Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Savannakhet của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 2005 – 2015, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 103 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài:
Savannakhet là tỉnh có xuất phát điểm về kinh tế - xã hội, cơ sở vật chất
kỹ thuật, hạ tầng và nguồn lực cho đầu tư phát triển nói riêng, cho phát triển
kinh tế - xã hội nói chung hết sức thấp kém. Tuy nhiên chỉ trong một thời gian
ngắn với những nỗ lực, cố gắng vươn lên phát huy thuận lợi, khắc phục khó
khăn tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đã có những khởi sắc và chuyển biến
tích cực. Đặc biệt hoạt động đầu tư nước ngoài tại tỉnh đã dần khẳng định
được vị trí và vai trò của mình đối với sự phát triển của nền kinh tế. Nếu như
năm 1997 chúng ta mới chỉ có 3 dự án đầu tư nước ngoài thì cho tới nay
chúng ta đã có trên 90 dự án. Nhiều nhà đầu tư đã biết tới tỉnh Savannakhet.
Bức tranh về hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung, hoạt động thu hút vốn
đầu tư nước ngoài nói riêng đã được hình thành rõ nét và sinh động. Tỉnh
Savannakhet nổi lên như một địa phương có sức hấp dẫn và là một hiện tượng
về thu hút đầu tư của vùng và khu vực.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần tích cực trong công
cuộc đổi mới kinh tế của Lào nói chung và tỉnh Savannakhet nói riêng hơn 10
năm qua. Có thể nói đầu tư nước ngoài như một trong các nguồn năng lượng
quan trọng khởi động cỗ máy kinh tế của Lào đi vào quỹ đạo của sự tăng
trưởng. Ngày nay, đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận của nền kinh
tế quốc dân. Mỗi chính sách kinh tế, mỗi biến động tài chính tiền tệ, mỗi
chiến lược phát triển kinh tế xã hội đều có bóng dáng của đầu tư nước ngoài.
Đối với Lào, một đất nước có trình độ kinh tế kém phát triển, các tỉnh miền
núi trung du và các tỉnh nghèo còn chiếm một phần lớn, việc thu hút đầu tư
nước ngoài để thực hiện chính sách công nghiệp hoá hiện đại hoá mà đặc biệt
là hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, xoá đói giảm nghèo, ưu tiên phát triển
kinh tế - xã hội ở các vùng miền núi xa xôi đang là chính sách phát triển toàn
diện mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Đầu tư nước ngoài mang lại rất nhiều lợi
ích khác nhau, đối với đầu tư thì nó thể hiện cả ở sự tiến bộ về mặt kinh tế,
chính trị, xã hội. Nó càng quan trọng đối với một nước có nhu cầu vốn lớn
cho sự phát triển kinh tế xã hội như Lào nói chung và tỉnh Savannakhet nói


riêng. Thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài chúng ta có thể huy động được
khối lượng lớn vốn đầu tư đáp ứng cho nhu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế, ổn
định nền kinh tế, tạo cơ sở vững chắc cho tăng trưởng dài hạn ở những năm
sau. Cùng với đó tình hình xã hội cũng được cải thiện, đời sống dân cư được
năng cao, giảm bớt sức ép của những vấn đề xã hội. tuy nhiên, bên cạnh
những lợi ích mà đầu tư nước ngoài mang lại nó cũng còn nhiều hạn chế đó là
những tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài với nền kinh tế,vì vậy chúng
ta cần biết tiếp nhận đầu tư nước ngoài một cách chủ động, phát huy mặt tích
cực của nó đồng thời giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực hướng theo chiến
lược phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt trong thời gian tới chúng ta cần đưa ra
những giải pháp thiết thực để có thể tăng cường hơn nữa việc thu hút vốn đầu
tư trực tiếp nước ngoài nhằm huy động tối đa nguồn lực cho sự nghiệp phát
triển kinh tế xã hội của tỉnh.
Chính vì vậy, đề tài “Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh
Savannakhet của nước CHDCND Lào giai đoạn 2005 – 2015 thực trạng và
giải pháp”.
1. Mục đích nghiên cứu
• Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về lý luận của đầu tư trực tiếp
nước ngoài ảnh hưởng đến sự phát triển của tỉnh Savannakhet…
• Phân tích, đánh giá thực trạng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh
Savannakhet.
• Đề xuất các giải pháp để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
tỉnh Savannakhet.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
• Nghiên cứu tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào tỉnh Savannakhet
• Thời gian nghiên cứu: Từ năm 2005 – 2015
3. Phương pháp nghiên cứu
• Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, các phương pháp được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài:
Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, sơ đồ, bảng biểu…

4. Kết cấu của đề tài:
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Đề tài được
trình bày thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận chung về đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chương 2: Thực trạng và đầu tư trực tiếp nước ngoài tại tỉnh Savannakhet
thời kỳ 2005 – 2015.
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại tỉnh Savannakhet.
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI
1.1. Một số vấn đề lý luận cơ bản về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.1.1. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Về thực chất, FDI là sự đầu tư của các công ty nhằm xây dựng các cơ
sở, chi nhánh ở nước ngoài và làm chủ toàn bộ hay từng phần cơ sở đó. Đây
là hình thức đầu tư mà chủ đầu tư nước ngoài đóng góp một số vốn đủ lớn
vào lĩnh vực sản xuất hoặc dịch vụ và cho phép họ trực tiếp tham gia điều
hành đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư.
Tổ chức thương mại thế giới đưa ra định nghĩa về FDI như sau: Đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) xảy ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ
đầu tư) có được một tài sản ở một nước khác (nước thu hút đầu tư) cùng với
quyền quản lý tài sản đó. Phương diện quản lý là thứ để phân biệt FDI với các
công cụ tài chính khác. Trong phần lớn trường hợp, cả nhà đầu tư lẫn tài sản
mà người đó quản lý ở nước ngoài là các cơ sở kinh doanh. Trong những
trường hợp đó, nhà đầu tư thường hay được gọi là “công ty mẹ” và các tài sản
được gọi là “công ty con” hay “chi nhánh công ty”. của Bộ Kế hoạch & Đầu
tư ( />Sự vận động, phát triển của đầu tư trực tiếp nước ngoài chịu sự tác
động, chi phối của quy luật kinh tế. Thoạt đầu, đầu tư trực tiếp nước ngoài
chính là một trong những phương thức tìm kiếm, khai thác các yếu tố cần
thiết, đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Đến giai đoạn phát triển nhất định của nền sản xuất xã hội, đầu tư trực tiếp

nước ngoài tăng lên là do quá trình tích tụ, tập trung tư bản lớn, cùng với sự
phát triển của phân công lao động xã hội trên quy mô quốc tế ngày càng mở
rộng, tạo ra những cơ hội đầu tư mới. Đồng thời dưới tác động của nhiều yếu
tố, đặc biệt là sự phát triển của khoa học công nghệ, sự phát triển kinh tế, tốc
độ mở rộng, giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế, cùng với sự chi phối của quy
luật kinh tế, trong đó nổi bật nhất là những lợi ích kinh tế của các nền kinh tế
biết tận dụng lợi thế so sánh (tương đối và tuyệt đối) đã làm cho không gian
hoạt động của đầu tư trục tiếp nước ngoài ngày càng mở rộng hơn.
Nếu đứng trên lập trường của giai cấp vô sản để thực hiện cuộc đấu
tranh giai cấp thì đầu tư trực tiếp nước ngoài được xem như là công cụ bóc lột
của chủ nghĩa tư bản hoặc nó được xem là yếu tố kinh tế mà giai cấp vô sản
có thể lợi dụng để làm tăng thêm sức mạnh của mình. Do sự phát triển của
loại hình hoạt động kinh tế, dạng đầu tư trực tiếp nước ngoài, ngay từ thời kì
đầu đã gắn liền với lịch sử phát triển của chủ nghĩa tư bản nên trong hầu hết
các trường hợp, Lê Nin xem nó như một công cụ bóc lột của tư bản.
Thời kỳ từ cách mạng tháng mười Nga về sau, khi mà trên thế giới đã
hình thành hai hệ thống chế độ chính trị – xã hội đối lập, thì đầu tư trực tiếp
nước ngoài đã có sự thay đổi về chất. Bên cạnh các loại hình như vẫn tồn tại
(ở các nước thuộc địa) đã hình thành một loại hình mới đó là loại đầu tư chỉ
có thể thực hiện khi có sự chấp thuận của nước nhận đầu tư. Loại hình này, dù
có sự khác nhau về mức độ nhưng cả hai (nhà đầu tư và nước nhận đầu tư)
đều có lợi.
Trong điều kiện của nền kinh tế hiện đại, sự phát triển của đâù tư trực
tiếp nước ngoài được quy định bởi những quy luật kinh tế hoàn toàn khách
quan với những điều kiện cần và đủ nhất định, hoạt động đầu tư này chỉ được
thực hiện khi có sự gặp nhau về nhu cầu của một bên là nhà đầu tư và một bên
khác là nước nhận đầu tư.
Thực chất cơ bản bên trong của nhà đầu tư trong hoạt động đầu tư trực
tiếp nớc ngoài là: Khi quá trình tích tụ tập trung vốn đạt tới một trình độ mà
“mảnh đất” sản xuất kinh doanh truyền thống của họ đã trở nên chật hẹp, đến

mức cản trở khả năng phát huy hiệu quả của đầu tư, nơi mà ở đó nếu đầu tư
vào, họ thu được số lợi nhuận không được như ý muốn. Trong khi ở một số
quốc gia khác xuất hiện lợi thế mà họ có thể khai thác để thu lợi nhuận cao
hơn nơi mà họ đang đầu tư. Có thể nói đây đây là yếu tố kinh tế cơ bản nhất
thúc đẩy các nhà đầu tư chuyển vốn của mình ra đầu tư ở nước khác nhằm
duy trì và nâng cao hiệu quả sản xuất của chủ đầu tư về vốn, kỹ thuât, công
nghệ, khai thác thị trường của nước nhận đầu tư để thu lợi nhuận đồng thời
tranh thủ các chính sách khuyến khích của nước nhận đầu tư để tối đa hoá lợi
ích của mình. Đối với nước nhận đầu tư thì họ có một số lợi thế cạnh tranh mà
họ chưa hoặc không có điều kiện khai thác do thiếu vốn, thiếu công nghệ tiên
tiến, thiếu kỹ thuật và ít có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả
cao Chính vì vậy họ muốn thu hút đầu tư nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh,
tạo nguồn vốn cho đầu tư phát triển.
Như vậy, dưới góc độ kinh tế, đầu tư trực tiếp được hiểu là một hoạt
động kinh doanh mà ở đó có sự tách biệt ở vĩ mô về chủ thể (bên đầu tư và
bên nhận đầu tư), nhưng lại có sự kết hợp vi mô trong việc sử dụng vốn và
quản lý đối tượng đầu tư. Ngoài ra, đầu tư trực tiếp không chỉ là một quan hệ
buôn bán đơn thuần mà còn là sự di chuyển những điều kiện sản xuất giữa các
quốc gia nhằm thu lợi nhuận…
Nói chung, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là một loại hình di chuyển
vốn quốc tế, trong đó người chủ sở hữu đồng thời là người trực tiếp quản lý
và điều hành hoạt động sử dụng vốn đầu tư.
1.1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Từ những quan điểm lý thuyết trên, có thể rút ra những đặc điểm về đầu
tư trực tiếp nước ngoài như sau:
- Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư quốc tế chủ yếu mà chủ đầu tư nước
ngoài đầu tư toàn bộ hay phân đủ lớn vốn đầu tư của các dự án nhằm giành
quyền điều hành hoặc tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc
kinh doanh dịch vụ, thương mại.
- Đầu tư FDI được thực hiện thông qua việc xây dựng doanh nghiệp mới,

mua lại toàn bộ hoặc từng phần doanh nghiệp đang hoạt động hoặc mua cổ
phần để thôn tính hoặc sát nhập các doanh nghiệp với nhau.
- Các chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu theo luật
đầu tư của từng nước quy định. Chủ đầu tư nước ngoài điều hành toàn bộ mọi
hoạt động đầu tư nếu là doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc tham gia
điều hành doanh nghiệp liên doanh tuỳ theo tỉ lệ góp vốn của mình. Đối với
nhiều nước trong khu vực, chủ đầu tư chỉ được thành lập doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài trong một số lĩnh vực nhất định và chỉ được tham gia liên
doanh với số vốn cổ phần của bên nước ngoài nhỏ hơn hoặc bằng 49%; 51%
cổ phần còn lại do nước chủ nhà nắm giữ. Trong khi đó, Luật đầu tư nước
ngoài của Lào cho phép rộng rãi hơn đối với hình thức 100% vốn nước ngoài
và quy định bên nước ngoài phải góp tối thiểu 30% vốn pháp định của dự án.
- Đây là hình thức nhà đầu tư tự bỏ vốn cùng điều hành nguồn vốn đó
theo nhu cầu kinh doanh của mình. Họ sẽ bị lỗ hoặc hưởng lãi vì vậy nước
nhận đầu tư sẽ không phải tham gia vào các hoạt động đầu tư loại này trừ việc
điều hành bàng hành lang pháp lý của mình. Đầu tư trực tiếp mang lại cho
nước nhận đầu tư thu thập được công nghệ cao cùng kỹ năng quản lý tốt. Vì
vậy các nước đang phát triển trên thế giới đều muốn thu hút loại hình đầu tư
này để theo kịp khoa học kỹ thuật mà các nước phát triển đã trải qua. Nguồn
vốn đầu tư này có một thời hạn rộng rãi, mang tính khả thi và hiệu quả kinh tế
cao và không bị gắn với bất cứ điều kiện chính trị nào nên nước chủ nhà
không bị những ảnh hưởng về mặt chính trị của các nước cho vay nợ hoặc đầu
tư, không để lại gánh nặng nợ nần cho nền kinh tế.
- Đầu tư trực tiếp chịu sự chi phối mãnh liệt của quy luật thị trường, vì
vậy lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của các nhà đầu tư. Lợi nhuận của các nhà
đầu tư nước ngoài thu được phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh và
được chia theo tỷ lệ góp vốn trong vốn pháp định sau khi nộp thuế cho nước
sở tại và trả lợi tức cổ phần (nếu có).
- Thông qua FDI, nước tiếp nhận đầu tư có cơ hội học hỏi được công
nghệ, kỹ thuật hiện đại, tiếp thu được kinh nghiệm quản lý của các nước phát

triển. Đây cũng chính là ưu điểm mà các hình thức khác không có được.
- Nguồn vốn FDI không chỉ bao gồm vốn đầu tư ban đầu của chủ dự án
đầu tư dưới hình thức vốn pháp định, mà trong quá trình hoạt động, nó còn
bao gồm cả vốn vay của doanh nghiệp để triển khai hoặc mở rộng dự án cũng
như vốn đầu tư từ nguồn lợi nhuận thu được.
Các đặc điểm trên đã tạo một ưu thế chắc chắn FDI hơn những hình
thức đầu tư khác, và FDI trên thế giới hiện nay là hình thức đầu tư được quan
tâm đặc biệt.
1.1.3. Các hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Hiện nay, có 3 hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài chủ yếu sau đây.
• Hợp đồng hợp tác kinh doanh (Business Cooperation Contract – BCC).
BCC là văn bản được ký kết giữa 2 hoặc nhiều bên (nước ngoài và nước
sở tại), nhằm tiến hành một hoặc nhiều hoạt động đầu tư tại nước sở tại trên
cơ sở quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh mà không thành
lập pháp nhân mới.
Phương thức hoạt động là các tổ chức kinh tế trong nước sản xuất, gia
công, lắp ráp sản phẩm cho phía nước ngoài và nhận lại tiền công lao động
hoặc bằng sản phẩm. Khi hết hạn hợp đồng, các máy móc thiết bi phục vụ cho
việc sản xuất, gia công có thể được bán lại cho doanh nghiệp.
• Doanh nghiệp liên doanh (Joint – Venture enterprise).
Là doanh nghiệp được thành lập do các chủ đầu tư nước ngoài góp vốn
chung với doanh nghiệp của nước nhân đầu tư trên cơ sở hợp đồng liên
doanh. Các bên tham gia góp vốn cùng điều hành hoạt động kinh doanh, cùng
hưởng lợi nhuận và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ góp vốn.
Doanh nghiệp liên doanh được thành lập theo hình thức công ty
TNHH có tư cách pháp nhân theo pháp luật Lào . Thời gian hoạt động của
các doanh nghiệp khoảng từ 30-50 năm. Doanh nghiệp này hoàn toàn tự
chủ về tài chính vì vốn pháp định do mỗi bên liên doanh đóng góp. Trong
quá trình hoạt động kinh doanh muốn tăng vốn phải được sự chấp thuận
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư.

* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (100% foreign owned capital) Là
doanh nghiệp có tư cách pháp nhân riêng với 100% vốn của phía nước ngoài.
Loại hình doanh nghiệp này do phía nước ngoài toàn quyền quản lý, điều
hành, tự tổ chức sản xuất kinh doanh và chịu toàn bộ trách nhiệm về kết quả
hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ pháp luật của nước sở tại.
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp không được giảm vốn pháp định.
Ngoài ra còn có hình thức công ty cổ phần, công ty quản lý vốn và còn
có nhiều hình thức biến tướng khác tuỳ theo mục đích và đặc điểm trong yêu
cầu tiếp nhận đầu tư. Thí dụ, đối với lĩnh vực khai thác tài nguyên thiên nhiên
có hình thức hợp đồng chia sản phẩm, trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ
tầng có hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (B.O.T). Hoặc hình
thức đầu tư vào khu chế xuất hiện nay cũng có nhiều cải biến, ví dụ người ta
bắt đầu chú ý đến hình thức xây dựng khu công nghiệp tập trung hoặc có
nước lại quan tâm xây dựng đặc khu kinh tế. Chắc chắn sẽ có nhiều hình thức
cụ thể được ra đời để đáp ứng nhu cầu và khả năng thu hút đầu tư nước ngoài
của các quốc gia. Có thể nói, các hình thức của FDI hết sức đa dạng, phong
phú, mỗi hình thức lại có điểm mạnh, điểm yếu khác nhau. Vì vậy, tuỳ theo
yêu cầu, mục tiêu của mỗi dự án cụ thể mà chủ đầu tư sẽ lựa chọn hình thức
thích hợp nhất.
1.1.4. Đầu tư phát triển địa phương và việc thu hút FDI
Có rất nhiều những định nghĩa khác nhau về địa phương: Địa phương là
một lãnh thổ không gian địa lý chính trị xét về mặt vật chất; địa phương là
một khu vực hay quốc gia; địa phương là một địa điểm bao gồm các yếu tố
văn hoá, lịch sử và dân tộc; địa phương là một tỉnh trung tâm và khu vực dân
cư quanh đó; Địa phương là một thị trường với những thuộc tính khác nhau
có thể xác định…
Với cái nhìn địa phương như một sản phẩm cần phải tiếp thị với khách
hàng, cần tìm kiếm thị trường thì phương pháp cũng như kỹ thuật tiếp thị đòi
hỏi phải đặc biệt hơn. Với một địa phương cụ thể nhưng chúng ta có thể chào
hàng ở các thị trường khác nhau như thị trường đầu tư, thị trường thương mại,

thị trường du lịch… và từng thị trường khác nhau chúng ta có những cách tiếp
cận khác nhau. Và trong cùng một thị trường, chúng ta chọn những phân khúc
thị trường phù hợp. Và đối với loại khách hàng khác nhau (về khu vực kinh
tế, ngôn ngữ, văn hoá….) lại có những kỹ thuật khác nhau, trong đó sử dụng
mọi kiến thức kỹ thuật cũng như kiến thức về tâm lý xã hội để làm cách nào
cho khách hàng nhận ra tiềm năng và thế mạnh của địa phương, nhận ra đây
là cơ hội tốt cho khách hàng, và từ đó chấp nhận "sản phẩm" của địa phương
chúng ta.
Các nhà lãnh đạo địa phương khi nhằm đến thị trường đầu tư cụ thể
trong thu hút đầu tư FDI thì cần phải có chính sách marketing địa phương
mình nhằm thu hút nguồn vốn FDI đổ vào địa phương tăng cao.
Trước tiên trên quan điểm marketing, nhà đầu tư đến với nước sở tại
không phải vì các nhà hoạch định chính sách cho rằng môi trường kinh doanh
ở địa phương mình tốt mà chính vì những ích lợi thực tế từ môi trường đầu tư
của địa phương sở tại. Các nhà lãnh đạo địa phương cần am hiểu yêu cầu đối
với các doanh nghiệp FDI và sử dụng chính sách để thoả mãn nhu cầu của các
doanh nghiệp, từ đó thu hút nguồn vốn FDI vào địa phương.
Nếu chính quyền địa phương coi doanh nghiệp FDI là khách hàng,
theo cách tiếp cận hiện đại về marketing, việc am hiểu hành vi và mong
ước của khách hàng là hết sức cần thiết. Để làm được điều này, chính
quyền địa phương cần nắm vững yêu cầu đối với lực lượng tham gia vào
thị trường bao gồm các nhà đầu tư nước ngoài. Am hiểu nhu cầu khách
hàng là yếu tố quan trọng để thoả mãn nhu cầu của họ, giữ gìn họ và tăng
số lượng khách hàng lên cao hơn trong tương lai. Việc thoả mãn nhu cầu
của các nghiệp FDI thường không đơn giản và dễ dàng vì mô hình kinh
doanh và động cơ kinh doanh là khác nhau giữa các doanh nghiệp. Chẳng
hạn, Mortimore (2003) đã chỉ ra các động cơ đầu tư khác nhau như: Tìm
kiếm nguồn vốn nguyên vật liệu thô; xâm nhập thị trường địa phương; tìm
kiếm hiệu quả; và hướng tới các yếu tố chiến lược.
Địa phương cần tìm hiểu tại sao các doanh nghiệp FDI lại lựa chọn địa

phương mình mà không phải là các địa phương. Các nội dung khác cần được
trả lời đó là điều gì khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào địa
phương mình, ai là người đưa ra quyết định đầu tư, quy trình ra quyết định
đầu tư, những nỗ lực nào của địa phương sẽ thu hút được sự chú ý của nhà
đầu tư, những tác động nào của địa phương có thể thực hiện để ảnh hưởng tới
những bên liên quan trong quá trình ra quyết định đầu tư. Địa phương cần tập
trung giúp đỡ các nhà đầu tư có mặt tại địa phương. Nếu được Chính quyền
tích cực giúp đỡ khó khăn trong quá trình vận hành kinh doanh, các nhà đầu
tư hiện tại có thể nói với các nhà đầu tư tiềm năng rằng "Địa phương này là
một địa điểm đầu tư tốt và triển vọng".
Để thực hiện được những mục đích này thì nhà lãnh đạo địa phương cần
làm tốt công tác marketing địa phương trên cơ sở hiểu đúng và thực hiện tốt
năm biến số marketing trong thu hút FDI để giúp các nhà hoạch định chính
sách xây dựng và thực thi kế hoạch thu hút FDI. Biến số thứ nhất là sản phẩm,
khi nói đến vấn đề thu hút FDI thì cần hiểu sản phẩm không phải là bản thân
chính sách thu hút FDI mà là môi trường đầu tư, thứ hai biến số định vị liên
quan đến suy nghĩ mà chúng ta muốn khách hàng có được về sản phẩm. Địa
phương cần tìm hiểu những đánh giá của nhà đầu tư nước ngoài về môi
trường đầu tư của địa phương mình. Để việc định vị hiệu quả Địa phương cần
chủ động phân tích điểm mạnh và điểm yếu của địa phương mình so với các
địa phương khác và quyết định một con đường thực tế để cải thiện hình ảnh
đầu tư của địa phương mình trong suy nghĩ của các nhà đầu tư. Định vị phù
hợp có ý nghĩa quan trọng hơn định vị cao. Thiết lập các mục tiêu quá tham
vọng sẽ làm giảm tính khả thi khi thực hiện và tính tin cậy trong con mắt các
nhà đầu tư tiềm năng. Thứ ba là biến số khách hàng mục tiêu: Các nhà đầu tư
nước ngoài cần được phân loại theo các tiêu thức khác nhau như quốc tịch
nhà đầu tư, ngành kinh doanh, dạng công ty, chiến lược theo đuổi. Địa
phương không thể lúc nào cũng làm hài lòng các nhà đầu tư. Lợi ích của môi
trường đầu tư cần tập trung vào các nhà đầu tư mục tiêu. Thứ tư là biến số
phạm vi phân phối, trong thu hút FDI phạm vi phân phối cần được hiểu là địa

điểm và quy trình mà nhà đầu tư có thể đăng ký và triển khai dự án đầu tư tại
Địa phương, Lý thuyết marketing cho thấy chi phí của việc thu hút một khách
hàng mới thường cao hơn chi phí để cổ vũ khách hàng hiện tại lặp lại hành vi
mua. Nếu lý thuyết là đúng trong trường hợp thu hút FDI thì các doanh
nghiệp FDI đã có mặt tại địa phương có nhiều khả năng sẽ mở rộng dự án tại
địa phương và mời gọi các nhà đầu tư khác đến với địa phương. Vậy các yếu
tố nào của dịch vụ sau đầu tư sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư đến với địa phương?
Trước hết các cơ quan nhà nước cần có sự phối hợp toàn diện và sâu sắc hơn
trong việc trợ giúp, chứ không phải gây khó khăn cho các nhà đầu tư triển
khai và vận hành công việc kinh doanh như giải toả mặt bằng, thuế, thủ tục
báo nhận đầu tư, chiến lược vĩ mô hay chính sách mà quốc gia đó theo đuổi.
Tuy nhiên ở đây chúng ta tập trung vào việc giải thích ảnh hưởng của FDI lên
nước nhận đầu tư.
1.2. Tác động của FDI đến phát triển kinh tế
1.2.1. Tác động của FDI đối với các nước nhận vốn FDI
Phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở các nước về
thực chất hoạt động như chi nhánh của các công ty mẹ ở chính quốc. Việc
xây dựng các nhà máy sản xuất, chế tạo hoặc lắp ráp ở nước sở tại sẽ mở
rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, phụ tùng của công ty mẹ ở nước ngoài,
đồng thời còn là biện pháp thâm nhập thị trường hữu hiệu trách nhiệm
được hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước. Đặc biệt thị trường tiêu thụ
sản phẩm nội địa của những nước lớn như Trung Quốc, ấn Độ… có sức hấp
dẫn mạnh mẽ đối với nguồn FDI. Vì vậy FDI giúp các nước đi đầu tư mở
rộng thị trường tiêu thụ, tăng cường bành trướng sức mạnh kinh tế và vai
trò ảnh hưởng trên thế giới.
FDI giúp các công ty nước ngoài giảm chi phí sản xuất rút ngắn thời gian
thu hồi vốn đầu tư và thu lợi nhuận cao do sự phát triển không đồng đều về
trình độ phát triển sản xuất và mức sống, thu nhập… giữa các nước nên đã tạo
ra chênh lệch về điều kiện và giá cả các yếu tố đầu vào của sản xuất. Do đó,
đầu tư ra nước ngoài cho phép lợi dụng các chênh lệch này để giảm chi phí

sản xuất, tăng lợi nhuận. Do chạy theo lợi nhuận độc quyền cao, các nhà đầu
tư sẵn sàng bỏ mặc nạn nhân thất nghiệp ở các nước đang phát triển để đầu tư
ở những nước có chi phí rẻ, lợi nhuận cao và như vậy tạo công ăn việc làm
cho nước nhận đầu tư.
FDI giúp các chủ đầu tư tìm kiếm được các nguồn cung cấp nguyên liệu,
nhiên liệu ổn định phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh của
các chủ đầu tư như thăm dò khai thác dầu khí, khoáng sản, tài nguyên biển,
rừng, sản phẩm cây công nghiệp,…. Nguồn tài nguyên của các nước đang
phát triển có nhiều nhưng không có điều kiện khai thác, chế biến do thiếu vốn
công nghệ. Do đó đầu tư vào các lĩnh vực này sẽ thu được nguyên liệu thô với
giá rẻ và qua chế biến sẽ thu được lợi nhuận cao.
FDI giúp các chủ đầu tư nước ngoài đổi mới cơ cấu sản xuất, áp dụng
công nghệ mới, nâng cao năng lực cạnh tranh vì đổi mới thường xuyên công
nghệ là điều kiện sống còn trong cạnh tranh, do đó các nhà đầu tư nước ngoài
thường chuyển những máy móc, công nghệ đã lạc hậu so với chủ đầu tư thực
chất bán được máy móc cũ để thu hồi vốn nhằm đổi mới thiết bị công nghệ;
kéo dài được chu kỳ sống của sản phẩm của hãng ở những thị trường mới.
1.2.2. Tác động của FDI đến tổng cung.
Các nhà kinh tế chỉ ra khung cảnh của các quốc gia đang phát triển có
nền kinh tế bị kìm hãm do thiếu vốn, tài nguyên thiên nhiên, công nghệ lao
động có kỹ năng, chuyên môn quản lý hay ngoại tệ. Việc thiếu các yếu tố trên
như là mô hình kinh tế với những khoảng cách là "cổ chai" trong nền kinh tế
đang phát triển. Xoá bỏ hay làm giảm bớt những khoảng cách này là chìa
khoá cho những quốc gia muốn tăng trưởng kinh tế và hiện đại hoá đất nước.
Dựa trên các lý thuyết kinh tế phát triển, những nhà kinh tế học đã chỉ ra FDI
có khả năng ảnh hưởng tích cực tới tăng trưởng kinh kế của một nước đang
phát triển thông qua các kênh sau:
Đầu tiên, FDI có thể góp phần tạo lập vốn cho nước nhận đầu tư thông
qua dòng vốn đầu tư vào trong nước, và nó còn đóng góp thêm vào tiết kiệm
nội địa. Theo công thức tiết kiệm bằng đầu tư, FDI làm tăng khả năng đầu tư

của nước mà dòng FDI chảy vào. Hơn nữa, FDI có thể mang lại những máy
móc, thiết bị công nghệ mới,đó là những hàng hoá mà nước nhận đầu tư chưa
có khả năng tự sản xuất.
Tuy nhiên, mối quan hệ giữa FDI và đầu tư nội địa là không xác định
được. Như Arekoug (1976) nhận định FDI có thể kích thích hoặc chiếm chỗ
những nhà đầu tư bản địa. Nếu FDI cải thiện được cơ sở hạ tầng nước nhận
đầu tư, tạo ra điều kiện và cơ hội đầu tư tốt thì nó có xu hướng xúc tiến đầu tư
nội địa. Hơn thế nữa, sự gia tăng tư bản nước ngoài giảm áp lực trên tỷ lệ trao
đổi đưa lại sự khuyến khích cho đầu tư nội địa. Dù vậy, FDI cũng không thể
thay thế đầu tư bản địa ở nước nhận đầu tư. Khi FDI được đưa vào trong
nước, các nhà đầu tư nước ngoài có thể cạnh tranh với nhà đầu tư bản địa
nhằm vào việc sử dụng nguồn lực khan hiếm như giấy phép nhập khẩu lao
động có kỹ năng… và do vậy, nguồn cung của những nguồn lực khan hiếm
này bị giảm đi với các nhà đầu tư bản địa. Mặt khác, nếu những nhà đầu tư
nước ngoài này có xu hướng bán sản phẩm của họ tại thị trường nội địa, đạt
thị phần cao thì sẽ dẫn đến việc các hãng địa phương bị loại bỏ ngay trên sân
nhà, nhà đầu tư có khả năng loại bỏ cơ hội đầu tư của nhà đầu tư địa phương
dựa trên lợi thế công nghệ và quyền lực thị trường của mình.
FDI có thể xúc tiến sản xuất tại khu vực nội địa nước nhận đầu tư thông
qua chuyển giao công nghệ, đào tạo lao động địa phương về quản lý và kỹ
thuật. Rất nhiều nhà kinh tế đồng ý rằng FDI đem lại sự phát triển công nghệ,
chuyển giao và truyền bá công nghệ, góp phần quan trọng trong nền kinh tế
nước nhận đầu tư. Và trong các hình thức thì liên doanh là hình thức thuận
tiện cho việc chuyển giao và truyền bá công nghệ.
Thêm vào đó, thông qua ảnh hưởng của liên kết trước, hãng đầu tư nước
ngoài cung cấp thiết bị, máy móc và các sản phẩm trung gian cho hãng nội
địa. Khi có sự sẵn sàng của đầu vào, việc sản xuất của hãng nội địa có thể
được khuyến khích. Hơn nữa, những sản phẩm sản xuất bởi FIEs (các doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài) có thể thay thế sản phẩm nhập khẩu, giúp
nước nhận đầu tư giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu, từ đó, giảm thâm hụt cán

cân thanh toán.
Cuối cùng, FIEs cũng góp phần vào thu nhập thuế của chính phủ nước
nhận đầu tư. Tuy nhiên, đóng góp ròng còn phụ thuộc vào thu nhập thuế được
trả bởi FIEs có lớn hơn những chi phí mà nước nhận đầu tư phải bỏ ra cho
việc thiết lập và cải thiện cơ sở hạ tầng thu hút FDI.
1.2.3. Tác động của FDI đến tổng cầu.
Trên thực tế, tăng trưởng kinh tế một số nước không chỉ dựa trên khả
năng sản xuất mà còn phụ thuộc vào khả năng sản xuất được sử dụng, cùng
với độ mạnh của cầu (Sundrum, 1990). Sự tăng lên trong bất cứ thành phần
nào của tổng cầu sẽ dẫn đến sự tăng lên của GDP và tỷ lệ thu nhập. FDI có
khả năng góp phần vào tăng trưởng kinh tế của nước nhận đầu tư thông qua
ảnh hưởng tích cực tới tổng cầu.
Sau cầu đầu tư ban đầu, cầu đầu tư kế tiếp - bởi các FIEs - cho đầu
vào của sản phẩm cũng rất quan trọng. Khi các FIEs tạo đầu tư trực tiếp và
thiết lập nên sản xuất ở nước nhận đầu tư, họ cần thuê lao động địa phương
và người quản lý, trả lương và thưởng cho các lao động này. Như vậy, các
nhà đầu tư nước ngoài đã tạo ra cầu lao động giúp làm giảm tỷ lệ thất
nghiệp nước nhận đầu tư. Nó cung cấp không chỉ thu nhập cho người lao
động mà cả tiết kiệm cho nước nhận đầu tư, cải thiện năng suất lao động
của khu vực truyền thống.
Tác động quan trọng khác về cầu của FDI là ảnh hưởng liên kết sau khi
vào khu vực nội địa của nước nhận đầu tư. Thông qua việc mua nguyên liệu
sản phẩm trung gian do địa phương làm, FIEs có thể tạo cầu cho những sản
phẩm này. Như vậy, cung nội địa sẽ được khuyến khích để tạo ra nhiều đầu ra
hơn, cung cấp cho cầu của FIEs.
Hơn nữa, FDI đặc biệt hướng xuất khẩu, xúc tiến cán cân xuất khẩu của
nước nhận đầu tư. Tận dụng lợi thế lao động rẻ, trẻ ở các nước này, cùng với
những kênh và chuyên môn của mình, FIEs hướng tới xúc tiến xuất khẩu cho
các hãng nội địa bằng việc sử dụng nguyên liệu và trung gian đầu vào của địa
phương. Xuất khẩu mở rộng đưa ra một số chỉ số quan trọng cho nền kinh tế

cạnh tranh, trực tiếp khuyến khích tăng trưởng kinh tế và cải thiện hiệu quả
công nghiệp của nước nhận đầu tư.
Hiện nay, có hai trường phái giữa người làm kinh tế và người làm chính
sách về vai trò của FDI ở nước nhận đầu tư. Cách nhìn thứ nhất như là động
lực cho nước chủ nhà, coi FDI có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế.
Cách nhìn nhận khác thì FDI là công cụ phá huỷ quốc tế bởi MNCs (các công
ty đa quốc gia). Mà đầu tư của chúng vào các bước đang phát triển như sự dẫn
dắt nền kinh tế phụ thuộc, huỷ hoại kinh tế của nước nhận đầu tư. Ví dụ cụ
thể, chúng ta không thể phủ nhận vai trò to lớn của FDI đối với tốc độ phát
triển mạnh mẽ của các nước NIEs (Hongkong, Đài Loan, Singapore và Nam
Triều Tiên), tuy nhiên tác động tích cực đó lại không xuất hiện ở Mỹ Latinh
và Châu Phi
1.2.4 FDI là một trong những nguồn vốn quan trọng để bù đắp sự thiếu
hụt vốn đầu tư, góp phần tạo ra động lực cho tăng trưởng và phát triển.
Lịch sử kinh tế thế giới đã chứng minh rằng, muốn thoát khỏi đói nghèo,
muốn thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển thì không còn cách nào
khác là phải đầu tư phát triển kinh tế. Tuy nhiên, các nước đang phát triển lại
vấp phải một vấn đề là thiếu vốn đầu tư do tích luỹ nội đại còn thấp, tổng đầu
tư toàn xã hội không đáng kể. Do đó để tạo đà kích thích tăng trưởng các
nước đang phát triển cần có nguồn vốn từ bên ngoài, vì vậy nguồn vốn FDI
trở thành nhân tố có vai trò hết sức quan trọng.
FDI vào các nước đang phát triển sẽ tạo tác động tích cực đối với việc
huy động các nguồn vốn khác như ODA, vốn đầu tư trong nước… và từ đó
kích thích tăng trưởng kinh tế, dần tạo nên một hình ảnh đáng tin cậy về nước
này trong các tổ chức và cá nhân nước ngoài. Chính lòng tin ấy sẽ tác động
trở lại, góp phần đẩy nhanh tốc độ thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào các
nước đang phát triển.
1.2.5 FDI góp phần phát triển nguồn nhân lực, giúp giải quyết lao
động dư thừa hiện tại. Hơn thế nữa, FDI còn giúp các nước đang phát
triển tiếp thu được những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại, từ đó

phát triển chất lượng nguồn nhân lực theo hướng tiếp cận kinh tế tri thức.
Cần phải thấy rằng, cùng với các dự án FDI là các xí nghiệp liên doanh,
Công ty 100% vốn nước ngoài. Được thành lập, qua đó đã thu hút rất nhiều
lao động trực tiếp và gián tiếp, góp phần làm giảm tỷ lệ thất nghiệp cho nước
nhận đầu tư. Chỉ ở Lào, tính đến hết năm 2008, các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài đã thu hút được khoảng hơn 1.130 ngàn lao động, ngoài ra FDI
còn tạo ra hàng chục vạn lao động gián tiếp trong lĩnh vực xây dựng và các
lĩnh vực khác.
FDI còn mang lại cho các nước tiếp nhận đầu tư những quy trình sản
xuất, chuyển giao kỹ thuật, bản quyền phát minh, kinh nghiệm quản lý cho
nước chủ nhà, góp phần nâng cao và phát triển lực lượng sản xuất, cơ cấu lại
nền kinh tế. Bên cạnh đó, những công nhân và cán bộ làm việc trong các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vốn đã có một trình độ tương đối cao
so với mặt bằng chung, nay lại càng có cơ hội học hỏi do được tiếp cận với
khoa học kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Dưới sự quản lý chặt chẽ và mức độ
đòi hỏi cao của phía nước ngoài, các chuyên gia nước chủ nhà sẽ nhanh chóng
tiếp cận được với những phương pháp quản lý hiện đại, từ đó cải thiện cách
thức tổ chức điều hành sản xuất, sáng tạo hơn, hiệu quả hơn, góp phần nâng
cao năng lực sản xuất của đất nước.
1.2.6 Việc thu hút và sử dụng vốn FDI góp phần chuyển dịch cơ cấu
kinh tế của các nước đang phát triển theo hướng công nghiệp hoá và hiện
đại hoá, thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển phù hợp với xu
hướng chung của phân công lao động quốc tế.
Trong điều kiện kinh tế mở, các quan hệ kinh tế quốc tế tạo ra động lực
và điều kiện cho sự dịch chuyển nhanh cơ cấu kinh tế của các nước. Trong đó,
FDI là một động lực mạnh mẽ, tác động to lớn đến sự dịch chuyển cơ cấu
kinh tế theo hình thức: chuyển dịch cơ cấu ngành và chuyển dịch cơ cấu trong
nội bộ ngành. Sự tập trung đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài vào những
ngành nghề địa phương có tỷ suất lợi nhuận cao sẽ góp phần làm phát huy nội
lực của các ngành và lĩnh vực đó, đồng thời kéo theo sự phát triển của một số

vùng lân cận và ngành nghề có liên quan như các ngành bổ trợ đầu vào, các
ngành liên quan đến tiêu thụ đầu ra… Khi sự đầu tư vào các lĩnh vực và
ngành này trở nên bão hoà, các nhà đầu tư sẽ chuyển sang ngành nghề và địa
phương khác theo định hướng của Chính phủ thông qua một số ưu đãi đầu tư,
như vậy đã tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và cơ cấu vùng lãnh thổ
theo hướng tích cực.
Hoạt động FDI cũng có tác động lớn tới cơ cấu xuất nhập khẩu của các
nước đang phát triển. Mặc dù giai đoạn đầu triển khai, FDI thường làm tăng
nhập khẩu vì phải nhập máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu để xây dựng cơ bản
dẫn đến tình trạng thâm hụt thường xuyên nhưng trong dài hạn, cán cân
thương mại sẽ phát triển theo hướng tích cực hơn do các sản phẩm của các
công ty có vốn đầu tư nước ngoài sản xuất ra sẽ đáp ứng phần nào nhu cầu nội
địa. Theo đó, khả năng xuất khẩu của các nước này cũng được cải thiện rõ rệt.
1.3. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng tới việc thu hút nguồn vốn FDI
Dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào các quốc gia khác nhau
thì không bằng nhau, và trong một quốc gia, các vùng kinh tế khác nhau thì
khả năng thu hút và sử dụng vốn FDI cũng rất khác nhau. Việc lượng vốn FDI
vào một vùng kinh tế của một quốc gia cao hay thấp phụ thuộc rất nhiều yếu
tố như: khuynh hướng chu chuyển dòng vốn FDI quốc tế; sự ổn định của môi
trường vĩ mô; chiến lược, quy hoạch, kế hoạch thu hút và sử dụng vốn FDI
của quốc gia và của địa phương; sự phát triển nền hành chính; hoạt động xúc
tiến đầu tư; trong đó, điều kiện tự nhiên - kinh tế - xã hội của vùng kinh tế đó
có ảnh hưởng lớn đến hoạt động thu hút và sử dụng vốn FDI của vùng.
1.3.1. Xu hướng vận động của FDI trên thế giới
Nền kinh tế thế giới ngày nay chịu tác động của rất nhiều nhân tố khác
nhai, cả nhân tố kinh tế, kỹ thuật, xã hội, chính trị và tự nhiên. Bởi vậy, sự
vận động của nó cũng diễn ra với nhiều xu hướng khác nhau, đa dạng và tiến
triển với tốc độ cao. Triển vọng kinh tế thế giới sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh
trong năm 2007, là năm thứ 5 liên tiếp tăng trưởng khá, nhờ các nền kinh tế
mới nổi tiếp tục tăng trưởng mạnh, kinh tế Liên minh châu Âu thoát khỏi tình

trạng tăng trưởng ảm đạm, kinh tế Nhật Bản vượt qua giai đoạn suy thoái,
mặc dù tăng trưởng kinh tế của Mỹ đang chậm lại. Trung Quốc sẽ tiếp tục là
nền kinh tế tăng trưởng mạnh nhất trên toàn cầu, với tốc độ tăng trưởng ở
mức hai con số. Kinh tế ấn Độ sẽ tăng tốc, theo sát Trung Quốc. Kinh tế khu
vực Mỹ La tinh sẽ vẫn tiếp tục tăng trưởng do kim ngạch xuất khẩu tăng
mạnh, nhờ môi trường kinh doanh ổn định. Bên cạnh đó tại Brazil nền kinh tế
chiếm đến 40% tổng thu nhập của khu vực Mỹ Latinh, tăng trưởng kinh tế sẽ
vẫn ở mức khiêm tốn 3,5% bởi sự ảnh hưởng của Chính phủ đối với nền kinh
tế còn quá lớn. Còn tại Châu Phi, các vấn đề chính trị ở nhiều quốc gia tại
khu vực vẫn nan giải, trong khi kinh tế tăng trưởng chậm chạp.
Tuy nhiên, còn không ít những rủi ro tiềm ẩn có thể làm thay đổi mạnh
tình hình kinh tế thế giới. Ngoài những vấn đề như khủng bố hay bạo lực ở
nhiều điểm nóng trên thế giới, có thể kể đến một số yếu tố sẽ có tác động lớn
tới tăng trưởng kinh tế thế giới không chỉ năm 2007 mà còn những năm tiếp
theo đó. Đó là dịch cúm gia cầm, sự mất cân đối thanh toán toàn cầu cũng có
thể làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế thế giới.
Mọi quốc gia đều coi trọng đánh giá cao vốn đầu tư nước ngoài, coi nó
như là chiếc "chìa khoá vàng" để phát triển và tăng trưởng. Tuy nhiên trong
khoảng hai thập kỷ trở lại đây, tình hình tài chính thế giới mất cân đối nghiêm
trọng, sự thiếu hụt vốn là vô cùng lớn, đặc biệt là các nguồn vốn dài hạn.
Theo những tính toán gần đây nhất của Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), hàng năm
thế giới thiếu khoảng 450 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp. Chính vì vậy, cuộc
chiến tranh để giành nguồn vốn giữa các quốc gia đang diễn ra ngày càng
quyết liệt, gay gắt.
Trên thực tế, luồng vốn FDI hiện nay đang phát triển vận động theo
những xu hướng chính sáu:
1.3.1.1. Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư.
Trước đây, động cơ truyền thống của FDI là chạy theo giá rẻ, tập trung
vào ngành sản xuất truyền thống thu hút nhiều lao động và khai khoáng chế
biến nông sản. Còn đối với những nước phát triển thì đầu tư vào các lĩnh vực

sản xuất vật chất là chủ yếu chiếm khoảng 70% vốn FDI.
Đến thời điểm này, các nhà đầu tư nước ngoài lại có xu hướng tìm đến
những ngành công nghiệp chất xám mũi nhọn với tỷ lệ lợi nhuận cao hơn,
chiếm hơn 50% (đặc biệt là công nghiệp điện tử). Đầu tư vào các ngành:
điện, giao thông vận tải, thuỷ lợi cũng gia tăng, do các nước đang phát
triển cam kết mạnh mẽ không quốc hữu hoá, đồng thời dành các chính sách
ưu đãi để thu hút vốn FDI vào kết cấu hạ tầng nhằm khắc phục sự hạn hẹp
về ngân sách.
Dự đoán trong thời gian tới, cùng với làn sóng toàn cầu hoá tăng, thị
trường dịch vụ càng mở rộng, việc sát nhập mua lại trong các ngành tài chính,
viễn thông, bảo hiểm, hàng không vũ trụ trở thành động lực quan trọng thúc
đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài. Theo báo cáo của hội nghị liên hiệp quốc tế
về thương mại và phát triển (UNCTAD) xu hướng phát triển công nghệ thông
tin và kinh tế mạng sẽ đẩy nhanh các khoản đầu tư. Đầu tư vào những ngành
này tuy đang chững lại nhưng đây chỉ là hiện tượng nhất thời. Trong những
năm tới, nhu cầu về mặt hàng điện - điện tử vẫn sẽ rất siêu tốc hay linh kiện vi
mạch. Có lẽ, chính cầu về hàng hoá này sẽ kích thích cầu về các mặt hàng
khác tăng theo.
1.3.1.2. Dòng vốn FDI trên thế giới sau nhiều năm vẫn chịu sự chi phối
chủ yếu của các nước phát triển.
Tổ chức thương mại và phát triển Liên hợp với (UNCTAD) đã chính
thức công bố Báo cáo về đầu tư toàn cầu 2006 - vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài (FDI) có xuất xứ từ các nước đang phát triển và đang chuyển đổi:
Những tác động đối với sự phát triển.
Theo báo cáo này, trong năm 2008, vốn FDI trên phạm vi toàn cầu đạt
916,277 tỷ USD, tăng 29% so với năm 2007 (701,755 tỷ USD), đồng vốn này
chảy vào các nước phát triển 542 tỷ USD, chiếm 59,2%; nước đang phát triển
334 tỷ USD, đạt 36,5%; số còn lại 4,3% rớt vào nhóm nước có nền kinh tế
đang chuyển đổi và đã có sự thay đổi ngôi trong hai vị trí dẫn đầu về thu hút
vốn FDI. Vương quốc Anh đã vươn lên vị trí số 1 với việc thu hút tổng cộng

164,530 tỷ USD vốn FDI trong năm 2008, tăng gấp gần 3 lần so với năm
2007 (56,214 tỷ USD), đẩy Mỹ xuống ngôi vị thứ 2 với 99,443 tỷ USD trong
năm 2008, giảm mạnh so với con số 122,377 tỷ USD của năm 2007. Trung
Quốc vẫn vững vàng ở vị trí thứ 3 khi có tới 72,406 tỷ USD vốn FDI đổ vào
đây trong năm 2008, tăng mạnh so với năm 2007 (60,630 tỷ USD). Đến hết
năm 2009, vốn FDI trên phạm vi toàn cầu đã đạt trên 1000 tỷ USD tăng đáng
kể so với năm 2008. Tuy nhiên, đại bộ phận dòng vốn FDI vẫn chủ yếu tập
trung vào các nước công nghiệp phát triển. Trong những năm 90, trung bình
khoảng 75% FDI thế giới chảy vào các nước công nghiệp phát triển và chính
các nước này cũng là các quốc gia xuất khẩu FDI hàng đầu thế giới.
Những năm gần đây, các nước Đông Á, Đông Nam Á là sự lựa chọn ưu
tiên của các nhà đầu tư. Khu vực này năm 2008 thu hút được 165 tỷ USD, đạt
18% dòng chảy của FDI thế giới. Riêng Trung Quốc đã chiếm 72 tỷ USD,
Hồng Kông 36 tỷ USD; kế đến là Singapore 20 tỷ USD, Indonesia 5 tỷ USD,
Thái Lan và Malaysia cùng đạt gần 4 tỷ USD… Lào khoảng 2 tỷ USD (tính
vốn thực hiện)
Số liệu cho thấy FDI được hình thành từ các TNC ở các nước phát triển
và đang phát triển ở mức cao; nhưng hai phần ba nguồn vốn này lại rót ngược
về những nước này. Có phải các TNC nhận ra rằng đầu tư vào các nền kinh tế
đang chuyển đổi là quá phiêu lưu, mạo hiểm?
Theo đánh giá của IMF và WB, trong khoảng 5-10năm tới, dòng FDI thế
giới vẫn chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển vì đầy
vẫn là khu vực đang được đánh giá là có nền kinh tế năng động, có tỷ lệ tích
luỹ cao, có khả năng phát triển tập trung và ứng dụng nhanh các lĩnh vực công
nghệ hiện đại nhất.
1.3.1.3. FDI vào các nước đang phát triển, đặc biệt là châu Á và các
quốc gia Trung, Đông Âu vẫn tương đối ổn định và có xu hướng gia tăng.
Như đã phân tích ở trên, trong thời gian 5-10 năm tới, FDI vẫn chủ yếu
tập trung tại các nền kinh tế phát triển song các nền kinh tế đang phát triển sẽ
nâng tỷ phần của mình lên tơi 30% lượng FDI toàn cầu, FDI vào khu vực

châu á - Thái Bình Dương có thể tăng tới 107,7 tỷ USD vào năm 2006.
Các nước và lãnh thổ Châu Á như Hồng Kông, Thái Lan, Singapore và
Hàn Quốc dù vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có giảm trong hai năm qua
những vẫn nằm trong số 20 nền kinh tế thu hút được nhiều FDI nhất. FDI vào
ấn Độ chưa tăng mạnh do cơ sở hạ tầng nghèo nàn, quá trình luồng vốn đầu tư
trên thế giới giảm liên tục từ 1.400 tỷ USD (2003) xuống còn 576 tỷ USD
(2005) và 560 tỷ USD (2006), thu hút đầu tư của ASEAN tăng từ 20,56 tỷ
USD (2005) lên 25,6 tỷ USD (2006) và đạt mức kỷ lục 38,1 tỷ USD năm
2008, 45 tỷ USD năm 2009, cho thấy ASEAN tiếp tục là địa điểm thu hút các
nhà đầu tư mặc dù vẫn còn có nững bất ổn trong khu vực như khủng bố quốc
tế và sự bùng phát của dịch cúm gia cầm ,cúm H1N1
Đáng kể nhất là Trung Quốc - Thành viên WTO đông dân nhất thế giới
trong bối cảnh FDI vào khu vực ngừng trệ đã trở thành điểm sáng thu hút FDI
số một khu vực và trên thế giới.
Năm 2008 cũng là một năm bội thu đối với lĩnh vực thu hút đầu tư nước
ngoài của Trung Quốc. Bộ thương mại Trung Quốc cho biết lượng vốn FDI
vào nước này trong năm 2008 đã đạt 63 tỷ USD, tăng 5% so với năm 2007.
Đây cũng là năm thứ 15 liên tiếp nước này dẫn đầu trong số các nền kinh tế
đang phát triển trong việc thu hút vốn FDI đã tạo ra "Hội chứng Trung Quốc"
về đầu tư khi các nhà đầu tư tìm thấy ở nước này các cơ hội kinh doanh đầy
triển vọng nhờ một thị trường nội địa rộng lớn và khả năng xuất khẩu mạnh
mẽ sau khi gia nhập WTO. Tuy nhiên, đối với một số nước, Trung Quốc chưa
phải là một thị trường đầu tư hấp dẫn lâu dài. Tổ chức Heritage Foundation và
Wall Street Journal khi đánh giá chỉ số mở cửa kinh tế đã xếp Trung Quốc
đứng thứ 127 trong số 156 quốc gia.được xếp hạng. Dự kiến trong giai đoạn
2006-2010, trung bình mỗi năm Trung Quốc sẽ thu hút được khoảng 100 tỷ
USD vốn FDI.
Còn các nước khu vực Trung Quốc và Đông Âu, trong năm 2006 đã thu
hút được khoảng 41 tỷ USD, gần bằng với lượng FDI đã thu hút được trong
năm 2005. Khu vực này ít bị suy giảm do chi phí sản xuất thấp và quá trình

cải tổ cơ cấu và tư nhân hoá được tiến hành trong thời gian qua đã đêm lại kết
quả tốt. FDI và Anbani, Bungari, Cộng hoà Séc, Latvia, Litthuania và
Slôvenia tăng khá cao, nhất là Cộng hoà Séc hiện đang đứng đầu danh sách
thu hút FDI của khu vực, đạt 9 tỷ USD so với 5 tỷ USD năm 2005. Trong tình
hình FDI thế giới suy giảm mạnh, việc FDI vào các nước Trung và Đông Âu
giữ được tương đối ổn định. Điều này cho thấy đây là một khu vực có nhiều
triển vọng thu hút FDI. UNCTAD dự đoán nếu kinh tế thế giới phục hồi theo
đúng dự kiến, thì trong 3-5 năm tới, dòng vốn FDI vào khu vực này sẽ được
cải thiện đáng kể, trong đó các nước Ba Lan, Hungari, Cộng hoà Séc, Nga và
Slôvakia sẽ chiếm tỷ phần đáng kể trong tổng lượng vốn FDI vào khu vực
Nhìn chung, các nước đang phát triển tụt hậu khá cao so với các nước
tiên tiến về quy mô đầu tư quốc tế. Phần lớn vốn đầu tư xuyên biên giới vào
các nước này được thực hiện trong khuôn khổ các khối liên kết. Thu kém các
nước phát triển về trình độ phát triển kinh tế, mức ổn định kinh tế xã hội và
các thông số khác, các nước đang phát triển đang nỗ lực thu hút vốn FDI bằng
cách đưa ra những ưu đãi đối với các nhà đầu tư, thực thi các biện pháp của
chính sách công nghiệp liên quan đến kích thích hợp tác giữa các công ty
trong và ngoài nước, khuyến khích hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài Tuy nhiên, trong những điều kiện hiện nay của xu
hướng tự do hoá đầu tư và vai trò điều tiết FDI thế giới, các biện pháp này có
thể sẽ bị hạn chế bởi các hiệp định đầu tư quốc tế. Ví dụ hiệp định về các biện
pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMS) được ký kết giữa các thành
viên của WTO cấm áp dụng các biện pháp trong chính sách công nghiệp quốc
gia đối với các nước nhà đầu tư nước ngoài.
1.3.2. Chiến lược đầu tư phát triển của các TNCS
Từ đầu thập kỷ 80 đến nay các TNCs đã dần trở thành lực lượng chủ
yếu, nòng cốt thúc đẩy quá trình toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế thế
giới thông qua tác động to lớn của các TNCs trong việc phân bổ nguồn lực
của nền kinh tế thế giới, thúc đẩy quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế ở các
quốc gia, chi phối lưu chuyển hàng hoá của thương mại quốc tế.

Ngày nay, các tập đoàn xuyên quốc gia TNCs với khoảng 63.000 công
ty mẹ và 690.000 chi nhánh ở nước ngoài có mặt hầu hết các quốc gia và
lĩnh vực kinh tế - đã trở thành lực lượng then chốt của nền kinh tế thế giới,
chi phối hoạt động thương mại quốc tế. Các TNCs có khả năng huy động
các nguồn lực sản xuất ở nhiều nước để sử dụng tối đa phục vụ cho lợi ích
của mình. Bởi vậy các công ty này có thể được coi là động lực cho sự phát
triển của nền sản xuất quốc tế. Hoạt động chính của các TNCs là tăng
cường đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, một hình thức cắm rễ sâu và chi phối
các nền công nghiệp địa phương. Về phương diện ngành, chiến lược của
các TNCs chủ yếu tập trung vào các ngành mũi nhọn, như điện tử, hàng
không, công nghệ thông tin.

×