Tải bản đầy đủ (.pdf) (188 trang)

Phạm văn đồng với vấn đề dạy học văn trong nhà trường phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.49 KB, 188 trang )

Phạm Văn Đồng với vấn đề dạy học Văn trong nhà
trường phổ thông
Mở đầu
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng là một nhà chính trị, nhà quân sù, nhà
ngoại giao; nhà văn hoá, giáo dục Việt Nam xuất sắc, tầm cỡ quốc tế. Tên
tuổi, uy tín và sự nghiệp cách mạng của ông là niềm tự hào của Đảng, nhà
nước và nhân dân Việt Nam. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình, trên hầu khắp các lĩnh vực, Phạm Văn Đồng đều để lại những dấu Ên
tốt đẹp, sự ngưỡng mộ và kính trọng đặc biệt trong lòng các thế hệ người
Việt Nam.
Xét riêng về lĩnh vực giáo dục, Phạm Văn Đồng đã có những đóng
góp, cống hiến to lớn, quý báu. Những nhận xét, ý tưởng, đề xuất, định
hướng của ông về lĩnh vực này có ý nghĩa lý luận, thời sự và thực tiễn sâu
sắc, là động lực quan trọng cho những khám phá, nghiên cứu và vận dụng
tư tưởng của ông vào hoạt động giáo dục nước nhà.
1.1. Tư tưởng giáo dục của Phạm Văn Đồng là di sản quý báu có ý
nghĩa lâu dài cần được nghiên cứu, khai thác hệ thống
Nghiên cứu những di sản văn hóa dân téc là một công việc khoa học,
cần thiết có ý nghĩa của mọi thời đại. Để nhận định, đánh giá được tầm vóc
những di sản lịch sử thì cần phải có những công trình khoa học công phu, hệ
thống. Di sản văn hóa mà Phạm Văn Đồng để lại cho chóng ta trong lĩnh
vực giáo dục là một di sản văn hóa quý báu, có ý nghĩa trường tồn đòi hỏi
chúng ta phải có những công trình nghiên cứu khoa học, nghiêm túc và dày
công. Những ý kiến, gợi ý, nhận định của ông về vấn đề giáo dục nói chung
1
về vấn đề dạy học Văn (DHV) trong nhà trường phổ thông nói riêng là
những tri thức khoa học rất bổ Ých và thiết thực cho công tác giáo dục nước
nhà đặc biệt là trong lĩnh vực DHV.
Thực hiện đề tài “Phạm Văn Đồng với vấn đề dạy học Văn trong nhà
trường phổ thông”, tác giả mong muốn làm sáng rõ được ý nghĩa của sự


đóng góp quý báu mà Phạm Văn Đồng đã cống hiến cho sự nghiệp giáo dục
nước nhà đồng thời suy nghĩ để có những vận dụng tư tưởng DHV của
Phạm Văn Đồng vào việc DHV trong nhà trường phổ thông hiện nay.
1.2. Những luận điểm của Phạm Văn Đồng về văn học, giáo dục
đã trở thành những tư tưởng chiến lược có tác dụng chỉ đạo tích cực,
hữu hiệu đối với việc giảng dạy Ngữ văn trong nhà trường phổ thông
Giáo dục đào tạo là vấn đề được hầu hết mọi quốc gia trên thế giới đặt
sự quan tâm hàng đầu, đặc biệt ở các nước phát triển. Đây luôn là lĩnh vực
nhạy cảm và bức xúc nhất. Những luận điểm của Phạm Văn Đồng coi chiến
lược phát triển giáo dục là “chiến lược con người”, “giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu, là tương lai của dân tộc”, giáo dục là “đào tạo thế hệ trẻ
thành những con người xã hội chủ nghĩa có đạo đức, thông minh, sáng tạo”,
“Văn học là vũ khí vô song”, văn học là “món ăn tinh thần” không thể thiếu
của con người, “Dạy văn là một quá trình rèn luyện toàn diện” hay “Giữ gìn
sự trong sáng của tiếng Việt” là những nhận định, ý tưởng, định hướng
khoa học mới mẻ và hiện đại rất thiết thực cho công tác đào tạo trong nhà
trường nói chung và hoạt động DHV ở nhà trường phổ thông nói riêng.
1.3. Phương pháp luận tiếp cận văn học và vấn đề dạy học Văn
trong nhà trường là một phương pháp luận tiên tiến, hiện đại cần được
tiếp tục nghiên cứu
Trong hoạt động DHV ở nhà trường phổ thông, những vấn đề nghiên
cứu về tiếp nhận văn bản, coi học sinh là bạn đọc thông minh sáng tạo, là
trung tâm của quá trình dạy học theo cơ chế mới, DHV dùa vào bản chất
2
đặc trưng của bộ môn, hứng thó, động cơ học tập của học sinh…là những
vấn đề cơ bản, quan trọng cần được mở rộng và triển khai nghiên cứu.
Phạm Văn Đồng là một người am hiểu, đam mê văn học và quan tâm
nhiều đến hoạt động DHV ở nhà trường. Những phát biểu của ông về lĩnh
vực này là những căn cứ khoa học có liên quan trực tiếp đến những vấn đề
rất cơ bản nêu trên. Những ý kiến Êy có ý nghĩa khoa học rất lớn, bổ sung

vào phương pháp luận nghiên cứu văn học, vấn đề DHV ở nhà trường phổ
thông những tri thức khoa học rất bổ Ých. Cho đến nay, vấn đề phương pháp
luận tiếp cận văn học, vấn đề DHV trong nhà trường vẫn còn nhiều điÒu
cần bàn luận. Do vậy, những đóng góp của Phạm Văn Đồng về mặt này là
những tiền đề lí luận rất tin cậy và hữu Ých. Thực hiện đề tài “Phạm Văn
Đồng với vấn đề DHV trong nhà trường phổ thông” là góp phần bổ sung tri
thức vào phương pháp luận tiếp cận văn học, vấn đề DHV trong nhà trường
nói chung, nhà trường phổ thông nói riêng, nhằm nâng cao chất lượng dạy
học bộ môn Ngữ văn trong nhà trường.
1.4. Vấn đề tư tưởng, quan điểm giáo dục của Phạm Văn Đồng
chưa được nghiên cứu mét cách cụ thể, hệ thống
Trên thực tế, các tác giả (trong và ngoài nước) viết về Phạm Văn
Đồng khá nhiều. Nếu chỉ riêng về đề tài Phạm Văn Đồng với giáo dục cũng
có không Ýt các bài viết, các tác giả quan tâm đến mảng đề tài này. Nhưng
nhìn chung, những tác phẩm Êy mới chỉ dừng lại ở phạm vi giới thiệu, đánh
giá, phân tích tư tưởng giáo dục của Phạm Văn Đồng trên tầm khái quát như
là những gợi ý, định hướng chung nhất mà chưa có một công trình khoa
học chuyên biệt nào dành riêng cho việc nghiên cứu tư tưởng DHV của
Phạm Văn Đồng.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Nhìn chung, các công trình khoa học, các bài viết về Phạm Văn Đồng
thuộc các lĩnh vực văn hoá, giáo dục nói chung được tập hợp trong ba cuốn
3
sách xuất bản ngay sau khi Phạm Văn Đồng qua đời cuốn “Phạm Văn
Đồng người con ưu tó của quê hương Quảng Ngãi”- NXB Chính trị Quốc
gia - năm 2001, cuốn “Phạm Văn Đồng trong lòng nhân dân và bạn bè quốc
tế”- NXB Chính trị Quốc gia - năm 2002 và cuốn “Đồng chí Phạm Văn
Đồng” - NXB Lao Động - năm 2004 và một vài công trình khoa học đăng
trên các Tạp chí Giáo dục, Tạp chí Văn học, Tạp chí Ngôn ngữ, Báo Văn
nghệ, Báo Nhân dân, Báo Giáo dục và Thời đại. Những tác phẩm Êy của

các tác giả là những đồng chí lãnh đạo Đảng và nhà nước, những người bạn
chiến đấu gần gũi của Phạm Văn Đồng, những đồng chí lão thành cách
mạng, các nhà giáo, các nhà khoa học, các cán bộ ở các ngành, địa phương
và bạn bè quốc tế từng có dịp làm việc hoặc tiếp xúc với ông.
Trong số đó, có thể kể đến một số công trình khoa học, bài viết tiêu
biểu của các tác giả sau:
* Nhóm bài viết về chủ đề “Phạm Văn Đồng với vấn đề giáo dục” có
thể kể đến bài “Phạm Văn Đồng với giáo dục” của GS. Phan Trọng Luận in
trong cuốn “Phạm Văn Đồng trong lòng nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc
tế” - NXB Chính trị Quốc gia - năm 2002. Bài viết là sự bao quát hầu hết
những đóng góp, cống hiến của Phạm Văn Đồng cho giáo dục nói chung,
giáo dục phổ thông nói riêng. Trong đó, tác giả nhấn mạnh đặc biệt đến một
số luận điểm lớn, có giá trị của Phạm Văn Đồng đối với hoạt động dạy học ở
nhà trường nói chung coi đó như là những luận điểm quan trọng cần được
nghiên cứu và khai thác. Đó là những luận điểm về tầm quan trọng của giáo
dục, “tính chất quan trọng của giáo dục phổ thông và người thầy giáo”, dạy
học, “dạy thông minh sáng tạo, chống lối dạy học theo điệu sáo”…Có thể
nói, đó là những gợi ý đặc biệt quan trọng và thiết thực cho các bước đi của
đề tài.
Bên cạnh đó, có thể kể đến một số bài viết của các tác giả nh: Phạm
Minh Hạc với bài “Bác Phạm Văn Đồng với sự nghiệp giáo dục nước nhà”.
4
“Một số quan điểm giáo dục của đồng chí Phạm Văn Đồng” của GS. Phan
Ngọc Liên. Bài “ Phạm Văn Đồng, người thầy đáng kính của các thầy giáo
và các nhà khoa học Việt Nam” của Đặng Hữu. Bài “Nhớ về đồng chí Phạm
Văn Đồng” của Nguyễn Thị Bình. Bài “Đồng chí Phạm Văn Đồng, nhà trí
thức cách mạng tiêu biểu của dân téc Việt Nam trong thế kỷ XX của Vũ
Đình Cự. Bài “Nhớ về Bác Phạm Văn Đồng” của Nguyễn Minh Hiển. Bài
“Bác Phạm Văn Đồng, nhà văn hóa lớn hết lòng chăm lo xây dựng nền khoa
học Việt Nam” của Nguyễn Văn Hiệu. Bài “ Đồng chí Phạm Văn Đồng với

sự nghiệp khoa học và giáo dục” của GS.VS. Nguyễn Văn Đạo. Bài “Bác Tô
và giới trí thức” của Nguyễn Lân Dũng. Bài “ Đồng chí Phạm Văn Đồng với
sự nghiệp “ trồng người” của Lý Việt Quang. Bài “Khoa học nâng con người
ta lên” của Hoàng Tụy. Bài “Tưởng niệm một con người” của Tương Lai.
Bài “Đồng chí Phạm Văn Đồng nhà văn hoá lớn của dân tộc” của Song
Thành. Bài “Nhà văn hoá Phạm Văn Đồng và cái lớn của văn hoá Việt
Nam” của Phan Ngọc. Tất cả các bài viết của các tác giả trên được tập hợp
trong cuốn “Phạm Văn Đồng trong lòng nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc
tế” của NXB Chính trị Quốc gia - năm 2002.
Một điểm dễ nhận thấy trong những bài viết của các tác giả trên là sự
thống nhất trong những đánh giá, nhận xét về tầm vóc tư tưởng giáo dục
của Phạm Văn Đồng đối với giáo dục Việt Nam. Tuy mới dừng ở mức độ
khái quát, chưa có sự hệ thống cụ thể và phân tích sâu nhưng những bài viết
Êy cũng đã chỉ ra rất rõ những luận điểm cơ bản, có giá trị trong tư tưởng
giáo dục của Phạm Văn Đồng. Đó là những luận điểm như: “Giáo dục là
quốc sách hàng đầu, là tương lai của dân tộc”; “Làm giáo dục là thực hiện
chiến lược về con người”; “Giáo dục thế hệ trẻ của dân téc thành những
chiến sĩ cách mạng dũng cảm, thông minh, sáng tạo”…
Những kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học kể trên có thể
coi là cơ sở, điều kiện, căn cứ khoa học để tác giả luận án nhìn nhận rõ hơn
5
ý nghĩa của tư tưởng giáo dục Phạm Văn Đồng đối với giáo dục nước nhà
nói chung và với hoạt động DHV trong nhà trường phổ thông nói riêng.
* Nhóm bài viết đề cập đến quan niệm của Phạm Văn Đồng về văn
học nghệ thuật có thể kể đến một số tác giả, tác phẩm như Cù Huy Cận với
bài “Kỷ niệm về đồng chí Phạm Văn Đồng”, Hoàng Như Mai với bài “Phạm
Văn Đồng –Ngôi sao càng nhìn càng thấy sáng”, Bảo Định Giang với bài
“Những điều bổ Ých qua nhiều lần gặp gỡ nhà văn hoá lớn Phạm Văn
Đồng”, Nông Quốc Chấn với bài “Phong cách Phạm Văn Đồng”, Hà Xuân
Trường với bài “Nhớ những lời anh dặn”. Nguyễn Đình Thi, Đoàn Minh

Tuấn với bài “ Gặp anh Tô ở đại hội Tân Trào”. Tất cả các tác phẩm Êy đều
được in trong cuốn “Phạm Văn Đồng trong lòng nhân dân Việt Nam và bạn
bè quốc tế” của Nxb Chính trị Quốc gia năm 2002.
Không hệ thống và đi vào phân tích chi tiết những luận điểm của Phạm
Văn Đồng về văn học nghệ thuật nhưng các tác giả đã làm rõ được tình cảm,
trách nhiệm của Phạm Văn Đồng với nền văn học nghệ thuật nước nhà và
nêu được một số ý kiến của ông về vấn đề thuộc lĩnh vực văn học nghệ thuật
rất bổ Ých cho việc tìm hiểu, nghiên cứu tác phẩm văn chương, phục vô hoạt
động giảng dạy văn học ở nhà trường phổ thông. Đó là những ý kiến về các
vấn đề: Văn học là gì? Tiêu chí của một tác phẩm nghệ thuật, chân dung
người nghệ sĩ, mối quan hệ giữa văn học và đời sống, sức mạnh của văn học

Đây được coi nh những tư liệu quý báu, cần thiết cho việc nghiên cứu
sâu hơn quan niệm về văn học nghệ thuật của Phạm Văn Đồng, giúp cho việc
đánh giá, nhận xét tư tưởng, quan điểm DHV của ông thêm thuyết phục.
* Nhóm bài viết về đề tài Phạm Văn Đồng với việc DHV ở nhà
trường, có thể kể đến một số tác giả, tác phẩm nh:
6
Trương Chính với bài “Kỷ niệm kinh nghiệm dạy văn” in trong cuốn
“Một số vấn đề về phương pháp dạy học văn trong nhà trường”- Nxb Giáo
dục – năm 2001.
Ở bài viết này, tác giả không đặt vấn đề tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng
DHV của Phạm Văn Đồng nhưng chính những tâm sự của tác giả đã nói lên
ý nghĩa và giá trị lý luận cũng như thực tiễn rất to lớn của tư tưởng DHV
Phạm Văn Đồng. Những tâm sự hết sức chân thành của tác giả về sự “sáng
ra” của mình sau khi được tiếp xúc và trải nghiệm tư tưởng DHV của Phạm
Văn Đồng vào hoạt động giảng dạy văn học của ông đã cho thấy sức sống,
sự ảnh hưởng to lớn, diệu kỳ từ tư tưởng dạy học văn của Phạm Văn Đồng
đến nhận thức của những người làm công tác giảng dạy văn học.
PGS.TS. Hà Nguyễn Kim Giang trong cuốn “Cho trẻ làm quen với tác

phẩm văn học- một số vấn đề lý luận và thực tiễn” - Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội- năm 2005, cũng có những đánh giá, nhận xét, phân tích rất chính
xác và thuyết phục về tư tưởng dạy học văn của Phạm Văn Đồng và những
ảnh hưởng của nó đến hoạt động nghề nghiệp của chính tác giả. Tuy dung
lượng những trang viết không nhiều nhưng tác giả cũng đã bày tỏ được tâm
huyết, tấm lòng và tình cảm chân thực của mình đối với một tư tưởng giáo
dục lớn cũng như phân tích khái quát được một số luận điểm cơ bản của
Phạm Văn Đồng về việc DHV trong nhà trường.
Đặt trong sù so sánh, đối chiếu với những tư tưởng DHV trước và sau
thập kỷ 70 và 80 của thế kỷ XX, tác giả Nguyễn Gia Cầu trong luận án
“Những khuynh hướng và thành tựu của khoa học phương pháp dạy học văn
trong hai thập kỷ 70 và 80” đã đánh giá một cách khái quát tầm vóc tư tưởng
dạy học Văn của Phạm Văn Đồng như một điểm mốc quan trọng đánh dấu
sự chuyển biến trong nhận thức về phương pháp luận nghiên cứu phương
pháp DHV trong nhà trường phổ thông.
7
Cũng viết về chủ đề trên, Ths. Vũ Thị Hồng Thắm trong hai bài viết:
“Một tư tưởng lớn vẫn tiếp tục toả sáng” và “Những tác phẩm viết về Hồ
Chí Minh của Phạm Văn Đồng, tài liệu dạy học văn vô cùng quý giá cho
giáo viên văn THPT” đăng trên Tạp chí Giáo dục số 2/2002 và số 10/2004
đã bàn đến một cách khái quát phương hướng vận dụng những luận điểm
DHV của Phạm Văn Đồng vào hoạt động DHV ở nhà trường phổ thông.
Tìm hiểu những công trình nghiên cứu về Phạm Văn Đồng trong phạm
vi bao quát của để tài, chúng ta thấy chưa có một công trình nghiên cứu chuyên
biệt, quy mô nào về tư tưởng DHV của ông. Do vậy, kết quả nghiên cứu và
những gợi mở khoa học đặt ra từ những công trình khoa học kể trên là cơ sở,
động lực cho chúng tôi tiếp tục nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng DHV của nhà
văn hoá, giáo dục này một cách hệ thống, cụ thể và sâu sắc hơn.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài “Phạm Văn Đồng với vấn đề dạy học văn trong nhà trường phổ

thông” nhằm hướng tới một số mục đích sau:
3.1. Phát hiện, tập hợp một cách hệ thống những luận điểm của Phạm
Văn Đồng về vấn đề giáo dục, văn học, DHV.
3.2. Dùa trên tư tưởng DHV của Phạm Văn Đồng để phân tích, lý
giải, soi sáng việc DHV trong nhà trường phổ thông.
3.3. Giúp giáo viên Ngữ văn nhận thức rõ hơn lao động đặc thù của
hoạt động DHV trong nhà trường phổ thông.
8
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Nghiên cứu toàn bộ những văn bản, những phát ngôn của Phạm
Văn Đồng trực tiếp hoặc có liên quan đến vấn đề giáo dục, văn học, DHV
trong nhà trường phổ thông.
4.2. Nghiên cứu những tài liệu, công trình khoa học, bài viết của các
tác giả, các nhà khoa học, các nhà giáo có uy tín, kinh nghiệm về những vấn
đề của đề tài.
4.3. Dùa trên những luận điểm của Phạm Văn Đồng về vấn đề DHV,
xác lập các tiêu chí về lao động đặc thù của người giáo viên Ngữ văn trong
nhà trường phổ thông.
5. Ý NGHĨA KHOA HỌC CỦA ĐỀ TÀI
5.1. Ý nghĩa lý luận
- Với đề tài “Phạm Văn Đồng với vấn đề dạy học văn trong nhà
trường phổ thông”, lần đầu tiên những vấn đề lý luận DHV trong nhà
trường của Phạm Văn Đồng được tập hợp một cách đầy đủ, hệ thống.
- Những vấn đề vÒ lý luận DHV mà Phạm Văn Đồng đặt ra góp phần
bổ sung, hoàn thiện hệ thống lý luận DHV trong nhà trường phổ thông
hiện nay.
- Tư tưởng DHV của Phạm Văn Đồng bổ sung những tri thức khoa
học rất bổ Ých vào phương pháp luận nghiên cứu văn học, vấn đề DHV ở
trường phổ thông.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn

- Đề tài “Phạm Văn Đồng với vấn đề dạy học văn trong nhà trường
phổ thông” giúp cho anh chị em đồng nghiệp, các bạn sinh viên và những
người quan tâm đến vấn đề phương pháp DHV nói chung, quan niệm về
việc DHV của Phạm Văn Đồng trong nhà trường phổ thông nói riêng có
điều kiện tìm hiểu kỹ lưỡng, hệ thống hơn về vấn đề này.
9
- Đề tài góp phần nâng cao nhận thức của giáo viên về lao động nghề
nghiệp đặc thù của hoạt động DHV trong nhà trường phổ thông.
- Đề tài góp phần vào việc đổi mới toàn diện phương pháp DHV đang
diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài “Phạm Văn Đồng với vấn đề dạy học văn trong
nhà trường phổ thông”, các phương pháp nghiên cứu sau đây được sử dụng:
6.1. Phương pháp hệ thống
Phương pháp hệ thống được dùng trong quá trình hệ thống hoá các
kết quả tìm hiểu, nghiên cứu về các phương pháp DHV trong nhà trường,
các công trình nghiên cứu, các bài viết về Phạm Văn Đồng nói chung, đặc
biệt là những bài nghiên cứu về Phạm Văn Đồng với giáo dục và quan điểm
của ông về việc DHV ở nhà trường phổ thông.
6.2. Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu
Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu được dùng khi tiến hành
tìm hiểu, nghiên cứu những tài liệu trực tiếp và gián tiếp có liên quan đến đề
tài để phục vụ cho những kết luận cần thiết của luận án.
6.3. Phương pháp khái quát, tổng kết lý luận
Dùa trên những phân tích, so sánh và kết quả nghiên cứu các nguồn
tài liệu nói trên, phương pháp khái quát, tổng kết lý luận được dùng để đánh
giá, kết luận về ý nghĩa của đề tài và những đóng góp của luận án.
7. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Nếu các tư tưởng, luận điểm của Phạm Văn Đồng về vấn đề DHV trong
nhà trường phổ thông được nghiên cứu và tập hợp lại một cách đầy đủ, có hệ

thống thì vấn đề lý luận về phương pháp DHV sẽ được hoàn thiện thêm.
Đồng thời, nếu những tư tưởng, luận điểm về vấn đề DHV của Phạm
Văn Đồng được giáo viên nghiên cứu và thực thi vào thực tiễn dạy học thì
10
hiệu quả của giê DHV cũng như việc đổi mới phương pháp DHV ở nhà
trường phổ thông sẽ được nâng cao rõ rệt về chất lượng và hiệu quả.
8. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
8.1. Luận án đã bao quát, hệ thống và phân tích những luận điểm cơ
bản của Phạm Văn Đồng về vấn đề DHV ở nhà trường phổ thông.
8.2. Luận án đã khẳng định tính khoa học, hiện đại, thực tiễn và khả
thi của tư tưởng giáo dục Phạm Văn Đồng nói chung, những luận điểm của
ông về vấn đề DHV trong nhà trường phổ thông nói riêng.
8.3. Luận án góp phần hoàn thiện hệ thống lý thuyết DHV trong nhà
trường phổ thông còng nh định hướng tích cực cho cuộc đổi mới về phương
pháp DHV đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay.
8.4. Trên cơ sở tư tưởng DHV của Phạm Văn Đồng và quan niệm của
ông về người thầy giáo, luận án đã đặt ra những tiêu chí, yêu cầu đối với
người giáo viên Ngữ văn trong nhà trường phổ thông hiện nay.
9. CẤU TRÚC CỦA LUẬN ÁN
Luận án gồm 176 trang: Phần mở đầu 10 trang; phần nội dung 144
trang; phần kết luận 6 trang; công trình nghiên cứu của tác giả 1 trang; tài
liệu tham khảo 15 trang.
11
NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG LUẬN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA PHẠM VĂN ĐỒNG VỀ GIÁO
DỤC VÀ VĂN HỌC LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC DẠY HỌC VĂN
TRONG NHÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG
1.1. Một tầm nhìn chiến lược và hiện đại của phạm văn đồng về giáo dục
Phạm Văn Đồng sinh ngày 01 tháng 03 năm 1906 trong mét gia đình

công chức tại xã Đức Tân, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Hồi nhỏ, ông
học ở trường Quốc học Huế, sau ra Hà Nội học ở trường Bưởi và tham gia
cách mạng từ đó. Ông đã trở thành nhà lãnh đạo cách mạng xuất sắc, người
học trò ưu tó của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từng làm Thủ tướng Chính phủ 32
năm, trong suốt cuộc đời mình ông đã dành rất nhiều tình cảm, thời gian cho
hoạt động giáo dục nước nhà, lĩnh vực mà ông đặc biệt tâm huyết.
Ông từng tâm sự: “Từ thuở thơ Êu đến tuổi trưởng thành, trong quá
trình hoạt động cách mạng cho đến ngày nay, tôi rất coi trọng giáo dục, ham
mê giáo dục, coi đó là một nhân tố có tầm quan trọng bậc nhất, góp phần
làm nên không chỉ sự nghiệp của một con người, mà còn là động lực làm
nên lịch sử của một dân téc, của cả loài người từ thời đồ đá cho đến ngày
nay”[177, tr 674]. Có lẽ vì thế, tìm hiểu quan điểm về giáo dục của nhà văn
hoá này “các thầy giáo, cô giáo, các cán bộ trong ngành, những người làm
công tác giáo dục sẽ nhận thức đường lối, quan điểm giáo dục của Đảng
được cụ thể và sáng rõ hơn về các vấn đề: vị trí, chức năng của giáo dục; vai
trò của ông thầy; mục đích, mục tiêu; nội dung, phương châm, phương pháp
giáo dục của Đảng và Chính phủ”[19,tr3]. Những cống hiến, đóng góp của
Phạm Văn Đồng trên lĩnh vực này không chỉ có ý nghĩa đối với giáo dục
Việt Nam mà còn có ý nghĩa đối với sự phát triển của giáo dục thế giới.
12
Nói về tầm quan trọng đặc biệt của giáo dục đối với lịch sử nhân loại,
ông là người đầu tiên đưa ra khái niệm “đòn xeo”. Ông cho rằng “giáo dục
là cái đòn xeo của cả loài người”.[44,tr 16]
Từng khẳng định: “Giáo dục là một bộ phận lớn của sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa”, Phạm Văn Đồng đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò của
nhà trường trong sự nghiệp giáo dục: “Nói đến sự quan trọng của tư tưởng là
nói đến sự quan trọng của giáo dục, là nói đến vai trò của nhà trường trong
xã hội xã hội chủ nghĩa” [19, tr 69]. Chính vì thế, việc tìm hiểu tư tưởng
giáo dục của Phạm Văn Đồng “có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, đóng
góp lớn vào hệ thống lý luận giáo dục Việt Nam và quan điểm xây dựng nhà

trường xã hội chủ nghĩa”[177, tr613]. Nghiên cứu, tìm hiểu tư tưởng giáo
dục của ông chúng ta thấy, điểm cơ bản, cốt lõi trong tư tưởng giáo dục của
nhà lý luận giáo dục này là: Làm giáo dục là thực hiện chiến lược con người
mà trọng tâm là khai thác và phát triển chất lượng của bộ óc. Việc tìm hiểu,
khai thác, vận dụng tư tưởng giáo dục của ông vào hoàn cảnh giáo dục Việt
Nam trong hiện tại và tương lai sẽ mang lại cho giáo dục nước nhà “một sắc
diện mới”.
Đối với hoạt động dạy học ở nhà trường phổ thông, việc tìm hiểu tư
tưởng giáo dục của Phạm Văn Đồng sẽ giúp cho giáo viên có những hiểu
biết, định hướng đúng đắn, khoa học, mới mẻ về mục đích, mục tiêu,
phương pháp dạy học để có những biện pháp, cách thức dạy học thích hợp
mang lại hiệu quả dạy học cao.
Xét về lĩnh vực DHV hiện nay thì “dạy văn, học văn không còn là
công việc riêng của nhà giáo và nhà trường. Nó trực tiếp liên quan đến chiến
lược con người, đến sinh mệnh của chế độ ta và cả đời sống văn học của xã
hội”[92, tr10]. Vì thế, làm thế nào để nâng cao chất lượng của hoạt động
DHV là một việc làm hết sức có ý nghĩa. Quan niệm của Phạm Văn Đồng về
vấn đề DHV trong nhà trường phổ thông chính là một sự cụ thể hoá tư tưởng
13
giáo dục nói chung của ông. Do vậy, những luận điểm Êy luôn là nền tảng,
cơ sở cho những chỉ đạo, định hướng, đề xuất của Phạm Văn Đồng về vấn
đề DHV trong nhà trường phổ thông. Việc tìm hiểu, nghiên cứu những luận
điểm của Phạm Văn Đồng về giáo dục có ý nghĩa to lớn. Một mặt, nó là
những minh chứng chứng tỏ sự hiểu biết sâu sắc, uyên thâm về giáo dục của
một nhà lãnh đạo cách mạng tiền bối đáng kính. Mặt khác, những luận điểm
Êy là những cơ sở, căn cứ khoa học bổ Ých phục vụ cho việc phân tích
còng nh đánh giá, kết luận về giá trị tư tưởng DHV của Phạm Văn Đồng.
1.1.1. Giáo dục là động lực làm nên lịch sử của một dân téc, của
cả loài người
Hiện nay, vấn đề giáo dục là một vấn đề thời sự rất quan trọng và

nhạy cảm của tất cả các nước trên thế giới. Giáo dục được coi là thước đo, là
cán cân đánh giá sự phát triển của mỗi quốc gia. Có ý kiến cho rằng, hiện
nay đang có một “cuộc chiến tranh thế giới lần thứ ba, đó là chiến tranh về
giáo dục” [141, tr698]. “Không có nước nào ở ngoài vòng của cuộc chiến
tranh này và nước nào cũng cố gắng hết sức mình để nâng vị trí nền giáo
dục của nước mình lên cao hơn (trong thang bậc giáo dục của tất cả các
nước) [141, tr698]. Nhận thức được tầm vóc, ý nghĩa của vấn đề nêu trên,
những năm 50 của thế kỷ XX, Phạm Văn Đồng đã có những luận điểm về
giáo dục rất đáng trân trọng và cảm phục.
Ông từng quan niệm rằng, bản chất của giáo dục xét cho cùng là sự
tác động tích cực “có định hướng”, có “kế hoạch” vào ý thức con người
nhằm nâng cao khả năng nhận thức và hướng dẫn con người hoạt động theo
một chương trình, mục tiêu cụ thể. Từ quan niệm đó, Phạm Văn Đồng kết
luận: “Lịch sử của loài người, của các dân téc vươn lên theo hướng ba cuộc
giải phóng: giải phóng dân téc, giải phóng xã hội, giải phóng con người; đấu
tranh chống áp bức, bóc lột, chống sự tha hoá để trở lại tính người và phát
huy khả năng của mình, thực hiện hoài bão ngày càng lớn, đưa lại cuộc sống
14
tốt đẹp hơn. Đây là quá trình của giáo dục và đào tạo với nghĩa rất rộng của
nó”.[44,tr8,9]
Thực tế đã chứng minh, từ loài vượn, qua quá trình lao động, trải
nghiệm thực tế, “con vượn” đã biến thành “con người”. Đây là một minh
chứng thuyết phục nhất cho thấy tầm quan trọng của lao động và giáo dục
trong lịch sử phát triển nhân loại. Luận điểm của Phạm Văn Đồng đã chứng
minh mối quan hệ giữa giáo dục với quá trình phát triển của con người là
mối quan hệ biện chứng, tác động, ảnh hưởng lẫn nhau mà mục đích cuối
cùng là thúc đẩy sự phát triển đi lên của toàn nhân loại.
1.1.2. Giáo dục là “quốc sách hàng đầu”[44, tr10]
Theo Phạm Văn Đồng, vấn đề giáo dục phải là vấn đề được xã hội coi
“là quốc sách hàng đầu”. Hiện nay, coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu” là

xu thế chung của nhiều quốc gia trên thế giới. “Tất cả các nước, các nguyên
thủ quốc gia trong lời tuyên bố đầu thế kỷ mới này đều với tinh thần đó”.
[177, tr645]
Ở Việt Nam, tại điều 35 chương III Hiến pháp nhà nước năm 1992
nêu rõ: “ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhà nước phát triển
giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Trong Luật giáo dục năm 1998 cũng đã chỉ rõ: “Giáo dục và đào tạo là quốc
sách hàng đầu, là sự nghiệp của nhà nước và của toàn dân”. Trong “Tìm
hiểu Luật giáo dục 2005”, tại mục 2, điều 102 có ghi: “Nhà nước dành ưu
tiên hàng đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, bảo đảm tỷ lệ tăng chi
ngân sách giáo dục hằng năm cao hơn tỷ lệ tăng chi ngân sách nhà nước”
[192, tr64]. Do vậy, luận điểm của Phạm Văn Đồng coi “giáo dục là quốc
sách hàng đầu” không những phù hợp với xu thế phát triển giáo dục chung
của thế giới mà còn phù hợp với chiến lược phát triển giáo dục của Đảng và
Nhà nước ta trong thời gian tới.
15
Coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu” là luận điểm được nhiều nhà
lãnh đạo, nhà nghiên cứu giáo dục đề cập đến nhưng cái đáng quý trong
quan niệm của Phạm Văn Đồng về vấn đề này là ở chỗ ông có sự phân tích
khá sâu sắc, độc đáo và tỉ mỉ.
Trong quan niệm của Phạm Văn Đồng về việc coi “giáo dục là quốc
sách hàng đầu”, chữ “Quốc”, phải được hiểu với nghĩa “là nước”, là “dân”.
Vậy nên, theo ông, việc coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu”, trước tiên
phải được mỗi thành viên trong xã hội nhận thức một cách đúng đắn rằng,
đó không chỉ là việc của các tổ chức ban ngành của Đảng, Chính phủ mà
còn là việc của mỗi công dân cụ thể. Ngoài ra, việc coi “giáo dục là quốc
sách hàng đầu”, không phải chỉ thể hiện trong những chủ trương, chính sách
của Nhà nước, ở sự bắt buộc phải chấp hành của công dân mà theo ông, nó
phải là sự tự giác, tự nguyện từ trong tư duy, tình cảm và trái tim họ. Mỗi
người dân phải nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề này và

dành cho nó sự quan tâm, đầu tư thích đáng nhất. Phạm Văn Đồng cũng cho
rằng, để hiểu rõ hơn vấn đề “coi giáo dục là quốc sách hàng đầu” thì bản
thân mỗi người phải tự trả lời một cách nghiêm túc những câu hỏi của chính
mình: “Anh là ai? Khả năng của anh có những gì? Hoài bão của anh đối với
giáo dục tha thiết đến chõng nào? Anh đã nghiên cứu, suy nghĩ và vươn lên
cống hiến ra sao về vật chất, tình cảm và trí tuệ cho sự nghiệp giáo dục?”
[44, tr12]. Những câu hỏi nêu trên là hết sức cụ thể mà chỉ có Phạm Văn
Đồng mới có thể đặt ra tỉ mỉ đến nh vậy. Những câu hỏi đó giúp cho mỗi
người đều có thể xác định một cách dễ dàng được trách nhiệm và tình cảm
của mình đối với giáo dục. Quan niệm về giáo dục nêu trên của Phạm Văn
Đồng đã cho thấy tính thiết thực, cụ thể, rõ ràng trong những định hướng, đề
xuất, gợi ý của ông về giáo dục.
Tóm lại, việc coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu” trong quan niệm
của Phạm Văn Đồng được ông giải thích một cách tổng quát như sau: Coi
16
giáo dục là quốc sách hàng đầu nghĩa là “sự nghiệp giáo dục và chính sách
giáo dục của Đảng và Nhà nước ta có tầm quan trọng hàng đầu, các cơ quan
có thẩm quyền và mọi người, mọi tầng líp nhân dân trong cả nước đều phải
coi trọng như vậy và phải làm đúng như vậy” [44, tr11]. Điều đó đồng nghĩa
với việc giáo dục phải được “xếp hàng thứ nhất và đi trước một bước, chứ
nhất định không để nó ở hàng bét và lẹt đẹt theo sau” [44, tr 13].
Nguyên nhân của việc coi giáo dục là quốc sách hàng đầu được ông lý
giải là vì “giáo dục có liên quan mật thiết đến mọi người, đem lại lợi Ých
cho mọi người, các tầng líp nhân dân các địa phương; và mọi người, các
tầng líp nhân dân, các địa phương phải làm hết sức mình vì sự nghiệp giáo
dục”[44, tr11]. Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, không phải lúc nào giáo
dục cũng được coi “là quốc sách hàng đầu”. Đã có thời, do chóng ta nhận
thức chưa thật đúng nên giáo dục “bị xếp vào lĩnh vực hành chính bao cấp,
phóc lợi xã hội” [94, tr1]. Thực tế đó đã chứng minh quan điểm coi giáo dục
là quốc sách hàng đầu của Phạm Văn Đồng là một tư tưởng rất mới mẻ, tiến

bộ.
Trong quan niệm của Phạm Văn Đồng, để thực hiện được việc coi
“giáo dục là quốc sách hàng đầu” là một việc hết sức khó khăn. Ông cho
rằng, trong bất cứ việc gì, “nói thì dễ nhưng làm thì khó,…làm giáo dục là
quốc sách hàng đầu, tương lai của dân téc lại càng khó về nhiều mặt”[164,
tr2].
Xét trong thực tế giáo dục của nước ta còng nh nhiều nước trên thế
giới thì nhận định của Phạm Văn Đồng là một nhận định có giá trị thực tiễn.
Trong giáo dục, “căn bệnh” phô trương thành tích mà nhiều lần ông đã từng
phê phán, nhiều khi đã làm sai lệch bản chất của việc coi “giáo dục là quốc
sách hàng đầu” và gây không Ýt cản trở cho sự phát triển của giáo dục. Một
nhận xét từ thực tế của việc dạy và học trong nhà trường của ta lâu nay cho
thấy: Học sinh “học thế nào rồi cũng đỗ vì tỉ lệ lâu nay là 95 đến 100% lên
17
líp tốt nghiệp, không đạt thế là thầy nguy, người quản lý giáo dục cũng
nguy, một sự đe doạ phi văn bản” [190, tr53]. Do vậy, coi giáo dục là “quốc
sách hàng đầu” trong quan niệm của Phạm Văn Đồng cũng đồng nghĩa với
việc phải trừ được căn bệnh thành tích nêu trên.
Như vậy, để vấn đề coi “giáo dục là quốc sách hàng đầu” được thực
hiện đúng với bản chất đích thực của nó, theo Phạm Văn Đồng, chỉ có một
cách duy nhất là làm sao cho “giáo dục phải hướng tới con người và con
người phải ham muốn giáo dục. Hai bên phải gặp nhau, luôn sát cánh cùng
nhau nh hình với bóng”[44, tr79].
1.1.3. Giáo dục là “tương lai của dân tộc”[44, tr14]
Không phải ngẫu nhiên mà trong những nội dung của giáo dục phổ
thông, Phạm Văn Đồng lại đặc biệt chú trọng tới nội dung giáo dục truyền
thống, giáo dục những phẩm chất đẹp đẽ, cao quý của dân téc cho học
sinh. Ông chỉ rõ: Phải dạy cho học sinh biết lịch sử hào hùng của dân
téc, truyền thống văn hiến từ ngàn xưa, làm dấy lên trong học sinh lòng
yêu nước nồng nàn và khát vọng hiến dâng tâm hồn và nghị lực của

mình vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[32, tr4].
Tổ quốc bao giê và khi nào cũng là nguồn cội của mọi tình cảm
chân thành, thiêng liêng và cao thượng. Nó nuôi dưỡng tâm hồn mỗi
người. V.A. Xukhomlinki từng cho rằng: “Đối với mỗi người chúng ta, Tổ
quốc bắt đầu từ một cái nhỏ bé dường như không lộng lẫy lắm và không có
gì nổi bật, cuộc sống của mỗi chúng ta vĩnh viễn đến hơi thở cuối cùng,
chứa đựng một cái gì đó duy nhất và không gì thay thế được như bầu sữa,
như sự âu yếm của mẹ, như lời nói thân yêu. Đó là miền quê thân yêu của
chúng ta, nơi thể hiện hình ảnh sinh động của Tổ quốc”[137, tr10]. Nội
dung giáo dục truyền thống trong luận điểm nêu trên của Phạm Văn Đồng
cho thấy phương châm giáo dục của ông là luôn gắn sù tồn tại và phát triển
của cả dân téc với sù tồn tại và phát triển của cá nhân mỗi người và ngược
18
lại. Đây là một quan niệm hết sức đúng đắn, là hệ quả của tư tưởng coi “giáo
dục là quốc sách hàng đầu”, “giáo dục là tương lai của dân tộc” mà ông đã
nhiều lần nhấn mạnh. Tính khoa học của luận điểm này thể hiện ở chỗ, nó
làm khăng khít hơn mối quan hệ giữa dân téc với cá nhân mỗi người, làm
tăng tính cộng đồng cũng như khơi gợi được lòng yêu nước, ý thức tự tôn
dân téc trong học sinh phổ thông nói riêng và mỗi người Việt Nam nói
chung.
V.A. Xukhomlinki cũng từng cho rằng: “Trường học là cái nôi tinh
thần của một dân téc. Dân téc nào biết chăm lo đến cái nôi tinh thần Êy, họ
sẽ có một tương lai rực rỡ”. Đồng quan điểm trên, Phạm Văn Đồng dÉn câu
nói của Bác: “Một dân téc dốt là một dân téc yếu”. Ông khẳng định: “ Vậy
thì một dân téc mạnh phải là một dân téc giỏi”. Từ sự nhận thức Êy, Phạm
Văn Đồng cho rằng: “Giáo dục là tương lai của dân tộc” [44, tr14]. Tương
lai của dân téc tức là tương lai của con người, của mọi người, trên quan
điểm “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do
của tất cả mọi người”[ 44, tr14] theo quan niệm của Lênin.
Quan niệm coi “giáo dục là tương lai của dân tộc” của Phạm Văn

Đồng đã được minh chứng rất rõ trong lịch sử phát triển các dân téc. Trên
thế giới, không có bÊt kỳ quốc gia nào được coi là phát triển mà trình độ
học vấn lại thấp, sự đầu tư cho giáo dục lại không được chú trọng.
Trong hoàn cảnh cụ thể của nước ta hiện nay, tính chất của giáo dục
được Phạm Văn Đồng nêu rõ: Giáo dục của nước ta trong tình hình hiện nay
“là giáo dục trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thực
hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh, thời kỳ quan trọng
bậc nhất của sự nghiệp cách mạng nước ta trên con đường tiến lên chủ nghĩa
xã hội”[ 44, tr16-17]. Hồ Chủ Tịch từng nói: “Muốn có chủ nghĩa xã hội,
trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Phạm Văn Đồng cho rằng,
chúng ta phải có “cách nhìn, tầm nhìn rộng, cao và sâu thì mới thấy hết ý
19
nghĩa của quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu, tương lai của dân tộc”
[44, tr18-19]. Như vậy, trong quan niệm của ông, giáo dục có vị trí và tác
dụng to lớn không gì thay thế được trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Luận điểm này như là một minh chứng chứng minh vì sao
trong thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Phạm Văn Đồng
“là người đầu tiên nêu vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa giáo dục với
đường lối công nghiệp hoá và hiện đại hoá”[14,tr58].
Luận điểm của Phạm Văn Đồng coi “giáo dục là tương lai của dân
tộc” được thể hiện rất rõ trong quan niệm của ông về một lâu đài giáo dục.
Lâu đài giáo dục trong quan niệm của nhà văn hóa này “là nơi cất giấu kho
báu của trí tuệ dân téc và trí tuệ loài người”. Vì thế, những ai đã từng vào
lâu đài giáo dục, khi “ra khỏi” đó là hoàn toàn có đủ tự tin để đi tới những
nơi “mình có thể đóng góp phần quan trọng nhất của mình vào sự nghiệp
xây dựng đất nước, đào tạo con người chuẩn bị tương lai” [44, tr25].
UNESCO từng nhận định về vai trò của giáo dục như sau: “ Giáo dục
trong thế kỷ XXI là chìa khóa tiến tới một thế giới tốt đẹp hơn; vai trò của
giáo dục là phát triển tiềm năng của con người; giáo dục là đòn bẩy mạnh
mẽ nhất mà chúng ta cần có để tiến vào tương lai; giáo dục là quyền cơ bản

nhất của con người; giáo dục là điều kiện tiên quyết để thực hiện nhân
quyền, dân chủ hợp tác trí tuệ, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau”[161, tr47].
Điều đó càng chứng tỏ quan điểm coi giáo dục là tương lai của dân téc của
Phạm Văn Đồng là một tư tưởng lớn, khoa học và hiện đại.
Vấn đề giáo dục nước nhà, vấn đề mà Phạm Văn Đồng “đặc biệt quan
tâm” vẫn đang là một vấn đề thời sự nóng bỏng của xã hội, là vấn đề được
quan tâm, đầu tư và thu hót nhiều tâm lực của những người tâm huyết, trách
nhiệm với giáo dục nước nhà. Đối với hoạt động dạy học trong nhà trường
nói chung, nhà trường phổ thông nói riêng, luận điểm coi “giáo dục là tương
lai của dân tộc” của Phạm Văn Đồng luôn nhắc nhở chúng ta phải ý thức rõ
20
hơn về chức năng, vai trò của người giáo viên trong việc đào tạo những người
chủ nhân tương lai cho đất nước.
1.1.4. Làm giáo dục là thực hiện chiến lược về con người
Sớm nhìn thấy sự cần thiết phải phát triển chiến lược con người,
Phạm Văn Đồng thường xuyên đề cập đến vấn đề này trong những buổi nói
chuyện, những bài viết của mình về giáo dục. Cách đây gần 40 năm, ông
nói: “Chiến lược của chúng ta là chiến lược con người, xây dựng và phát
huy con người có văn hoá, con người làm chủ tập thể, giàu lòng yêu nước và
yêu chủ nghĩa xã hội, đạt năng xuất và hiệu quả cao trong lao động, có lối
sống đẹp đẽ thể hiện trong các mối quan hệ giữa người với người”[26, tr5].
Trong hoàn cảnh hiện nay, tất cả các quốc gia trên thế giới đều chú
trọng đến yếu tố con người. Từ những năm 70 của thế kỷ XX ông đã nói tới
thuật ngữ “chiến lược con người”. Phải quan tâm chú trọng đến chiến lược
con người vì theo ông, con người là yếu tố quyết định và làm nên tất cả. Mọi
việc hay, dở, thành, bại, sự nghiệp cách mạng của chúng ta thế nào đều là
“do con người cả”, cho nên phải xây dựng con người.
Sù coi trọng chiến lược con người của Phạm Văn Đồng thể hiện rất rõ
trong việc nhìn nhận của ông về vai trò, trách nhiệm của người thầy giáo.
Ông từng nhiều lần nhấn mạnh: “Ngành giáo dục có tác dụng to lớn vô

cùng, sâu xa không lường hết; bởi vì nó là giáo dục phổ thông, lo cho tất cả
con em chóng ta; bởi vì nó là đào tạo đội ngò cán bộ, lo đào tạo con người,
những con người hiện nay và sau này có trách nhiệm xây dựng đất nước. Nó
quan trọng như vậy, to lớn như vậy, sâu xa như vậy” [18,tr43]. Ông cho
rằng, để nâng cao chất lượng con người chúng ta phải tập trung chó ý đến
vấn đề giáo dục, đào tạo họ: “Lấy con người được vũ trang bằng những kiến
thức khoa học hiện đại làm động lực để phát triển đất nước”. [177,tr670]
Cốt lõi của việc giáo dục và đào tạo con người là tập trung rèn luyện tư duy,
óc thông minh, tài sáng tạo cho họ.
21
Tư tưởng coi trọng giáo dục trong việc thực hiện chiến lược con
người của ông còn thể hiện rất rõ trong định nghĩa của ông về giáo dục:
“Giáo dục nói cho cùng là rèn luyện con người, vũ trang cho con người
những hiểu biết và kỹ năng nhằm đảm đương những công việc Ých nước,
lợi nhà trong từng thời gian của lịch sử dân tộc” [44, tr9]. Một cách cụ thể
hơn, Phạm Văn Đồng chỉ rõ: “Quá trình của giáo dục và đào tạo” với nghĩa
rất rộng của nó “không chỉ ở nhà trường, sách vở, thày dạy, trò học” mà
“bao hàm cả quá trình lao động để tồn tại, duy trì và phát triển nòi giống con
người” [44, tr9]. Như vậy, giáo dục chính là “quá trình phát triển không
ngừng toàn bộ khả năng của con người qua các cuộc đấu tranh và lao động
chứ không chỉ qua nhà trường” [44, tr9]. Theo ông, mục tiêu cuối cùng của
việc giáo dục đào tạo là tạo ra những con người mới xã hội chủ nghĩa phát triển
toàn diện về nhân cách, phát triển đầy đủ về đức, trí, thể, mỹ để có thể chiếm
lĩnh được đỉnh cao của tri thức loài người.
Trong quan niệm của Phạm Văn Đồng, “đức dục” và “trí dục” được
hiểu như sau: “Đức dục” là cách mạng tư tưởng. Hiểu cho đúng thì nó là
phẩm chất con người, là đạo đức con người. Nó là những ý nghĩ, tình cảm
lớn nhất, trong sáng nhất, đẹp đẽ nhất. Đức dục với ý nghĩa Êy là con
người…Con người Việt Nam” [18, tr55]. “Trí dục” là “giáo dục về sự hiểu
biết của loài người”[18, tr57]. Từ quan niệm Êy, Phạm Văn Đồng cho rằng,

phương châm giáo dục để thực hiện chiến lược con người là phải luôn kết
hợp giáo dục “trí dục” với “đức dục” và ngược lại. Hiệu quả giáo dục của nó
sẽ phụ thuộc vào cách chúng ta xử lý mối quan hệ biện chứng nêu trên.
Theo Phạm Văn Đồng, sở dĩ chúng ta phải kết hợp giáo dục “đức
dục” với “trí dục” là vì “đến trình độ nào đó, tri thức với tư tưởng, đức dục
với trí dục là một”[18, tr85]. Đây là tư tưởng cốt lõi trong quan niệm giáo
dục con người của nhà văn hoá này. Đó là quan điểm lấy văn hóa làm tiêu
chí, làm thước đo chuẩn mực cho sự phát triển của con người.
22
Bên cạnh đó, ông cho rằng, chúng ta cần phải giáo dục cho con người
“nếp suy nghĩ, nếp nghiên cứu, lòng ham học tập, ham khoa học, ham kỹ
thuật” ”[18, tr67]. Ông quan niệm, phải giáo dục những cái đó bởi chính nó
sẽ làm cho họ không bị tụt hậu, không bị đào thải và có khả năng phát triển
trí thông minh, tài sáng tạo vốn có của mình. Muốn vậy, theo ông, chúng ta
phải giáo dục cho con người ý thức được việc học là hạnh phóc đồng thời
cũng là gian khổ. Ông rất tâm đắc với câu nói của Các Mác: “không có con
đường thênh thang, con đường đế vương trong khoa học”[18, tr68]. Vì thế,
Phạm Văn Đồng cho rằng, chóng ta phải giáo dục cho con người ý thức
“học suốt đời, suốt đời”[18, tr62]. Một vấn đề cơ bản quan trọng mà ông
luôn chú trọng là vấn đề giáo dục cho con người có phương pháp, có kỹ
năng, biết “dùng đầu óc của mình”. Phạm Văn Đồng cho rằng, giáo dục cho
con người có phương pháp, kỹ năng “dùng đầu óc của mình” chính là cho
họ cái chìa khóa “để mở những kho tàng bí mật của tri thức loài người”[18,
tr68].
Tư tưởng cốt lõi trong quan điểm của Phạm Văn Đồng về vấn đề phát
triển chiến lược con người được ông gửi gắm trong những lời tâm huyết
nhắn nhủ thanh niên: “Hỡi các bạn trẻ, đi vào thế kỷ mới trong thời đại mới,
các bạn hãy học tập để thành người và để làm người, góp phần vào công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước nhà, xứng đáng với cha anh, sánh
vai cùng bè bạn trên thế giới”[137, tr11].

Tấm lòng, tâm huyết và trách nhiệm của ông đối với giáo dục là sự
thể hiện rõ nhất tư tưởng coi trọng chiến lược phát triển con người của ông.
Phạm Văn Đồng đến với giáo dục không chỉ với tư cách là một nhà
lãnh đạo, ông mang cả tình cảm chân thành của một người đã từng trải qua
nghề dạy học. Chỉ hơn mười một tháng trước khi qua đời, ông đã viết những
câu chất chứa đầy tâm trạng và thật sự xúc động: “…Tôi sắp viết đến dòng
cuối cùng của bài viết này. Trong suốt thời gian chuẩn bị viết loạt bài về
23
giáo dục, tâm trí tôi luôn nghĩ về sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta, về
con đường xã hội chủ nghĩa của dân téc ta, về thế hệ trẻ của đất nước ta, về
nền giáo dục quốc dân và công tác giáo dục, công tác mà tôi yêu mến với tất
cả tấm lòng thiết tha của mình”[44]. Có lẽ, chỉ bấy nhiêu thôi, đủ để nói lên
tấm lòng, tình cảm của ông với giáo dục Việt Nam. Thực tế cho thấy, những
năm 60 của thế kỷ XX, Phạm Văn Đồng đã từng xuống tận trường phổ
thông để dự giê, nắm tình hình giáo dục. Những năm 90 của thế kỷ XX, khi
ngoài 90 tuổi, trong những ngày tháng cuối cùng của cuộc đời, “mắt đã mờ”,
“chân đã yếu” nhưng ông vẫn đến dự giê ở đại học để có thêm thực tế cho
một bài viết quan trọng về cuộc cách mạng phương pháp dạy học mà ông
đang lo lắng, sẻ chia trong ngành giáo dục. Một trong hai việc mà ông cho là
cần thiết phải làm trước khi vĩnh biệt cõi đời này là hoàn thành cuốn sách về
giáo dục. Có lẽ vì thế, những tổng kết, định hướng, gợi ý của ông về giáo
dục có ý nghĩa vô cùng to lớn. Những cuốn sách như: “Vấn đề Giáo dục và
Đào tạo”, “Văn hoá là đổi mới” là những minh chứng cụ thể. Tình cảm và
tâm huyết của Phạm Văn Đồng dành cho giáo dục nước nhà như không phải
những người đứng đầu nhà nước nào cũng làm được”. Tấm gương nhà văn
hoá lớn này luôn sáng mãi trong lòng các thế hệ Việt Nam.
Có dịp viết về ông, một giáo sư - thầy giáo dạy văn từng bộc bạch:
“Với tôi, ngoài những ông Tiên, ông Phật của thế giới cổ tích, trong kí ức
tuổi thơ lại có thêm hình ảnh những người bạn tù đáng kính mà cha tôi đã
khơi dậy trong tôi”, “…trong kí ức của tôi, qua những câu chuyện và con

người mà cha tôi kể, đều luôn luôn sáng lên hình ảnh một người bạn tù mà
cha tôi kính yêu nhất, đó là bác Tô” [95, tr173]. Nghiên cứu cụ thể những
luận điểm của ông về vấn đề DHV trong nhà trường phổ thông, chúng ta
càng thực sự thấm thía, xúc động, kính trọng và biết ơn một con người, một
nhân cách, một tấm lòng cao cả, đẹp đẽ của một nhà văn hoá, giáo dục tầm
cỡ quốc tế – người học trò xuất sắc, ưu tó của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
24
Sẽ là thiếu toàn diện, khách quan và khoa học nếu nghiên cứu những
luận điểm của Phạm Văn Đồng về vấn đề DHV trong nhà trường phổ thông
mà không nghiên cứu những luận điểm của ông về giáo dục. Tìm hiểu quan
niệm của Phạm Văn Đồng về vấn đề này sẽ giúp giáo viên có điều kiện
hiểu, lý giải tường tận, kỹ càng và sâu sắc hơn quan niệm của ông về việc
dạy học Ngữ văn trong nhà trường phổ thông nói riêng và trong nhà trường
nói chung.
1.2. Một cách nhìn thấu đáo, mới mẻ và sâu sắc của phạm văn đồng về văn
học
1.2.1. Văn học “có một tác dụng vô song, không những đối với
một thời buổi, một thế hệ nào đó, mà tới muôn đời, không những đối
với một nơi, mà đối với mọi nơi”[25, tr 80]
Phạm Văn Đồng là một người đam mê văn học. Văn học nghệ thuật
luôn là một lĩnh vực mà ông muốn đem tất cả tâm huyết và khả năng của
mình để phục vô. Ông từng phát biểu: nói cho cùng thì “sự nghiệp mà nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng ta đang làm và sẽ làm, là cống hiến rất to
lớn, rất vĩ đại, rất cơ bản vào sự nghiệp văn học, nghệ thuật”[40, tr 269].
Phạm Văn Đồng rất thích đọc sách, nhất là sách lý luận văn học.
Không mấy khi có thời gian thư nhàn, rảnh rỗi, con người “đặc biệt này” đã
chọn hình thức đọc sách làm cách để mình thư dãn. Sự đam mê Êy có nguồn
gốc từ những nhận thức sâu sắc về tầm vóc và ý nghĩa của văn học nghệ
thuật đối với đời sống của con người, xã hội, lịch sử dân téc. Có lẽ vì thế,
vốn hiểu biết về văn học của ông rất sâu rộng và phong phú. Chính điều này

đã làm nên sức hấp dẫn, lôi cuốn và ảnh hưởng tích cực trong những tác
phẩm văn học cũng như quan niệm, sự chỉ đạo của ông về công tác văn học
nói riêng và văn hoá, văn nghệ nước nhà nói chung.
Văn học là một bộ môn khoa học lấy con người làm đối tượng trung
tâm để phản ánh xã hội, thể hiện sự nhận thức và sáng tạo của con người.
25

×