Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
MỞ ĐẦU
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay với sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật làm tốc
độ kinh tế tăng lên đáng kể, đời sống nhân dân được cải thiện về mọi mặt
trong đó giáo dục cũng được chú trọng đặc biệt. Thiết nghĩ, giáo dục có
vai trò rất tích cực đối với mỗi con người, đặc biệt là thế hệ trẻ Việt Nam.
Với tư cách vừa là đối tượng, vừa là chủ thể của quá trình sư phạm, giáo
dục chính là yếu tố quan trọng và là điều kiện cần thiết nhất để phát triển
con người toàn diện.
Con người, sản phẩm của ngành giáo dục đào tạo phải là những cán
bộ khoa học kĩ thuật, những người lao động làm chủ có bản lĩnh, bản ngã,
cá tính, có khả năng giao tiếp, ứng xử thông minh, có khả năng thích nghi
với những biến đổi trong môi trường…và nhiệm vụ của nhà trường là đào
tạo có chất lượng những người lao động mới, có đầy đủ những phẩm chất
và năng lực ấy.
Vâng, để mang lại hiệu quả và chất lượng trong quá trình chiếm lĩnh
tri thức, kĩ năng kỉ xão thì bản thân đối tượng của hoạt động học phải có
thái độ học tập tích cực. Bởi lẽ, chỉ có thái độ học tập đúng đắn mới giúp
cho người học tích cực, tự giác, chủ động trong hoạt động học tập mà thôi.
Đó là yếu tố thúc đẩy lòng say mê, sự hứng thú học tập từ đó góp phần
nâng cao chất lượng học tập của người học nói riêng và hiệu quả dạy học
nói chung.
Trong nhà trường sư phạm bộ môn giáo dục học có ý nghĩa vô cùng
quan trọng đối với mỗi sinh viên. Nó là hành trang không thể thiếu được
của mỗi giáo viên tương lai. Vì vậy sinh viên sư phạm hơn ai hết cần phải
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
1
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
có thái độ học tập môn giáo dục học đúng đắn nhằm chuẩn bị bước vào
nghề nghiệp của mình.
Thực tế hiện nay cho thấy có một bộ phận sinh viên vẫn còn đang
xem nhẹ việc học môn giáo dục học. Họ chưa thấy được lợi ích của môn
học này nên vẫn đang còn chưa có thái độ học tập môn giáo dục học tích
cực. Thực trạng này còn đáng lo ngại hơn ở khoa tự nhiên. Nếu nắm được
thực trạng này tìm được nguyên nhân thì sẽ đề xuất một số biện pháp góp
phần giáo dục thái độ học tập đúng đắn tích cực nhằm nâng cao hiệu quả
học tập cho sinh viên, góp phần chuẩn bị hành trang vững chắc trong
tương lai không xa.
Từ những lý do trên chúng tôi chọn đề tài: “Tìm hiểu thái độ học tập
môn giáo dục học của sinh viên năm thứ hai khoa Hoá Trường ĐHSP
Huế” để nghiên cứu .
2. Mục đích nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu thực trạng thái độ học tập môn GDH của SV năm hai
Nghiên cứu thực trạng thái độ học tập môn GDH của SV năm hai
Khoa Hoá - Trường ĐHSP- ĐH
Khoa Hoá - Trường ĐHSP- ĐH
Huế.
Huế.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
3.1. Khách thể nghiên cứu
Hoạt động học tập môn Giáo dục học của sinh viên năm hai khoa
Hoạt động học tập môn Giáo dục học của sinh viên năm hai khoa
hoá trường ĐHSP Huế.
hoá trường ĐHSP Huế.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Thái độ học tập môn Giáo dục học của sinh viên năm hai khoa Hoá
Thái độ học tập môn Giáo dục học của sinh viên năm hai khoa Hoá
trường ĐHSP Huế.
trường ĐHSP Huế.
4. Giả thuyết khoa học.
4. Giả thuyết khoa học.
Trong quá trình học tập, nhìn chung sinh viên có thái độ tương
đối đúng đắn về môn GDH. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của yếu tố khách
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
2
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
quan và chủ quan nên sinh viên còn một số hạn chế trong thái độ học tập.
Nếu có biện pháp, cách thức khoa học thì sinh viên sẽ có thái độ đúng đắn
hơn trong học tập môn GDH, góp phần tăng chất lượng học tập của mỗi
sinh viên.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài.
- Nghiên cứu thực trạng thái độ học tập môn GDH của SV năm
- Nghiên cứu thực trạng thái độ học tập môn GDH của SV năm
hai khoa Hoá trường ĐHSP Huế.
hai khoa Hoá trường ĐHSP Huế.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao thái độ học tập môn
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao thái độ học tập môn
GDH cho SV năm hai khoa Hoá nói riêng và SV trường ĐHSP Huế nói
GDH cho SV năm hai khoa Hoá nói riêng và SV trường ĐHSP Huế nói
chung.
chung.
6. Phương pháp nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lí thuyết.
6.1.1. Phương pháp phân tích – tổng hợp lí thuyết.
6.1.2. Phương pháp phân loại - hệ thống hóa lí thuyết.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
6.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
6.2.1. Phương pháp điêu tra bằng Anket.
6.2.2. Phương pháp phỏng vấn.
6.2.3. Phương pháp quan sát
6.3.4. Phương pháp thống kê toán học
7. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
7. Phạm vi và thời gian nghiên cứu
7.1. Phạm vi nghiên cứu
7.1. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu trên 100 sinh viên năm hai khoa Hoá, trường ĐHSP
Huế.
7.2. Thời gian nghiên cứu
7.2. Thời gian nghiên cứu
Học kì I năm học 2009_2010
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
3
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Lịch sử đề tài nghiên cứu.
1.1. Lịch sử đề tài nghiên cứu.
Thái độ được nhiều nhà khoa học nghiên cứu kể cả trong nước và
ngoài nước.
1.1.1. Ngoài nước.
1.1.1. Ngoài nước.
Vào những năm 1918 hai nhà tâm lý học người Mỹ là W.I.Thomas
và F.Zaniecki là những người đầu tiên đưa ra và sử dụng khái niệm về thái
độ thông qua những nghiên cứu của mình về nông dân Ba Lan. Hai ông đã
nghiên cứu thái độ dưới góc độ xã hội. Đến 1934 Lapiere đã đưa ra một
khái niệm đầy kinh ngạc, khi ông đã chứng minh một điều là những gì
chúng ta nói và những gì chúng ta làm (tức là thái độ và hành vi của cá
nhân trong cùng một trường hợp )
Vào năm 1957 có một nghiên cứu đã lý giải tại sao “hành vi lại ảnh
hưởng đến thái độ của con người” là “thuyết bất đồng nhận thức” của
Leon Festinger. Các nhà tâm lý học phương Tây còn nghiên cứu xem xét
nhiều khía cạnh khác nhau của thái độ, nhất là các vấn đề về vai trò, chức
năng cấu trúc như nghiên cứu của M.Rokeach (1968 ), T.M.Ostrom (1969)
U.J.Mc.Guire (1969) và J.R.Rempell (1988).
Đến 1972 cũng có một thuyết nghiên cứu về mối quan hệ giữa thái
độ và hành vi của con người. Đó là thuyết “tự nhận thức” của Daryl Ben.
Ngoài ra D.N.Uzơnatne nghiên cứu thái độ như một bộ phận cấu thành có
tính toàn vẹn của ý thức cá nhân.
H.Hiprơ và M.Forvec nhấn mạnh chức năng của thái độ đối với
hoạt động chung, hoạt động hợp tác của con người trong xã hội.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
4
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
Gerhard Witzlack, mối quan hệ giữa thái độ học tập và thái độ là
việc, từ đó khẳng định: về nguyên tắc thì thái độ học tập và thái độ làm
việc thống nhất với nhau ở mức độ lớn
N.D.Lêvitov: nghiên cứu mặt biểu hiện của thái độ trên hành vi học
tập của học sinh trong giờ học lên lớp nũng như tự học ở nhà. Qua đó cho
thấy, thái độ học tập tích cực của học sinh biểu hiện ở chỗ học sinh chú ý,
hứng thú và sẵn sàng vượt khó khăn.
Như vậy có thể thấy rằng trong suốt thời kỳ từ đầu thế kỷ XX cho
đến nay, ở phương Tây đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về thái độ và
cùng với nó cũng xuất hiện nhiều phương pháo nghiên cứu mới về hiện
tượng tâm lý đặc biệt này.
Trong nghiên cứu tâm lý giáo dục phương Tây. Các tác giả thường
coi thái độ học tập là một trong những nhân tố đóng vai trò động cơ thúc
đẩy tính tích cực của học sinh với giáo viên, với môn học, cũng như thái
độ trong từng giai đoạn học tập.
Trong tâm lý học dạy học ở Liên Xô cũ, thái độ học tập không được
nghiên cứu riêng rẽ mà lồng vào trong nghiên cứu động cơ, hứng thú học
tập. Có thể kể đến các tác giả tiêu biểu đã có những công trình nghiên cứu
về động cơ học tập của học sinh là:
I.L.Bogiovic (1951) nghiên cứu động cơ, thái độ học tập của học
sinh nhỏ.
A.K.Marcova (1983) nghiên cứu hình thành động cơ học tập của
học sinh.
Machikhina và đồng tác giả nghiên cứu quan hệ giữa động cơ và
thái độ học tập của học sinh.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
5
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
A.I.Kovaliov (1987) nghiên cứu động cơ lựa chọn nghề nghiệp của
học sinh, sinh viên.
Viện sĩ N.V.Cuzmina (1980) một trong những tác giả coi thái độ là
thành phần nòng cốt trong nhân cách đã đề ra phương pháp đánh giá toàn
diện nhân cách sinh viên.
Còn ở Cộng hoà dân chủ Đức trước đây cung có một số công trình
tiêu biểu nghiên cứu về thái độ do một số nhà tâm lý học xã hội như:
V.Nayze, M.Phovec tiến hành. Ngoài những vấn đề được nghiên cứu một
cách truyền thống thì các nhà tâm lý học Đức còn đề cập đến nhiều vấn đề
khác như: các cơ chế hình thành thái độ, sự định hình thái độ (cơ chế bắt
chước, luyện tập, hướng dẫn ) do H.Hiebsch và M.Worwerg thực hiện.
1.1.2 Trong nước:
1.1.2 Trong nước:
Một số tác giả tiêu biểu như:
Đào Thị Lan Hương: Nghiên cứu tự đánh giá thái độ học Hoácủa
sinh viên CĐSP Hà Nội. Kết quả thu dược là: Tất cả nội dung của thái độ
học tập, khả năng tự đánh giá của học sinh chưa cao. (21,7 – 45,7 % ). Khả
năng tự đánh giá phù hợp ở mức thấp nhất thuộc về các nội dung mà sinh
viên gặp khó khăn ở các khâu tự quan sát, nhận thức và ý thức tự giác về
tiêu chuẩn tự đánh giá.
Nguyễn Thị Mai Lan: Nghiên cứu thái độ của sinh viên trường
CĐSP Tuyên Quang đối với tự học (2005). Kết quả là phần lớn sinh viên
có thái độ đúng trong tự học, tự giác tích cực nhưng chưa tới mức có sự
say mê, hứng thú, chưa có ý chí quyết tâm cao trong tự học của mình.
Vũ Mộng Đoá: Nghiên cứu thái độ của sinh viên khoa tâm lý học
Trường ĐHKHXH & Nhân văn đối với phương pháp học tập vào tháng
11/2005. Đa số sinh viên thống nhất giữa học và hành. Có 35% số sinh
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
6
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
viên được hỏi đã vận dụng tương đối tốt tri thức vào việc tổ chức hoạt
động học hàng ngày của họ theo phương pháp mới (chủ động, tích cực,
năng động và sáng tạo) số còn lại học theo lối thụ động.
1.2. Khái niệm thuật ngữ liên quan.
1.2. Khái niệm thuật ngữ liên quan.
1.2.1. Thái độ.
1.2.1. Thái độ.
Từ khi khái niệm thái độ được đưa ra lần đầu tiên vào năm 1918
cùng với rất nhiều nghiên cứu khác nhau về thái độ thì đồng thời cũng
xuất hiện những định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lý học về thái độ.
Mỗi định nghĩa lại bàn tới một khía cạnh của thái độ, góp phần làm phong
phú thêm cách hiểu về phạm trù này.
Các từ điển cũng định nghĩa về thái độ theo nhiều cách khác nhau.
Trong từ điển tiếng Việt, thái độ được định nghĩa là: “cách nhìn
nhận, hành động của cá nhân về một hướng nào đó trước một vấn đề, một
tình huống cần giải quyết. Đó là tổng thể những biểu hiện ra bên ngoài của
ý nghĩ, tình cảm của cá nhân đối với con người hay một sự việc nào đó”.
Trong từ điển Anh-Việt, thái độ được viết là “Attitude” và được
định nghĩa là “cách ứng xử, quan điểm của một cá nhân”.
Từ điển xã hội học do Nguyễn Khắc Viện chủ biên cũng nhấn
mạnh: “tâm thế - thái độ - xã hội đã dược củng cố, có cấu trúc phức tạp,
bao gồm những thành phần nhận thức, xúc cảm, hành vi”.
Còn trong từ điển các thuật ngữ tâm lý và phân tâm học xuất bản
tại New York năm 1996 thì lại cho rằng: “Thái độ là một trạng thái ổn
định bền vững, do tiếp thu được từ bên ngoài hướng vào sự ứng xử một
cách nhất quán đối với một nhóm đối tượng nhất định, không phải bản
thân chúng ra sao mà chúng được nhận thức ra sao. Một thái độ được nhận
biết ở sự nhất quán của những phản ứng đối với một nhóm đối tượng.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
7
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
Trạng thái sẵn sàng có ảnh hưởng trực tiếp lên cảm xúc và hành động có
liên quan đến đối tượng”.
Như vậy, các từ điển khi định nghĩa về thái độ đều cho rằng đó là “
cách ứng xử của cá nhân đối với các tình huống, các vấn đề của xã hội”.
Nó được cấu thành rất phức tạp với nhiều bộ phận hợp thành, cho dù cách
sử dụng từ ngữ khi định nghĩa về thái độ là khác nhau.
Khi nói tới định nghĩa về thái độ từ trước tới nay chúng ta không
quên nhắc lại khái niệm thái độ đã được đưa ra lần đầu tiên vào năm 1918
của hai nhà tâm lý học người Mỹ là W.I.Thomas và F.Znaniecki. Hai nhà
tâm lý học này cho rằng: “thái độ là định hướng chủ quan của cá nhân có
hành động hay không có hành động khác mà được xã hội chấp nhận”. Hai
ông cũng cho rằng: “ thái độ là trạng thái tinh thần của cá nhân đối với
một giá trị”. Như vậy, W.I.Thomas và F.Znaniecki đã đồng nhất thái độ
với định hướng giá trị của cá nhân.
Một nhà tâm lý học người Mỹ khác là G.W.Allport vào năm 1935
đã đưa ra định nghĩa về thái độ như sau: “ thái độ là trạng thái sẵn sàng về
mặt tinh thần và thần kinh, được hình thành thông qua kinh nghiệm, có
khả năng điều chỉnh hay ảnh hưởng năng động đối với phản ứng của cá
nhân đối với các tình huống và khách thể mà nó có thiết lập mối quan hệ”.
Allport định nghĩa: “ thái độ trên khía cạnh điều chỉnh hành vi”. Ông coi
thái độ như một trạng thái tâm lý, thần kinh cho hoạt ở một cá nhân, khi
sắp sửa có những hành động diễn ra thì sẽ xuất hiện thái độ nhằm chuẩn bị
và điều chỉnh hành động đó. Có thể thấy là, Allport đã trả lời được câu hỏi
thái độ là gì, và đã đề cập đến nguồn gốc, vai trò, chức năng của thái độ
như: “thái độ là trạng thái của tinh thần và hệ thần kinh, là sự sẵn sàng
phản ứng, là một trạng thái có tổ chức, được hình thành trên cơ sở kinh
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
8
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
nghiệm quá khứ và nó điều khiển cũng như ảnh hưởng tới hành vi của cá
nhân”. Đây cũng là định nghĩa về thái độ được rất nhiều các nhà tâm lý
học khác thừa nhận.
Như vậy, có thể nói: thái độ là một bộ phận hợp thành, một thuộc
tính trọn vẹn của ý thức, quy định tính sẵn sàng hành động của con người
đối với đối tượng theo một hướng nhất định, được bộc lộ ra bên ngoài
thông qua hành vi,cử chỉ, nét mặt và lời nói của người đó trong những tình
huống, điều kiện cụ thể.
1.2.2. Thái độ học tập
1.2.2. Thái độ học tập
Thái độ học tập là một loại thái độ trong hệ thống thái độ đa dạng
của con người. A.A.Xmirnov đã căn cứ vào đối tượng của thái độ mà phân
chia chúng thành các nhóm: Thái độ đối với xã hội, với tập thể, và mọi
người, thái độ lao động ( thái độ làm việc ) và thái độ đối với bản thân.
Theo cách phân loại này thì thái độ học tập thuộc loại thái độ làm việc hay
thái độ lao động. Ở đây là thái độ học tập - một loại lao động chủ đạo của
sinh viên. Gerharrd Witzlack cũng khẳng định: về nguyên tắc thái độ học
tập và thái độ làm việc thống nhất với nhau ở một mức độ lớn.
Trong nhiều công trình nghiên cứu lý luận và thực tiễn của tâm lý
học, khái niệm “thái độ học tập” bao hàm cả thái độ đối với điều được học.
Chẳng hạn như quan niệm cho rằng “thái độ học tập là những tâm thế
được hình thành nhờ học tập, mang nặng màu sắc xúc cảm, tạo ra sự phản
ứng triệt để dễ chịu hay không thoải mái đối với người, vật, tình huống
hoặc ý tưởng nào đó”.
Thái độ tác động rất mạnh tới hành vi: Nếu có thái độ thích thú với
nội dung học thì sẽ tạo ra những hoạt động vươn lên chiếm lĩnh tri thức tạo
nên hứng thú, say mê trong học tập. Mặt khác, nếu thái độ không thích thú
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
9
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
thì sẽ dẫn đến thiếu tập trung chú ý, uể oải, thiếu nỗ lực độc lập trong học
tập. Như Lêvitov cho rằng “ Thái độ học tập tích cực của học sinh biểu
hiện ở chỗ học sinh chú ý, hứng thú và sẵn sàng gắng sức vượt qua khó
khăn. Hay như V.A.Kruchetxki đã nghiên cứu thái độ đối với việc học tập
của học sinh. Ông cho rằng “ thái độ tích cực đối với việc học tập là một
điều kiện hoàn toàn cần thiết cho sự lĩnh hội có kết quả tài liệu học
tập ”.Ông cũng đồng nhất với quan điểm của Lêvitov “Thái độ của học
sinh đối với việc học tập được thể hiện ở sự chú ý, ở sự hứng thú đối với
việc, ở sự sẵn sàng nỗ lực ý chí để khắc phục khó khăn”.
1.3. Biểu hiện của thái độ học tập
1.3. Biểu hiện của thái độ học tập
1.3.1. Biểu hiện trong nhận thức
1.3.1. Biểu hiện trong nhận thức
Xác định rõ mục đích học tập, yêu cầu của hoạt động học tập cũng
như biện pháp để đạt mục đích. Mức độ nhận thức về mục đích, tầm quan
trọng và ý nghĩa của hoạt động học tập sẽ là tiền đề để sinh viên có thái độ
tích cực về hoạt động học tập. Từ việc xác định đúng đắn mục đích học
tập, các yêu cầu của hoạt động này, sinh viên sẽ chọn biện pháp hữu hiệu
nào để tác động nhằm đạt được mục đích đã đề ra. Đây là khâu quan trọng
trong mặt nhận thức bởi sinh viên không tìm ra được biện pháp tốt tác
động thì hoặc sẽ đạt mục đích ở mức độ thấp hoặc không đạt được mục
đích như mong muốn.
Người học tích cực không chỉ tiếp nhận kiến thức vào đầu, giữ
chúng lại để rồi viết chúng ra các bài thi, bài kiểm tra mà còn nỗ lực rút ra
những hiểu biết cho bản thân trong quá trình học tập.
1.3.2. Biểu hiện trong thái độ học tập
1.3.2. Biểu hiện trong thái độ học tập
Thái độ học tập tích cực được biểu hiện ở việc tri giác chủ động,
độc lập sáng tạo trong học tập, luôn mong muốn giáo viên giao thêm
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
10
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
nhiệm vụ, kiểm tra đánh giá việc thực hiện nhiệm vụ học tập của mình,
hăng hái tìm thêm các tài liệu, vui vẻ tham gia các hoạt động nội ngoại
khoá phục vụ cho việc nang cao tri thức, hiểu biết của mình.
Đồng thời có động cơ học tập đúng đắn (học để chiếm lĩnh tri
thức, kỹ năng, kỹ xảo và hoàn thiện nhân cách theo yêu cầu của xã hội).
Có hứng thú học tập: chăm chú nghe giảng, hăng hái phát biểu xây
dựng bài, hoàn thành các nhiệm vụ được giao nhanh chóng, đầy đủ có chất
lượng, hay nêu thắc mắc, khả năng cộng tác với giáo viên rất cao, tâm thế
học tập hoàn toàn thoải mái, đi học chuyên cần.
Người học có thái độ tích cực thường hình thành cho bản thân một
thời gian biểu hợp lý, nề nếp học tập ổn định, thường xuyên nghiên cứu tài
liệu học tập, đọc mở rộng, chọn ra những tri thức chủ yếu, sắp xếp chúng
lại theo trình tự và có hệ thống, xây dựng góc học tập.
Có ý thức kết hợp giữa bản thân và các cá nhân khác trong cộng
đồng học tập nên người học có xu hướng là hợp tác và vận dụng kỹ năng
sống hợp tác để đạt mục đích học tập, lĩnh hội và kiến tạo kiến thức. Họ
biết chia sẻ và lắng nghe ý kiến của người khác, cởi mở, tin tưởng và sẵn
sàng giúp đỡ lẫn nhau.
1.3.3. Về hành động
1.3.3. Về hành động
Từ việc hình thành thái độ học tập như trên, sinh viên bắt tay vào
hành động để tìm ra cách thức học tập phong phú, phù hợp với bản thân.
Bước đầu xây dựng kế hoạch hành động phù hợp: xác định đúng
đắn có cơ sở khoa học các khối lượng tri thức mà mình phải thu nhận số
lượng thời gian để thu nhận tri thức đó. Sinh viên dựa vào kế hoạch của
lớp, khoa, trường, từng bộ môn mà vạch ra cho mình kế hoạch học tập phù
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
11
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
hợp. Bản thân phải có thời gian học tập theo từng ngày, từng tuần, tiến
hành học tập hợp lý về mặt tinh thần, sức khoẻ, khả năng
Thực hiện kế hoạch có hiệu quả. Muốn thế bản thân mỗi người
phải vượt qua được những khó khăn bên ngoài và những khó khăn bên
trong, sử dụng các chức năng tâm lý như: tư duy, trí nhớ để tìm ra cái
mới một cách chủ động sáng tạo thông qua giờ học trên lớp, ở nhà, thông
qua hoạt động làm bài tập.
Mặt khác, thiết lập được mối quan hệ giữa nội dung mới và tri thức
cũ. Để giải quyết một nhiệm vụ tư duy cần phải huy động những tri thức
tương ứng có liên quan với đối tượng mới đang nghiên cứu. Người học
phải thiết lập được mối liên hệ giữa tri thức mới với tri thức cũ một cách
hợp lý, thường xuyên, độc lập, huy động được hết khả năng của mình. Từ
đó hệ thống hoá các tri thức đã tiếp thu: sắp xếp các tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo thuộc các lĩnh vực khoa học một cách logic, chặt chẽ, mô hình hoá,
khái quát hoá được tri thức, kỹ năng, kỹ xảo đó theo phương pháp khoa
học. Thường xuyên vận dụng những tri thức đó để giải quyết những nhiệm
vụ lý lụân, thực tiễn đặt ra một cách có hiệu quả. Biết cách phối hợp các
cách ghi nhớ thường xuyên linh hoạt hợp lý. Khả năng hợp tác với bạn,
với thầy cô, mọi người trong lớp, cùng nhau trao đổi ý kiến, biết cách lập
dàn ý cho bài học, có kế hoạch đọc sách hợp lý, khoa học, biết cách chọn
sách, biết cách ghi chép, thu thập và xử lý thông tin khoa học.
1.3.4. Kết quả học tâp
1.3.4. Kết quả học tâp
Thái độ học tập có đúng đắn hay không, mặt hành động trong học
tập như thế nào đều thể hiên ở kêt quả học tập.
Nhận thức
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
12
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
Người học nhận thức được tầm quan trọng, ý nghĩa của tâm lý học
đối với quá trình học tập nói riêng và đối với cuộc sống nói chung.
Xác định được mục đích học tập các môn giáo dục học.
Nắm được các yêu cầu của hoạt động học tập giáo dục học.
Thái độ
Tự giác, chủ động, độc lập trong học tập, có nhu cầu nhận thức,
môn học cao; luôn hào hứng say mê khi học giáo dục học; luôn mong
muốn giáo viên gọi trả lời câu hỏi, giao thêm các nhiệm vụ học tập,
hăng hái tìm đọc, sưu tầm các tài liệu liên quan đến tâm lý học để mở
rộng sự hiểu biết tham gia tích cực các hoạt động nội, ngoại khoá.
- Có hứng thú học tập các bộ môn:
- Chăm chú nghe giảng, hăng hái phát biểu xây dựng bài
- Hoàn thành các nhiệm vụ được giao một cách nhanh chóng, đầy
đủ.
- Thường xuyên nêu thắc mắc với giáo viên, yêu cầu giáo viên giải
thích cặn kẽ những vấn đề chưa rõ, cũng như hăng hái trả lời mà
giáo viên nêu ra.
- Đi học chuyên cần, không bỏ tiết
- Chủ động vận dụng những kiến thức, kỹ năng vào các tình huống
trong thực tiễn
- Xác định động cơ học tập đúng đắn.
Hành động
Xây dựng kế hoạch học tập Giáo dục học một cách hợp lý
Thực hiện kế hoạch mà mình đặt ra một cách có hiệu quả.
Như vậy thái độ học tập cuối cùng biểu hiện trong kết quả học
tập bộ môn của mỗi người. Cụ thể ở mức độ lĩnh hội, nắm bắt tri thức,
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
13
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
sử dụng thành thạo các kỹ năng và ứng dụng nhanh nhạy trước các
tình huống cũng như ứng dụng kiến thức đã học vào giải quyết các
nhiệm vụ cụ thể.
Khi sinh viên nhận thức đầy đủ mục đích, ý nghĩa của việc học
tập môn tâm lý học thì người học sẽ hình thành thái độ học tập đúng
đắn, tự nguyện, tự giác tham gia vào hoạt động học tập bộ môn để
thoả mãn nhu cầu nắm bắt tri thức của mình, đồng thời thực hiện các
hành vi, hành động học tập tương ứng với thái độ học tập tích cực đó.
Khi nói về tính tích cực của học sinh - một điều kiện của thái độ
học tập thì GS-TSKH Thái Duy Tuyên đã đưa ra một số dấu hiệu sau:
Các em có chú ý học tập không ?
Có hăng hái tham gia vào mỗi hình thức của hoạt động học tập
không ? ( thể hiện ở chỗ giơ tay phát biểu ý kiến ghi chép )
Có hoàn thành những nhiệm vụ dược giao không ?
Có ghi nhớ tốt những điều đã học không ?
Có nhiều bài học không ? Có thể trình bày lại nội dung bài học
theo ngôn ngữ riêng không ?
Có vận dụng được những kiến thức đã học vào thực tiễn không ?
Có đọc thêm, làm thêm các bài tập khác không ?
Tốc độ học tập có nhanh không ?
Có hứng thú trong học tập không hay vì một ngoại lực nào đó mà
phải học ?
Có quyết tâm, có ý chí vượt khó khăn trong học tập không ?
Có sáng tạo trong học tập không ?
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
14
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
Còn trong lý luận dạy học của trường phổ thông - Một số vấn đề
của lý luận dạy học hiện đại của M.A.Danilop và M.N.Xcatkin thì lại nói
về tính tự giác – cũng là một trong những điều kiện của thái độ học tập:
Trong quá trình lĩnh hội tự giác sẽ hình thành ở học sinh thái độ
sáng tạo đối với việc nghiên cứu và ứng dụng kiến thức, tư duy logic và
thế giới quan của các em.
Sự học tập tự giác của học sinh bắt đầu từ việc ý thức được nhiệm
vụ và sự cần thiết của công việc đang làm và từ khi xuất hiện hứng thú đối
với công việc đó khi có nhu cầu giải quyết đúng đắn công việc đó.
Hoạt động tự lực của học sinh bao giờ cũng có những thao tác tư
duy và hành động thực hành. Từ đó phát triển tính tự lực của tư duy là nền
tảng của toàn bộ hoạt động của học sinh.
Với Sfranz khi nghiên cứu về thái độ học tập và thái độ tập thể của
học sinh đã đưa ra một bảng tiêu chuẩn đánh giá hai loại thái độ này.
Bảng câu hỏi của L-K-V (Lern-Kollecktiv-Verhaaltten) biểu hiện:
- Trên lớp chú ý nghe giảng
- Học bài và lam bài tập đầy đủ
- Cố gắng vươn lên học được nhiều
- Không vội vàng phản ứng tiêu cực nếu có chỗ nào chưa hiểu
hoặc không nhất trí với bài giảng
- Đảm bảo kỉ luật để học tốt
- Cố gắng đạt thành tích học tập tốt và nâng cao thành tích học tập
của mình một cách trung thực
- Thích độc lập thực hiện nhiệm vụ học tập
- Hăng hái, nhiệt tình trong giờ thảo luận và sữa chữa bài tập
- Hoàn thành nhiệm vụ một cách nghiêm túc
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
15
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
- Giữ gìn tài liệu học tập một cách cẩn thận
Khi bàn về việc đánh giá thực trạng, thái độ học tập của học sinh,
GS Hoàng Đức Nhuận và GS Lê Đức Phúc đã nêu ra các chỉ số:
- Chú ý
- Hăng hái tham gia vào mọi hình thức của hoạt động học tập
- Hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao
- Đọc thêm và làm các bài tập khác
- Vận dụng hay chuyển tải những gì đã học vào thực tế
- Hình thành và phát triển các quan hệ với thầy, cô, bạn bè nhằm
mục đích giúp đỡ bản thân học tập tốt hơn
- Chất lượng sản phẩm, kết quả học tập
Theo các nhà tâm lý học đã đưa ra dấu hiệu thái độ độc lập trong
học tập:
- Tự đặt vấn đề
- Tự giải quyết vấn đề theo nhiều chiều, nhiều phương khác nhau
- Có ý chí theo đuổi mục đích đến cùng
- Tự đánh giá kết quả tìm được
- Cần có thái độ đúng với việc sử dụng các phương tiện; thư viện,
phòng thí nghiệm bộ môn
1.
1.
4
4
. Đặc điểm của
. Đặc điểm của
môn
môn
Giáo dục học
Giáo dục học
1.4.1.
1.4.1.
Vị trí, vai trò của môn GDH trong quá trình đào tạo ở nhà
Vị trí, vai trò của môn GDH trong quá trình đào tạo ở nhà
trường sư phạm
trường sư phạm
Giáo dục học là bộ môn khoa học có tầm quan trọng trong nhiều lĩnh
vực, đặc biệt đối với việc đào tạo nghề nghiệp cho người giáo viên tương
lai - những nhà sư phạm sẽ góp phần đào tạo nên những con người có ích
cho xã hội.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
16
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
Cùng với tâm lý học (TLH), GDH giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
Nó không chỉ trang bị cho sinh viên một hệ thống tri thức khoa học mà
còn trang bị cho những tri thức nghiệp vụ, rèn luyện tay nghề. GDH chuẩn
bị hành trang trực tiếp cho các giáo sinh sau này làm công tác giáo dục. Sở
dĩ như vậy vì nó không chỉ đảm bảo trau dồi về mặt tri thức lý luận mà còn
đảm bảo trang bị các năng lực tổ chức các hoạt động giáo dục. Có ý kiến
cho rằng nếu không có môn GDH thì nhà trường sư phạm không thể xem
là nơi đào tạo nghề sư phạm được.
Giáo dục học có chức năng trội là hình thành những phẩm chất cho
sinh viên, có lợi thế là giáo dục lòng yêu nghề, yêu trẻ, giáo dục tình cảm
yêu nghề nghiệp, hình thành và củng cố lòng tin vào nghề. Nếu ai đó đã
vào trường sư phạm mà không yêu thích nghề dạy học thì GDH chính là
phương tiện để củng cố niềm tin nghề nghiệp ở họ, để cho họ an tâm với
nghề mà mình lựa chọn. Cũng chính vì vậy mà môn GDH còn được xem
là môn học dạy nghề, là môn học đặc trưng của nhà trường sư phạm.
Ngoài ra GDH còn là môn học phục vụ chính trị, nó quán triệt được
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về giáo dục, đào
tạo, chính vì vậy mà ngoài việc trang bị cho sinh viên những tri thức
nghiệp vụ thì nó còn trang bị cho họ những quan điểm cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục và đào tạo, giáo
dục thể hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước để kế thừa và xây
dựng thành công CNXH.
Thông qua môn học này sinh viên không những nắm được nguyên lý
giáo dục của Đảng ta mà còn nắm được những tri thức về khoa học giáo
dục, hình thành những kỹ năng, kỹ xảo cho việc học tập hiện tại và giảng
dạy trong tương lai, bồi dưỡng lý tưởng nghề nghiệp, trau dồi đạo đức, có
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
17
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
tình cảm đối với học sinh và đối với nghề giáo. Phát huy tư duy sáng tạo,
có động lực đúng đắn để tự hoàn thiện mình, chủ động đáp ứng được sự
đòi hỏi ngày càng cao của xã hội mới cũng như đối với người giáo viên
tương lai.
Chính vì những lý do đó mà môn GDH nó có vị trí hết sức đặc biệt
trong nhà trường sư phạm, là môn học không thể thiếu được để nhà trường
sư phạm sản xuất ra “những kỹ sư tâm hồn” phục vụ cho sự nghiệp CNH –
HĐH ở nước ta, đưa nền giáo dục nước ta phát triển nhịp nhàng với các
nước trên thế giới.
1.
1.
4
4
.
.
2.
2.
Vai trò của thái độ học tập đối với chất lượng học tập nói
Vai trò của thái độ học tập đối với chất lượng học tập nói
riêng và đối với sự phát triển nhân cách sinh viên nói chung
riêng và đối với sự phát triển nhân cách sinh viên nói chung
Quá trình học của sinh viên là một quá trình vận động dưới chỉ đạo
hướng dẫn của giáo viên .I.F.Kharlamôp đã chỉ rõ : “Chỉ có sự phối hợp
hữu cơ và sự liên hệ qua lại chặt chẽ giữa tác động bên ngoài của giáo
viên, bộc lộ trong việc trình bày tài liệu, chương trình và tổ chức công tác
học tập của sinh viên và sự căng thẳng trí tuệ bên trong của các em mới
tạo nên cơ sở học có hiệu quả”. Vì vậy, dù được đặt trong một môi trường,
điều kiện hoàn cảnh thuận lợi, thầy cô giáo tâm huyết với nghề trang thiết
bị học tập đầy đủ khang trang đến đâu đi chăng nữa nếu bản thân học sinh
không có thái độ học tập đúng đắn thì không thể chủ động, tích cực, tự
giác và chẳng có được kết quả học tập cao. Bản thân sinh viên phải là một
chủ thể tích cực tự khám phá chiếm lĩnh tri thức, tự đặt kế hoạch học tập,
tự lựa chọn nội dung, mục đích, cách thức học tập dưới sự hướng dẫn của
thầy cô. Nếu sinh viên có thái độ học tập tích cực khi tham gia vào quá
trình lĩnh hội tri thức thì sẽ biến quá trình giáo dục thành quá trình tự giáo
dục và như vậy sinh viên sẽ thu được hiệu quả học tập cao nhất, như vậy
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
18
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
thái độ học tập của sinh viên sẽ quyết định tính tích cực nỗ lực và ảnh
hưởng gián tiếp đến chất lượng học tập của chính họ .
Thái độ là yếu tố cần được hình thành và phát triển ở sinh viên . Nó có
mối liên hệ chặt chẽ với sự hình thánh và phát triển nhân cách của sinh viên.
Chỉ có học tập với thái độ tích cực, niềm say mê, khát vọng, sự cố gắng trí
tuệ và nghị lực cao mới giúp sinh viên nắm được những tri thức cần thiết từ
đó thúc đẩy sự phát triển trí tuệ. Trên cơ sở đó phát triển các phẩm chất trí
tuệ, thế giới quan, nhân sinh quan khoa học, dần dần hoàn thiện nhân cách
theo yêu cầu của xã hội.
1.4.
1.4.
3. Sự cần thiết nâng cao thái độ học tập môn GDH cho sinh
3. Sự cần thiết nâng cao thái độ học tập môn GDH cho sinh
viên sư phạm
viên sư phạm
Trong nhà trường sư phạm thì việc nâng cao được thái độ trong hoạt
động nhận thức cho sinh viên là việc làm hết sức quan trọng, đặc biệt là
đối với bộ môn GDH thì đó là một yêu cầu không thể thiếu để có thể giúp
sinh viên có được kết quả học tập, nhận thức một cách cao nhất.
Như chúng ta đã biết trong nhà trường sư phạm bộ môn GDH có vai
trò và vị trí hết sức quan trọng, nó không chỉ trang bị cho sinh viên một hệ
thống tri thức khoa học mà còn có khả năng rèn luyện những tri thức về
nghiệp vụ, các kỹ năng sư phạm cần thiết, chuẩn bị hành trang trực tiếp
cho sinh viên có thể làm tốt công tác dạy học – giáo dục sau này. Tuy
nhiên trong quá trình học tập không phải bất cứ sinh viên nào cũng nhận
thức được một cách đúng đắn và đầy đủ về tầm quan trọng của bộ môn
GDH, do vậy nhìn chung trong những năm qua theo kết quả điều tra thì
phần lớn cho thấy các kết quả học tập bộ môn GDH chưa cao, các kỹ năng
sư phạm trước khi sinh viên ra trường cũng phần nào chưa đáp ứng được
với yêu cầu thực tế của việc tham gia vào quá trình dạy học.
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
19
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
Thực trạng học tập bộ môn GDH kém là do phần lớn sinh viên chưa
có được sự cố gắng trong học tập, nhận thức còn hời hợt, thái độ trong
hoạt động nhận thức chưa cao, đồng thời do chính phương pháp dạy học
mà giáo viên sử dụng chưa đạt hiệu quả. Từ những vấn đề trên cho thấy
việc cần thiết phải nâng cao thái độ trong hoạt động nhận thức cho sinh
viên là một trong những việc làm cần thiết và cấp bách trong quá trình dạy
học bộ môn GDH hiện nay.
1.5.
1.5.
Những yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên trong học
Những yếu tố ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên trong học
tập
tập
Giáo dục học.
Giáo dục học.
Thái độ học tập nói chung và học tập môn giáo dục học nói riêng
có rất nhiều yếu tố tác động và chi phối. Đó có thể là do môn học, giáo
viên, điều kiện và cơ sở vật chất, trình độ và năng lực của mỗi bản
thân nhưng đều nằm trong các yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan:
1.5.1 Các yếu tố khách quan
1.5.1 Các yếu tố khách quan
Sự hấp dẫn môn học
Đây là yếu tố tác động mạnh đến việc hình thành và phát triển thái
độ học tập. Sự hấp dẫn môn học thu hút sự tập trung chú ý và thoả mãn
được nhu cầu nhận thức của mỗi người học tạo ra sự say mê thích thú và
có những thái độ tích cực trong học tập.
Phương pháp và năng lực giảng dạy của giảng viên
Yếu tố này tác động mạnh đến nhận thức và chi phối đến yếu tố
khác.
Phương pháp dạy học là tổ hợp các cách thức hoạt động của cả
thầy và trò trong quá trình dạy và học được tiến hành dưới vai trò chủ đạo
của thầy nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ dạy học. Nghĩa là giáo viên cần
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
20
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo và phù hợp với các phương pháp
dạy học khác nhau để giờ học đỡ nhàm chán, tẻ nhạt.
Người giáo viên có nhiều năng lực như năng lực hiểu học sinh,
năng lực tri thức trong đó năng lực gia công và chế biến tài liệu học tập.
Muốn nâng cao nhận thức và thái độ học tập môn tâm lý học thì người
giáo viên phải gia công như thế nào để phù hợp với trình độ, nghề
nghiệp để bài học trở nên hấp dẫn, sinh động. Biết cách khơi dậy và phát
triển nhu cầu nhận thức của người học. Tầm hiểu biết, cách tổ chức và
hướng dẫn hoạt động học tập của giáo viên cũng làm cho không khí lớp
học càng thêm sinh động.
Vị trí và nội dung môn học
Phần lớn sinh viên thường có thói quen và sở thích chú trọng các
môn chuyên ngành còn các môn học khác thì học tập không được tích cực
so với môn chính. Điều này cũng có ảnh hưởng tới thái độ học tập nói
chung và giáo dục học nói riêng.
Mỗi môn giáo dục học có đặc trưng riêng do nội dung, tính chất cơ
cấu và sự sắp xếp chương trình: Nếu nội dung phù hợp với trình độ nhận
thức, phù hợp với khả năng của sinh viên, phù hợp với thực tiễn sinh động
thì hình thành và phát triển thái độ học tập môn giáo dục học.
Bầu không khí lớp học
Bầu không khí lớp học
Là nhân tố tác động đến thái độ học tập của người học vì thế nếu
lớp học có bầu không khí căng thẳng thì ảnh hưởng xấu đến hứng thú học
tập. Nếu không khí tâm lý thoải mái, tích cực, sinh động thì tác động rất
tốt đến hứng thú học tập.
Cơ sở vật chất và điều kiện học tập
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
21
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
Bao gồm quỹ thời gian trường, lớp và các phương tiện kỹ thuật
dạy học cũng là yếu tố giúp sinh viên học tập có hiệu quả.
1.5.2 Các yếu tố chủ quan
1.5.2 Các yếu tố chủ quan
Động cơ chọn nghề
Tất cả các sinh viên khi dự thi vào trường Sư phạm không phải
đều do ý nguyện, sở thích của bản thân mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố
như; mong muốn của gia đình, hoàn cảnh gia đình, ngoài ra cung có một
số lý do khác như điều kiện kinh tế, vật chất hay tâm lý bản thân.
Tuỳ theo mỗi trường hợp mà hình thành thái độ học tập khác nhau.
Có thể năng lực là tương đương nhưng về thái độ học tập các môn học nói
chung và giáo dục học nói riêng của những bạn muốn làm giáo viên học
tập say mê, tích cực hơn những người dự thi theo lý do khác.
Trình độ và năng lực nhận thức của sinh viên
Đây là yếu tố ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc hình thành và phát
triển nhận thức cũng như thái độ học tập các môn giáo dục học của sinh
viên. Do vậy, trình độ nhận thức là cơ sở cần thiết để phát triển thái độ học
tập một cách đúng đắn đồng thời là điều kiện quan trọng để bồi dưỡng thái
độ học tập. Khi cá nhân hiểu được toàn bộ ý nghĩa, nhận thức rõ tầm quan
trọng của công việc đã làm và đang làm hay nói chính xác hơn là của việc
học tập nói chung và môn tâm lý học nói riêng thì ở họ nảy sinh thái độ
tích cực, tự giác trong hoạt động nhận thức.
Mặt khác, sự phát triển trí tuệ cá nhân còn là cơ sở để tạo ra thành
tích trong công việc cũng như trong học tập. Không ai có thể đạt được
thành tích, có thể hành động đạt kết quả nếu họ không có một trình độ phát
triển trí tuệ và khả năng nhất định. Vấn đề nhận thức quá khó hay quá dễ
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
22
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
đều ảnh hưởng tới thái độ học tập. Khi trình độ và năng lực nhận thức của
sinh viên thấp thì hầu hết các môn học đối với họ đều quá khó, khi đó mọi
vấn đề đều nằm ngoài tầm hiểu biết của họ, thái độ chán nản xảy ra là điều
tất yếu. Ngược lại khi trình độ và năng lực nhận thức của sinh viên đã phát
triển cao mà giáo viên không gợi ra các vấn đề thực tiễn cho họ tìm tòi,
sáng tạo thì ở họ sẽ luôn tồn tại những suy nghĩ “biết rồi không cần suy
nghĩ, không cần chú ý” từ đó mà hình thành thái độ thờ ơ, không tập trung
trong quá trình học tập.
Nhu cầu và hứng thú nhận thức
Phát triển nhu cầu nhận thức của sinh viên là một trong những
biện pháp nảy sinh và xây dựng hứng thú học tập, từ đó quyết định tới thái
độ học tập. Nhu cầu nhận thức cao sẽ làm nảy sinh khát khao và luôn tìm
tòi để đạt được tri thức, làm cơ sở để hình thành hứng thú. Khi đã có hứng
thú với môn học thì sẽ hình thành thái độ say mê học tập tích cực, nỗ lực
vươn lên chiếm lĩnh tri thức vào thực tiễn cuộc sống, quá trình học tập
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
23
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
Chương 2: THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU THÁI ĐỘ HỌC TẬP
Chương 2: THỰC TRẠNG NGHIÊN CỨU THÁI ĐỘ HỌC TẬP
MÔN GIÁO DỤC HỌC CỦA SINH VIÊN NĂM HAI KHOA HOÁ
MÔN GIÁO DỤC HỌC CỦA SINH VIÊN NĂM HAI KHOA HOÁ
TRƯỜNG ĐHSP HUẾ
TRƯỜNG ĐHSP HUẾ
2.1. Vài nét khái quát về Khoa Hoá - Trường ĐHSP Huế
2.1. Vài nét khái quát về Khoa Hoá - Trường ĐHSP Huế
Trường ĐHSP Huế được thành lập năm 1957, tiền thân Trường
CĐSP Huế. ĐHSP Huế bắt đầu đào tạo sinh viên hệ Đại học từ năm 1958
– 1959. Bước vào cuối thế kỷ XX – theo nghị quyết 30/CP của chính phủ
quyết định sáp nhập Trường ĐHSP Huế với 5 trường Đại học khác là: ĐH
Khoa học Huế, ĐH Kinh tế Huế, ĐH Nông Lâm Huế, ĐH Ngoại ngữ và
ĐH Nghệ thuật Huế (nay là Học viện âm nhạc) thành Đại học Huế. Từ đó
ĐHSP Huế hoạt động và phát triển dưới sự chỉ đạo của Đại học Huế.
Khoa Hoá là một trong những khoa của trường đại học sư phạm
Huế, với đội ngũ giảng viên đông đảo, mỗi người phụ trách về một học
phần, nội dung cụ thể theo sự chỉ đạo của ban lãnh đạo khoa.
Năm hai khoa Hoá có hai lớp: Hoá 2A và Hoá 2B. Lớp Hoá 2A
có 57 sinh viên, 13 nam và 44 nữ, lớp Hoá 2B có 56 sinh viên trong đó 14
nam và 42 nữ. Tổng cộng số sinh viên năm hai của khoa Hoá là 113, tuy
nhiên phạm vi đề tài chỉ giới hạn 100 sinh viên.
Là những sinh viên năm thứ hai nên phần nào họ đã khá thích ứng
được với hoạt động học tập ở đại học, tuy mỗi sinh viên có một đặc trưng
riêng nhưng trong quá trình học tập các bạn đã cố gắng tích cực tìm hiểu
nhiều đặc điểm hoà hợp để học tốt. Đặc biệt, sinh viên năm hai khoa Hoá
được sự hướng dẫn, chỉ đạo của các giảng viên chủ nhiệm nhiệt tình và
ban cán sự lớp năng nỗ, tích cực đã đạt được thành tích học tập khá cao
trong năm vừa rồi. Đồng thời sinh viên năm hai khoa Hoá cũng tham gia
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
24
Tiểu luận Lý luận dạy học Giáo dục học
rất tích cực trong hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao của nhà
trường và đạt nhiều giải cao.
2.2. Nhận thức của sinh viên năm hai khoa Hoá về môn Giáo
2.2. Nhận thức của sinh viên năm hai khoa Hoá về môn Giáo
dục học trong nhà trường sư phạm
dục học trong nhà trường sư phạm
Có thể nói hoạt động nhận thức là tiền đề quan trọng và có quan
hệ mật thiết với các hoạt động khác và các hình thức tâm lý của con người.
Nhận thức về môn Giáo dục học có thể đánh giá qua các chỉ số:
nhận thức về sự cần thiết, nhận thức về tác dụng và nhận thức về đặc điểm
của môn Giáo dục học.
2.2.1. Nhận thức của sinh viên về sự cần thiết đối với môn
2.2.1. Nhận thức của sinh viên về sự cần thiết đối với môn
Giáo dục học
Giáo dục học
Để điều tra nhận thức của sinh viên năm hai khoa Hoá về sự cần
Để điều tra nhận thức của sinh viên năm hai khoa Hoá về sự cần
thiết của môn giáo dục học chúng tôi chọn 4 mức độ được trình bày ở câu
thiết của môn giáo dục học chúng tôi chọn 4 mức độ được trình bày ở câu
hỏi số 1. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá
hỏi số 1. Chúng tôi yêu cầu sinh viên xem xét, suy nghĩ và đưa ra đánh giá
của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, kết quả như sau:
của mình. Sau khi xử lý số liệu của 100 phiếu điều tra, kết quả như sau:
Bảng 1
Bảng 1
. Mức độ nhận thức của SV về sự cần thiết đối với môn GDH
. Mức độ nhận thức của SV về sự cần thiết đối với môn GDH
Mức độ
Mức độ
Số lượng
Số lượng
Tỷ lệ %
Tỷ lệ %
Rất cần thiết
Rất cần thiết
46
46
46%
46%
Cần thiết
Cần thiết
32
32
32%
32%
Bình thường
Bình thường
24
24
24%
24%
Không cần thiết
Không cần thiết
0
0
0%
0%
Dựa vào bảng 1 ta thấy, phần lớn sinh viên cho rằng Giáo dục học là
Dựa vào bảng 1 ta thấy, phần lớn sinh viên cho rằng Giáo dục học là
môn rất cần thiết trong nhà trường sư phạm, chiếm tỷ lệ cao nhất 46%,
môn rất cần thiết trong nhà trường sư phạm, chiếm tỷ lệ cao nhất 46%, đó là
môn học bắt buộc mọi sinh viên sư phạm phải trang bị cho mình để trở thành
một nhà giáo giỏi, một nhà giáo không chỉ làm tốt nhiệm vụ dạy học mà còn
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giáo dục của mình. Hành trang của mỗi người
trong tương lai không chỉ là kiến thức chuyên môn nghiệp vụ mà còn cần
Nguyễn Thị Na – TLGD 3
25