Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

thế giới nghệ thuật thơ anh thơ và hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ anh thơ .

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.24 KB, 83 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 4
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 9
4. Phương pháp nghiên cứu 9
5. Đóng góp của luận văn: 10
6. Bố cục luận văn 10
Chương 1: Thế giới nghệ thuật thơ Anh Thơ và hình tượng cái tôi trữ tình
trong thơ Anh Thơ 11
1.1 Thế giới nghệ thuật thơ 11
1.2 Cuộc đời và quan niệm nghệ thuật của Anh Thơ 14
1.3 Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Anh Thơ 17
1.3.1 Cái tôi khát khao giao cảm, chan hòa với thiên nhiên cảnh vật 18
1.3.2 Cái tôi cá nhân gắn với sinh hoạt lao động đời thường 22
1.3.3 Cái tôi trữ tình công dân gắn với cuộc sống kháng chiến 25
Chương 2: Hình tượng không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật
trong thơ Anh Thơ 32
2.1. Hình tượng không gian nghệ thuật 32
2.1.1. Không gian làng quê gắn với sinh hoạt đời thường và những
sinh hoạt mang tính cộng đồng 32
2.1.2 Không gian kháng chiến qua hình ảnh rừng núi chiến khu,
vùng biển, vùng trời, cánh đồng, con đường 36
2.2. Hình tượng thời gian nghệ thuật 42
2.2.1. Thời gian tuyến tính theo ngày, mùa 42
2.2.2 Thời gian hoài niệm và hướng về tương lai 49
Chương 3: Phương thức nghệ thuật thơ trong thơ Anh Thơ 54
3.1. Thể thơ
3.1.1 Thể thơ tám chữ 54
3.1.2 Thể thơ tự do 59
3.1.3 Một số thể thơ khác 63


3.2. Ngôn ngữ
3.2.1 Ngôn ngữ mộc mạc, bình dị gần gũi với đời sống 68
3.2.2 Ngôn ngữ mang tính cộng đồng 70
3. 3. Giọng điệu 72
3.3.1 Giọng điệu êm đềm trầm buồn, nhẹ nhàng sâu lắng 72
3.3.2 Giọng điệu nhanh, gấp gáp, vui tươi 75
KẾT LUẬN 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 79



2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Khi Anh Thơ xuất hiện trên thi đàn, Thơ mới đã ổn định với khá nhiều tên
tuổi nổi tiếng, nhưng nữ sĩ cũng tìm cho mình được tiếng nói riêng, độc đáo.
Trong khi một số nhà Thơ mới đang thoát li hiện thực, trốn vào men rượu, vào ái
tình hay vào tháp ngà nghệ thuật, vào cái tôi cô đơn để gặm nhắm tâm tư…, Anh
Thơ lại quay về với thiên nhiên thôn dã, cảnh vật bốn mùa, với các phong tục lễ
hội ở miền Bắc qua bút pháp nghệ thuật đậm nét tả chân. Cùng với Nguyễn
Bính, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ…, nữ sĩ Anh Thơ làm giàu thêm bức tranh
quê hương làng cảnh Việt Nam. Những bài thơ viết về nông thôn của nữ sĩ thực
sự đóng góp độc đáo cho bức tranh quê xứ Bắc tươi tắn, chân chất, sinh động,
hồn nhiên. Bên cạnh Bức tranh quê, Anh Thơ say đắm dẫn dắt người đọc vào
một thế giới hiện thực đầy nóng bỏng về hai cuộc chiến tranh chống Pháp và
chống Mĩ của dân tộc ta, với hình ảnh những xóm làng bị giặc tàn phá, với hình
ảnh những chiến sĩ đầy quả cảm, đầy tinh thần lạc quan cách mạng, với hình ảnh
chân thực về người phụ nữ trong kháng chiến… Với Anh Thơ, tinh thần dân tộc,
nhà thơ và người chiến sĩ gắn bó với nhau như hình với bóng, đồng hành tạo nên
một cốt cách nghệ thuật riêng, sinh động và đầy ắp hiện thực nóng bỏng. Có thể

nói, từ khi xuất hiện, thơ Anh Thơ thực sự lôi cuốn sự quan tâm, tìm hiểu,
nghiên cứu của không ít các thế hệ bạn đọc.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu học tập thơ Anh Thơ vẫn còn khá ít ỏi, chưa
xứng tầm với tên tuổi của một nhà thơ có vai trò to lớn lưu giữ hình ảnh bức
tranh quê cùng những giá trị văn hoá cổ truyền của quê hương làng cảnh Việt
Nam một cách chân thực đầy đủ, sinh động, hồn nhiên, tự nhiên…Do vậy, chọn
đề tài nghiên cứu về Thế giới nghệ thuật thơ Anh Thơ, chúng tôi mong muốn
góp phần xác định vị trí của một nhà thơ mới đậm chất điệu hồn quê chân chất,
mộc mạc, giữa hiện thực đất nước đầy sôi nổi, nóng bỏng lúc bấy giờ.

3
Thế giới nghệ thuật thơ Anh Thơ được nhìn nhận, nghiên cứu từ góc độ
một chỉnh thể nghệ thuật với những quy luật vận động nội tại của nó, chứ không
phải nhìn nhận trong sự riêng biệt tách rời giữa hình thức với nội dung, cũng
không phải chỉ là một hiện tượng xã hội lịch sử đơn thuần… Tìm hiểu thế giới
nghệ thuật chính là đi vào tìm hiểu cấu trúc lô gíc bên trong, sự kết hợp hài hoà
biện chứng giữa nội dung và hình thức nghệ thuật; từ đó góp phần xác định đúng
vai trò vị trí và những đóng góp cho thi ca dân tộc của nữ sĩ Anh Thơ.
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Trước Cách mạng Tháng Tám - 1945
Ngay từ năm 1939, khi tập thơ Bức tranh quê ra đời và được giải khuyến
khích của Tự lực văn đoàn, nữ sĩ Anh Thơ được các nhà lí luận phê bình, các nhà
văn, nhà thơ chú ý, quan tâm. Chỉ chưa đầy một tháng, với thể thơ tám chữ viết
về đề tài thiên nhiên, phong tục, sự ra đời tập thơ Bức tranh quê được giới văn
nghệ sĩ cũng như bạn lúc bấy giờ đánh giá cao, quả là hiếm có. Lúc đầu phải kể
tới những người công tác ở Tự lực văn đoàn như Nhất Linh, Thế Lữ… Nhất
Linh cho rằng: “Bức tranh quê của cô Anh Thơ là một tập ba mươi bài thơ. Bài
nào cũng mười hai câu. Tác giả đã tả cảnh thôn quê từ đầu năm cho đến tết. Mùa
nọ sang mùa kia. Tác giả nhất định tả cảnh theo thời tiết. Nhất định dùng một thể
thơ giống nhau. Tự đặt mình vào con đường khó khăn, hình như để cốt tỏ rõ sự

tài tình và khéo léo của mình. Lối ấy làm cho tập thơ kém vẻ linh hoạt, thành ra
nặng nề uể oải, từ đầu đến cuối cứ đều đều một giọng” [50; tr52].
Nhà phê bình văn học Hoài Thanh cho rằng: “Anh Thơ từ lâu chuyên lối
tả cảnh, mà lại tả những cảnh tầm thường: một phiên chợ, một đứa bé quét sân,
một cụ bà ngồi bắt chấy. Thơ của người biệt hẳn ra một lối…”.[44, 192 ]. Thơ
Anh Thơ “biệt hẳn một lối”, tức là nữ sĩ đã chọn cho mình lối đi riêng với chất
liệu hoàn toàn mới mẻ. Tuy nhiên, những sự vật, sự việc diễn ra hàng ngày rất
nhiều, quan trọng là ta biết nhìn nhận, quan sát từ những cái rất bình thường ấy
để nói lên được cái cốt yếu của đời sống. Nữ sĩ Anh Thơ đã làm được điều ấy.
Cái bình thường ấy lại phản ánh rất thật cái cốt lõi, cái hồn quê, duyên quê của

4
làng quê, đồng quê Việt Nam. Nhìn một góc độ khác, lý giải giọng điệu thơ Anh
Thơ, trên tờ báo Thanh Nghị số 37 ra tháng 10 năm 1942, Lê Huy Vân lí giải:
“Anh Thơ đã đổi giọng, lối văn xuôi làm cho nàng được giải thưởng không còn
nữa, giọng văn có vẻ bác học hơn nhiều…’’. Như vậy, trong giai đoạn này, thơ
Anh Thơ đã được một số bạn đọc và giới phê bình văn học quan tâm để ý đến.
Nhưng phải đến giai đoạn sau, sự nhìn nhận về thơ Anh Thơ mới thực sự khách
quan và sáng giá hơn.
2.2. Từ 1945 đến 1986
Ánh sáng cách mạng, lí tưởng Đảng Cộng sản thực sự soi sáng, lay động
thức tỉnh, định hướng cho trái tim và trí tuệ văn nghệ sĩ. Họ quay về với những
đề tài phục vụ nhân nhân, phục vụ kháng chiến, ca ngợi cuộc sống mới. Họ hăng
hái lên đường tìm nguồn cảm hứng sáng tạo từ những vùng đất mới. Trong thời
kì này, cũng như nhiều nhà văn khác, nữ sĩ Anh Thơ vừa hăng hái tham gia hoạt
động cách mạng vừa sáng tác thơ văn để cổ vũ, phục vụ cách mạng. Chuyển từ
đề tài thiên nhiên, phong tục trước 1945 sang đề tài phản ánh hiện thực cuộc
sống – kháng chiến đầy nóng bỏng của dân tộc, Anh Thơ cho ra đời hàng loạt tác
phẩm như: Kể chuyện Vũ Lăng ( 1957 ), Đảo ngọc (1963 ), Theo cánh chim câu
(1965 )…Mỗi tác phẩm là một góc nhìn riêng về cuộc sống – kháng chiến, nó

góp phần làm phong phú thế giới nghệ thuật thơ Anh Thơ.
Năm 1969, khi nhận định về một số nhà thơ mới trong bài Khuynh hướng
thơ Việt hiện đại, tác giả Uyên Thao cho rằng: “Huy Thông bộc lộ tình cảm
hùng mạnh của thanh niên trong những bài thơ đanh thép, Đoàn Văn Cừ, Nam
Trân, Anh Thơ biểu hiện tình cảm êm đẹp trong những bài thơ tả cảnh mộc
mạc…” [50; 118, 119 ]. Khác với vẻ đẹp trong thơ Huy Thông hùng tráng, mạnh
mẽ; vẻ đẹp của thơ Anh Thơ toát ra từ bức tranh làng quê, đồng quê êm đềm,
hồn hậu, chân chất, mộc mạc và hiện thực đời sống, kháng chiến nóng bỏng.
Năm 1978, trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tập 5, Nguyễn Hoành
Khung nhận xét về các thi sĩ đồng quê như Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn
Cừ : “Những người này tìm đến một mối tình quê, những cảnh vật quen thuộc

5
của quê hương, và đã đem lại cho thơ mới một phong vị riêng…Với xu hướng đi
về đồng quê, Thơ mới đã phần nào gợi được hình ảnh đất nước, quê hương thân
thuộc, nên thơ… [24; tr105]. Bên cạnh những nhà thơ thể hiện cái tôi cá nhân
thấm đẫm buồn đau cô đơn rất đặc trưng cho Thơ mới, Anh Thơ không chỉ say
mê dẫn dắt độc giả chiêm ngưỡng một bức tranh quê với những phong tục, hội
hè đình đám, với những sinh hoạt văn hóa dân gian đậm chất cổ truyền mà còn
đem đến cho người đọc bức tranh hiện thực cuộc sống, lao động và chiến đấu
đầy nóng bỏng trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ.
Năm 1982, trong cuộc hội thảo Văn chương Việt Nam giữa hai cuộc thế
chiến tại trường Đại học Harvad (Hoa Kì), Hà Minh Đức khẳng định tình yêu
quê hương đất nước trong Thơ mới, ở đó “Người ta có thể tìm thấy nhiều miền
quê với những vẻ đẹp riêng. Một làng biển trong thơ Tế Hanh, miền quê Hà Tĩnh
trong thơ Huy Cận; Nam Trân hay viết về xứ Huế; phong cảnh nên thơ ở đồng
quê miền Bắc trong thơ Nguyễn Nhược Pháp, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá
Lân, Nguyễn Bính, Hàn Mạc Tử…”. Sau đó, bài viết của Hà Minh Đức được in
trong cuốn Một thời đại thi ca – Về phong trào thơ mới 1932 - 1945 [15; 82,86].
Anh Thơ được mệnh danh là “nhà thơ đồng áng”[30, 1295 ], thơ Anh Thơ

không chỉ là bức tranh quê thuần túy mà ẩn chứa trong bức tranh ấy rất nhiều giá
trị văn hóa truyền thống dân tộc. Sự xuất hiện của Anh Thơ trên thi đàn làm cho
nền thơ ca Việt Nam có phần phong phú hơn.
2.3. Từ 1986 đến nay
Đại hội Đảng VI (Tháng 12 năm 1986 tiến hành công cuộc đổi mới một
cách toàn diện sâu sắc, trên nhiều lĩnh vực kinh tế, chính trị văn hóa, xã hội….
Thơ mới được nhìn nhận lại một cách tích cực, toàn diện nhất. Thơ mới đã đem
được linh hồn, sức sống của dân tộc, sắc màu thiên nhiên tươi tắn và bản sắc văn
hoá vùng miền, đồng thời có sự cách tân mạnh mẽ về nghệ thuật, thi pháp, quan
điểm thẩm mĩ.
Trong thời kì này, có nhiều nhận định đánh giá về Anh Thơ, Văn Tâm cho
rằng: “Khi bước chân lên thi đàn, Anh Thơ là người có trình độ học vấn nhà

6
trường thấp nhất trong làng Thơ mới: Lớp ba. Nhưng tác giả Bức tranh quê
khiến nhiều người ngạc nhiên…Tập thơ này cũng thuộc về lối thơ của người có
học. Phải là người có học mới có thể đưa vào thơ cái cảnh: “ Chó lè lưỡi ngồi
thừ nhìn cũi đóng/ Lợn trói nằm hồng hộc thở căng dây”[44, 189]. Tác giả
khẳng định những nỗ lực hiếm có và tài năng nghệ thuật của nữ sĩ Anh Thơ.
Nhận định về các nhà thơ trong phong trào Thơ mới 1932 – 1945, Phan Cự Đệ
cho rằng“ Nếu đem Thơ mới hồi ấy gạn đục khơi trong, thì đây đó người ta cũng
bắt gặp một vài nét trong sáng gần gũi với dân tộc (Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ,
Anh Thơ) một lòng yêu cuộc sống” [10; 50,51]. Cái nét trong sáng, hồn hậu ấy
trong thơ Anh Thơ cũng được rất nhiều nhà phê bình nghiên cứu văn học khẳng
định ngay từ tập Bức tranh quê – tập thơ đầu tay, hay những sáng tác sau đó của
nữ sĩ như : Hương Xuân, Đảo ngọc, Hoa dứa trắng, Theo cánh chim câu.
Gần như đồng quan điểm với Phan Cự Đệ, Đỗ Quốc Tuý lí giải “Sở dĩ các
nhà Thơ mới: Anh Thơ, Bàng Bá Lân, Đoàn Văn Cừ có được cái nhìn đằm thắm
tươi duyên, cái hồn hậu, phác thực của tâm hồn Việt Nam chính là họ chịu ảnh
hưởng nhiều của văn hoá dân gian nói chung và của ca dao nói riêng ” [49;

63]. Và thơ Anh Thơ ảnh hưởng rất sâu đậm phong vị của ca dao, dân ca, văn
hóa dân gian truyền thống.
Mỗi người cảm nhận thơ Anh Thơ ở những góc độ khác nhau, tầm nhìn
khác nhau, lại tìm thấy thơ Anh Thơ có những nét riêng biệt độc đáo. Đỗ Lai
Thuý cho rằng : “…Người ta có thể nhìn thế giới bằng - mắt - thời gian…người
ta có thể hình thành cái nhìn nghệ thuật riêng biệt qua mối xung đột giữa văn
hoá nông thôn và văn hoá thành thị trong thơ Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn
Cừ…” [48; 21,22]. Cái nhìn của tác giả Đỗ Lai Thúy ở đây là nhìn thơ Anh Thơ
trong tương quan so sánh giữa văn hóa nông thôn và văn hóa thị thành với nhiều
mối quan hệ riêng - chung phức tạp.
Trong cuốn Việt Nam thi nhân tiền chiến, khi nhận định về Anh Thơ,
Nguyễn Tấn Long cho rằng: “ Thoạt đầu khi Anh Thơ vừa góp mặt vào làng thơ
với những bài thơ ghi lại nếp sống đồng quê, tả những cảnh thiên nhiên, những

7
sinh hoạt thôn dã, thì có người chỉ trích cho rằng hướng này không hợp với
đường lối của lớp người trẻ đương thời. Tuy nhiên lập luận ấy, Anh Thơ vẫn
xem thường và không thay đổi định hướng sáng tác của mình…”[30; 1295].
Nguyễn Tấn Long khẳng định và ngợi ca lập trường sáng tạo nghệ thuật kiên
định của Anh Thơ, chính sự kiên định và niềm đam mê sáng tạo nghệ thuật ấy đã
đem đến cho Anh Thơ vị trí xứng đáng trên thi đàn. Anh Thơ nhìn cuộc đời với
con mắt tươi non, thân thiện, gần gũi và đầy nữ tính. Cho nên, trong thơ Anh
Thơ, bức tranh cuộc sống hiện lên có nét nhẹ nhàng, tươi vui, đầy nữ tính.
Như vậy, ngay từ khi ra đời cho đến nay, thơ Anh Thơ được sự quan tâm
chú ý của rất nhiều tầng lớp bạn đọc khác nhau. Từ đó, mỗi người lại nhìn nhận
thơ Anh Thơ ở một phương diện khác nhau. Tất cả những góc nhìn, những cách
hiểu ấy góp phần soi sáng, định hướng giúp chúng tôi có điều kiện làm rõ hơn
những giá trị đặc sắc trong Thế giới nghệ thuật thơ Anh Thơ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Tham khảo những bài nghiên cứu về thơ Anh Thơ của các tác giả có

uy tín, luận văn hệ thống hóa hình tượng nghệ thuật thơ Anh Thơ nhằm nêu bật
lên được quan điểm nghệ thuật và tư tưởng thẩm mĩ của nhà thơ. Do đó, đối
tượng nghiên cứu của luận văn chính là chỉnh thể nghệ thuật thơ Anh Thơ.
3.2 Phạm vi nghiên cứu của luận văn gồm các tập thơ của Anh Thơ sáng
tác từ 1939 đến 2002: Bức tranh quê (1939), Xưa (in chung 1942), Hương xuân
(in chung 1944), Kể truyện Vũ Lăng (Truyện thơ, 1957), Đảo ngọc (1963), Theo
cánh chim câu (1965), Mùa xuân màu xanh (1974), Quê chồng (1977), Lệ sương
(1997), Thơ Anh Thơ ( 2002 ).
4. Phương pháp nghiên cứu
Thực hiện đề tài Thế giới nghệ thuật thơ Anh Thơ, chúng tôi vận dụng lí thuyết
tiếp nhận hiện đại về Thi pháp học và Phong cách học, cũng như Ngôn ngữ học
làm tiền đề kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu văn học để nghiên cứu đề tài
này:
4.1. Phương pháp phân tích

8
Việc khám phá nghệ thuật thơ Anh Thơ là để tiếp cận với thế giới thơ, thế
giới hình tượng và thế giới trữ tình. Vì thế, phương pháp phân tích văn học được
vận dụng nghiên cứu chủ chốt. Với phương pháp nay, chúng tôi khai thác, phân
tích, lí giải những hiện tượng nghệ thuật trong thơ Anh Thơ như cách thức vận
dụng từ ngữ, xây dựng hình ảnh, vận dụng thể thơ, nhịp điệu câu thơ Trên cơ sở
ấy, chúng tôi dễ dàng phát hiện giá trị thẩm mĩ của những yếu tố này.
4.2. Phương pháp so sánh
Để khám phá nghệ thuật thơ Anh Thơ, trong luận văn này, chúng tôi sử
dụng phương pháp so sánh lịch đại và đồng đại. Nếu phương pháp so sánh lịch
đại giúp chúng ta nhận rõ sự vận động và phát triển của nghệ thuật thơ, thấy
được sự kế thừa và cách tân của các yếu tố nghệ thuật trong thơ Anh Thơ thì
phương pháp đồng đại giúp chúng tôi nhận thức sâu sắc đặc diểm nổi bật của thế
giới nghệ thuật thơ Anh Thơ, tìm ra nét khu biệt trong thế giới nghệ thuật thơ
Anh Thơ.

4.3. Phương pháp hệ thống
Sự nghiệp thơ ca của Anh Thơ là một cấu trúc hệ thống sống động, một
chỉnh thể toàn vẹn. Do đó, trong quá trình triển khai luận văn, song song với
phương pháp so sánh và phân tích, chúng tôi vận dụng phương pháp hệ thống để
phân tích và giải mã các chi tiết, các cấp độ của yếu tố nghệ thuật và xem xét
mối quan hệ của chúng trong cấu trúc của chỉnh thể nghệ thuật. Phương pháp
này còn giúp chúng tôi có một cách nhìn đầy đủ chính xác về thế giới nghệ thuật
thơ Anh Thơ.
4.4. Phương pháp thống kê
Thế giới nghệ thuật thơ Anh Thơ là một chỉnh thể nghệ thuật. Chúng tôi
sử dụng phương pháp thống kê để xác định được hình tượng nghệ thuật đặc sắc
và phát hiện những thủ pháp nghệ thuật thơ Anh Thơ, sử dụng trong quá trình
nghiên cứu. Đây là phương pháp cần thiết để chúng tôi khảo sát, thống kê, tìm
hiểu tần số xuất hiện chi tiết, yếu tố từ ngữ, hình ảnh và đặc trưng thế giới nghệ
thuật thơ Anh Thơ.

9
5. Đóng góp của luận văn:
5.1 Trên cơ sở tiếp thu những thành tựu được các nhà nghiên cứu quan
tâm, luận văn góp phần tạo nên tiếng nói thống nhất khi đánh giá tư tưởng nghệ
thuật và giá trị thẩm mĩ trong thơ Anh Thơ. Có thể nói, đây là lần đầu tiên thế
giới nghệ thuật thơ Anh Thơ được nghiên cứu một cách đầy đủ và toàn vẹn nhất.
5.2 Luận văn là công trình nghiên cứu có tính hệ thống về thế giới nghệ
thuật thơ Anh Thơ. Nó là cơ sở, là phương pháp cần được tham khảo, vận dụng
nghiên cứu thế giới nghệ thuật của những nhà thơ khác.
5.3 Qua quá trình tìm hiểu, nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ Anh Thơ,
luận văn góp phần xác định một cách chính xác hơn vị trí vai trò và những đóng
góp to lớn của Anh Thơ đối với phong trào Thơ mới nói riêng và trong nền thi ca
dân tộc Việt Nam nói chung.
6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, tài liệu tham khảo, kết luận, luận văn gồm có ba
chương chính sau:
Chương 1:Thế giới nghệ thuật thơ và hình tượng cái tôi trữ tình trong
thơ Anh Thơ.
Chương 2: Hình tượng không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật
thơ Anh Thơ
Chương 3: Phương thức nghệ thuật trong thơ Anh Thơ.

10
Chương 1: THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT THƠ VÀ HÌNH TƯỢNG CÁI TÔI TRỮ
TÌNH TRONG THƠ ANH THƠ
1.1 Thế giới nghệ thuật thơ
Trước tiên, thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tạo
nghệ thuật. Tính chỉnh thể là sự tập hợp, tổng hợp các mặt, các yếu tố các bộ
phận tạo thành. Đó chính là sự thống nhất, lôgic giữa cái chủ quan và cái khách
quan; hiện thực với lí tưởng; hình thức với nội dung, thậm chí cả cái tất nhiên và
cái ngẫu nhiên…Tính chỉnh thể được hiểu rất đa dạng và phong phú, chỉnh thể
của một tác giả, tác phẩm, của một trào lưu văn học, một giai đoạn hay một nền
văn học. Trong chỉnh thể lớn lại có thể bao hàm các chỉnh thể nhỏ hơn, có mối
quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau. Vì vậy, tiếp cận tác phẩm văn học đầy đủ
nhất là tiếp cận nó trong chỉnh thể nghệ thuật. Cũng chỉ trong chỉnh thể nghệ
thuật, ý nghĩa của tác phẩm mới biểu hiện một cách đầy đủ nhất, rõ nét nhất. Và
ở đấy nội dung và hình thức vừa có mối quan hệ biện chứng với nhau, vừa thể
hiện quy luật của chỉnh thể tác phẩm, chỉnh thể nghệ thuật, vừa thể hiện được
cấu trúc nội tại của thế giới nghệ thuật tác phẩm.
Chỉnh thể nghệ thuật là một cấu trúc đa tầng, nhiều cấp độ, từ thấp đến
cao. Tính chỉnh thể khiến các yếu tố trong thế giới nghệ thuật chi phối lẫn nhau,
phụ thuộc vào nhau, vì vậy khi một yếu tố thay đổi có thể kéo theo sự thay đổi
hàng loạt các yếu tố khác. Như vậy một tác phẩm nghệ thuật đích thực, có giá trị
lớn là một cấu trúc đa thanh, đa giọng, một thế giới nghệ thuật sinh động, một

sinh mệnh đời sống trong mối quan hệ nhiều chiều. Bên cạnh đó, thế giới nghệ
thuật là thế giới riêng tạo ra từ các nguyên tắc và tư tưởng nghệ thuật. Thế giới
nghệ thuật là sản phẩm của kết hợp hài hoà, sự xuyên thấm giữa yếu tố khách
quan của bức tranh hiện thực đời sống bên ngoài với yếu tố chủ quan sáng tạo,
độc đáo của người nghệ sĩ theo nguyên tắc nhất định nào đó về tư tưởng và nghệ

11
thuật. Tuy nhiên “Thế giới nghệ thuật bao giờ cũng khác với thế giới thực tại để
không hoà tan vào thực tại…sự khác biệt cũng là một phương diện biểu hiện ý
nghĩa của nó…”[32, 25], tức là thế giới hiện thực và thế giới trong tác phẩm
thống nhất chứ không hề đồng nhất. Tác phẩm văn học giống như một củ hành
nhiều lớp vỏ, một kết cấu đa dạng, phức tạp, nhiều bình diện chi phối lẫn nhau và
phụ thuộc vào nhau. Trong đó, quan điểm nghệ thuật có vai trò đặc biệt quan
trọng, chi phối các cấp độ, các bình diện khác. Các nhà văn cổ điển xem cái đẹp
là cái vĩnh cửu, cố định trong con người, họ đã xây dựng nhân vật có tính cách
đơn nhất, cá tính mờ nhạt, phiến diện. Đến chủ nghĩa hiện thực thời Phục Hưng
“con người là toàn vẹn có sinh khí”(Hêghen), và “bên cạnh mặt tự nhiên, con
người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội”(C.Mác). Từ đây trong tác phẩm văn
học đã xuất hiện kiểu nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, thật hơn cả
con người thật ngoài đời.
Có khá nhiều yếu tố chi phối đến việc xây dựng hình tượng nghệ thuật. Đó
là quan niệm nghệ thuật của thời đại, thể loại, thể tài và lập trường quan điểm
nghệ thuật của mỗi nhà văn. Chúng ta có thể thấy một loạt nguyên tắc chi phối,
tác động ảnh hưởng tới hình tượng nghệ thuật, như nguyên tắc ước lệ, nguyên
tắc nội cảm hoá, tôi hoá, nguyên tắc tả thực, nguyên tắc ước mơ …, dù là
nguyên tắc nào đi nữa thì nghệ thuật không phải là sự sao chép thuần tuý hiện
thực đời sống, mà đòi hỏi có sự tìm tòi, suy ngẫm, rung động, chắt lọc, hư cấu
thành hình tượng nghệ thuật. Nó mang tính khái quát cao hơn, điển hình hơn so
với hình tượng thực ngoài đời sống. Tuy nhiên, một trào lưu, một trường phái
văn học, hay một thời đại văn học thường có thể có rất nhiều nguyên tắc nghệ

thuật chi phối nhưng trong đó có nguyên tắc mang tính chủ đạo, định hướng.
Cùng với các nguyên tắc, thế giới nghệ thuật có không gian, thời gian và
có quan hệ xã hội riêng. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật chính là
hình thức tồn tại của thế giới nghệ thuật, là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ
bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống qua thế giới hình tượng nghệ thuật tác phẩm.
Nhưng thế giới nghệ thuật trong tác phẩm không phải là sự bê nguyên sao chép

12
nghệ thuật đời sống một cách trần trụi, nó thống nhất chứ không hề đồng nhất
với nghệ thuật hiện thực đời sống. Hơn nữa trong cái chung về thời đại sống và
quan niệm nghệ thuật, mỗi văn nghệ sĩ luôn có cái riêng biệt độc đáo.Vì vậy,
mỗi thế giới nghệ thuật có hình thức không gian, thời gian riêng; trong đó triển
khai các mối quan hệ xã hội riêng được nhà văn chú ý. Sự khác nhau về thời đại,
hoàn cảnh sống, các quan hệ xã hội, cấu trúc xã hội và đặc biệt là khác nhau về
quan niệm nghệ thuật dẫn tới sự khác nhau ít hay nhiều về phương thức thể hiện,
phạm vi, quy mô và cấu trúc thế giới nghệ thuật trong tác phẩm.
Quan trọng nhất của thế giới nghệ thuật là thế giới hình tượng nghệ thuật.
Bởi vì, hình tượng nghệ thuật là yếu tố năng động nhất tạo nên thế giới nghệ
thuật. Hình tượng nghệ thuật là bức tranh của cuộc sống vừa cụ thể, cảm tính
vừa khái quát và có ý nghĩa thẩm mĩ. Tính cụ thể, cảm tính, trực quan, sinh động
của hình tượng nghệ thuật đã tạo nên những bức tranh đời sống và những con
người trong tác phẩm khiến cho người đọc tưởng chừng như đã từng gặp đâu đó
trong đời sống hiện thực và thậm chí thực hơn cả bức tranh và con người thực
ngoài đời.
Hình tượng nghệ thuật trong tác phẩm thống nhất nhất chứ không hề đồng
nhất với hình tượng ở ngoài đời thực, và nó có tính khái quát cao hơn hình tượng
thật ở ngoài đời thực. Hình tượng nghệ thuật có nhiều cấp độ và bộ phận quan
trọng nhưng quan trọng nhất là nhân vật hay hệ thống nhân vật. Nhân vật trong
tác phẩm văn học có thể là người, đồ vật, loài vật hay cỏ cây hoa lá chim
muông…, để phản ánh bức tranh đời sống của xã hội loài người trong vô vàn

mối quan hệ phong phú, phức tạp vừa sinh động cụ thể lại vừa khái quát đa dạng;
nhằm thể hiện dụng ý nghệ thuật thẩm mĩ của người nghệ sĩ.
Hình tượng nghệ thuật được triển khai trong không gian và thời gian nghệ
thuật. Nó thống nhất chứ không đồng nhất với không gian, thời gian vật lí thực
ngoài đời. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật có cấu trúc, mô hình và
được xây dựng trên những nguyên tắc thẩm mĩ chung của một tác phẩm văn học
trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

13
1.2 Cuộc đời và quan niệm nghệ thuật của nữ sĩ Anh Thơ.
Anh Thơ – Vương Kiều Ân (1921 – 2005), con gái thứ ba của ông Vương
Đan Lộc và bà Kiều Thị Thư, cháu ngoại của cụ phó bảng Kiều Oánh Mậu, một
nhà nghiên cứu sử nổi tiếng đầu thế kỉ XX, một danh sĩ yêu nước. Nữ sĩ Anh
Thơ sinh trưởng trong một gia đình dòng dõi bà chúa chè Đặng Thị Huệ tức
Trịnh Sâm quốc công phu nhân, bị hành hình phải đổi làm họ Vương lẫn với
người Trung Hoa, tránh họa tru di tam tộc… Khi sinh được cô gái xinh xắn, thùy
mị, cha mẹ Anh Thơ lấy hai họ kết hợp đặt tên cho con gái mình.
Anh Thơ lớn lên trong sự giáo dục, dạy dỗ cổ hủ, lạc hậu của cha, ông cho
rằng con gái chủ yếu tề gia nội trợ, không nên học nhiều, không sa vào văn
chương lãng mạn, dễ hư hỏng. Gia đình Anh Thơ vốn khó khăn về kinh tế lại
đông con. Cha Anh Thơ lấy nhiều vợ, rồi bị kiện tụng, phải bồi thường cho
người khác.
Anh Thơ sớm bộc lộ năng khiếu văn chương từ lúc còn nhỏ tuổi. Dù rất
mê làm thơ nhưng Anh Thơ luôn bị thân phụ cấm một cách gắt gao, quyết liệt.
Năm mười hai tuổi, sau khi nghỉ học, là chị cả trong gia đình nên bà phải trợ
giúp bố mẹ mọi việc, giúp mẹ chăm sóc đàn em. Công việc mà bà yêu thích đó là
mỗi sáng đi chợ, qua đường cái quan trải đá, có hoa phù dung nở trắng tường
gạch, rồi những hàng tre và một cánh đồng thẳng tắp trước khi dẫn đến chợ,
những hình ảnh thật trữ tình và thơ mộng chân chất thôn quê ấy luôn ám ảnh
trong tâm trí của bà. Chính vì vậy, sau này Anh Thơ tâm sự: những ngày còn là

một cô bé 13, 14 tuổi thường cắp rổ đi trên con đường này xuống chợ. Tôi đi chợ
mà như được đi vào thiên nhiên. Bờ ao kia, tôi đã đứng ngắm không chán những
con chuồn chuồn rỡn nắng. Dưới gốc tre này, tôi đã từng ngồi xem hoa mướp
rụng cả đóa, vàng hết bờ cỏ. Lòng yêu quê hương tha thiết, đã khiến tôi làm
được Bức tranh quê, mặc dù bị cha tôi cấm đoán Có lẽ, tuổi thơ Anh Thơ may
mắn gắn liền với ruộng đồng, sông nước quê hương, lại được nuôi dưỡng trong

14
gia đình yêu thi phú, âm nhạc. Đó là ông ngoại, người đã từng có nhiều vần thơ
bày tỏ nỗi lòng của mình trước vận nước, thơ về đạo làm người. Một nguồn cảm
hứng nữa để Anh Thơ quyết chí theo nghiệp văn chương đó là qua người cô ruột
của mình. Một người tài năng, thích đánh đàn và làm thơ. Lúc rỗi rãi Anh Thơ
thường lục sách của cô ra đọc. Từ "Tái sinh duyên", "Đông Chu liệt quốc",
"Song phượng kỳ duyên" , đến "Kiều", "Lục Vân Tiên", "Chinh phụ ngâm", thơ
Hồ Xuân Hương, bà Huyện Thanh Quan và nhất là thơ tả cảnh của Nguyễn
Khuyến. Bà cũng trộm đọc của bố tập "Văn đàn bảo giám", thuộc lòng từ thơ Lê
Thánh Tông đến các nhà thơ Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Mỗi khi đọc, nghiên
cứu các thi tập, Anh Thơ luôn chú ý đến bảng luật bằng, trắc và cách bố cục của
bài thơ bát cú Đường luật. Những bài thơ đầu tiên của bà đã ra đời theo kiểu này.
Ban đầu nội dung còn chưa theo trật tự nhất định, hết làm thơ "nói chí" theo cách
của bố, đến viết trường ca về chuyện con vua Hùng dong buồm gấm rong ruổi
đầu non cuối bể, hoặc chuyện chàng Trương Chi bị Mỵ Nương chê xấu
Vào khoảng năm 16 - 17 tuổi, một hôm bố bà mua về tờ báo "Phong hóa"
có đăng bài thơ của Thế Lữ:
Tiếng ve ran trong bóng cây râm mát.
Giọng chim khuyên ca ánh sáng mặt trời.
Gió nồng gieo trên hồ sen rào rạt.
Mùa xuân còn, hết? Khách đa tình ơi!
Càng đọc càng thích cái âm điệu thiết tha, cái không khí náo nức, mà tự
nhiên, trong sáng, khác với cái nghiêm trang, nặng nề của thơ Đường luật. Rồi

đến những bài thơ tình nồng nàn, cháy bỏng của Xuân Diệu, thơ tả cảnh của Huy
Cận, thơ về xứ Hời đau xót của Chế Lan Viên, thơ về cảnh xưa người cũ của
Nguyễn Nhược Pháp Bà đã chuyển sang làm "Thơ mới" từ đó. Bà băn khoăn
tự hỏi, viết gì để khỏi trùng lặp các nhà thơ trên. Rồi dần ý thức lối đi riêng cho
mình bằng những bài thơ tả cảnh về bộ tranh tứ quý trong phòng mẹ, đến cảnh
làng mạc, ruộng đồng, sông nước quê hương…

15
Năm 1941, Báo Ngày Nay của nhóm Tự Lực Văn Đoàn tổ chức cuộc thi
thơ. Và "Bức tranh quê" - đứa con đầu tiên của Anh Thơ đã ra đời trong hoàn
cảnh như vậy. Theo nữ sĩ, tập thơ là tất cả vốn liếng tuổi thơ của mình. Dù viết
vội vàng, chưa nắm kỹ thuật nhưng bà đã viết nó bằng xúc cảm trung thực, hồn
nhiên như cảnh vật nơi mình đã sống
Cùng với cuộc đời nữ sĩ Anh Thơ, chúng ta cùng tìm hiểu về quan niệm nghệ
thuật thơ Anh Thơ. Trước tiên, chúng ta cùng tìm hiểu thế nào là quan niệm nghệ
thuật ? Và trải qua biết bao nhiêu thế kỉ đến nay, có biết bao nhiêu định nghĩa về thơ,
nhưng chưa có định nghĩa nào thuyêt phục được người làm thơ. Mỗi nhà thơ lại có
một quan niệm riêng của mình về thơ. Và nói như Tiến sĩ Nguyễn Quốc Khánh:
“Chỉ khi nào quan niệm về thơ hóa thân thành những câu thơ, bài thơ có giá trị thẩm
mĩ thì khi ấy quan niệm thơ mới trở thành yếu tố thi pháp thơ” [ 24, 23]. Anh Thơ có
cuộc đời thơ và sự nghiệp cách mạng gắn với nhau như hình với bóng. Thi sĩ đã kí
thác vào những đứa con tinh thần ấy nỗi lòng khúc uẩn của mình. Với Anh Thơ
"Thơ phải ngắn gọn, không nên rườm rà, phải nói ít viết ít mà người đọc lại hiểu
nhiều. Thơ hay phải là những gì tinh túy, vĩnh cửu nhất từ trong tâm hồn con
người. Người làm thơ cũng đừng cầu kỳ câu chữ quá mà khiến cho người đọc
khi đọc rồi cứ phải suy luận. Thơ là hào quang soi rọi những bước đường kháng
chiến gian khổ nhất. Thơ giải phóng được cuộc đời bình lặng của lớp người con
gái dưới thời phong kiến’’,[52, 157 ] nữ sĩ Anh Thơ đã yêu thơ như yêu một lẽ
sống ý nghĩa nhất trong cuộc đời mình. Theo Anh Thơ, thơ phải gần gũi mộc
mạc, không nên để cho người đọc khó hiểu, phải suy luận. Thơ chủ yếu là gợi,

gợi cảnh, gợi tình. Thơ hay là những gì tinh túy nhất trong tâm hồn. Xuất phát từ
quan niệm nghệ thuật như vậy, Anh Thơ đã viết nên những vần thơ mộc mạc,
chân chất đến lạ thường, thấm đẫm hiện thực và gặt hái được thành công rực rỡ
trên hành trình sáng tạo nghệ thuật của mình.
Sau Bức tranh quê, Anh Thơ chuyên viết phóng sự về vợ các nhà văn, nhà
thơ đương thời cho Báo Đông Tây. Răng đen là cuốn tiểu thuyết đầu tay của bà
(Bàng Bá Lân viết lời giới thiệu, NXB Nguyễn Du) nay đã thất bản. Sau năm

16
1945, Anh Thơ trở thành một nhà thơ cách mạng. Không chỉ làm thơ cổ vũ, động
viên tinh thần cách mạng, bà còn trực tiếp tham gia: làm "chị nuôi", đi quyên
góp tiền gạo nuôi quân, từng mặc áo dài lụa vân trắng, cưỡi ngựa hồng dẫn đầu
đoàn quân tiến vào trại phỉ, phủ dụ chúng đi theo Việt Minh. Năm 1956, tập thơ
Kể chuyện Vũ Lăng của bà được tặng thưởng của Trung ương Hội Phụ nữ Việt
Nam. Năm 2001, ở tuổi 80 bà vinh dự được Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình
trao Giải thưởng Nhà nước. Sang năm 2002 bà cho ra đời bộ Hồi ký Anh Thơ
(1.111 trang, gồm 3 tập: Từ bến sông Thương, Tiếng chim tu hú và Bên dòng
sông chia cắt - NXB Phụ Nữ, Hà Nội), đây là tác phẩm cuối cùng Anh Thơ để
lại cho đời. 85 tuổi bà trở về với "bến sông Thương". Tiễn đưa bà có lẽ không gì
thấm thía hơn những câu thơ của cô gái quê hai mươi tuổi ngày ấy, đã trở nên rất
quen thuộc với nhiều thế hệ người yêu thơ: " Quán tranh đứng im lìm trong
vắng lặng. Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời" (Chiều xuân).
Có thế nói trong cuộc đời, Anh Thơ luôn gặp nhiều trắc trở, từ bức rào cản
về trình độ học vấn, về quan niệm giáo dục phong kiến của cha, sự vất vả lo toan
về kinh tế và kể cả nỗi khổ của một người phụ nữ không có con. Tuy nhiên trong
đời thơ, Anh Thơ lại gặt hái được nhiều thành công. Đó chính là sự nỗ lực vươn
lên chính mình và niềm đam mê cháy bỏng, yêu thơ như yêu một lẽ sống ý nghĩa
nhất trong cuộc đời mình.
1.3 Hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ Anh Thơ
Hình tượng cái tôi trong thơ trữ tình chính là sự hóa thân của người nghệ

sĩ trước những rung cảm mãnh liệt bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống. Nhưng
hình tượng ấy lại vượt ra khỏi nhà thơ, thậm chí nó có một đời sống riêng mang
tính độc lập tương đối với chủ thể sáng tạo nghệ thuật và với độc giả.
Trong sáng tác của các nhà thơ mới, nữ sĩ Anh Thơ đã tìm cho mình một
lối đi riêng, hình tượng cái tôi trữ tình trong thơ nữ sĩ được tạo dựng lên từ bức
tranh cuộc sống xung quanh sinh động, hồn nhiên nhưng rất bình dị, chân chất,
mộc mạc. Với những hội hè đình đám, những phong tục lễ hội cổ truyền ở miền
Bắc, với cái nhìn hiện thực về con người trong chiến tranh, cách mạng, hình

17
tượng cái tôi trữ tình trong thơ Anh Thơ được “thai nghén” và “sản sinh” ra từ
cuộc đời thơ đầy chông gai, duyên nợ.
1.3.1 Cái tôi khát khao giao cảm, chan hòa với thiên nhiên, cảnh vật
Khát khao giao cảm với thiên nhiên đất trời, non nước và hóa thân trong
những bức tranh cuộc sống sinh động, một cách hồn nhiên, tự nhiên chính là bút
pháp chủ lực của nữ sĩ Anh Thơ. Có lẽ nữ sĩ quá mê đắm phong cảnh thiên
nhiên, phong tục tập quán, từ những nét sinh hoạt bình dị đời thường của làng
quê cổ truyền người Việt đến những bức tranh khung cảnh của núi rừng, xóm
làng đượm mùi khói lửa chiến tranh. Trước cảnh đẹp của quê hương, ai không
khỏi xuyến xao, bồi hồi xúc động, nhưng sự xúc động của người họa sĩ hiện lên
qua những bức tranh sinh động còn cảm xúc của nghệ sĩ, thi sĩ được bộc lộ qua
tác phẩm nghệ thuật ngôn từ, qua ngôn ngữ thơ. Họ đứng trước thiên nhiên, nước
non hùng vĩ cũng chợt cảm nhận rằng nó thật gần gũi và nên thơ. Lúc ấy, cái tôi
trữ tình thật sự rung động, rung cảm trước vẻ đẹp của non sông đất nước.
Niềm khát khao giao cảm của nhân vật trữ tình thể hiện trong hầu hết các
tác phẩm của nữ sĩ. Nhưng trong mỗi thời kì khác nhau, đối tượng khác nhau,
niềm khát khao giao cảm cũng biểu hiện khác nhau. Cùng phản ánh về đề tài
thiên nhiên, nhưng cảm xúc, tâm trạng của nhân vật trữ tình trong thơ Anh Thơ
cũng có sự biến đổi. Niềm khát khao giao hòa, giao cảm với cảnh vật, đất trời
trong thơ Anh Thơ hiện lên qua cách cảm nhận, góc nhìn, điểm nhìn của nữ sĩ:

Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời…
(Chiều xuân)
Thiên nhiên được khúc xạ qua tâm hồn thơ đầy nữ tính, thật êm ái, nhẹ
nhàng. Khung cảnh êm đềm thơ mộng của buổi chiều xuân như lan tỏa, phủ lên
cả lên bến đò, mưa bụi, hoa tím rụng tơi bời rất đặc trưng cho sắc xuân đất trời

18
miền đồng bằng Bắc bộ. Niềm vui, tâm trạng nhẹ nhàng thư thái của nhân vật trữ
tình hòa vào thiên nhiên cảnh vật trong bầu xuân, ngày xuân ấm áp, hay nắng thu
vàng, hoa mướp rụng , nữ sĩ sáng tác tới tám bài thơ về mùa xuân như: Chiều
ba mươi tết, Đêm ba mươi tết, Ngày tết, Ngày xuân, Chiều xuân, Đêm trăng
xuân, Đêm rằm tháng giêng, Chợ ngày xuân. Những bài thơ viết về mùa xuân
chiếm tỉ lệ khá nhiều: 8,98 %, trong khi đó các bài thơ về mùa hè chỉ có bảy bài,
chiếm tỉ lệ: 7,86 %. Điều đó chứng tỏ niềm khát khao giao cảm, giao hòa trong
bầu không khí ấm áp đầy ắp xuân sắc xuân tình với Anh Thơ – một tâm hồn thơ
rất tươi trẻ, hồn nhiên đầy xuân nữ là hoàn toàn hợp lí. Đối lập tâm trạng nhẹ
nhàng thư thái của buổi chiều xuân, là tâm trạng cô đơn buồn chán của nhân vật
trữ tình trước cái nóng bức ngột ngạt của những trưa hè đầy nắng gió:
Trời trong biếc không qua mây gợn song
Gió nồm Nam lộng thổi cánh diều xa
Hoa lựu nở đầy một vườn đỏ nắng,
Lũ bướm vàng lơ đãng lướt bay qua
(Trưa hè)
Qua nhịp điệu thơ, ngôn ngữ, hình ảnh thơ, ta lại thấy được nét vui tươi
hiện lên từ bức tranh cảnh vật ấy. Hình tượng cái tôi chan hòa trong bức tranh
phong cảnh. Niềm yêu say ngây ngất cũng bộc lộ ra ngay từ những đường nét,
chi tiết nhỏ thoáng qua, với nét vẽ đơn sơ, chân chất mộc mạc về một làng quê

thanh bình, yên ả. Hình ảnh trời xanh biếc, lũ bướm vàng lơ đãng chập chờn
trước gió, hoa lựu đỏ nắng…là những hình ảnh đặc rất trưng cho phong cảnh
mùa hè ở miền Bắc. Qua thơ Anh Thơ, ta có thể thấy nhân vật trữ tình với một
nỗi buồn mênh mông trống trải như khoảng trời thiếu mây nên quá rộng, vì cuộc
đời ấy như dòng sông đọng nắng, không chịu trôi đi những bến bờ xa:
Mây đi vắng, trời xanh buồn rộng rãi
Sông im dòng, đọng nắng đứng không trôi.
( Bức tranh quê )

19
Chính sự “ứ đọng” ấy trong tâm hồn mà Anh Thơ buộc phải thốt lên thành
những vần thơ như một sự giải tỏa, giải thoát. Khát khao giao cảm, giao hòa với
thiên nhiên, cảnh vật trở thành nét nổi bật trong thơ Anh Thơ. Cái tôi hòa vào
cảnh vật tưởng hai mà là một, tâm nguyện của Anh Thơ:“ Tôi muốn tôi với cảnh
vật là một. Cảnh vật vui, tôi vui, cảnh vật buồn, tôi buồn…”[52, 53]. Với Anh
Thơ, từ tiếng sẻ trong làn gió mát, làn khói xám từ nóc nhà ai đó, trời hồng đáy
nước…đều trở thành nỗi niềm xao xuyến, bồi hồi. Tác giả cảm nhận được cái
thanh nhẹ, êm êm, mát mẻ của buổi sáng mùa hè, cảm nhận hơi ấm và âm thanh
trong làn gió, sự ngọt ngào từ tiếng chim chuyền của buổi sáng hè; cảm nhận cái
êm êm nhẹ nhàng vàng tươi của hoa mướp, của lũ chuồn chuồn dỡn nắng nhớ
thu sang:
Hoa mướp rụng từng đóa vàng rải rác
Lũ chuồn chuồn nhớ nắng ngẩn ngơ bay
( Sang thu )
Khi đất trời chuyển sang thu, cái tôi trữ tình ấy được cảm nhận một cách
khác, cảnh vật hiện lên đượm buồn mang dáng dấp “thu”:
“Làng xóm lặng say đi trong giấc ngát
Những hương hồng hương lí dậy miên man…”
(Bức tranh quê)
Niềm giao cảm giao hòa với thiên nhiên, tạo vật xuất phát từ cảm xúc

riêng tư của nữ sĩ muốn thỏa thuê trong không khí ngát hương hoa, hoa cau, hoa
ngâu, hoa sói…lũ chim gà quấn quýt quanh chân, được xem chúng ăn, chúng
tung tăng bay lượn…Nữ sĩ cảm nhận thiên nhiên không chỉ bằng ánh mắt, bằng
tai nghe mà dường như bằng tất cả các giác quan. Cho nên, chỉ một cánh én, một
chút mưa bụi hay hoa xoan tím rụng tơi bời cũng đủ gợi lên cho ta cảm xúc về
bức tranh đầy ắp xuân sắc, xuân tình; chỉ một tiếng chim tu hú vọng về cũng đủ
để gợi lên một mùa hè rực nắng với bao kỉ niệm đẹp: hoa gạo đỏ, vải bắt đầu
chín lự, chàng trai qua chạm ngõ…Thiên nhiên được Anh Thơ hình tượng hóa
giống như con người vậy:

20
Trời quang qủe đêm nay không mưa nữa
Nước trong ngòi chảy tắm mấy ngôi sao.
Tàu chuối láng che mặt trăng xấu hổ,
Khóm tre già đợi gió đứng ven ao.
( Đêm xuân )
Đêm trăng xuân, thiên nhiên e ấp, chờ mong và bẽn lẽn giống như con
người. Như vậy, Anh Thơ không phải đứng ngoài, không phải sao chụp bức
tranh đời sống thuần túy mà luôn nhập cuộc hết mình, bung tỏa hết mình trước
thiên nhiên đất trời, tạo vật, cuộc sống và đồng cảm cùng chung niềm vui, nỗi
buồn cả những ước mong – khát vọng – đợi chờ xen lẫn với uất ức căm hờn với
những con người trong lao động và trong kháng chiến:
Năm năm lại gặp
Tay nắm lấy bàn tay
Gió trường chinh in xạm mặt anh gầy
Nhưng đôi mắt sáng nhìn êm êm tình bạn

Anh cười nheo mắt nhìn bay nếp cờ
( Người chiến sĩ, Hà Nội 1954 )
Trong chiến tranh gian khổ, mất mát hi sinh, những người lính bộc lộ tâm

trạng xuyến xao khi gặp lại bạn bè đồng chí sau những ngày xa cách, bên bếp lửa
nhà sàn. Họ kể câu chuyện đời lính cho nhau nghe, ngoài kia, nhà sàn vẫn lộng
gió , Anh Thơ luôn nhập cuộc, luôn đi sâu vào khai thác khám phá chiều sâu
bên trong của cuộc sống ấy bằng cảm hứng dạt dào, niềm khát khao giao cảm
với đời, bị cuộc sống hiện tại lôi kéo cuốn hút, làm cho mê đắm.
Như vậy, chỉ có sự mê đắm và niềm khát khao giao hòa, giao cảm với
thiên nhiên tạo vật, với cuộc đời, đất trời, phong tục tập quán vùng miền và cũng
chính sống nhiều, đi nhiều, hiểu biết nhiều, thơ Anh Thơ mới dồi dào chất liệu
hiện thực, tạo nên bức tranh cuộc sống sinh động, muôn sắc màu, hương vị khác
nhau như vậy. Anh Thơ cảm nhận bức tranh cuộc sống sinh động không chỉ bằng

21
thính giác, thị giác mà dường như bằng cả tấm lòng khát khao giao hòa, giao
cảm mãnh liệt với thiên nhiên cảnh vật, với cuộc sống. Anh Thơ mê đắm và hòa
nhập hoàn toàn vào cảnh vật, đất trời và cuộc sống sôi động để nói lên cái cốt lõi
bên trong của cuộc sống. Cho nên, bức tranh cuộc sống trong thơ Anh Thơ hiện
lên sinh động tươi nguyên, hồn hậu, chân chất.
1.3.2 Cái tôi cá nhân gắn với sinh hoạt lao động đời thường
Quá trình sáng tác của nữ sĩ Anh Thơ là quá trình cái tôi trữ tình của nhà
thơ đi tìm tòi, ghi chép, sao chụp lại những cảnh đẹp của quê hương đất nước
một cách đầy tinh tế. Chỉ qua vài chi tiết nho nhỏ, nhà thơ say sưa dẫn người đọc
đi từ cảnh đẹp này đến cảnh đẹp khác, từ không gian này đến không gian khác,
giống như một sự sắp đặt sẵn của cả thiên tạo lẫn nhân tạo. Cảnh đẹp làng quê,
đồng quê làm nền cho sự xuất hiện của con người lao động bình dị đời thường:
…Ngoài đồng lúa một vài cô tát nước
Múc trăng lên theo tiếng hát mơ màng
Thấp thoáng bóng trên sông đào phía trước
Bọn trai làng bơi tắm nói cười vang
( Đêm hè)
Dưới trăng hè, bức tranh làng quê hiện lên thật vui vẻ, lãng mạn, huyền

dịu. Những cô gái tát nước đêm trăng, bọn trai làng bơi tắm vui vẻ, nói cười
vang. Hình ảnh người dân lao động bình dị đời thường không chỉ gắn liền với
công việc đồng áng, các sinh hoạt văn hóa làng xã bình dị mà còn gắn liền với
những biến thái về cuộc đời mưa nắng, sương gió dãi dầu.
Một bức tranh làng quê, đồng quê chân chất, hồn hậu hiện hình. Anh Thơ
cũng rất độc đáo khi miêu tả cô gái tát nước đêm trăng “Múc trăng lên theo tiếng
hát mơ màng” khiến ta liên tưởng đến câu ca dao:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.
Ánh trăng vô hình, không ai có thể nắm bắt được, ấy thế mà các cô thôn
nữ trong thơ Anh Thơ lại múc ánh trăng vàng theo tiếng hát. Cách so sánh thật

22
ấy thật độc đáo vừa gợi lên hình ảnh vừa tạo cảm xúc cho người đọc. Ngày xưa
trong những đêm trăng, họ tát nước tập thể đông vui. Vừa tát nước, họ vừa hát
đối đáp với nhau. Bên cạnh niềm vui, họ còn thể hiện nỗi buồn khi mùa màng
thất bát, hạn hán kéo dài:
Rồi chiều đến khi mặt trời lặn đỏ
Mây phương đoài tắm rực một bên sông
Các cô gái đưa nhau thăm ruộng cỏ
Cuốn giây gầu chán nản tát đồng không
( Đại hạn)
Những hình ảnh: mặt trời lặn đỏ, mây phương đoài, ruộng cỏ…tái hiện lên
trước mắt ta bức tranh đồng quê đầy chất lãng mạn, cảnh nước non hùng vĩ tráng
lệ. Bên cạnh hình ảnh những cô gái đi thăm ruộng cỏ, Anh Thơ cũng vẽ nên bức
tranh cuộc sống của họ dưới những cơn mưa giông tầm tã, xối xả:
…Trong làng xóm nóc nhà bay tốc mái
Gió xoáy vòng đẩy rạt lũy tre xanh
Những đàn bà chạy mưa về hớt hải
Váy phập phồng theo nhịp bước chân nhanh

( Cơn giông )
Cuộc sống làng quê luôn bị thiên tai đe dọa, hết hạn hán triền miên, đồng
khô, lúa cháy…lại đến lụt lội, giông gió làm cửa nhà xiêu vẹo. Anh Thơ thể hiện
cái nhìn tinh tế khi miêu tả cảnh vật và con người. Hình ảnh lũy tre xanh bị gió
xoáy “rạt”; hình ảnh người đàn bà chạy trú mưa, ướt át, hớt hải, váy phập phồng
theo bước chạy. Trong thơ Anh Thơ, thiên nhiên được tạo ra không phải là thiên
nhiên trung tính mà là thiên nhiên cụ thể của Việt Nam: đường đê, cỏ non, đàn
sáo đen, nương dâu, đàn cò chốc chốc vụt bay ra… Anh Thơ cảm nhận, quan sát
cảnh vật, lựa chọn các chi tiết rất tiêu biểu cho từng bức tranh cuộc sống, làm
nền cho sự xuất hiện của con người. Hình tượng người lao động bình dị, đời
thường xuất hiện trong các sinh hoạt lễ hội đình, đám ở làng quê thật vui nhộn:
Chùa mở hội người làng nô nức tới

23
Trong khói trầm trong ánh nến xôn xao
Các bô lão yếm hồng tươi khoe mới
Các cô nàng khuyên bạc sáng như sao…
( Đêm rằm tháng giêng )
Các bô lão yếm hồng tươi mới, các cô nàng khuyên bạc sáng như sao, bác
cung văn cao giọng nhịp tơ đàn, con hương xoa xuýt kêu van, lũ trai tơ rộn rịp ra
vào, tếu táo, tinh nghịch trêu đùa các cô gái dâng hoa, dâng lễ. Cảnh chùa chiền
thanh thoát chân thật, mộc mạc, tươi vui. Ánh trăng làm khung cảnh thêm lãng
mạn, êm đềm; các chàng trai, cô gái hiện lên với nét tươi vui, tinh nghịch tình tứ.
Bên cạnh đó, hình ảnh người lao động hiện lên trong cảnh họp chợ đông đúc vui
nhộn, đất trời ấm áp, tươi sáng, sắc màu sặc sỡ. Xen lẫn cảnh người mua bán, ra
vào tấp nập, các cô nàng đợi nón quai thao kiều diễm liếc mắt đưa tình, các
chàng trai tinh nghịch; một vài tụm người xúm nhau lại đánh bạc…bức tranh chợ
làng quê được tái hiện thật sinh động:
Chợ đông quá ! Chỗ này vài chiếu bạc
Những chàng trai ô mới mở dương vây

Cười nói, nói luôn mồm và chỗ khác
Mấy cụ già ngồi nhắm rượu gật gù say.
(Chợ ngày xuân)
Cảnh chợ quê tươi vui nhộn nhịp, đầy ấn tượng. Bức tranh cuộc sống tươi
tắn, hồn nhiên gắn liền với sự vật, sự việc bình thường, gắn với đời sống tâm
linh của người Việt.
Như vậy, cái tôi cá nhân gắn liền với hình tượng những con người lao
động bình dị đời thường được hiện lên qua nhiều góc độ, tâm trạng khác nhau.
Anh Thơ mô tả cuộc sống của họ dưới nhiều góc độ, người lao động gắn với
ruộng đồng, gắn với nghề chài lưới, gắn với cảnh hội hè đình đám… Ở góc độ
nào, họ cũng đều mang được vẻ đẹp hồn hậu, tự nhiên, chân chất, mộc mạc.
Hình tượng người lao động bình dị đời thường trong thơ Anh Thơ toát lên nét
văn hóa cổ truyền của làng quê Việt xưa.

24

1.3.3 Cái tôi trữ tình công dân gắn với cuộc sống kháng chiến
Thời đại chiến tranh cách mạng là thời đại gắn liền với gian khổ, hi sinh
mất mát và những chiến thắng oai hùng của dân tộc trong lịch sử. Lòng yêu nước
và lòng căm thù giặc của dân tộc đã hóa thành sức mạnh không cùng, thành
những lời thề sắt đá “ quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” của các chàng trai cô gái,
của mọi người dân đất việt “ Khi tổ quốc cần ta xin chết / Cho mỗi nhà ngọn núi
con sông” ( Chế Lan Viên ). Đó là thời đại “cả dân tộc cùng chung gương mặt,
cùng chung tiếng nói”, các thế hệ cùng nhau ra trận, cùng hát vang những khúc
quân hành:
Hôm qua đi tát nước
Nghe loa gọi giữa làng
Xóm trên thôn dưới sẵn sàng
Mai đây lệnh tuyển trai làng đầu quân
…………………………

Tiễn chồng ra trận cuối bờ đồi cao
Mai về tươi thắm cờ sao
Em cười, ngăn nỗi dạt dào nhớ thương
( Đầu quân, Thái Nguyên – 1948)
Các chàng trai cô gái nô nức lên đường tham gia đánh giặc cứu nước với
một tâm trạng hồ hởi vui tươi và niềm tin tưởng lạc quan hẹn ngày chiến thắng
trở về. Anh Thơ cũng nhập vai vào cô gái mở đường, phản ánh tâm tư tình cảm
của họ, niềm vui được hi sinh cho đất nước mình:
…Những o đứng mở đường
Áo phong phanh mưa rét
Có lẽ o không kịp rét
Xe vội vàng sau trước ấm hơi sang
( Xuân hỏa tuyến, 1968 )

25

×