Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Tính cộng đồng thể hiện qua việc sử dụng thổ ngữ (tiếng địa phương) của người dân xã quảng cư thị xã Sầm Sơn, Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.86 KB, 31 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TÂM LÝ

BÁO CÁO THỰC TẬP
Đề tài:

Tính cộng đồng thể hiện qua việc sử dụng thổ ngữ (tiếng địa
phương) của người dân xã Quảng Cư thị xã Sầm Sơn – Thanh Hóa
Giáo viên hướng dẫn: Th.S Trần Thu Hương
Sinh viên: Nguyễn Thanh Tùng
Lớp: K48-TLH
Hà Nội - 2006
PHẦN MỞ ĐẨU
1. Lý do chọn đề tài
Nhắc đến luỹ tre làng, cây đa, mái đình… chúng ta liên tưởng ngay
đến toàn cảnh của làng quê Việt Nam mà chủ nhân của những ngôi làng
đó là những người nông dân, họ là chủ thể của những giá trị vật chất và
tinh thần. Nói đến người nông dân là nói đến sự cần cu trong lao động, rất
đỗi mộc mạc và chất phát, ở họ luôn chứa đựng những tình cảm sâu nặng
với quê hương, đất nước. Chủ đề về tâm lý của những người nông dân là
chủ đề hết sức hấp dẫn và vô cùng quan trọng nhưng cũng vô cùng phức
tạp. Vì vậy, nghiên cứu về tâm lý của những người nông dân là vấn đề cần
được quan tâm và chú trọng.
Tâm lý học cộng đồng làng với những đặc điểm đặc trưng của nó
như: “tính cộng đồng được thể hiện qua quan hệ dòng họ và quan hệ làng
xóm láng giềng”, “tính cộng đồng thể hiện qua việc tuân thủ và giữ gìn
các phong tục tập quán biểu hiện trong lễ hội làng. Nói đến tính cộng
đồng, chúng ta không thể không đề cập đến “tính cộng đồng thể hiện qua
việc sử dụng thổ ngữ”. Thổ ngữ chính là một trong những nét đặc trưng
của từng làng, là một yếu tố trong hệ thống những yếu tố làm nên văn hoá


làng. Thổ ngữ đóng vai trò tích cực trong việc liên kết những người cùng
làng và thổ ngữ còn là phương tiện rất quan trọng giúp người dân trong
làng có thể giao lưu và trao đổi kinh nghiệm trong lao động sản xuất cũng
như giao tiếp trong văn hoá làng. Làng ra đời sớm bao nhiêu thì giọng nói
của làng đặc trưng bấy nhiêu. Quan điểm lịch sử đã khẳng định rằng:
“Tâm lý của người là sự phản ánh những điều kiện sống: được hình thành
trong những điều kiện sống kinh tế - xã hội nhất định, cho nên những điều
kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì tâm lý của con người cũng thay đổi
theo”.
Từ lâu, vấn đề xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam “tiên
tiến đậm đà bản sắc dân tộc” là vấn đề của toàn Đảng, toàn dân, Bởi lẽ
tính cộng đồng làng được hình thành và thể hiện trong văn hoá làng nên
2
tất nhiên sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới việc giữ gìn những giá trị văn hoá
của dân tộc ta. Vì vậy, khi nghiên cứu về chủ đề “tính cộng đồng thể hiện
qua việc sử dụng thổ ngữ” của người dân xã Quảng Cư- thị xã Sầm Sơn,
Thanh Hoá là việc cần phải nghiên cứu. Đề tài này không chỉ có ý nghĩa
về mặt lý luận mà còn góp phần bổ sung, hoàn chỉnh trong hệ thống
nghiên cứu về tính cộng đồng làng mà chúng tôi nghiên cứu nhằm tìm ra
bản chất, sự thực khi thực tiễn đất nước đang bước vào giai đoạn chín
muồi của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nghiên cứu đề tài: “Tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư -
Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá, thể hiện qua việc sử dụng thổ ngữ” chúng
tôi nhằm thực hiện các mục đích sau:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận - thực tiễn nhằm chỉ ra phương diện
tâm lý cộng đồng của nông dân qua việc sử dụng thổ ngữ của người xã
Quảng Cư - Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá.
Từ đó đề xuất, khuyến nghị nhằm phát huy những giá trị văn hoá mà
chúng tôi cho là phù hợp với văn hoá chuẩn mà Đảng và Nhà nước quan

tâm đề sướng, đồng thời hạn chế sẽ được làm rõ trong tính cộng đồng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Thông qua việc hệ thống các tài liệu, xây dựng cơ sở lý luận về vấn
đề “tính cộng đồng thể hiện qua việc sử dụng thổ ngữ”.
Điều tra thực trạng tính cộng đồng của người dân sống tại xã Quảng
Cư - Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá qua việc sử dụng thổ ngữ.
Đề xuất một số kiến nghị và cách tiếp cận, đánh giá “tính cộng đồng
và định hướng sử dụng có hiệu quả các đặc điểm của tính cộng đồng”.
4. Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu “Tính cộng đồng của người dân sống tại xã Quảng Cư -
Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá”.
3
5. Khách thể nghiên cứu:
Nghiên cứu dưới 100 người dân từ 15 tuổi trở lên sống tại xã Quảng
Cư - Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá.
6. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư - Thị xã
Sầm Sơn - Thanh Hoá qua việc sử dụng thổ ngữ.
Khách thể nghiên cứu được giới hạn ở dưới 100 người dân sống tại
xã Quảng Cư - Thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá.
7. Giả thuyết nghiên cứu:
Tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư thể hiện khá rõ nét.
Tuy nhiên trong hoàn cảnh khác nhau thì mức độ thể hiện của tính cộng
đồng là không giống nhau.
Trong môi trường sinh sống và học tập và làm việc thì biểu hiện của
tính cộng đồng qua việc sử dụng thổ ngữ là khác nhau.
8. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu các tài liệu tâm lý học,
văn hoá học, lịch sử học nhằm xây dựng bộ khái niệm công cụ của đề tài,
chỉ ra những đặc điểm của làng xã Việt Nam truyền thống qua việc sử

dụng thổ ngữ trong đời sống thường nhật.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Thiết kế bảng hỏi nhằm mục
đích nghiên cứu tìm hiểu tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư. Thị
xã Sầm Sơn - Thanh Hoá. Sự biểu hiện cụ thể và mức độ biểu hiện tính
cộng đồng của những người dân trên yêú tố thổ ngữ.
Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn sâu kết hợp với bảng hỏi để tìm
hiểu kỹ hơn tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư.
Phương pháp thống kê toán học: Sử dụng phần mềm SPSS 11.5 For
Windows để xử lý số liệu thu được, từ đó đưa ra các đánh giá, nhận xét
tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư.
4
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1. Vài nét sơ lược về lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Tính cộng đồng là một vấn đề từ lâu đã được nghiên cứu không chỉ
ở lĩnh vực tâm lý mà còn là đối tượng của rất nhiều ngành khoa học nhân
văn khác. Nhiều kết quả nghiên cứu đã cho thấy tính cộng đồng và tính
cá nhân là cặp phạm trù luôn tồn tại trong mỗi cá thể, chỉ có điều là tuỳ
thuộc vào mỗi nền văn hoá, hoàn cảnh cụ thể khác nhau mà biểu hiện của
mặt nào là nổi trội hơn. Chính vì vậy, nghiên cứu tính cộng đồng thường
đi liền với tính cá nhân. Đây có thể coi là hai mặt của vấn đề. Tuy nhiên,
trong phạm vi đề tài này chúng tôi chỉ đềcập đến tính cộng đồng qua việc
sử dụng thổ ngữ (tiếng địa phương).
1.1. Nghiên cứu tính cộng đồng ở nước ngoài.
Ngành khoa học đi đầu trong việc nghiên cứu tính cộng đồng thì
phải kể đến khoa học triết học “khoa học của mọi khoa học. Ngay từ thế
kỷ V (trước công nguyên) thì Platon là Socrates đã phản đối quan điểm
ngụy biện Hylạp cho rằng: “Cá nhân có thể quyết định xem mình cần ứng
xử như thế nào không cần phải tuân theo chuẩn mực của nhóm”. Platon và
Socrates cho là “không có các chuẩn mực thế nào là tốt và thích hợp”. Sự
tranh cãi là nền móng cho sự ra đời của các nghiên cứu về tính cá nhân và

tính cộng đồng. Một trong những người ủng hộ cho tập thể luận là
Jócquos Kousean và J.Cam bell.
Cùng với triết học, nhân học cũng xem xét tính cộng đồng cùng với
tính cá nhân khi nghiên cứu các bộ lạc, các tộc người sống ở các vùng văn
hoá, địa lý khác nhau. Họ cho rằng: “ở phương đông tính cộng đồng
thường thể hiện trội hơn tính cá nhân và ở người Phương Tây thì ngược
lại. Người sống trong xã hội nông nghiệp thì thường gắn kết với nhau chặt
chẽ, tôn trọng truyền thống tổ tiên, ưu tiên cho gia đình và cộng đồng,
kìm hãm cái tôi phát triển.
5
Dưới góc độ tâm lý học cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu
tính chính sách ở các cấp độ khác nhau.
-Tâm lý học Xô Viết.
Từ lâu tâm lý học Xô Viết đã nghiên cứu rất nhiều về tính cộng
đồng và tính cá nhân.
Thoe V.h.Chontsicos, người Nga có tính cộng đồng khá cao, có
nguồn gốc từ thế kỷ IX cho đến nay. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt
(mùa đông lạnh kéo dài, nhiều đầm lầy, đất có độ axit cao…) vì tình trạng
phân tán, biệt lập của các làng ở vùng nông thôn đã làm cho người Nga
liên tục phải đối phó với những khó khăn và rủi ro. Cuộc sống khó khăn
kéo dài đã làm cho nhóm có ưu thế hơn cá nhân. Vì sự sinh tồn của cả
cộng đồng. Biểu hiện của tính cộng đồng đầu tiên là dòng tộc, thổ ngữ…”
Sau đó đến cộng đồng nông thôn.
Sau này, khi cách mạng tháng 10 Nga thành công, nước Nga Xô
Viết ra đời, tâm lý học xô Viết thường đề cập đến tính cộng đồng trong
khuôn khổ của nghiên cứu về lối sống mà cụ thể là những sinh hoạt trong
xã hội chủ nghĩa. Theo đó xã hội chủ nghĩa được nói đến là lối sống dựa
trên nền tảng của chủ nghĩa tập thể, định hướng tập thể trong đó con
người hành động vì lợi ích tập thể,cộng đồng.
Các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng: Trong hơn một thập kỷ qua,

kể từ khi Liên Xô bị sụp đổ, nước Nga đã có nhiều thay đổi mang tính
bước ngoặt, định hướng giá trị và hành vi trong mối quan hệ giữa cá nhân
và cộng đồng của người Nga đã thay đổi căn bản. Nghiên cứu về “tính ích
kỷ” trong nhân các của người Nga đã được Muzôđưbaev tiến hànhvào
năm 2000 cho thấy: có thể hiện rõ hơn ở những người trẻ tuổi, những
người làm dịch vụ trong khu vực kinh tế tư nhân, những người quản lý và
sinh viên. Thể hiện rõ nhất là trong nhóm thanh niên Nga dưới 30 tuổi.
Theo ĐônXốp, khi nghiên cứu cá nhân và tập thể thì đáng lưu ý nhất
là nghiên cứu tính cố kết, mà tính cố kết trên ba phương diện. Một là:
6
hành vi hợp tác, sự tương đồng về định hướng giá trị và cách nhìn nhận và
cuối cùng là lòng tin đối với các thành viên khác.
Ngoài ra, các nhà khoa học phương Tây và phương Đông đã tiến
hành nghiên cứu và có những quan điểm khác nhau nhưng nội dung của
những quan điểm ấy mang tính tương đối đồng nghĩa. Theo Tai-Hocha
(người Hàn Quốc) khi nghiên cứu các thay đổi và định hướng giá trị, hành
vi của người Hàn Quốc trong một thế kỷ (1870 - 1970) đã đi đến kết luận
rằng: Trong tính cộng đồng ở một số khía cạnh có yếu đi và sự thay đổi
diễn ra theo xu hướng cá nhân, nhưng tính cộng đồng trong xã hội Hàn
Quốc khá nổi trội. Các nghiên cứu của Kim và đồng nghiệp cũng cho thấy
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Nhật Bản đã làm cho mối quan
hệ giao tiếp qua lại với làng xóm láng giềng của người Nhật ngày càng
lạnh nhạt, lỏng lẻo và thưa thớt, nhưng nhìn chung nó không làm thay đổi
một cách đáng kể các giá trị văn hoá cơ bản vốn nhấn mạnh với mối quan
hệ con người.
Tóm lại, vấn đề tính cộng đồng được rất nhiều nhà khoa học trên thế
giới quan tâm và nghiên cứu. Các nghiên cứu lúc đầu thường tập trung nói
về sự khác biệt hay tương phản của tính cá nhân và tính cộng đồng ở văn
hoá phương Tây và văn hoá phương Đông phần lớn các nghiên cứu đều
cho rằng: Tính cá nhân và tính cộng đồng là hai khái niệm mang tính đối

lập và loại trừ nhau - đã có tính cộng đồng thì không tồn tại, tính cá nhân
và ngược lại… Nhờ các nhà nghiên cứu ấn Độ Hàn Quốc, Nhật Bản… đã
nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng: cả tính cá nhân và tính cộng đồng đều có
thể tồn tại ở một nước. ở một cá nhân tuy chúng mang tính lưỡng cực,
tương phản nhưng không loại trừ nhau với tính cộng đồng. Các nghiên
cứu đã đóng góp rất nhiều cho sự hiểu biết về các đặc điểm của tính cộng
đồng và tính cá nhân.
7
1.2. Nghiên cứu tính cộng đồng ở Việt Nam.
Việt Nam là nước châu á, lại là một dân tộc có nên nông nghiệp lúa
nước, hơn nữa chúng ta có lịch sử chống giặc ngoại xâm lâu dài. Tất cả
những yếu tố đó đã góp phần làm nên con người Việt mang tinh thần đoàn
kết, tương trợ nhau khá rõ nét, và tính cộng đồng có thể xem là một nét
tính cách của người dân Việt Nam, đặc biệt là người nông dân. Chính vì
vậy, việc nghiên cứu về vấn đề này là cần thiết. Tuy nhiên phải thừa nhận
rằng, hiện nay có rất ít nhà nghiên cứu tâm lý học Việt Nam nói riêng và
các nhà tâm lý học nước ngoài nói chung nghiên cứu về thái độ hay tình
cảm của người Việt Nam đối với cộng đồng mà chủ yếu là tính cộng
đồng vẫn chỉ là những phần nhỏ lẻ nằm trong các nghiên cứu của dân tộc
học, sử học hay văn hoá học.
Các nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực, các ngành khoa học chuyên ngành
đều đưa đến nhận định: “người Việt Nam có tính cộng đồng chính tính
cộng đồng là nguyên nhân của hàng loạt cái hay cũng như cái dở trong
tính cách của người Việt”.
Nhà tâm lý học Đỗ Long đã chú ý nghiên cứu tính cộng đồng ở Việt
Nam. Trong những công trình nghiên cứu của ông về tính cộng đồng (và
tính cá nhân) của người Việt Nam. Tác giả và các cộng sự đã khẳng định
rằng: Người Việt Nam có tính cộng động và tinh thần cộng đồng là một
đặc điểm nổi bật trong tầm thức của người Việt Nam. Ông chỉ ra tính
cộng đồng qua hàng loạt các yếu tố của văn hoá làng như: Hội làng,

hương ước, quan hệ dòng họ và yếu tố thổ ngữ. Tính cộng đồng cũng
được ông nhấn mạnh khi nghiên cứu trên đối tượng cụ thể là người nông
dân. Tác giả khẳng định rằng: tinh thần cộng đồng của người nông dân
Việt Nam chính là một trong những yếu tố làm nên sức mạnh chiến thắng
cả thiên tai, cả địch hoạ.
Phan Thị Mai Hương nghiên cứu đề tài “tính cộng đồng, tính cá
nhân và cái tôi của người Việt Nam ngày nay” trên mẫu chọn là sinh viên
và kết quả cho thấy “Mạc dù tính cộng đồng trong thanh niên vẫn nổi trội,
8
nhưng cái “tôi của thanh niên càng thể hiện khá cao, khá rõ nét. Điều đó
cũng phù hợp với kết quả nghiên cứu mà nhiều tác giả đã tiến hành trong
nhiều năm trước đây.
Ngoài ra tính cộng đồng và tính cá nhân cũng được. Lê Văn Hảo rất
quan tâm, tác giả này có nhiều tác phẩm như:
* “Xung quanh một số nghiên cứu về tính cá nhân và tính tập thể”
tạp chí Tâm lý học số 2/4/2001.
* “Khái niệm về tính cộng đồng và tính cá nhân” tạp chí tâm lý học,
số 8, tháng 8/2002.
* Một số lý thuyết về tính cộng đồng và tính cá nhân” tạp chí tâm lý
học, số 10, tháng 10/2004.
* Tính cộng đồng và tính cá nhân từ góc độ nhận thức và mô tả về
cái tôi” Tạp chí Tâm lý học, số 10, tháng 11/2004.
Tuy vậy, đăng kí phải nói đến công trình cá nhân của người dân xã
Tam Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội” của ông. Đây có thể coi là công trình lớn
và qui mô nhất, cụ thể nhất về tính cá nhân và tính cộng đồng biểu hiện
trên ba mặt nhận thức: định hướng giá trị và hành vi, khách thể nghiên
cứu là 415 người dân xã Tam Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội. Kết quả cho thấy:
tính cộng đồng tồn tại song song cùng với tính cá nhân, tính cá nhân biểu
hiện khá rõ nét, nhưng tính cộng đồng (tập thể) vẫn chiếm ưu thế hơn,
tính cá nhân của những khách thể nghiên cứu gắn với hoàn cảnh, tình

huống. Các kết quả này đồng nhất với các kết quả của các tác giả khác.
2. Khái niệm cơ bản của đề tài.
a.Khái niệm về tính cộng đồng.
Định nghĩa tính cộng đồng.
Tính cộng đồng là một đặc điểm tâm lý rất đặc trưng của con người,
tính cộng đồng xuất hiện ở mỗi cá nhân văn hoá khác nhau thì tính cộng
đồng này thể hiện ở các mức độ không giống nhau. Nó có ảnh hưởng rất
lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội.
9
Tác giả Trần Ngọc Thâm (21.191) định nghĩa: “Tính cộng đồng là
sự liên kết các thành viên trong làng lại với nhau, mỗi người đều hướng
tới những người khác - nó là đặc trưng dương tính, hướng ngoại”. Theo
định nghĩa này, mỗi người trong cộng đồng đều hướng tới những người
khác. Đó chính là một biểu hiện dẫn đến sự liên kết ở cấp độ làng.
Tác giả H.Trianchs cho rằng: “tính cộng đồng tập thể là xu hướng
của con người, nhấn mạnh (ưu tiên) cho cách nhìn nhận nhu cầu, mục đích
của nhóm nội hơn là bản thân; niềm vui làm mình hoà chung với nhóm
nội hơn là niềm tin phân biệt mình với nhóm nội; Sự sẵn sàng hợp tác với
thành viên nhóm nội; gắn bó về mặt cảm xúc với nhóm nội”. Nhìn vào
định nghĩa của H.triandis chúng ta thấy định nghĩa của ông những hạn chế
là ông quá nhấn mạnh đến tính cộng đồng trong nhóm nội, nhưng trong
một số hoàn cảnh nhất định thì nhóm ngoại cũng có thể được ưu tiên.
S.Yamaguchi khi nghiên cứu về tính cộng đồng của người Nhật Bản
cũng đưa ra định nghĩa: “Tính cộng đồng là xu hướng coi trọng các mục
đích của nhóm hơn các mục đích của cá nhân, khi các mục đích này có
mâu thuãn” theo chúng tôi thì định nghĩa này quá đơn giản, không nêu
được hội hàm của khái niệm, nó chỉ nhấn mạnh đến biểu hiện của tính
cộng đồng trong hoàn cảnh cụ thể là khi mục đích cá nhân và mục đích
của nhóm bị mâu thuẫn, chứ không bao quát được hoàn cảnh khác.
Đỗ Long cho rằng: tính cộng đồng là một đặc trưng tâm lý xã hội

của nhóm, thể hiện năng lực phối hợp, kết hợp ở sự thống nhất của các
thành viên trong hành động và làm cho các quan hệ qua lại của các hoạt
động diễn ra một cách nhịp nhàng nhất”. Theo định nghĩa này tính cộng
đồng chính là một đặc điểm tâm lý của nhóm, một cộng đồng gồm nhiều
cá thể người hợp thành. Nó là một yếu tố tạo nên sức mạnh của nhóm và
sức mạnh ấy được thể hiện qua năng lực phối hợp hành động của các cá
nhân trong nhóm. Nó không phải là phép cộng đơn thuần các đặc điểm cá
nhân, mà khi đã có tính cộng đồng thì nhóm sẽ có sức mạnh lớn hơn rất
nhiều so với sức mạnh của tất cả các thành viên gộp lại.
10
Từ quá trình tìm kiếm và phân tích các định nghĩa của các nhà
nghiên cứu chúng tôi đã rút ra được kết luận: “Tính cộng đồng là một đặc
điểm tâm lý thể hiện xu hướng đặt người khác, tập thể, cộng đồng vào vị
trí ưu tiên trong nhận thức của cá nhân”. Ưu tiên, coi trọng các giá trị
cộng đồng, tập thể hơn là định hướng vào các giá trị cá nhân, từ đó dẫn
đến hoạt động ứng xử vì tập thể cộng đồng hơn và vì cá nhân”.
3. Một số đặc trưng của làng xã Việt Nam truyền thống.
Trần Ngọc Thêm cho rằng [21] làng là một hình thức tổ chức nông
thôn theo địa bàn cư trú do nhu cầu liên kết với nhau chặt chẽ của những
người sống gần nhau ở nông thôn, nhằm đối phó với môi trường tự nhiên
và xã hội. Nó bộc lộ sự gắn bó với nhau không chỉ bằng các quan hệ máu
mủ mà cả bằng các quan hệ sản xuất của các thành viên trong làng.
Hai tác giả Đỗ Long và Trần Hiệp [12] thì cho rằng: Làng ở Việt
Nam là một đơn vị tương đối nhỏ của những cộng đồng định cư lâm -
nông nghiệp và “sự tồn tại lâu dài trong mấy nghìn năm lịch sử của làng
như một đơn vị hành chính, kinh tế, văn hoá, dân cư… cho phép nói tới
ranh giới của nó. Như vậy, có thể cho làng là một đại lượng tâm lý trong
những không gian xác định.
Có thể cho rằng, làng xã chính là một thực thể, một nhóm lớn với số
lượng người đông đảo chủ yếu là làm nghề nông, có một truyền thống văn

hoá, dân cư…cho phép nói tới ranh giới của nó. Như vậy, có thể cho làng
là một đại lượng tâm lý trong những kông gian xác định.
Có thể cho rằng, làng xã chính là một thực thể, một nhóm lớn với số
lượng người đông đảo chủ yếu là làm nghề nông, có một truyền thống văn
hoá riêng và có đầy đủ các đặc trưng tâm lý của nó. Nó có vai trò và quan
hệ trực tiếp nhất đối với mỗi người nông dân.
Do ý thức được vai trò của các mối quan hệ của những thành viên
trong làng mà người nông dân thường có lối sống ứng xử rất linh hoạt
nhằm điều hoà mối quan hệ giữa mình với một bên là dòng họ và một bên
11
là làng xóm láng giềng. Nguyên tắc ứng xử này được thể hiện trong các
câu ca dao, tục ngữ như: “bán anh em xa mua láng giềng gần”, “hàng xóm
láng giềng tối lửa, tắt đèn có nhau”, hay “Một giọt máu đào hơn ao nước
lã”, “chẳng gì cũng là máu mủ ruột già”… nội dung hàm ý của các câu ca
dao, tục ngữ ấy chẳng mâu thuẫn với nhau mà nó còn thể hiện lối ứng xử
của người Việt hết sức linh hoạt “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”.
Sống trong làng lại biết rõ về nhau qua quá trình dài sinh hoạ, nên
người Việt thường “vị tình chứ không vị lý”, “một bồ cái lý không bằng
một tí cái tình”; “có tình, có lý”… Những người sống trong cùng một làng
luôn luôn có sự hợp tác tương trợ dưới nhiều hình thức khác nhau như đổi
công, giúp đỡ nhau trong các dịp hiếu, hỷ… điều này dẫn đến một hệ quả
là người Việt có thói quen thích chia sẻ niềm vui, nỗi buồn với nhau, yếu
tố này làm nên tình cảm cộng đồng.
Phạm Minh Thảo [ 19, 145 - 146] cho rằng: trước đông người dân
sống quanh quẩn ở làng, chỉ làm ruộng là chủ yếu nên tâm thức tiểu nông
phát triển. Đó là sự an phận thủ thường, ít chất phiêu lưu, chỉ dự trữ theo
lối sống “ăn chắc, mặc bền” cuộc sống ấy có ưu điểm là “cố kết mọi
người”, nhưng nhược điểm của nó là sức ỳ rất lớn, không muốn có sự xáo
trộn, thay đổi. Cộng đồng có tính cố kết nhưng lại xét nét. Con người
trước đây sinh ra sống và chết đi đều ở làng. Còn nay “cơ sở xã hội đã có

sự thay đổi cơ bản về chất - cuộc sống ồn ảo, khẩn trương và quan niệm
về tự do cá nhân phát triển đã khiến cho trật tự trên dưới không còn có
tính bất di bất dịch như trước. Theem nữa ngày nay ở nông thôn, do cơ
chế khoán, do các phương tiện thông tin đại chúng và sự giao lưu văn hoá
thì làng xã không còn như trước nữa, vẫn còn có những tập tục mà dân
làng phải theo nhưng với cuộc sống hiện đại thì con người có nhu cầu đi
đây đi đó rồi lại về làng đã làm thay đổi bầu không khí tâm lí trong làng.
Từ đó, các quan hệ chặt chẽ liên đới giữa các cá nhân trong làng lỏng lẻo
hơn trước.
12
Tóm lại: đặc trưng nổi bật của làng xã Việt Nam truyền thống là
tính cộng đồng (tính tự trị), được hình thành và duy trì trong nhiều thế kỷ
là do cơ cấu tổ chức đặc biệt của làng xã cũng như do điều kiện tự nhiên
khắc nghiệt, do nền kinh tế nông nghiệp lúa nước đã buộc con người phải
có sự đoàn kết cao để chống lại thiên tai, bảo vệ mùa màng, chống giặc
ngoại bang bảo vệ làng mạc, đất nước nên đã tạo nên tình cảm cộng đồng
trong làng xã Việt Nam.
3.1. Dư luận làng:
là một trong những cơ chế duy trì và củng cố tính cộng đồng.
Dư luận làng có thể coi là một thành tố tâm lý của cộng đồng làng.
Nó chịu sự chi phối của các đặc điểm kinh tế, chính trị - xã hội, đạo đức,
văn hoá làng. Từ đó nó chịu sự chi phối mạnh mẽ đến hành vi của người
nông dân. Bằng sự đánh giá tốt hay xấu, khen hay chê, khích lệ hay lên
án, dư luận làng có tác động trực tiếp tới phương thức ứng xử của mọi
người dân trong làng.
Dư luận làng được hình thành do cơ cấu làng xã Việt Nam. Mỗi
làng là một thực thể khép kín, trong đó tồn tại, nhiều nhóm xã hội khác
nhau (gia đình, dòng họ, hàng xóm, hội…) với các chuẩn mực giá trị, lợi
ích, trách nhiệm là nghĩa vụ riêng. Tính khép kín và quan h chằng chịt là
điều kiện khiến cho các thành viên trong làng hiểu rõ nhau.

Bên cạnh những mẩu chuyện về mùa màng, thời tiết, thì tất cả
những sự kiện lớn nhỏ xảy ra trong làng đều trở thành nyhững mẩu
chuyện của làng, được dân làng nhỏ to bàn tán mỗi khi gặp gỡ. Người
trong làng bình phẩm từ chuyện hay hay dở trong làng, trong xom, trong
từng gia đình, cho đến hành vi của từng cá nhân trong sinh hoạt đời
thường. Những lời bàn luận, bình phẩm ấy đã tạo nên dư luận làng.
Bởi thế, người nông dân luôn “trông trước nhìn sau”, trong ứng xử,
“ăn vuông ở tròn” phòng khi người trên trông xuống, người ta trông vào
13
phòng “thiên hạ đàm tiếu”, phòng “kẻ cười người chê”, phòng “miệng đời
mỉa mai”.
Hành vi của người nôgn dân được thông qua sự thẩm định của dư
luận làng, của bà con lối xóm. Mọi cử chỉ của họ phải tuân theo ý nuốn
của những người xung quanh - bị dư luận dẫn dắt, điều khiển.
3.2. Tính cộng đồng và bầu không khí trong làng.
Làng xã Việt Nam cổ truyền với đặc trưng là khép kín đã tạo nên
bầu khong khí thanh bình, êm ả, đầm ấm. Bầu không khí tâm lý chính là
các phản ánh các mối quan hệ (quan hệ giữa các thành viên trong nhóm
với nhau, quan hệ giữa các thành viên với lãnh đạo…) trong một nhóm,
một tập thể. Mặt khác tính chất của cá mối quan hệ trong làng cũng là yếu
tố phản ánh tính cộng đồng. Vì vậy, nghiên cứu tính cộng đồng làng
không thể không xem xét đến bầu không khí tâm lý làng.
Trong cuộc sống, làng xã cổ truyền Việt Nam thì những xung đột
trong làng thường xảy ra trong sinh hoạt hằng ngày. Tuy nhiên, cách thức
tổ chức của làng xã và những sinh hoạt cộng đồng như: hội phụ nữ, hội
cựu chiến binh, hội thanh niên… đã góp phần xoa dịu những xung đột,
căng thẳng trong làng.
Mặt khác, trong sinh hoạt hằng ngày quan hệ làng xóm, láng giềng,
gia đình thông qua giao lưu bằng thổ ngữ (tiếng địa phương) cũng đã góp
phần tạo dựng tâm lý đàm ấm, cố kết của những người dân trong làng. Vì

theo người nông dân, thì khi nói tiếng địa phương họ cảm thấy gần gũi, tự
tin hơn. Mặc dù do hoàn cảnh sinh sống và học tập ở nơi khác có làm thay
đổi hành vi sử dụng ngôn ngữ địa phương, nhưng hầu hết khi họ trở về
quê hương thì họ vẫn dùng tiếng thổ ngữ để trò chuyện. Vì vậy, yếu tố thổ
ngữ đã tác động và nuôi dưỡng bầu không khí tâm lý trong làng.
Tóm lại: tính cộng đồng là tập hợp những yếu tố như: dòng họ, quan
hệ làng xóm, láng giềng, qua việc sử dụng thổ ngữ, qua việc tuân thủ và
giữ gìn phong tục tập quán của làng, lễ hội làng đã duy trì và nuôi dưỡng
14
bầu không khí tâm lý làng. Nếu bầu không khi làng tích cực thì phản ánh
tính cộng đồng cao. Mọi người quan tâm, giúp đỡ, chia sẻ với nhau.
Ngược lại, nếu bầu không khí tâm lý tiêu cực thì ở đó sự ích kỷ, cá nhân
hẹp hòi đã len lỏi và lấn át cái cộng đồng. Những yếu tố đó cũng là tiêu
chí giúp chúng ta thiết lập bảng hỏi và phân tích kết quả trong phần
nghiên cứu thực tiễn.
3.3. Mối quan hệ giữa tính cộng đồng và tình cảm cộng đồng.
Nói đến tính cộng đồng, không thể không nhắc đến một hệ quả rất
quan trọng của nó đó là tình cảm cộng đồng. Như đã đề cập đến, hoạt
động và giao tiếp là hai phạm trù rất quan trọng của tâm lý, chính chúng
là những điều kiện tiên quyết để làm xuất hiện và phát triển tâm lý người.
Do đó tính cộng đồng được coi là một nét tính cách của người Việt Nam.
Nếu không có hoạt động và giao tiếp thì không thể hình thành nét tính
cách ấy. Trong điều kiện làng là một hệ thống khép kín với sự tồn tại
tương đối độc lập về nhiều lĩnh vực cho nên hoạt động và giao tiếp không
thể vượt ra khỏi phạm vi của làng và chi phát huy tác dụng trong nội bộ
của nó, có tác dụng ảnh hưởng trực tiếp tới cả quá trình hoạt động sống
của mỗi người. Trên thực tế, quá trình xã hội hoá của mỗi cá nhân đều
phụ thuộc trực tiếp vào các hình thức đặc thù của làng; sự tác động qua lại
ảnh hưởng lẫn nhau chỉ diễn ra trong phạm vi chật hẹp của làng. Tâm lý
cộng đồng làng sẽ qui định mức độ tiếp thu kinh nghiệm, phạm vi học hỏi,

trình độ, bề rộng, chiều sâu của các tri thức của các thành viên trong làng.
Giao tiếp, thực hiện chức năng rất quan trọng, đó là chức năng cảm
xúc, tình cảm. Cần phải khẳng định rằng: tính cộng đồng được hình thành
và biểu hiện qua hoạt động giao tiếp, nhưng một khi nó đã trở thành đặc
trưng của làng xã, ảnh hưởng đến mọi mặt trong đời sống của người nông
dân thì nó cũng sẽ tác động lại hoạt động và giao tiếp của người dân trong
làng. Tính cộng đồng chính là biểu hiện ở mức độ cao của tính cộng đồng
làng.
15
4. Tính cộng đồng thể hiện qua việc sử dụng thổ ngữ:
Thổ ngữ là phương tiện để người dân có thể giao tiếp, trao đổi kinh
nghiệm trong sản xuất, phản ánh ưu, nhược điểm của các thành viên trong
làng… Vì vậy, nét đặc trưng của thổ ngữ mang đặc điểm của từng làng.
Thổ ngữ là một yếu tố trong hệ thống những yếu tố làm nên văn hoá làng,
thổ ngữ đóng vai trò tích cực trong việc củng cố tinh thần đoàn kết của
những người trong làng.
Làng ra đời càng sớm bao nhiêu, càng cổ xưa bấy nhiêu, thì giọng
nói của làng càng đặc trưng bấy nhiêu. Vì theo những người nông dân, thổ
ngữ chính là sự kế thừa từ thế hệ trước truyền đạt lại cho những thế hệ
sau, nên thổ ngữ là tiếng cha sinh mẹ đẻ, họ có thể sử dụng bất cứ lúc
nào. Có chăng sự thay đổi sử dụng thổ ngữ là do môi trường sinh sống và
học tập buộc họ phải thích nghi, nhưng khi về làng họ vẫn sử dụng tiếng
của làng mình.
Đặc trưng chủ yếu của thổ ngữ được thể hiện ở ngữ điệu, thanh sắc,
cách phát âm, cách gọi tên đồ vật, sự vật. Theo nhứng ngtười nông dân thì
họ lại cho rằng: âm tiết, ngữ điệu, cách phát âm thì có thể là nhấn mạnh,
hoặc kéo dài, hoặc tô đậm ở nguyên âm thêm thanh điệu của làng được
coi là thiêng liêng mà mỗi người cần phải giữ gìn và bảo vệ.
Những người có cùng chung một thứ tiếng nói, họ luôn ý thức về
tính cộng đồng, nó được thể hiện ở chỗ là họ có thể nói dược thứ ngôn

ngữ toàn dân nhưng khi gặp những người trong làng thì họ lại nói thứ
tiếng của làng mình, bởi họ nghĩ, nói tiếng địa phương của làng xã mình
cảm thấy gần gũi hơn, tự tin hơn. Trong thâm tâm của từng người dân thì
họ cảm thấy thân thiết hơn so với bất cứ cách diễn đạt nào khác. Thổ ngữ
mang tính đạc trưng của nó. Vì vậy, thổ ngữ là thứ tiếng nói cho một làng
xã cụ thể nào đó ở Việt Nam, nên người trong làng có thể nghe tiếng thôi
họ có thể phân biệt được đâu là người làng mình, đâu là không phải. Vì
vậy, nói đã tạo cơ sở, là nền tảng tạo ra tâm lý “vững dạ” hơn, được che
16
chở hơn vf cũng cho họ sức mạnh hơn trong cộng đồng có cùng chung
tiếng nói, chung ngữ điệu, thanh điệu.
Thổ ngữ là tiêu chí phân biệt làng này với làng khác, nên dù có bị
làng làng khác chê bai, nhạo báng nhưng bao giờ nó cũng được trân trọng
và gìn giữ. Đối với người dân trong làng thì thổ ngữ là danh dự chung của
làng không được chế nhạo, nếu có sự chế nhạo sẽ tạo nên tâm lý rất tức
giận trong từng thành viên trong làng. Một người dân trong làng đi làm xa
nhưng khi trở về thì họ vẫn ý thức được rằng họ phải sử dụng tiếng địa
phương của mình để giao tiếp. Nếu có nói tiếng pha tạp, không phù hợp
với tâm lý chung của các thành viên trong làng xã thì sẽ bị dư luận làng
xã lên tiếng chê trách, người dân thì dị nghị, dem pha và nhìn với ánh mắt
đây tức giận. Theo quan điểm của từng thành viên trong làng xã cho rằng:
nếu người đi làm xa, học tập có thể sử dụng tiếng ngôn ngữ của địa
phương khác nhưng với điều kiện khi ngôn ngữ đó phải có sự tương đồng
với ngôn ngữ làng xã mình.
Đất nước đang trên đà hội nhập và phát triển, đã kéo theo hàng loạt
các biến động về kinh tế - chính trị, văn hoá - xã hội. Thổ ngữ cũng bị yếu
tố hội nhập và phát triển chi phối, nhưng người dân luôn tự ý thức về bản
thân, về cộng đồng mình mà biểu hiện ở chỗ: ngày nay do có nhiều luồng
thông tin đại chúng từ những phương tiện hiện đại mang lại. Sự giao lưu
giữa các nền văn hoá đã làm ngôn ngữ của làng xã Việt Nam xáo trộn

nhưng người dân trong làng xã Việt Nam vẫn dùng thứ tiếng cha sinh mẹ
đẻ, họ vẫn ý thức được trách nhiệm cần phải gìn giữ bản sắc dân tộc. Vì
đó là chủ trương của Đảng và Nhà nước ta nhằm phát huy tinh thần đoàn
kết trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Những quy định, nguyên tắc
trong làng xã được củng cố; người dân trong làng có thể bị dư luận làng
xã lên án là a dua, học đòi, mất gốc… khi người đó có hành vi không phù
hợp với các chuẩn mực của làng xã. Tính cố kết, gìn giữ, bảo vệ bản sắc
văn hoá làng xã biểu hiện ở mức độ cao khi người dân đã ý thức được
rằng: cho dù ai đó trong làng chuyển tới một nơi nào khác sinh sống, học
17
tập thì có thể chấp nhận được khi họ dùng thứ tiếng nói khác với làng xã
để cho phù hợp hơn với môi trường ấy, nhưng khi về làng thì họ phải sử
dụng thổ ngữ của làng mình.
Tóm lại, thổ ngữ là một trong những yếu tố rất quan trọng góp phần
cấu thành nên tính cộng đồng của tâm lý làng.
18
CHƯƠNG 2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU THỰC TIỄN
I. Vài nét về khách thể và địa bàn nghiên cứu.
Xã Quảng cư, thuộc địa phận thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá. Cách
quốc lộ I.A 20 km về hướng đông, nghề chính là ngư nghiệp, du lịch biển,
sinh thái, diện tích đất nông nghiệp ít, chủ yếu là đất nhiễm mặn.
Với đề tài nghiên cứu tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư
qua việc sử dụng thổ ngữ. Chúng tôi tiến hành phát phiếu hỏi, phỏng vấn
sâu và sử lý kết quả từ đầu tháng 7/2006 đến cuối tháng 8/2006. Phát tổng
số phiếu là 100 phiếu hỏi và thu lại 96 phiếu, tiến hành xử lý kết quả của
96 phiếu.
Sau đây là một số đặc điểm của mẫu nghiên cứu.
Các yếu tố Tỷ lệ %
Giới tính
Nam 59,4

Nữ 40,6
Học vấn
Mù chữ 4,2
Cấp I 22,9
Cấp II 24
Cấp III 38,5
Trung cấp 5,2
Cao đẳng đại học 7,3
1. Tính cộng đồng thể hiện qua việc sử dụng thổ ngữ.
Ngôn ngữ đóng vai trò rất quan trọng trong hoạt động và giao lưu
của con người. Ngôn ngữ phản ánh những đặc trưng của một nền văn hoá
mang bản chất riêng - đạm đà bản sắc dân tộc của một vùng, miền, lãnh
thổ cụ thể. Với thổ ngữ lại bị quy định bởi truyền thống chủng tộc, vị trí,
địa lý, môi trường xã hội. Ngôn ngữ là do con người sáng tạo để rồi duy
gì gìn giữ từ thế hệ này cho tới thế hệ sau thông qua các hình thức văn tự,
chữ viết, tiếng nói (truyền miệng). Vì vậyt, ngôn ngữ là do con người
sáng tạo và duy trì. Khi nghiên cứu “tính cộng đồng thể hiện việc sử
dụng thổ ngữ của người dân xã Quảng Cư - thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá”
Mục đích của tôi cần phải làm sáng tỏ vấn đề sử dụng thổ ngữ trong hoạt
19
động và giao tiếp của người dân, đồng thời tìm ra các quá trình tâm lý ẩn
chứa bên trong từng khách thể, để rồi xác thực tính tập thể trội hay tính cá
nhân trội. Với tiếng nói của ngư dân xã Quảng Cư - thị xã Sầm Sơn -
Thanh Hoá lại mang nét đặc thù của nó biểu hiện ở góc độ ngữ điệu,
thanh sắc, cách phát âm và cách gọi đồ vật, sự vật… đã tạo ra sự khác biệt
đáng kể trong tiếng nói của các làng quê Việt Nam. Từ đó lý giải và đưa
ra mức độ của tính cộng đồng trong xã Quảng Cư - thị xã Sầm Sơn -
Thanh Hoá.
Làng quê Việt Nam nét nổi bật làm nên tính cộng đồng là văn hoá
làng xã - tức làng xã Việt Nam xưa và nay được giữ gìn và phát huy các

mặt của giá trị văn hoá, củng cố tính cộng đồng, dựa trên những hành vi
theo chuẩn mực tập thể. Gắn với chuẩn mực là nhận thức của từng thành
viên trong làng và tính cộng đồng có trội hơn tính cá nhân là tuỳ thuộc
vào nhận thức dó.
Trong quá trình nghiên cứu điều tra, phỏng vấn những người dân
đang sinh sống tại xã Quảng Cư - thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá tôi đã thu
được kết quả mang tính khoa học dựa trên cơ sở, phương pháp cần vận
dụng trong thực tiễn. Với số lượng phiếu là 96 phiếu tương đương với 96
người dân đang sinh ongs trên địa bàn xã Quảng Cư - thị xã Sầm Sơn -
Thanh Hoá tôi đã có được những luận điểm chính xác, chân thực để đánh
giá quá trình diễn biến trạng thái tâm lý. Vậy trên cơ sở thực tiễn, để xác
định tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư - thị xã Sầm Sơn - Thanh
Hoá trong việc sử dụng thổ ngữ, tôi đặt ra các giả thuyết, sau đó tôi yêu
cầu người dân lựa chọn và nêu ra lý do mà mình quyết định lựa chọn cách
sử dụng ngôn ngữ như thế nào trong giao tiếp, kết quả thu được như sau:
1.1. Kết quả thứ nhất:
Với câu hỏi: “Theo ông, bà (anh/chị) tiếng nói của làng mình có
khác với những làng khác và với ngôn ngữ toàn dân không?”. Có (92,7%)
số người cho rằng: tiếng nói của làng mình là khác với làng khác, sự khác
20
nhau được thể hiện qua các phát âm (chiếm 59,4% trong tổng số 92,%), có
người lại cho rằng sự khác biệt tiếng nói của làng mình với làng khác là
về ngữ điệu (chiếm 30,2% trong tổng số 92,7%); số người còn lại cho
rằng do cachs gọi đồ vật và sự vật khác nhau. Theo ý kiến chủ quan của
tôi. Sự khác biệt là do yếu tố môi trường: vị trí địa lý, kinh tế - xã hội đã
dẫn đến cách phát âm bẩm sinh “nặng” hơn so với các vùng lân cận, vùng
xa.
Để không là phiến diện, tôi đã hệ thống hoá ngân hàng câu hỏi, rất
khoa học để làm rõ hơn vấn đề cần nghiên cứu. Taôi đưa ra tình huống:
“nếu ông/bà (anh/chị) chỉ nghe tiếng nói của một người nào đó thì ông/bà

(anh/chị) có nhận ra đó là người làng mình hay không?” Với (80,5%) số
người lựa chọn có thể phân biệt đâu là người trong làng, đâu không phải.
Vậy những người dân đó họ căn cứ dựa trên cơ sở nào? với (44,8%) số
người cho rằng giọng điệu của làng mình có khác với giọng điệu của làng
khác; còn cách phát âm là khác và chiếm tỉ lệ % thấp hơn (31,2%); có
không ít ý kiến cho rằng họ có thể nhận ra là do cách gọi đò, vật, sự vật,
nghe giọng quen thuộc.
Thiết nghĩ, khi xác định tiếng người cần căn cứ vào âm sắc, thanh
điệu cao thấp để phân thành “thanh phổ”. Từ trọng thành phố hầu như
không có âm thanh của người nào giống người nào. Nguyên nhân là khi ta
phát âm, trong vai trò của thanh đó là cực kỳ quan trọng nhưng nó không
qui định hoàn toàn mà có liên quan đến hình thức cộng hưởng.
Khi mỗi người phát âm, cùng với những rung động do thanh đới
phát ra có sự tham gia của hầu, yết, khoang miệng, khoang mũi, lồng ngực
vì mỗi người có các cơ quan và bộ phận không giống nhau hoàn toàn, cho
nên ở mức độ to nhỏ và hình dạng của chúng rất khó tránh khỏi những
khác biệt nhỏ nhỏ. Cùng với nó thì đầu lưỡi hàm răng, môi, gò má cũng
có những khác biệt. Bên cạnh đó là sự khác nhau về giới tính, tuổi tác, khí
chất và giáo dục về văn hoá nên làm cho âm điệu, âm sắc, cường độ, tiết
21
tấu đa dạng, phong phú. Từ đó hình thành đặc trưng riêng của từng người
nên người dân có thể dễ ràng nhận ra.
theo ý của chủ quan của chúng tôi thì tính cộng đồng của người dân
xã Quảng Cư - thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá là trội hơn, biểu hiện ở tinh
thần đoàn kết, tương thân, “hàng xóm tắt lửa tối đèn có nhau”. Như vậy,
nhu cầu giao tiếp bằng tiếng thổ ngữ là không thể thiếu được trong cuộc
sống hàng ngày của người dân.
Với các số % là (73%) người lại cho rằng tiếng nói của lòng mình
không khác với tiếng nói làng khác. Họ dựa vào cơ sở nào khẳng định là
có sự tương đồng trong tiếng nói. Nhóm khách thể này chỉ giải thích quá

đơn giản mang tính máy móc, thiết nghĩ, đây là nền tảng là cơ sở của quá
trình hình thành tính cá nhân. Chúng tôi tiến hành kiểm phiếu và nhận
thức thực tiễn là tính cộng đồng trội hơn tính cá nhân, nhưng bên tỏng là
những trạng thái tâm lý rất phức tạp, sự phức tạp đó được biểu hiện cụ thể
giữa lứa tuổi trung niên, già với lứa tuổi thanh, thiếu niên - lứa tuổi thanh
thiếu niên có thiên hướng mang tính cá nhân và ngược lại trung niên,
người già mang tính cộng đồng cao. Vì vậy, họ là lực lượng đông đảo góp
phần hình thành nên tính cộng đồng.
Chúng tôi tiến hành đưa ra tình huống: “hiện nay có một thực trạng
là có một số người có tâm lý ngại không muốn nói tiếng địa phương mình
hoặc pha tạp tiếng của vùng miền khác. ở làng ông/bà (anh/chị) có tình
trạng đó không?”. Kết quả cho thấy (83,3%) người cho là có tình trạng đó
và thực trạng này xuất hiện chủ yếu là ở giới trẻ. Vì theo tâm lý của giới
trẻ là phải năng động, hoạt bát, thích nghi cao với môi trường mới. Có thể
khẳng định nguyên nhân của sự xuất hiện chủ nghĩa cá nhân nằm ngay
trong nhận thức của giới trẻ xã Quảng Cư - thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá
(13%) ý kiến cho rằng: làng họ không có chuyện đó - phải chăng, do tâm
lý thụ động, khép kín, ít có cơ hội giao lưu với những nền văn hoá khác,
với giới trẻ trong xã, nên họ không hiểu sâu sắc về sự thay đổi tiếng nói
của làng trong giới trẻ, hoặc do yếu tố không tự tin lựa hcọn phương án.
22
Nhưng khi chúng tôi đưa ra các phương án: “theo ông/bà (anh/chị) đâu là
nguyê nhân dẫn tới tâm lý trên? Có đến (54,2%) cho rằng “điều kiện nơi
sống, học tập lao động buộc phải thay đổi” ; (11,5%) do tâm lý ngại
ngùng không thích người khác biết mình ở đó; (9,4%) do đó không phải là
tiếng nói toàn dân, nói ra sợ mọi người chê cưới; (6,2%) nghĩ rằng là do
khó nói chuyện với mọi người bằng tiếng địa phương .
Thực trạng trên đó và đang tồn tại và phát triển trong các làng quê
Việt Nam. Nhưng đằng sau những khách thể có tính cộng đồng cao hơn ẩn
chứa sự không biết có thực trạng ngại không nói tiếng địa phương - phải

chăng, do trình độ học vấn, qui định nhận thức của khách thể” nhóm
khách thể này, chúng tôi nghĩ là nhóm khách thể “cá nhân gốc”.
Tình huống “Ông/bà (anh/chị) thường sử dụng tiếng địa phương
tribg bgưbgx trơpbgf gpoh bài? với các phương án lựa chọn sau:
STT Các phương án Tần suất %
1 Bất cứ lúc nào ở đâu 58,3
2 Chỉ gặp người làng, hiểu tiếng nói 29,3
3 Chưa từng biết từng hoàn cảnh cụ thể 12,4
Nhìn vào sự lựa chọn tần suất % từ cao xuống thấp, chúng tôi nhận
định: khách thể chiếm đa số sử dụng bất kì lúc nào, ở đâu, đã chứng minh
trong tiềm thức của từng khách thể luôn muốn sử dụng tiếng địa phương,
vì theo họ khi sử dụng tiếng địa phương cảm thấy tự tin, gần gũi và thân
thiện với mọi người… yếu tố tâm lý “thói quen” trong giao tiếp bằng thổ
ngữ trong thôn xóm, làng xã là nhu cầu giao tiếp bất cứ ở đâu, vì theo
nhóm khách thể này, đó là tiếng cha sinh mẹ đẻ ra như vậy, cả làng nói
như vậy sao phải thay đổi (51%). Với (29,3%) lượt người lựa chọn chỉ khi
gặp người làng mới nói cũng đồng nghĩa với số 50 % còn lại cho rằng tuỳ
hoàn cảnh cụ thể mà họ nên hay không nên sử dụng có thể dễ nhận ra
nhóm khách thể này có diễn biến tâm lý rất phức tạp, họ có phẩm chất
ứng xử, thích nghi tốt. Theo ý kiến chủ quan của chúng tôi nhóm khách
thể này khi có cơ hội sẽ chuyển tính cá nhân sang tính tập thể và ngược
23
lại. Khi nhóm khách thể này về làng xã buộc họ phải sử dụng tiếng địa
phương, theo họ nếu không sử dụng thì sẽ bị dân làng chê cười, đánh giá
nọ kia - tức ý thức tập thể được nóng lên, tính cá nhân giảm trong nhóm
khách thể này.
Phần nhỏ (7,3% trong tổng số) cho rằng tiếng địa phương của làng
mình không phải là ngôn ngữ toàn dân nên họ không sử dụng. Tính cộng
đồng trong nhóm khách thể này giảm và tính cá nhân là trội.
Tình huống “Giả sử ông/bà (anh/chị) chuyển tới một nơi khác sống

và buộc phải sử dụng tiếng nói khác trong cuộc sống hàng ngày, khi gặp
lại một người cùng làng tại nơi mình sống sẽ: dùng tiếng địa phương để
giao tiếp? Có đến gần (80%) người cho rằng họ sẽ sử dụng tiếng địa
phương để giao tiếp. Bởi khi nói “tiếng địa phương họ cảm thấy gần gũi,
tự tin hơn (65,6% trong tổng số gần 80%). Do điều kiện sinh sống và học
tập - lao động mà nhóm khách thể buộc phải thay đổi, nhưng bên trong
nhận thức của từng người họ khao khát được nói thứ tiếng địa phương của
mình, tái hiện lại toàn cảnh của lối sống, cách sinh hoạt của cả làng xã.
Tâm lý của những người xa quê hương thật da diết là yếu tố hình thành
tính cộng đồng tương đối bền vững, nhóm khách thể (20%) người thì cho
rằng họ sẽ không sử dụng thổ ngữ làng mình, vì theo họ tiếng nói làng
mình không phù hợp với nơi họ đang sinh sống. Vậy, tâm lý chung do
nhóm khách thể này là sự tự ý thức so sánh sự khác biệt giữa tiếng địa
phương làng mình với tiếng mà nơi mình đang sống, đã hình thành suy
nghĩ cần phải thay đổi tiếng nói để cho phù hợp. Lập luận ấy đã làm giảm
đi tính cộng đồng của người dân xã Quảng Cư - thị xã Sầm Sơn - Thanh
Hoá.
Chúng tôi lại đặt ra tình huống: “ông/bà (ânh/chị) đánh giá như thế
nào khi thấy một người dân của làng sau một thời gian đi xa về không nói
tiếng địa phương của làng mình nữa mà lại nói tiếng nơi khác”. Có tới
(46,9%) cho rằng có thể cảm thông được, theo suy luận của người dân: do
ở lâu nên có sự pha tạp là đương nhiên. Có thể nhận thấy, tâm lý chung
24
của người dân xã Quảng Cư - thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá là tôn trong lối
sống, hoàn cảnh của những thành viên khác. Theo ý kiến của những ngươì
dân (34,4%) cho rằng khi về làng người đó không cần nói tiếng địa
phương cũng chẳng sao, nhưng nếu đi quá giới hạn thiết nghĩ sẽ bị dư
luận làng lên án và đào thải. Người dân xã Quảng Cư - thị xã Sầm Sơn -
Thanh Hoá chấp nhận thứ tiếng phổ thông.
Các kết quả của từng tình huống cho phép chúng tôi rút ra được kết

luận: người dân xã Quảng Cư - thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá chấp nhận
thứ tiến phổ thông.
Các kết quả của từng tình huống cho phép chúng tôi rút ra được kết
luận: người dân xã Quảng Cư - thị xã Sầm Sơn - Thanh Hoá thể hiện tới
cộng đồng trội hơn tính cá nhân xét ở yếu tố sử dụng thổ ngữ.
1.2. Kết quả nghiên cứu lần hai.
Nội dung khác nhau, tâm lý cũng diễn biến khác nhau, vậy chúng
tôi đã đưa ra tình huống mang tính trắc nghiệm để khách thể biểu hiện
những phản ứng để từ đó chúng tôi nhìn nhận dưới góc độ tâm lý học.
“Giả sử ông/bà (anh/chị) dùng tiếng địa phương để nói chuyện với một
ng=ười nào đó, tuy nhiên người này tỏ ra chê cười, giễu cợt tiếng nói đó,
ông/bà (anh/chị) sẽ:
STT Cách lựa chọn Tần suất %
1 Hết sức tức giận 26
2 Vẫn nói chuyện với người đó, nhưng sẽ giải
thích cho họ hiểu đó là tiếng cha sinh mẹ đẻ
là văn hoá của làng
6/4
3 Coi đó là chuyện bình thường, chẳng việc gì
phải bận tâm
11,4
4 Không ý kiến 1.2
Hết sức tức giận được số lượng người lựa chọn là (26%) vì theo họ
người đó là không tôn trọng văn hoá làng, không đồng nhất tính cộng
đồng làng mình với làng khác. Hành vi không tôn trọng là sự xúc phạm
25

×