5%; Bộ Giáo dục và Đào tạo
787,2 tỷ đồng, bằng 102,5%; Bộ Giao thông Vận tải 10924,6 tỷ đồng, bằng 113,9%;
Bộ Xây dựng 828,5 tỷ đồng, bằng 91,9%.
Vốn đầu tư từ doanh nghiệp
Nhìn chung vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước đã tăng mạnh trong thời
gian vừa qua. Từ năm 1996-2000, con số này là 25391,8 tỷ đồng, đến giai đoạn
2001- 2005, vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước rót vào nền kinh tế là 52205,25
tỷ, kế hoạch năm 2006-2010 là 81180,40 tỷ VND.
Tuy nhiên tỷ lệ của vốn đầu tư doanh nghiệp nhà nước so với GDP lại có xu
hướng giảm trong các năm tới.
Số liệu năm 2000 là 9.5%, đến năm 2005 còn 9% và dự tính đến năm 2010
chỉ còn có 8%. Điều này có nghĩa là trong những năm sắp tới sẽ giảm tỷ trọng của
khu vực nhà nước để dành chỗ cho tư nhân phát triển nền kinh tế thị trường.
Vốn đầu tư từ tiết kiệm dân cư
Trong giai đoạn từ năm 1990 đến 2005, tiền gửi tiết kiệm của dân cư vào ngân hàng
bình quân đạt mức cao. Lý do chính ở đây là với lãi suất hấp dẫn của các ngân hàng,
người dân thấy được lợi suất của họ sẽ tăng thêm nhiều nếu gửi tiền tiết kiệm của
19
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
mình vào các ngân hàng.Trong giai đoạn này các ngân hàng thương mại phát triển
khá nhanh với những mức lãi suất huy động tiết kiệm cao.

Tuy nhiên trong những năm gần đây, khi thị trường chứng khoán của Việt
Nam bắt đầu sôi động khi 2 sàn giao dịch chứng khoán được xây dựng và đưa vào
sử dụng tại T.P Hồ Chí Minh và Hà Nội, tiền tiết kiệm của dân chúng đổ vào kênh
vốn này đã làm giảm đi tỷ lệ tiền gửi ngân hàng.
Báo cáo mới đây của Bộ Kế hoạch - Đầu tư cho biết, trong 3 tháng đầu năm
năm 2008, điểm đáng chú ý nhất trên lĩnh vực huy động vốn và cho vay của nền
kinh tế là tiền gửi VND của dân cư tăng rất thấp, chỉ tăng 6,6% so với mức tăng
13,2% của cùng kỳ năm 2007. Theo Bộ Kế hoạch - Đầu tư, nguyên nhân của tình
trạng này do thời gian qua nhiều doanh nghiệp đã phát hành cổ phiếu, trái phiếu để
tăng vốn và rất nhiều người dân đã dùng tiền đầu tư vào chứng khoán thay vì gửi
vào ngân hàng.
Tuy nhiên, việc giảm tiền gửi vào dân cư không ảnh hưởng nhiều đến tổng
huy động vốn của các ngân hàng. Đơn giản là khi các tổ chức phát hành cổ phiếu và
trái phiếu thu hút lượng vốn lớn lại chuyển vào ngân hàng để gửi. Như vậy cũng có
nghĩa là kênh dẫn vốn cho đầu tư qua ngân hàng vẫn vận hành tốt trong thời gian
vừa qua.
b. Nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài
Nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA (Official Development
Assistance)
Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, tổng giá trị vốn ODA giải ngân tính đến
20/11/2009 ước đạt 1, 990 tỷ USD, so với kế hoạch dự kiến cả năm 2009 vượt
khoảng 5%. Điều này là nhờ sự điều hành sát sao của Chính phủ; nỗ lực to lớn của
các ngành, các cấp và các nhà tài trợ trong việc đẩy nhanh tiến độ thực hiện và giải
ngân nguồn vốn ODA theo chủ trương kích cầu đầu tư của Chính phủ. Cùng với đó
là sự phối hợp thực hiện nhiều sáng kiến nhằm hài hòa quy trình thủ tục và nâng cao
hiệu quả viện trợ theo tinh thần của Tuyên bố Paris, Cam kết Hà Nội và Chương
trình hành động Accra
Các dự án ODA thời gian này tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng với
trên 22%, tiếp đến là Đông Nam Bộ gần 21%, Bắc Trung Bộ khoảng 16% và Đồng
bằng Cửu Long trên 13%.

Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI (Foreign Direct Investment)
Tính đến 22/10/09, cả nước có 10.805 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký
174,7 tỷ USD. Các nhà đầu tư nước ngoài đã đầu tư vào 18/21 ngành trong hệ thống
phân ngành kinh tế quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến và chế tạo vẫn
20
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
là lĩnh vực thu hút Đầu tư nước ngoài lớn nhất chiếm 62,1% số dự án và 50,6% vốn
đăng ký tại Việt Nam. Đầu tư vào kinh doanh bất động sản đang gia tăng mạnh mẽ
trong 2 năm trở lại đây với việc ban hành Luật Kinh doanh bất động sản và đổi mới
chính sách đất đai, đưa lĩnh vực kinh doanh bất động sản trở thành là lĩnh vực đứng
thứ 2 trong thu hút ĐTNN với 312 dự án, tổng vốn đăng ký 38,4 tỷ USD, chiếm
2,9% số dự án và 22% tổng vốn đăng ký tại Việt Nam. Tiếp theo là các lĩnh vực
dịch vụ lưu trú và ăn uống, xây dựng, thông tin và truyền thông, nghệ thuật và giải
trí
Đến nay, 89 quốc gia và vùng lãnh thổ đã có đầu tư tại Việt Nam, trong đó Đài
Loan là nhà đầu tư số 1 với 2.010 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 21,28 tỷ
USD. Hàn Quốc đứng thứ 2 với 2.283 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký 20,4 tỷ
USD. Tiếp theo là nhà đầu tư Malaysia, Nhật Bản và Singapore.
Nguồn vốn đầu tư gián tiếp FPI (Foreign Portfolio Investment)
Có thể thấy, FPI là một khái niệm khá mới mẻ, nhất là ở nước ta, vì chúng xuất hiện
và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán
quốc gia và quốc tế.
Trên thực tế, mặc dù FPI dùng để chỉ các hình thức đầu tư không phải là đầu tư
trực tiếp nước ngoài truyền thống (tức đầu tư để lập doanh nghiệp 100% vốn nước
ngoài, lập liên doanh hoặc công ty cổ phần và kinh doanh theo hợp đồng hợp tác
kinh doanh…), song sự phân biệt này không phải lúc nào cũng rạch ròi và thống
nhất.
Thực tiễn 3 giai đoạn thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài ở nước ta thời
gian qua cho thấy sự tác động vừa đề cập ở trên:
-Giai đoạn 1 (1988 – 1997): là thời kỳ mở đầu cho dòng vốn FPI vào Việt Nam

theo xu hướng đổi mới và mở cửa thu hút đầu tư nước ngoài. Trong giai đoạn này,
có 7 Quỹ đầu tư nước ngoài được thành lập với tổng số vốn được huy động khoảng
400 triệu USD.
-Giai đoạn 2 (1998 – 2002): là thời kỳ khủng hoảng và hậu khủng hoảng tài chính
- tiền tệ châu Á khiến các dòng vốn đổ vào châu Á bị chững lại và Việt Nam cũng
chịu ảnh hưởng chung của xu hướng này với việc giảm sút và thu hẹp đáng kể quy
mô thu hút của cả FDI và FPI. Trong số 7 Quỹ đầu tư kể trên có 5 Quỹ rút khỏi Việt
Nam, 1 Quỹ thu hẹp trên 90% quy mô quỹ, chỉ còn duy nhất Quỹ Vietnam
Enterprise Investment Fund được thành lập tháng 7-1995 với quy mô vốn 35 triệu
USD (nhỏ nhất trong số 7 Quỹ) là còn hoạt động cho đến nay
- Giai đoạn 3 (từ 2003 - nay): là thời kỳ phục hồi trở lại của dòng vốn FPI vào
Việt Nam cùng với xu hướng tăng cường cải thiện môi trường đầu tư, phát triển các
21
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
định chế thị trường tài chính, sàn giao dịch chứng khoán hoạt động sôi nổi, đặc biệt
là chủ trương và quyết tâm của Chính phủ đẩy mạnh cổ phần hóa và nới lỏng tỷ lệ
nắm giữ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp nhà nước
lớn được cổ phần hóa (từ 30% lên 49%)… Tổng cộng đến nay, FPI mà Việt Nam
thu hút được bằng khoảng 2-3% so với tổng vốn FDI đã thu hút được trong cùng
thời kỳ (so với tỷ lệ trung bình 30-40% của các nước khu vực thì đây là tỷ lệ khiêm
tốn…).
Các nguồn vốn khác từ nước ngoài
Bên cạnh nguồn thu từ FDI, xuất khẩu và viện trợ, nguồn kiều hối cũng là một
nguồn lực quan trọng không kém. Việt kiều là một bộ phận không tách rời của dân
tộc. Nguồn lực của Cộng đồng người Việt ở nước ngoài còn rất to lớn. Điều đó thể
hiện rất rõ qua số lượng kiều hối được gửi về hàng năm và số doanh nghiệp do Việt
Kiều đầu tư về nước. Từ 1991-2004, kiều hối tăng bình quân trên 10%/năm. Năm
1991, kiều hối chuyển về mới đạt 31 triệu đô-la, đến năm 1995 đạt gần 300 triệu,
năm 1999 đạt hơn 1 tỷ đô-la, năm 2003 đã lên tới 2,6 tỷ và năm 2004 ước đạt 3 tỷ
đô-la. Dự đoán với đà tăng trưởng này, đến năm 2010 lượng kiều hối sẽ là gần 5 tỷ.

Các doanh nghiệp Việt Kiều có quy mô vừa và nhỏ hoạt động trong nhiều lĩnh vực.
Cộng đồng người Việt có cống hiến cho đất nước đang được dành nhiều ưu đãi và
được khuyến khích mở rộng kinh doanh tại Việt Nam. Đó là định hướng nhất quán
và đang được triển khai thực hiện từ trung ương đến địa phương.
Cùng với nguồn thu từ kiều hối, thu từ các dịch vụ du lịch, vận tải vãng
lai cũng tăng nhanh, và là nguồn vốn chảy trực tiếp vào các doanh nghiệp kinh
doanh dịch vụ. Thông qua các khoản thuế, các doanh nghiệp này trực tiếp đóng góp
vào ngân sách nhà nước.
Bên cạnh những thành tựu về hiệu quả tác động của vốn đến tăng trưởng kinh tế
Việt Nam thì thực tế nền kinh tế Việt Nam sử dụng chưa thực sự có hiệu quả nguồn
vốn. Điều này thể hiện rất rõ thông qua hệ số ICOR của Việt Nam.Việc sử dụng
đồng vốn đầu tư của chúng ta rất kém hiệu quả đã được thừa nhận bởi các chuyên
gia kinh tế trong và ngoài nước cũng như thừa nhận chính thức của Chính phủ Việt
Nam. Dù tính theo cách nào đi chăng nữa thì một sự thật hiển nhiên là hiệu quả
đồng vốn của chúng ta bỏ ra là không cao, vào loại thấp nhất so với các nước trong
khu vực.
Nếu tính trong thời kỳ 1991-2007 chỉ số ICOR của VN là 4,86 lần so với 4 lần của
Trung Quốc thời kỳ 2001-2006, 4,1 lần của Thái Lan (1981-1995), 4,6 lần của
Malaysia (1981-1995), 3,7 lần của Indonesia (1981-1995), 3 lần của Hàn Quốc
22
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
(1961-1980) và Đài Loan 2,7 lần (1961-1980). Qua đó cho thấy hiệu quả đầu tư của
chúng ta là rất thấp.
Nếu tính hiệu quả một đồng vốn bỏ ra thu lại bao nhiêu thì càng thấy rõ năng suất
lao động của Việt Nam không những không tăng lên mà còn giảm đi. Điều đó cũng
nói nên rằng các yếu tố khai thác để phát triển theo chiều rộng đang cạn kiệt dần.
Nếu không tăng cường khai thác các yếu tố chiều sâu như áp dụng các công nghệ
mới, lao động chất xám… thì hiệu quả vốn đầu tư khó mà tăng lên được.

Hệ số ICOR Việt Nam qua các giai đoạn

Qua bảng chỉ số ICOR chúng ta thấy rằng hiệu quả đầu tư của chúng ta càng ngày
càng thấp khi chỉ số ICOR ngày một gia tăng.
1.1.2 Đầu tư vào nguồn nhân lực
Đầu tư vào dân số-kế hoạch hóa, y tế, giáo dục-đào tạo.
Xác định rõ nguồn nhân lực tác động mạnh mẽ đến tăng trưởng phát triển kinh tế
nên đầu tư vào phát triển nguồn nhân lực luôn được nhà Nước ta quan tâm đúng
mức, điều đó được thể hiện rất rõ trong khoản chi cho dân số kế hoạch hóa, y tế,
giáo dục- đào tạo
23
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
Chi ngân sách nhà nước cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Đơn vị: Tỷ đồng
Chi
NSNN
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
DS-KHH 559 434 841 666 397 483 489 612
Y tế 3453 4211 4656 5372 6009 7608 11528 16426
GD-ĐT 12677 15432 17844 22881 25343 28611 37332 53774
(nguồn: tổng cục thống kê)
Đầu tư tạo việc làm cho lao động
Nhà nước tạo việc làm cho lao động thông qua các chương trình mục tiêu quốc
gia về việc làm. Trong những năm qua đã có sự lồng ghép hiệu quả với chương
trình phát triển kinh tế xã hội khác, thực hiện các dự án về tín dụng việc làm với lãi
suất ưu đãi từ Quỹ quốc gia về việc làm, góp phần thúc đẩy chuyển dich cơ cấu lao
động, gắn dạy nghề với tạo việc làm, thúc đẩy thị trường lao động phát triển, tạo và
tự tạo việc làm cho từ 300-350 nghìn lao động trên năm. Quỹ quốc gia giải quyết
việc làm có mục tiêu hỗ trợ những người lao động tự tạo việc làm, tính đến năm
2007 tổng nguồn vốn cho vay lên trên 2.900 tỷ, tạo ra 25-30% việc làm được giải
quyết mỗi năm. Tuy nhiên ngân sách đầu tư cho phát triển tạo việc làm còn quá ít so
với nhu cầu hàng năm, bình quân mỗi năm chưa tới 300 tỷ, chỉ đáp ứng được 35-

40% nhu cầu vay vốn tạo việc làm cho nhân dân. Suất đầu tư cho mỗi chỗ làm việc
trong thực hiện cấc dự án cho vay theo chính sách hỗ trợ việc làm cho người nghèo
thấp nên chất lượng của giải quyết việc làm theo các dự án đạt được chưa cao.
Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tạo thuận lợi phát triển các hoạt động
giao dịch trên thị trường. Đến nay đã có 150 trung tâm giới thiệu việc làm và hàng
nghìn doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tư vấn, giới thiệu việc làm cho hàng
triệu lượt người. Các hội chợ việc làm, tháng tạo việc làm, sàn giao dịch việc làm
được tổ chức thường xuyên, đặc biệt là những trang thông tin chuyên về việc làm
như www.vietnamworks.com.vn đã tích cực gắn kết người lao động và người sử
dụng lao động.
Xuất khẩu lao động
Để giải quyết sức ép việc làm trong nước, phát triển thu nhập cho người lao
động, nhà nước đã tiến hành các chính sách nhằm khuyến khích xuất khẩu lao động
ra nước ngoài. Ở một số địa phương đã phối hợp cùng các ngân hàng tiến hành cho
người lao động đi vay tiền để xuất khẩu. Ví dụ người lao động sẽ được vay 20 triệu
để đi Malaysia với thu nhập trung bình 4 triệu/tháng.
Theo thống kê, hiện nay, tổng số lao động Việt Nam đang làm việc ở nước
ngoài nhiều nhất là Malaysia là trên 100 nghìn người, trong đó một số nghề thu
24
Nhóm 3- Kinh tế đầu tư 49 B
nhập từ 5– 7 triệu đồng/tháng. Thứ hai là Đài Loan có trên 90 nghìn người có thu
nhập lên tới 300 – 500 USD/tháng và sau đó là Hàn Quốc có trên 30 nghìn, thu
nhập bình quân của lao động khoảng 900 - 1000 USD/tháng.
Đầu tư cải thiện môi trường lao động
Tiền lương
Việt Nam quy định phân biệt mức lương tối thiểu ở doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Đây là sự ưu đãi của chính phủ dành cho
các doanh nghiệp trong nước khi sức cạnh tranh của chúng còn yếu, tuy nhiên 2
mức lương tối thiểu này sẽ dần được tăng lên theo hướng mức tăng ở doanh nghiệp
trong nước tăng nhanh hơn mức tăng ở doanh nghiệp FDI. Dự kiến đến năm 2012, 2

mức lương này sẽ được thống nhất theo cam kết của Việt Nam gia nhập WTO.
Bảng: Mức lương tối thiểu chung áp dụng từ 1/1/2008
Đơn vị :đồng/tháng
Tỉnh, thành phố
Doanh nghiệp
Hà Nội, TP HCM
Hải Phòng,
Quảng Ninh,
Đồng Nai, Vũng
Tàu (*)
Địa bàn khác
Doanh nghiệp trong
nước
620.000 580.000 540.000
Doanh nghiệp nước
ngoài
1.000.000 900.000 800.000
(*) Các huyện thuộc TP Hải Phòng; TP Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh; TP
Biên Hòa, thị xã Long Khánh, các huyện Nhơn Trạch, Long Thành, Vĩnh Cửu,
Trảng Bom thuộc tỉnh Đồng Nai; thị xã Thủ Dầu Một, các huyện: Thuận An, Dĩ An,
Bến Cát, Tân Uyên thuộc tỉnh Bình Dương; TP Vũng Tàu thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu
Hiện nay, thị trường lao động trong khu vực nhà nước có một số vấn đề cần giải
quyết: sự bảo hộ về cạnh tranh, sự thiếu ràng buộc về ngân sách, và việc đảm bảo
việc làm vĩnh viễn đã dẫn đến tình trạng tuyển quá nhiều lao động so với mức cần
thiết, nhiều doanh nghiệp quốc doanh trả lương cho công nhân rất hậu và thường
cao hơn nhiều so với hiệu quả công việc của họ. Tiền lương có xu hướng bình quân
hơn: trả lương quá cao cho lao động không có trình độ chuyên môn cao, đối với lao
động có trình độ chuyên môn cao lại trả lương thấp hơn khu vực ngoài quốc doanh.
Điều này dẫn đến hiện tượng “chảy máu chất xám” đối với các lao động có trình độ

cao từ khu vực nhà nước sang khu vực tư nhân. Bên cạnh đó, các hợp đồng lao
25

×