Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

Mối quan hệ giữa vốn đầu tư trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (458.42 KB, 62 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I 4
Những vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài 4
I.Khái niệm, phân loại và bản chất của nguồn vốn 4
1.Khái niệm: 4
2.Phân loại nguồn vốn đầu tư: 4
3.Bản chất nguồn vốn đầu tư 8
II.Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và vốn nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế 10
1.Sự cần thiết phải có cả nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài trong các quốc gia đang
phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng 10
2.Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài 13
CHƯƠNG II: 23
Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam 23
I. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định 23
1. Nguồn vốn trong nước mang tính ổn đinh và bền vững, có thể chủ động trong việc huy
động và sử dụng 23
2. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài chảy vào
những ngành, lĩnh vực cần thiết 26
3. Tạo cơ sở hạ tầng căn bản cho việc chủ động tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài 30
4. Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho nguồn vốn nước ngoài
vào hoạt động có hiệu quả 34
5. Nguồn vốn trong nước là nguồn chi trả các khoản vay nước ngoài và giảm áp lực nợ
nước ngoài cho nền kinh tế 36
II. Tác động của nguồn vốn nước ngoài đối với nguồn vốn trong nước 40
1.Thành tựu 40
2.Hạn chế: 49
Chương III: 52


Một số kiến nghị chủ yếu nhằm tăng cường mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và ngoài
nước trong việc thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế 52
I.Nguồn vốn trong nước: 52
1.Huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ dân cư: 52
2.Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước: 53
II.Nguồn vốn nước ngoài: 54
1.Đối với nguồn vốn FDI: 54
2.Đối với nguồn vốn ODA: 56
LỜI KẾT 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
1
LỜI MỞ ĐẦU
  
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta có những bước phát triển đáng kể,
tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm cao, GDP đầu người hàng năm tăng. Thêm vào đó,
môi trường đầu tư ở nước ta ngày càng hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước
góp phần làm cho nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài đổ vào Việt Nam ngày càng
tăng mạnh. Đặc biệt, từ năm 2008, sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương
mại thế giới WTO đã làm cho lượng vốn đầu tư đổ về Việt Nam càng nhiều hơn đặc biệt là
nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
Hai nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài có quan hệ mật thiết với nhau trong
việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Hiện nay ở nước ta cũng có rất nhiều
nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai nguồn vốn này và các nghiên cứu đó cũng đã đưa ra
được rất nhiều nhận định đúng đắn. Tuy nhiên, trên thực tế, nhận định của các nhà nghiên
cứu vẫn chưa thực sự đi kèm với các giải pháp đẩy mạnh mối quan hệ này nhằm tác động
đến việc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng phát triển kinh tế ở nước ta. Chính vì vậy, chúng em
đã chọn đề tài này để tài này để nghiên cứu nhằm cung cấp thêm cho các bạn sinh viên
khối ngành kinh tế đặc biệt là chuyên ngành kinh tế đầu tư những kiến thức chung nhất về
nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời chỉ ra mối quan
hệ giữa hai nguồn vốn này trong nền kinh tế hiện nay. Từ đó, các bạn sẽ tìm ra mối liên hệ

giữa hai nguồn vốn này trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế nước ta và
cuối cùng đi đến những giải pháp thiết thực nhất nhằm kết hợp lợi ích tối ưu của hai nguồn
vốn này.
Thông qua nghiên cứu nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước
ngoài, ngoài việc chỉ ra các lý luận chung về hai nguồn vốn này, đề tài còn cung cấp những
thông tin về thực trạng sử dụng cũng như những nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn
đến việc tăng giảm dòng vốn đầu tư tại Việt Nam. Từ đó, chúng ta có được cái nhìn bao
2
quát về tình hình kinh tế đất nước để có những phương hướng mới thúc đẩy nền kinh tế
ngày càng phát triển.
Với việc nghiên cứu đề tài: “Mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và
nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam” chúng em
xin trình bày những nội dung chính sau đây:
Chương I: Những vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa nguồn vốn trong
nước và nguồn vốn nước ngoài.
Chương II: Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước
ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế.
Chương III: Một số giải pháp nhằm tăng cường mối quan hệ giữa hai nguồn vốn
trong nước và nước ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng phát triển kinh tế.
Qua tìm hiểu và phân tích các số liệu, đề tài của chúng em đã đưa ra một số định
hướng rõ rang trong quá trình nghiên cứu. Tuy nhiên, do thời gian nghiên cứu có hạn, điều
kiện tiếp xúc thực tế chưa nhiều và khả năng đánh giá còn non nớt nên đề tài của chúng em
không tránh khỏi những thiếu sót trong cách nhìn tổng thể. Kính mong thầy giáo và các
bạn đóng góp thêm ý kiến để chúng em có thể hoàn thiện đề tài.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
3
CHƯƠNG I
Những vấn đề lý luận chung về mối quan hệ giữa nguồn vốn
đầu tư trong nước và nước ngoài
I. Khái niệm, phân loại và bản chất của nguồn vốn

1. Khái niệm:
I.1 Vốn đầu tư:
"Capital - vốn ( tư bản): một từ dùng để chỉ một yếu tố sản xuất do hệ thống kinh tế
tạo ra. Hàng hoá tư liệu vốn là hàng hoá được sản xuất để sử dụng như yếu tố đầu vào cho
quá trình sản xuất sau. Vì vậy, tư bản này có thể phân biệt được với đất đai và sức lao
động, những thứ không được coi là do hệ thống kinh tế tạo ra. Do bản chất không đồng
nhất của nó mà sự đo lường tư bản trở thành nguyên nhân của nhiều cuộc tranh cãi trong lý
thuyết kinh tế." (Từ điển kinh tế học hiện đại, NXB Chính trị quốc gia - Hà Nội, 1999, Tr.
129).
Theo Luật Đầu tư năm 2005, vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực
hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp.
Như vậy, bản chất của vốn đầu tư là nguồn lực tích lũy được của xã hội, cơ sở sản
xuất kinh doanh dịch vụ, tiết kiệm của dân, huy động từ nước ngoài được biểu hiện dưới
các dạng tiền tệ các loại hoặc hàng hóa hữu hình, hàng hóa vô hình và các hàng hóa đặc
biệt khác.
I.2 Nguồn vốn đầu tư:
Nguồn vốn đầu tư là các kênh tập trung và phân phối cho vốn đầu tư phát triển đáp
ứng nhu cầu chung của nhà nước và xã hội.
2. Phân loại nguồn vốn đầu tư:
Trên góc độ toàn bộ nền kinh tế, nguồn vốn đầu tư bao gồm nguồn vốn đầu tư trong
nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
2.1 Nguồn vốn đầu tư trong nước
4
Nguồn vốn đầu tư trong nước là phần tích lũy của nội bộ kinh tế bao gồm tiết kiệm
của khu vực dân cư, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, tiết kiệm của chính phủ đươc
huy động vào quá trình tái sản xuất của xã hội.
2.1.1 Nguồn vốn nhà nước
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn của ngân sách nhà nước, nguồn
vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh
nghiệp nhà nước.

• Nguồn vốn ngân sách nhà nước : Đây chính là nguồn chi của ngân sách nhà nước
cho đầu tư. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu kinh tế - xã hội,
quốc phòng- an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự
tham gia của nhà nước. Chi cho các công tác lập và thực hiện các quy hoạch tổng thể phát
triển kinh tế- xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn.
• Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước : Vốn tín dụng đầu tư phát triển
của nhà nước là một hình thức quá độ chuyền từ phương thức cấp phát vốn ngân sách sang
phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Thông qua
nguồn vốn tín dụng, nhà nước khuyến khích phát triển kinh tế xã hội của ngành, vùng, lĩnh
vực theo định hướng, chiến lược của mình.
• Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp nhà nước: Nguồn vốn này chủ yếu bao gồm từ
khấu hao tài sản cố định và thu nhập giữ lại tại doanh nghiệp nhà nước, thông thường
chiếm từ 14-15% tổng vốn đầu tư xã hội.
2.1.2 Nguồn vốn của dân cư và tư nhân
Nguồn vốn của khu vực tư nhân bao gồm phần tiết kiệm của dân cư, phần tích lũy
của các doanh nghiệp dân doanh, các hợp tác xã. Đầu tư của các doanh nghiệp và các hộ
gia đình có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn,
mở mang ngành nghề, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp,…Vốn của dân cư phụ
thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Quy mô của các nguồn tiết kiệm này
phụ thuộc vào :
- Trình độ phát triển của đất nước (các nước có trình độ phát triển thấp thì thu nhập
thấp, quy mô và tỉ lệ tiết kiệm cũng thấp).
- Tập quán tiêu dùng của dân cư.
5
- Chính sách động viên của nhà nước thông qua chính sách thuế thu nhập và các
khoản đóng góp với xã hội.
2.1.3Thị trường vốn
Thị trường vốn là một phần của thị trường tài chính, có ý nghĩa rất quan trọng trong
sự nghiệp phát triển kinh tế của các nước có nền kinh tế thị trường. Nó là kênh bổ sung các
nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ đầu tư - bao gồm cả nhà nước và các loại hình

doanh nghiệp. Thị trường vốn mà cốt lõi là thị trường chứng khoán đã huy động nguồn tiết
kiệm của các hộ dân cư, thu hút mọi nguồn vốn nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức
tài chính, chính phủ tạo thành nguồn lực tài chính cho nền kinh tế.
2.1.4 Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại trong nước.
Các Ngân hàng thương mại với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình
vô hình chung đã thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Thông qua chức năng trung
gian tín dụng, ngân hàng trở thành cầu nối giữa những người dân có tiền và những doanh
nghiệp đang thiếu vốn đầu tư. Từ đó, bằng việc huy động vốn và cho vay lại, các Ngân
hàng thương mại đã phần nào giải quyết được một phần nhu cầu về vốn đầu tư của xã hội.
2.2 Nguồn vốn nước ngoài
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bao gồm phần tích lũy của cá nhân, các doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài có thể huy động vào quá trình đầu tư
phát triển của nước sở tại.
Có thể xem xét nguồn vốn đầu tư nước ngoài trên phạm vi rộng hơn đó là dòng lưu
chuyển vốn quốc tế. Về thực chất, các dòng lưu chuyển vốn quốc tế là biểu hiện cụ thể quá
trình chuyển giao nguồn lực chính giữa các nước trên thế giới. Theo tính chất của dòng
luân chuyển vốn, có thể phân loại các nguồn vốn nước ngoài chính thức như sau:
- Tài trợ phát triển chính thức (ODF-official development finance). Nguồn này bao
gồm: Viện trợ phát triển chính thức (ODA- official development asistance) và các hình
thức viện trợ khác, trong đó ODA chiếm tỷ trọng chủ yếu trong nguồn ODF.
- Nguồn tín dụng từ các ngân hàng thương mại.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài.
- Nguồn huy động qua thị trường vốn quốc tế
2.2.1 Nguồn vốn ODA
6
Đây là nguồn vốn phát triển do các tổ chức quốc tế và các chính phủ nước ngoài
cung cấp với mục tiêu trợ giúp các nước đang phát triển. So với các hình thức tài trợ khác,
ODA mang tính ưu đãi cao hơn bất cứ nguồn vốn ODF nào khác. Ngoài các điều kiện ưu
đãi về lãi suất, thời hạn cho vay tương đối lớn, bao giờ trong ODA cũng có yếu tố không
hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ ) đạt ít nhất 25%.

Mặc dù có tính ưu đãi cao, song sự ưu đãi cho loại vốn này thường đi kèm các điều
kiện và ràng buộc tương đối khắt khe (tính hiệu quả của dự án, thủ tục chuyển giao vốn và
thị trường), và là nguồn vốn vay có khả năng gây nợ. Vì vậy, chính phủ các nước cần cân
nhắc và sử dụng nguồn vốn hiệu quả.
2.2.2 Nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI) :
Đây là nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển không chỉ đối với các nước
nghèo mà đối với cả các nước công nghiệp phát triển. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài có đặc
điểm khác với các nguồn vốn khác là khi tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho
nước nhận đầu tư. Thay vì nhận lãi trên vốn đầu tư, nhà đầu tư sẽ nhận được phần lợi
nhuận thích đáng khi dự án hoạt động có hiệu quả. Đầu tư nước ngoài đem theo toàn bộ tài
nguyên kinh doanh vào nước nhận vốn nên có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới, đặc
biệt là những ngành nghề đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay nhiều vốn. Vì thế, nguồn
vốn này có tác dụng cực kỳ to lớn đối với quá trình công nghiệp hóa, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế và tăng trưởng nhanh của nước tiếp nhận đầu tư.
2.2.3 Nguồn vốn tín dụng từ các ngân hàng thương mại quốc tế
Điều kiện ưu đãi dành cho loại vốn này không dễ dàng như đối với nguồn vốn ODA
nhưng có ưu điểm là không gắn với các điều kiện ràng buộc về chính trị, xã hội. Mặc dù
vậy, thủ tục vay đối với các nguồn vốn này thường tương đối khắc khe, thời gian trả nợ
nghiêm ngặt, mức lãi suất cao là những trở ngại không nhỏ đối với các nước nghèo.
Do được đánh giá là mức lãi suất tương đối cao cũng như sự thận trọng trong kinh
doanh ngân hàng (tính rủi ro của nước đi vay, của thị trường thế giới và xu hướng lãi suất
quốc tế ), nguồn vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại thường được sử dụng chủ yếu
để đáp ứng nhu cầu xuất khẩu và thường là ngắn hạn. Một bộ phận của nguồn vốn này có
thể được dùng để đầu tư phát triển,, tỷ trọng của vốn có thể gia tăng nếu triển vọng tăng
7
trưởng của nền kinh tế là lâu dài dài đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu của nước đi vay là
sáng sủa.
2.2.4 Thị trường vốn quốc tế
Với xu hướng toàn cầu hóa, mối liên kết ngày càng tăng của các thị trường vốn
quốc gia vào hệ thống tài chính quốc tế đã tạo nên vẻ đa dạng về các nguồn vốn cho mỗi

quốc gia và làm tăng lượng vốn lưu chuyển trên phạm vi toàn cầu.
Thị trường vốn quốc tế được biểu hiện bằng sự phát triển của thị trường chứng
khoán, dòng vốn đầu tư qua thị trường chứng khoán của các nước đang phát triển ngày
càng mạnh mẽ. Chính phủ của các nước đang phát triển có thể phát hành trái phiếu trên thị
trường vốn quốc tế để huy động nguồn vốn lớn, tập trung cho phát triển kinh tế.
3. Bản chất nguồn vốn đầu tư
Xét về bản chất, nguồn hình thành vốn đầu tư chính là phần tiết kiệm hay tích lũy
mà nền kinh tế có thể huy động được để đưa vào quá trình tái sản xuất xã hội . Điều này
được cả kinh tế học cổ điển, kinh tế chính trị học Mác- Lê Nin và kinh tế học hiện đại
chứng minh.
Trong tác phẩm “của cải của các dân tộc ”(1776), Adam Smith, một đại diện điển
hình của trường phái kinh tế học cổ điển đã khẳng định “tiết kiệm là nguyên nhân trực tiếp
gia tăng vốn. Lao động tạo ra sản phẩm để tích lũy cho quá trình tiết kiệm. Nhưng dù có
tạo ra bao nhiêu chăng nữa, nhưng không có tiết kiệm thì vẫn không bao giờ tăng lên”.
Sang thế kỷ XIX, khi nghiên cứu về cân đối kinh tế, về các mối quan hệ giữa các
khu vực của nền sản xuất xã hội, về các vấn đề liên quan trực tiếp tới tích lũy, Các Mác đã
chứng minh rằng : Trong nền kinh tế với hai khu vực, khu vực I sản xuất tư liệu sản xuất,
khu vực II sản xuất tư liệu tiêu dùng. Cơ cấu tổng giá trị của từng khu vực đều bao gồm
c+v+m , trong đó c là phần tiêu hao vật chất, v+m là phần mới sáng tạo. Khi đó, điều kiện
để đảm bảo tái sản xuất mở rộng không ngừng thì nền sản xuất xã hội phải đảm bảo :
(v+m )I > cII hay nói cách khác: (c+v+m)I > (cII + cI)
Điều đó có nghĩa là tư liệu sản xuất được tạo ra ở khu vực I không chỉ bồi hoàn tiêu
hao vật chất của nền kinh tế mà còn phải dư thừa để làm tăng quy mô tư liệu sản xuất trong
8
quá trình sản xuất tiếp theo. Đối với khu vực II, yêu cầu phải đảm bảo : c+v+m)II <
(v+m)I +(v+m)II
Có nghĩa là toàn bộ giá trị mới của cả hai khu vực phải lớn hơn giá trị tạo ra của khu
vực II. Chỉ khi điều kiện này được thỏa mãn, nền kinh tế mới có thể dành một phần thu
nhập để tái sản xuất mở rộng. Từ đó, quy mô vốn đầu tư sẽ tăng.
Như vậy, theo Mác- Lê Nin thì nguồn lực cho đầu tư tái sản xuất mở rộng chỉ có thể

đáp ứng do sự gia tăng sản xuất và tích lũy cho nền kinh tế.
Quan điểm về bản chất của nguồn vốn đầu tư tiếp tục được các nhà kinh tế học hiện
đại chứng minh. Trong tác phẩm :”lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ” của
mình, John Maynard Keynes đã chứng minh được rằng: đầu tư chính bằng phần thu nhập
không chuyển vào tiêu dùng. Đồng thời, ông cũng chỉ ra rằng tiết kiệm chính là phần dôi ra
của thu nhập so với tiêu dùng. Tức là : Thu nhập = tiêu dùng + đầu tư
Tiết kiệm = thu nhập – tiêu dùng
Từ đó suy ra : Tiết kiệm = đầu tư
Tuy nhiên, điều kiện cân bằng trên chỉ đạt được trong nền kinh tế đóng. Trong đó,
phần tiết kiệm của nền kinh tế bao gồm tiết kiệm của khu vực tư nhân và chính phủ.
Trong nền kinh tế mở, đẳng thức đầu tư bằng tiết kiệm của nền kinh tế không phải
bao giờ cũng được thiết lập. Mức chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư được thể hiện trên tài
khoản vãng lai : CA= S – I.
Như vậy, trong nền kinh tế mở, nếu nhu cầu đầu tư lớn hơn tích lũy nội bộ nền kinh
tế và tài khoản vãng lai bị thâm hut thì có thể huy đông vốn đầu tư từ nước ngoài. Khi đó,
đầu tư nước ngoài hoặc vay nợ có thể trở thành một trong những nguồn vốn đầu tư quan
trọng của nền kinh tế. Nếu tích lũy của nền kinh tế lớn hơn nhu cầu đầu tư trong nước
trong điều kiên thặng dư tài khoản vãng lai thì quốc gia đó có thể đầu tư ra nước ngoài
hoăc cho nước ngoài vay vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của nền kinh tế.
9
II. Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và vốn nước ngoài trong việc thúc
đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
1. Sự cần thiết phải có cả nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài trong các
quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng
1.1 Nghiên cứu về “cái vòng luẩn quẩn của các nước đang phát triển” và
những vấn đề đặt ra
Các nước đang phát triển hầu hết là các nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu
hoặc đang từ nền sản xuất nhỏ tiến lên con đường công nghiệp hóa. Các đặc điểm chung có
thể thấy được ở nhóm nước này đó là:
- Mức sống thấp.

- Tỷ lệ tích lũy thấp.
- Trình độ kỹ thuật sản xuất thấp.
- Năng suất lao động thấp
Những đặc trưng trên đây chính là những trở ngại đối với sự phát triển, chúng có
liên quan chặt chẽ với nhau, tạo ra vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ, làm cho khoảng cách
giữa các nước phát triển và đang phát triển ngày càng gia tăng.
Sơ đồ cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo khổ.
Thu nhập bình quân thấp → Tiết kiệm, đầu tư thấp
↑ ↓
Năng suất thấp ← Tăng trưởng chậm
Nhà kinh tế học Samuelson đã nghiên cứu tỷ mỷ về cái vòng luẩn quẩn của các
nước đang phát triển và đưa ra học thuyết ”cái vòng luẩn quẩn và cú huých từ bên ngoài”.
Cú huých ở đây được hiểu là nguồn vốn đầu tư của nước ngoài. Với khả năng tích lũy nội
bộ thấp như vây, các nước đang phát triển không thể tự tạo chho mình nguồn vốn đầu tư
phát triển được mà phải nhờ tới nguồn vốn bên ngoài. Nguồn vốn này sẽ tăng cường nguồn
vốn đầu tư phát triển, tạo ra công ăn việc làm, cải tiến công nghệ, nâng cao năng suất lao
động, tăng thu nhập cho nước tiếp nhận. Từ đó tạo điều kiện cho nền kinh tế “cất cánh”,
thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn.
10
1.2 Sự hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi đã trở
thành xu thế tất yếu đối với mọi quốc gia
Thế giới ngày nay là một thể thống nhất trong đó các quốc gia là những đơn vị độc
lập tự chủ và phụ thuộc vào nhau về kinh tế và khoa học công nghệ. Sự phụ thuộc giữa các
quốc gia bắt nguồn từ nhiều nhân tố khách quan. Nguyên nhân là do sự phân bố không
đồng đều tài nguyên thiên nhiên giữa các quốc gia trên thế giới. Sự hợp tác giữa các quốc
gia giúp tăng khả năng đảm bảo các nguồn tài nguyên để sử dụng trong sản xuất. Đồng
thời, sự hợp tác có thể khai thác lợi thế so sánh của quốc gia, tăng cường lợi ích của đôi
bên. Trong nhiều trường hợp, đầu tư quốc tế còn nhằm giải quyết các nhiệm vụ đặc biệt
như xây dựng công trình có quy mô vượt ra ngoài phạm vi biên giới quốc gia, đòi hỏi sự
hợp tác của nhiều quốc gia.

1.3 Vai trò của vốn đầu tư trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
1.3.1 Khái niệm tăng trưởng và phát triển
- Tăng trưởng kinh tế thường được quan niệm là sự tăng thêm (hay gia tăng) về quy
mô, sản lượng của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định.
- Phát triển kinh tế có thể hiểu là một quá trình lớn lên hay tăng tiến về mọi mặt của
nền kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng thêm về quy mô sản
lượng (tăng trưởng) và sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế - xã hội.
1.3.2 Vai trò của vốn đầu tư trong thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
Vốn là điều kiện hàng đầu của tăng trưởng và phát triển ở mọi quốc gia. Riêng đối
với các nước kém phát triển, để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và ổn định cần có khối
lượng vốn rất lớn. Điều này càng được khẳng định chắc chắn khi nghiên cứu vai trò của
vốn đầu tư với phát triển kinh tế.
1.3.2.1Vai trò của nguồn vốn trong nước
- Vốn đầu tư trong nước là nguồn vốn cơ bản, có vai trò quyết định đối với tăng
trưởng và phát triển của từng đơn vị kinh tế cũng như của cả đất nước. Do tính chất ổn
định và ít chịu biến động từ bên ngoài nên nguồn vốn trong nước là nguồn cơ bản tạo sự
tăng trưởng bền vững cho đất nước. Đồng thời vốn đầu tư trong nước là đối trọng với
nguồn vốn đầu tư nước ngoài, hạn chế được những mặt tiêu cực của nguồn vốn đầu tư
11
nước ngoài, tạo bộ khung kinh tế để có thể chống lại được những tác động của thị trường
thế giới.
- Nguồn vốn trong nước là công cụ thúc đẩy tăng trưởng, ổn định và điều tiết kinh tế
vĩ mô. Nguồn vốn trong nước thường được ưu tiên để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh
tế - xã hội, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước phát triển, đồng thời
tạo điều kiện để thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Thúc đẩy cơ hội đầu tư tăng trưởng kinh tế.
Vốn từ ngân sách nhà nước còn góp phần kiềm chế lạm phát, đẩy nhanh tiến trình cổ phần
hoá trong nhiều doanh nghiệp nhà nước, tạo đà cho tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Nguồn vốn đầu tư trong nước đặc biệt là nguồn vốn dồi dào của khu vực dân cư và tư nhân
là tác động lớn nhất thúc đẩy quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước diễn ra
nhanh chóng và đồng bộ. Từ đó giải quyết những tồn tại và tình trạng sản xuất, kinh doanh

kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước, đang gây trở ngại cho tiến trình phát triển
kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Nguồn vốn đầu tư trong nước đóng vai trò định hướng cho việc thay đổi cơ cấu kinh
tế, cân bằng thị trường hàng hóa, giúp cho nền kinh tế quốc gia tăng trưởng, phát triển toàn
diện, đồng đều và bền vững giữa các vùng miền. Vốn của nhà nước thường được đầu tư
vào cách lĩnh vực đòi hỏi quy mô vốn rất lớn như điện lực, dầu khí,… hay vào những
ngành có tỉ suất lợi nhuận thấp, thời gian thu hồi vốn lâu dài như các ngành xây dựng
đường, các công trình công cộng Việc phân bổ nguồn vốn của nhà nước theo kế hoạch
cũng nhanh chóng tạo xu thế thay đổi cơ cấu kinh tế theo định hướng của nhà nước.
1.3.2.2 Vai trò của nguồn vốn đầu tư nước ngoài
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài bổ sung vốn đầu tư thiếu hụt cho nền kinh tế khi mà
tích lũy nội bộ nền kinh tế còn thấp.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiện nâng cao trình độ khoa học công nghệ,
góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nguồn vốn nước ngoài khi vào trong nước sẽ đem
theo các công nghệ tiên tiến, hiện đại đồng thời thực hiện chuyển giao công nghệ. Trình độ
lao động và quản lý được nâng cao, cơ cấu kinh tế của đất nước cũng thay đổi theo hướng
công nghiệp hóa- hiện đại hóa, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công
nghiệp và dịch vụ.
12
- Nguồn vốn nước ngoài làm hình thành các loại hình doanh nghiệp mới, các phương
thức kinh doanh hiện đại tạo ra môi trường cạnh tranh, nâng cao tính cạnh tranh giữa các
thành phần kinh tế trong xã hội tạo động lực cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài là nguồn cung ngoại tệ đáng kể cho cán cân thương
mại quốc tế của đất nước. Tạo điều kiện nâng cao năng lực xuất nhập khẩu, đầu tư ra nước
ngoài và trả nợ từ đó tạo đà cho tăng trưởng và phát triển.
- Nguồn vốn đầu tư nước ngoài tạo điều kiên giúp nước nhận đầu tư tiếp cận với thị
trường quốc tế, mở rộng giao lưu quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập với thế giới và khu
vực.
2. Mối quan hệ giữa nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài
2.1 Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định trong việc thúc đẩy tăng trưởng

và phát triển kinh tế
2.1.1 Nguồn vốn trong nước mang tính ổn định và bền vững, có thể chủ động
trong việc huy động và sử dụng.
Như vậy, đầu tư trong nước là nguồn cơ bản đảm bảo cho sự tăng trưởng kinh tế
một cách liên tục, đưa đất nước đi đến sự phồn vinh chắc chắn, lâu bền. Theo kinh nghiệm
phát triển thì đây là nguồn vốn cơ bản có vai trò quyết định, chi phối mọi hoạt động đầu tư
phát triển trong nước. Trong lịch sử phát triển của các nước trên phương diện lý luận
chung, bất kỳ nước nào cũng phải sử dụng lực lượng nội bộ là chính. Sự chi việc, bổ sung
bên ngoài chỉ là tạm thời. Chỉ bằng cách sử dụng nguồn vốn đầu tư trong nước có hiệu quả
mới nâng cao được vai trò của nó và thực hiện được các mục tiêu quan trọng của quốc gia
đề ra.
Hiện nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, mỗi quốc gia không chỉ phát triển đơn lẻ
mà còn có sự tác động qua lại đối với các quốc gia khác. Chính vì thế, nền kinh tế của mội
quốc gia sẽ ít nhiều chịu ảnh hưởng của nền kinh tế thế giới. Trong bối cảnh đó, nếu chúng
ta phát huy được nội lực nguồn vốn trong nước thì sẽ có thể chủ động trong việc điều hành
nền kinh tế và ổn định các chính sách kinh tế.
Ngoài ra, việc tận dụng nguồn vốn trong nước cũng giúp chúng ta có được sự phát
triển bền vững. Để phát triển kinh tế có nhiều con đường khác nhau. Nhiều nước đã chọn
13
con đường đi vay và xin viện trợ nước ngoài nhằm phát triển kinh tế. Thực tế đã cho thấy
các nước này có thể đạt được mức tăng trưởng cao nhưng là tăng trưởng nóng, không bền
vững và có sự lệ thuộc vào nước cho vay bởi họ không thấy được cũng như không phát
huy được tính quyết định của nguồn vốn trong nước.
Nguồn vốn trong nước chiếm một tỉ trọng ưu thế (>50%) trong tổng vốn đầu tư toàn
xã hội. Nếu tỷ trọng này quá thấp so với vốn nước ngoài thì sẽ dẫn đến giảm khả năng
thanh toán và có thể không kiểm soát được sự thâm nhập của các tập đoàn xuyên quốc gia
gây lũng đoạn thị trường, thu hẹp thị trường của các doanh nghiệp trong nước và sản xuất
trong nước không phát triển. Các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn chủ yếu là các
doanh nghiệp vừa và nhỏ, khả năng cạnh tranh còn hạn chế ở rất nhiều mặt, sự hỗ trợ từ
nhà nước bằng chính sách pháp luật là rất cần thiết. Chính vì vậy chúng ta phải giữ cho tỷ

trọng nguồn vốn trong nước ở mức có thể kiểm soát được hoạt động của nền kinh tế. Như
vậy, chúng ta có thể chủ động ứng phó kịp thời với các biến động của nền kinh tế, cũng
như trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường nhất là trong
bối cảnh nước ta mới gia nhập tổ chức WTO.
2.1.2 Đóng vai trò định hướng cho dòng đầu tư nước ngoài chảy vào các
ngành, các lĩnh vực cần thiết
Nguồn vốn trong nước đóng vai trò then chốt trong việc định hướng các hoạt động
đầu tư. Mỗi nền kinh tế phát triển đều phải trải qua những giai đoạn khác nhau và không
thể áp dụng dập khuôn một chính sách cho cả quá trình phát triển. Với mỗi giai đoạnh phát
triển sẽ đặt ra những mục tiêu trọng tâm, ưu tiên cho việc phát triển những ngành kinh tế
phù hợp. Muốn xây dựng một đất nước phát triển về mọi mặt thì các ngành, các vùng của
chúng ta đều phải có một sự phát triển nhất định với một cơ cấu hợp lý. Việc đầu tư vốn
trong nước để xây dựng cơ sở hạ tầng, mạng lưới giao thông, thông tin liên lạc… vào
ngành, địa phương nào sẽ tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, từ đó có thể thu hút các nhà
đầu tư nước ngoài. Vì vậy, việc sử dụng vốn trong nước cho những ngành nào, vùng nào
cần phải được cân nhắc kỹ lưỡng theo sự định hướng của nhà nước. Vốn nhà nước có vai
trò quan trọng trong việc tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, nhằm đẩy mạnh hoạt động đầu
tư của mọi thành phần kinh tế theo định hướng chung của kế hoạch, chính sách và pháp
luật. Đồng thời trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một số lĩnh vực quan trọng nhất của
14
nền kinh tế đảm bảo phát triển theo đúng định hướng chiến lược và quy hoạch phát triển
kinh tế xã hội.
2.1.3 Tạo cơ sở hạ tầng căn bản cho việc chủ động tiếp nhận nguồn vốn đầu tư
nước ngoài
Bất cứ một nhà đầu tư nước ngoài nào khi quyết định đầu tư ra nước ngoài đều quan
tâm đến khả năng sinh lợi của số vốn mình bỏ ra. Môi trường đầu tư bao gồm cả hệ thống
cơ sở hạ tầng và hệ thống luật pháp. Nhà đầu tư sẽ thường lựa chọn nơi có môi trường kinh
doanh tốt hơn vì họ có thể giảm bớt chi phí kinh doanh. Vì vậy, một hệ thống cơ sở hạ tầng
không tốt luôn là trở ngại đối với nhà đầu tư nước ngoài. Khi vốn nước ngoài còn đang e
ngại đầu tư vào thị trường trong nước thì vốn trong nước ( hầu hết là vốn từ ngân sách nhà

nước) phải đứng ra đầu tư vào lĩnh vực này. Trước là để tạo cơ hội cho sự phát triển kinh tế
địa phương, tạo môi trường đầu tư kinh doanh tốt cho nhà đầu tư trong nước, sau là để tạo
điều kiện thu hút vốn đầu tư của nước ngoài.
Mặt khác, nguồn vốn trong nước chính là cơ sở để thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Trước tiên, xét về nguồn vốn FDI: Thực tế những năm qua, dòng vốn FDI trên thế giới chủ
yếu di chuyển trong nội bộ các nước phát triển, chỉ có khoảng 25%- 30% di chuyển đến
các nước đang và chậm phát triển. Điều đó chứng tỏ tài nguyên thiên nhiên dồi dào, lao
động rẻ không phải là nhân tố hàng đầu trong thu hút FDI. Khoảng 90% dòng vốn chảy
vào một số ít quốc gia có môi trường đầu tư hấp dẫn. Vì vậy, cần quan tâm tới vấn đề sử
dụng nguồn vốn trong nước để tạo một môi trường đầu tư hấp dẫn. Muốn vậy, chúng ta
cần xây dựng được một nền tảng kinh tế - chính trị - xã hội vững chắc và ổn định, có cơ sở
hạ tầng, giao thông liên lạc tốt, đội ngũ công nhân có tay nghề, cán bộ quản lý có chuyên
môn Đó mới là yếu tố quyết định tới việc thu hút vốn nước ngoài để phát triển kinh tế.
Và đảm nhiệm vai trò này chính là nguồn vốn trong nước.
2.1.4 Nguồn vốn trong nước là nguồn vốn đối ứng nhằm tạo cơ sở cho nguồn
vốn nước ngoài vào hoạt động có hiệu quả
Thông thường để vốn đầu tư nước ngoài phát huy được tác dụng thì cần phải có một
tỷ lệ vốn đối ứng trong nước thích hợp. Nghĩa là muốn tiếp nhận được vốn đầu tư nước
ngoài thì trong nước cũng cần có một số cơ sở hạ tầng nhất định tạo điều kiện cho vốn
nước ngoài hoạt động có hiệu quả. Trong dự án sử dụng vốn ODA những tổ chức cho vay
15
yêu cầu nước đi vay phải có vốn đối ứng để chủ động cho việc lập dự án. Nước đi vay phải
bỏ trước để chi trả cho đội ngũ thực hiện dự án hoặc chi phí cho hoạt động đi lại, hoạt động
của phía tiếp nhận. Sẽ có hai nhóm nhận tiền, một là do dự án trả, một nhóm khác do nhà
nước trả (lấy từ vốn đối ứng). Theo kinh nghiệm của một số nước nhóm NICs thì giai đoạn
đầu của quá trình phát triển tỷ lệ này thường thấp ở mức 1/ 1.5 nghĩa là một đồng vốn nước
ngoài thì cần 1.5 đồng vốn trong nước. Ở giai đoạn sau khi các chương trình đầu tư
nghiêng về ngành công nghiệp chế biến có hàm lượng vốn và kỹ thuật cao thì tỷ lệ này
thường tăng lên 1/ 2.5.
2.1.5 Nguồn vốn trong nước là nguồn chi trả các khoản vay nước ngoài và

giảm áp lực nợ nước ngoài cho nền kinh tế
Nguồn vốn ODA, tuy có rất nhiều ưu đãi nhưng về bản chất đây vẫn là một khoản
vay nên chúng ta vẫn phải trả nợ. Nếu khi đó nguồn vốn trong nước không đủ để chi trả sẽ
dẫn tới tình trạng nợ cho nền kinh tế. Do vậy, việc thường xuyên đánh giá tình hình sử
dụng vốn vay ODA và khả năng trả nợ của quốc gia là rất cần thiết.
Để đánh giá tình trạng nợ của một quốc gia có thể xem xét trên các phương diện về
quy mô, cơ cấu và các chỉ số về khả năng trả nợ bao gồm bốn chỉ tiêu sau:
- Tổng nợ và thu nhập quốc dân.
- Nợ phải trả hàng năm và giá trị xuất khẩu.
- Nợ phải trả hàng năm và thu ngân sách chính phủ.
- Cơ cấu về nợ ngắn hạn và dài hạn.
2.2 Nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng
2.2.1 Nguồn vốn nước ngoài có tác động tích cực đến nguồn vốn trong nước
2.2.1.1Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ cho những thiếu hụt về vốn trong nước
Vốn là một trong ba yếu tố quan trọng tác động trực tiếp tăng trưởng bên cạnh lao
động và năng suất yếu tố tổng hợp (TFP). Nguồn vốn nước ngoài hỗ trợ trực tiếp cho
những thiếu hụt về vốn trong nước, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của phát triển, khi mà
nguồn vốn trong nước còn hạn chế. Nhóm nước này có thu nhập thấp nên khả năng tiêu
dùng và tích lũy cũng rất hạn chế. Nhưng trong giai đoạn phát triển cần một khoản vốn lớn
để đầu tư nhằm hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, xây dựng những công trình làm nền
tảng cho sự phát triển kinh tế lâu dài. Trong giai đoạn này thường tồn tại khoảng cách lớn
16
giữa đầu tư và tiết tiệm, cần có nguồn bù đắp. Hơn nữa trong giai đoạn này, do nền công
nghiệp của đất nước chưa phát triển nên hàng xuất khẩu nếu có, đa phần là hàng nông sản
sơ chế và các nguyên liệu thô có giá trị thấp. Ngược lại về phía nhập khẩu do nhu cầu
phát triển đòi hỏi phải nhập khẩu hàng cao cấp, máy móc thiết bị công nghệ… có giá trị
cao. Điều đó dẫn đến cán cân thương mại, cán cân thanh toán luôn nằm trong tình trạng
thâm hụt. Để giải quyết khó khăn này, nhiều nước đã tìm đến nguồn vốn đầu tư nước ngoài
để tài trợ cho những thiếu hụt đó.
Thực trạng chung của những nước đang phát triển như Việt Nam là kết cấu hạ tầng

còn thiếu, lại quá tải và cũ kĩ, đường cầu, sân bay, nhà máy điện, tàu biển… đều trong tình
trạng yếu kém. Để đạt mục tiêu tăng trưởng và phát triển bền vững, Việt Nam nhất thiết
phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng, thường đòi hỏi vốn đầu tư lớn nhưng thu hồi vốn lại chậm,
khả năng sinh lời thấp nên không hấp dẫn được đầu tư của tư nhân. ODA trở thành giải
pháp hiệu quả cho việc đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Không chỉ ở Việt Nam, ngay cả
các nước phát triển cũng lựa chọn ODA để đầu tư cho phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng
đồng bộ và hiệu quả. ODA là nguồn vốn cho phép tiến hành đồng thời nhiều dự án trên địa
bàn và ở nhiều ngành khác nhau. Điều này sẽ tạo được sự phát triển mang tính chất đồng
bộ của hệ thống kết cấu hạ tầng. Nhờ đó tạo được năng suất tổng hợp phục vụ hiệu quả đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh và sự phát triển chung của toàn xã hội.
Hơn nữa, ODA cũng làm tăng khả năng thu hút vốn FDI và tạo điều kện để mở rộng
đầu tư phát triển trong nước ở các nước đang phát triển. Để có thể thu hút được các nhà
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào đầu tư tại một lĩnh vực nào đó, nhà nước cần tập trung vào
việc nâng cấp cải thiện và xây dựng mới cơ sở hạ tầng, hệ thống tài chính ngân hàng…
Nguồn vốn để nhà nước có thể giải quyết những đầu tư này là phải dựa vào nguồn vốn
ODA giúp bổ sung cho vốn đầu tư hạn hẹp từ ngân sách nhà nước. Một khi môi trường đầu
tư được cải thiện sẽ tăng sức hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy đầu tư
trong nước tăng, dẫn đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế. Mặt khác, việc sử dụng
nguồn vốn ODA để đầu tư cải thiện cơ sở hạ tầng sẽ tạo điều kiện cho các nhà đầu tư trong
nước tập trung đầu tư vào các công trình sản xuất kinh doanh có khả năng mang lại lợi
nhuận.
17
Như vậy, hỗ trợ phát triển chính thức, ngoài việc bản thân nó là nguồn vốn bổ sung
quan trọng cho các nước đang phát triển, còn có tác dụng tăng khả năng thu hút vốn từ
nguồn đầu tư trực tiếp và tạo điều kiện để mở rộng đầu tư phát triển trong nước cho các
nước này.
2.2.1.2 Là nguồn cung ứng ngoại tệ cho hoạt động mua sắm máy móc, thiết
bị, chuyển giao công nghệ, phân công lao động xã hội, tạo điều kiện cho tăng năng suất lao
động, gia tăng sản lượng của nền kinh tế.
Để tạo ra sự “cất cánh” cho nền kinh tế phải tìm cách tạo ra mức sản lượng, mức thu

nhập ngày càng gia tăng. Muốn vậy cần phải có vốn đầu tư và kỹ thuật tiên tiến.Và trong
lúc nền kinh tế còn đang kém phát triển, kỹ thuật – công nghệ lạc hậu thì việc nhập khẩu
công nghệ bên ngoài là một tất yếu. Chuyển giao công nghệ đòi hỏi một nguồn ngoại tệ lớn
trong khi cán cân thương mại luôn thâm hụt thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài lúc này chính
là nguồn cung ứng ngoại tệ để có thể tiếp cận công nghệ bên ngoài. Trong quá trình
chuyển giao, bên nhận nhận được những kiến thức kỹ thuật mà không phải tốn kém chi phí
và mất thời gian cho hoạt động nghiên cứu và triển khai. Ưu điểm rõ ràng nhất đối với bên
nhận công nghệ là tạo ra được sự tiến bộ kỹ thuật và thương mại từ sự tiếp nhận công
nghệ, Sự cung cấp tài liệu và huấn luyện để nâng cao kiến thức của bên nhận hoặc áp dụng
các quy trình công nghệ để sản xuất thành công. Đôi khi sự giúp đỡ thêm về tài chính, tìm
thị trường và tiêu thụ sản phẩm của bên cung cấp còn mở ra một khả năng thương mại cho
bên nhận. Khi công nghệ được chuyển giao, năng suất lao động sẽ tăng do tiến bộ của khoa
học kỹ thuât, hàng hóa bên nhận sẽ có chất lượng cao hơn, đáp ứng tốt hơn nhu cầu trong
nước cũng như xuất khẩu.
2.2.1.3 Làm gia tăng nguồn vốn trong nước
Từ khi mở cửa hội nhập, tiếp cận luồng vốn đầu tư nước ngoài, số lượng doanh
nghiệp trong nước tăng lên đáng kể. Bằng cách tuyển dụng lao động địa phương vào trong
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trực tiếp tạo việc làm cho người lao động
hoặc gián tiếp tạo việc làm thông qua viêc hình thành các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp
hàng hóa và dịch vụ cho các doanh nghiệp này khi các doanh nghiệp vệ tinh này được hình
thành và phát triển sẽ tạo việc làm trong phạm vi toàn xã hội. Ngài ra điều kiện lao động và
chăm sóc về mặt sức khỏe, y tế đối với người lao động tại các nước tiếp nhận đầu tư tốt
18
hơn so với các doanh nghiệp địa phương. Với nguồn thu nhập ngày càng được cải thiện thì
chất lượng cuộc sống ngày càng nâng cao. Thu nhập cao hơn, người lao động sẽ tiêu dùng
nhiều hơn, làm gia tăng cầu của nền kinh tế, kích thích sản xuất phát triển. Điều đó cũng
thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng gia tăng và giảm nỗi
lo về đầu ra cho sản phẩm. Từ đó doanh nghiệp trong nước sẽ tích cực sản xuất, nghiên
cứu để cải tiến công nghệ nhằm gia tăng năng suất lao động và đáp ứng ngày càng tốt hơn
nhu cầu tiêu dùng. Từ đó, doanh thu của các công ty sẽ tăng, lợi nhuận tăng làm gia tăng

tích lũy nội bộ nền kinh tế. Bên cạnh đó, khi thu nhập của người lao động tăng, họ cũng
tăng tích lũy, tạo thành nguồn vốn lớn trong nước.
Nguồn vốn nước ngoài khi vào lãnh thổ Việt Nam sẽ phải tuân theo luật pháp của
Việt Nam và phải hoàn thành nghĩa vụ đóng thuế cho nhà nước. Một thực tế mà chúng ta
đều thấy, doanh nghiệp nước ngoài thường hoạt động có hiệu quả hơn so với doanh nghiệp
trong nước. Do vậy, số thuế thu được từ những doanh nghiệp này sẽ nhiều hơn, bao gồm
các nguồn thu từ thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân,
thuế chuyển nhượng, thu nhập từ mua bán tài sản… Đó cũng là nguồn bù đắp lớn cho ngân
sách nhà nước, mà đây cũng chính là nguồn cung ứng vốn lớn ở trong nước.
Nguồn vốn đầu tư nước ngoài cùng với nguồn vốn trong nước hình thành những
hình thức hợp tác như công ty liên doanh, công ty cổ phần…Việc liên doanh liên kết này
sẽ làm giảm bớt gánh nặng về vốn, đầu tư đổi mới công nghệ được san sẻ giữa các bên.
Bên cạnh đó tạo điều kiện tốt cho phía trong nước có cơ hội học hỏi kỹ năng quản lý
chuyên nghiệp từ bên ngoài, tác phong làm việc công nghiệp, nâng cao tay nghề cho công
nhân. Thêm vào đó, sản phẩm đầu ra sẽ có thương hiệu tốt hơn, từ đó nâng cao khả năng
cạnh tranh của công ty, lợi nhuận thu được cao hơn so với không liên doanh liên kết. Và
như thế, nó đã góp phần gia tăng tích lũy nội bộ nền kinh tế.
2.2.1.4 Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là tổng thể mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố cấu
thành nền kinh tế. Một đất nước có nền kinh tế phát triển phải có một cơ cấu kinh tế hợp
lý. Muốn chuyển dịch cơ cấu kinh tế của một đất nước cần có rất nhiều nguồn lực. Trong
đó yếu tố vốn đóng vai trò quyết định Nếu chỉ dựa vào nguồn vốn trong nước sẽ không thể
19
đáp ứng được, có thêm nguồn vốn nước ngoài sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển
dịch cơ cấu kinh tế.
Nguồn vốn nước ngoài làm thay đổi cơ cấu các ngành của nước tiếp nhận đầu tư,
chuyển đổi từ ngành sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ và sau
cùng là sang ngành sản xuất dịch vụ. Thay đổi cơ cấu bên trong một ngành sản xuất từ
năng suất thấp, công nghệ lạc hâu, lao động nhiều sang sản xuất có năng suất cao, công
nghệ hiện đại. Khi cơ cấu kinh tế đã được chuyển dịch theo hướng ngày càng tiến gần hơn

so với thế giới thì sẽ tạo điều kiện cho sản xuất trong nước phát triển do đã có được những
điều kiện sản xuất phát triển ở một mức độ hợp lý.
Như vậy, nếu sử dụng tốt thì vốn đầu tư nước ngoài về ngắn hạn là đáp ứng vốn đầu
tư phát triển, về dài hạn làm gia tăng nguồn vốn tích lũy trong nước.
2.2.2 Những tác động tiêu cực nếu sử dụng và quản lý nguồn vốn nước ngoài
không tốt
2.2.2.1 Luôn tiềm ẩn nguy cơ làm gia tăng nợ nước ngoài và gia tăng sự phụ thuộc vào nền
kinh tế nước ngoài nhất là đối với nguồn ODA
Nguồn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và lợi ích của nước
viện trợ. Chính vì vậy, ODA mang yếu tố chính trị. Các nước viện trợ nói chung vừa gây
ảnh hưởng chính trị, vừa thực hiện xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ tư vấn vào nước tiếp
nhận. Bản thân các nước phát triển nhìn thấy lợi ích của mình trong việc hỗ trợ, giúp đỡ
các nước đang phát triển để mở mang thị trường tiêu thụ sản phẩm và thị trường đầu tư.
Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế. Xét về lâu dài,các nhà viện trợ sẽ có lợi về
mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi các nước nghèo phát triển. Viện trợ các nước không chỉ
đơn thuần là việc giúp đỡ hữu nghị mà còn là một công cụ lợi hại để thiết lập và duy trì lợi
ích kinh tế và vị thế chính trị cho nước tài trợ. Những nước cấp viện trợ đòi hỏi những
nước tiếp nhận phải thay đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ.
Khi nhận viện trợ, các nước cần cân nhắc kỹ lưỡng những điều kiện của nhà tài trợ, không
vì lợi ích trước mắt mà đánh mất những quyền lợi lâu dài. Quan hệ hỗ trợ phát triển chính
20
thức phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ. Khi tiếp nhận và sử dụng vốn ODA do tính
chất ưu đãi nên gánh nặng nợ nần thường chưa xuất hiện. Một số nước do sử dụng không
hiệu quả ODA có thể tạo sự tăng trưởng nhất thời, nhưng sau một thời gian lại lâm vào
vòng nợ nần do không có khả năng trả nợ. Sự phức tạp chính là ở chỗ vốn ODA không có
khả năng đầu tư trực tiếp cho sản xuất nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa
vào xuất khẩu thu ngoại tệ. Mặt khác với ODA là nguồn vốn vay lâu dài, do ban đầu chưa
phải trả nợ ngay nên ODA hay bị sử dụng lãng phí, không hiệu qủa. Khi đến kỳ trả nợ thì

người phải trả lại là thế hệ sau. Vì vậy, nó còn kĩm hãm khả năng phát triển lâu dài của
nguồn vốn trong nước. Do đó, trong khi hoạch định chính sách sử dụng vốn ODA cần phải
phối hợp với các loại nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu.
2.2.2.2 Nguồn vốn nước ngoài di chuyển vào trong nước làm tăng thu nhập của vốn nước
ngoài trên thị trường trong nước và làm giảm thu nhập của nguồn vốn trong nước
Về thực chất, đây là việc tái phân phối thu nhập của nguồn vốn trong nước cho vốn
nước ngoài, do đó có thể gây ra làn sóng “bài ngoại” của vốn trong nước và hiện tượng
xung đột ngấm ngầm hoặc công khai trong quan hệ giữa vốn trong nước và vốn nước
ngoài.
2.2.2.3 Nguồn vốn nước ngoài được đầu tư khá nhiều vào khai thác tài nguyên, dẫn đến
làm giảm khả năng phát triển lâu dài của nguồn vốn trong nước.
Đặc điểm của tài nguyên thiên nhiên là bắt nguồn từ tính chất quý hiếm và sự phân
bố không đồng đều giữa các vùng trên trái đất. Các nước đang phát triển thường có nhiều
tài nguyên thiên nhiên hơn các nước phát triển. Một trong những động cơ của các nhà đầu
tư nước ngoài là nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên rẻ và dồi dào ở các nước tiếp nhận
vốn. Họ có thể khai thác để đem về nước sản xuất hoặc sản xuất thành sản phẩm ngay tại
nước sở tại, có một hình thức khai thác là khai thác những địa điểm du lịch hấp dẫn có sẵn
hoặc đang ở dạng tiềm năng của chúng ta. Nhưng nguồn tài nguyên của chúng ta chỉ có
hạn, nếu cứ khai thác như vậy thì sẽ mau chóng cạn kiệt. Thế hệ sau sẽ không có nguyên
nhiên liệu để sản xuất vì vậy sẽ gặp bất lợi do có thể sẽ phải nhập khẩu nguyên liệu hoặc
21
tốn kém chi phí cho nghiên cứu tìm ra nguyên liệu khác thay thế. Việc này sẽ làm giảm
khả năng phát triển lâu dài của nguồn vốn trong nước.
2.2.2.4 Tình trạng lũng đoạn thị trường của nhà đầu tư nước ngoài và cạnh tranh không cân
sức giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể làm
phá sản doanh nghiệp trong nước và gây thất nghiệp.
Một thực tế mà tất cả chúng ta đều có thể dễ dàng nhìn thấy đó là các doanh nghiệp
nước ngoài thường làm ăn có hiệu quả hơn với doanh nghiệp nhà nước là bởi các lý do sau:
- Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước đang phát triển thường rất hạn
chế bởi đa số các doanh nghiệp đều có quy mô nhỏ và ít vốn. Thêm vào đó là đa số chủ

doanh nghiệp chưa được đào tạo một cách bài bản về kiến thức kinh doanh, quản lý, kinh
tế- xã hội, văn hóa, luật pháp… và kỹ năng quản trị kinh doanh, nhất là kỹ năng trong điều
kiện hội nhập quốc tế. Điều này thể hiện rõ trong việc nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện
đúng các quy định về thuế, quản lý nhân sự, quản lý tài chính, chất lượng hàng hóa, sở hữu
công nghiệp…
- Sự lạc hậu về khoa học- công nghệ của các doanh nghiệp trong nước : Hiện nay đa
số các doanh nghiệp nước ta sử dụng công nghệ lạc hậu so với mức trung bình của thế giới
từ 2 đến 3 thế hệ, trong đó số máy móc hiện đại chiếm tỷ lệ tích lũy thấp. Bên cạnh đó, để
đổi mới công nghệ lại thường chiếm tỷ lệ rất thấp, chỉ chiếm khoảng 0.2 đến 0.5 doanh thu.
- Hạn chế về khâu nguyên vật liệu và sự yếu kém về thương hiệu các doanh nghiệp.
- Chiến lược phân phối, chiến lược truyền thông và xúc tiến thương mại của các
doanh nghiệp trong nước còn nhiều hạn chế.
2.2.2.5 Làm chảy máu chất xám sang khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
Doanh nghiệp nước ngoài còn cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước trong lĩnh
vực thu hút nguồn nhân lực bởi chính sách lương, thưởng và trợ cấp. Thông thường do
được hưởng nhiều ưu đãi và môi trường làm việc tốt hơn mà đa số những người có trình độ
tay nghề cao thường làm trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Việc này đã
làm giảm đáng kể nhân tài cho khu vực trong nước, làm giảm khả năng phát triển của khu
vực này.
22
CHƯƠNG II:
Thực trạng mối quan hệ giữa hai nguồn vốn trong nước và nước
ngoài trong việc thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt
Nam
I. Nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định
1. Nguồn vốn trong nước mang tính ổn đinh và bền vững, có thể chủ động trong việc
huy động và sử dụng.
Vốn trong nước được coi là nhân tố nội lực của mỗi quốc gia vì nó mang tính ổn
định và bền vững. Nguồn vốn trong nước có thể chủ động trong việc huy động và sử dụng
mà không chịu sự chi phối của bất kỳ một tổ chức, quốc gia hay chịu sự ràng buộc về

chính trị nào. Nội lực có tốt thì mới phát huy được tốt vai trò của ngoại lực. Thực tế cũng
đã chứng minh, không có một quốc gia nào có thể phát triển bền vững nếu chỉ dựa vào
ngoại lực bên ngoài mà không chú trọng phát huy nội lực.
23
Để không lệ thuộc nước ngoài về kinh tế, Đảng ta luôn xác định nhiệm vụ và giải
pháp quan trọng phát triển kinh tế xã hội là “ huy động tối đa nguồn lực để phát triển kinh
tế xã hội, nhất là nội lực, nguồn lực trong dân và tăng sức thu hút đầu tư nước ngoài, sử
dụng có hiệu quả vốn đầu tư, tăng cường quản lý sử dụng đất đai, đề cao kỷ luật tài chính,
đẩy mạnh thi đua sản xuất, thực hành tiết kiệm, phấn đấu giảm bội chi”. Ở Việt Nam, khu
vực đầu tư trong nước đang ngày càng khẳng định được vai trò quyết định của mình đối
với nền kinh tế và đã đạt được một số thành công nhất định.
Bảng 1: Vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế
Năm 100% Nguồn vốn trong nước Nguồn vốn nước ngoài
1995 100 69,6 30.4
1996 100 74,0 26,0
1997 100 72,0 28,0
1998 100 79,2 20,8
1999 100 82,7 17,3
2000 100 82,0 18,0
2001 100 82,4 17,6
2002 100,0 82,6 17,4
2003 100,0 84,0 16,0
2004 100,0 85,8 14,2
2005 100,0 85,1 14,9
2006 100,0 83,8 16,2
2007 100,0 75,7 24,3
2008 100,0 69,1 30,9
2009 100,0 74,5 25,5
Nguồn: Tổng Cục thống kê
Thực tế cho thấy tỷ lệ vốn đầu tư khu vực trong nước luôn chiếm khoảng trên 70%

so với tổng vốn đầu tư toàn xã hội và có xu hướng ngày càng tăng qua các năm. Vốn đầu
tư trong nước chiếm tỷ trọng lớn và ổn đinh như vậy giúp các nhà hoạch định chính sách
dễ dàng hơn trong việc lập quy hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự đoán được tốc độ phát
triển của nền kinh tế. Đặc biệt, trong cơ cấu vốn đầu tư, vốn đầu tư của khu vực kinh tế nhà
nước chiếm khoảng 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng liên tục từ năm 1995 đến năm
2001 (từ 42.0% lên 59.8%) nhưng đến nay đang có xu hướng giảm dần đồng thời khu vực
kinh tế ngoài nhà nước ngày càng lớn mạnh hơn, chiếm tỷ trọng tăng dần trong tổng vốn
đầu tư toàn xã hội (năm 2007, 2008 vốn đầu tư của khu vực kinh tế ngoài nhà nước đã
24
vượt qua cả khu vực kinh tế nhà nước). Điều này là một tín hiệu tốt cho nền kinh tế bởi
khu vực tư nhân là một khu vực năng động, có thể tăng trưởng nhanh và tạo việc làm mà
không cần có sự hỗ trợ nào từ ngân sách nhà nước. Việc khuyến khích huy động mọi
nguồn lực cho phát triển kinh tế đặc biệt là ngồn lực trong dân cũng là chủ trương của
Đảng và nhà nước ta trong những năm qua và trong thời gian tới. Nhà nước chủ trương cơ
cấu lại hệ thống doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chuyển đổi hình thức doanh nghiệp nhà
nước. Trước đây vốn cho doanh nghiệp nhà nước chủ yếu được cấp từ ngân sách thì nay
thực hiện cổ phần hóa để đa dạng hóa các nguồn vốn, giảm gánh nặng cho ngân sách nhà
nước.
Trong những năm gần đây, cùng với sự tăng trưởng nói chung của nền kinh tế, quy
mô tổng thu ngân sách nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác
nhau. Trong giai đoạn 1996 – 2000, để phù hợp với sự phát triển kinh tế, ngân sách nhà
nước bước đầu được cơ cấu lại theo hướng tích cực và có hiệu quả hơn. Việc cải cách thuế
giai đoạn hai cùng với triển khai luật ngân sách đã góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển, tăng nguồn thu cho ngân sách. Tổng thu ngân sách tăng bình quân hàng năm
trên 7%, cao hơn mức tăng bình quân GDP của giai đoạn này. Trong giai đoạn 2001- 2005,
tổng thu ngân sách nhà nước tăng bình quân 15%, tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước
hàng năm bình quân đạt gần 23% GDP. Trong giai đoạn 2006 – 2007, tổng thu ngân sách
nhà nước ước đạt 1.547 ngìn tỷ đồng, vượt 16,2% so với dự toán và gấp 2,8 lần tổng số thu
giai đoạn 2001 – 2005. Nguồn vốn ngân sách nhà nước ổn định và gia tăng qua từng thời
kỳ sử dụng để cân đối chính yếu trong nền kinh tế, là một trong những công cụ đầu tư trực

tiếp của nhà nước. Ngân sách nhà nước góp phần trực tiếp tạo ra năng lực sản xuất của một
số lĩnh vực quan trọng nhất của nền kinh tế, đảm bảo đúng định hướng và quy hoạch phát
triển kinh tế xã hội.
Đi cùng với sự mở rộng quy mô ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ ngân
sách nhà nước cũng gia tăng đáng kể. Trong giai đoạn 1996 – 2000, chi cho đầu tư phát
triển tăng lên bình quân khoảng 25% GDP trong tổng chi ngân sách nhà nước. Tổng nguồn
vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước bình quân 5 năm chiếm 21.5% tổng vốn đầu tư xã
hội. Trong giai đoạn 2001 – 2005, chi cho đầu tư phát triển đạt bình quân 30.2% tổng chi
ngân sách nhà nước. Tính chung cho giai đoạn này, tổng vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước
25

×