Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Thơ Đường trong 2 bộ văn sgk 10 cải cách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (500.94 KB, 93 trang )

Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
“TQ là một nước có truyền thống về thơ. Từ Kinh Thi đến thơ hiện
đại, thơ TQ có hơn 2500 năm lịch sử. Ở mỗi thời đại, thơ đều có những đặc
sắc riêng. Nhưng người TQ cũng như thế giới đều công nhận thơ Đường là
đỉnh cao của thơ TQ và là một trong những đỉnh cao của thơ ca nhân loại”
1
.
Thơ Đường là tinh hoa của VHTQ, là một chủ thể có vai trò quan trọng tạo
nên mối quan hệ tương tác giữa dân tộc đã sản sinh ra nó với các dân tộc
khác, trong đó có VN. GS. Trần Đình Sử trong Lý luận và phê bình văn học
có nói rằng: “Đặc sắc của văn học VN như là một nền văn học dân tộc độc
đáo chính là ở cách tiếp nhận, ứng xử của nó đối với tác động ảnh hưởng của
nước ngoài”
2
. Trên thế giới có lẽ hiếm có quan hệ văn chương nào đặc biệt
như quan hệ giữa thơ Đường với thơ Việt. Thơ Đường – chứ không phải
toàn bộ thơ ca TQ – có một ảnh hưởng phong phú, lâu bền và tốt đẹp đối với
thơ Việt, không chỉ ngày xưa mà cả đến ngày nay.
Ở VN, từ đời Lý trở về sau, thơ Đường được ông cha ta tiếp thu rất
nhiều. Nhiều nhà thơ VN đã vận dụng đề tài, thi liệu, tứ thơ, điển cố và ngôn
ngữ trong thơ Đường. Nhiều tập thơ Đường bằng chữ Hán và chữ Nôm đã
xuất hiện ở VN cách đây hàng mấy trăm năm và được phổ biến rộng rãi trong
công chúng. Thơ Đường cũng được đưa vào giảng dạy ở đại học và phổ
thông. Điều đó nói lên giá trị to lớn của thơ Đường và thái độ trân trọng, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại của nhân dân ta. Trong lĩnh vực nghiên cứu, lí
luận phê bình, vấn đề tiếp nhận văn học nói chung và VHNN nói riêng thể
hiện trên các bình diện: Tổng thuật, dịch thuật, giảng dạy trong nhà trường
phổ thông. Xưa nay, chúng ta chỉ mới quan tâm, xem xét những yếu tố ảnh
1


Xin xem: Thi pháp thơ Đường phần Những tiền đề lịch sử lí luận, Nguyễn Thị
Bích Hải, NXB Thuận Hóa, Huế, 2006, tr.5-14.
2
Dẫn theo: Lí luận và phê bình văn học, Trần Đình Sử, NXB Giáo dục, HN, 2008.
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-1
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
hưởng của thơ văn TQ đối với nền văn học nước ta, còn công việc xem xét
vấn đề giảng dạy VHTQ được tiến hành và phát triển như thế nào lại chưa
được quan tâm đúng mức. Đây là một khiếm khuyết cần được bổ sung kịp
thời để vấn đề nghiên cứu lịch sử tiếp nhận VHTQ ở nước ta ngày càng hoàn
thiện hơn.
Trong phạm vi của một KLTN, đề tài này đi sâu nghiên cứu một mảng
nhỏ, qua đó hy vọng không chỉ thấy được diện mạo của VHTQ, đặc biệt là
thơ Đường trong quá trình giảng dạy VHTQ ở nhà trường phổ thông, mà còn
thấy được những vấn đề lý thú về văn học sử đàng sau việc tuyển chọn và
biên soạn thơ Đường. Điểm dừng chân của đề tài là tìm hiểu vấn đề: Thơ
Đường trong hai bộ sách giáo khoa Văn 10 cải cách ở miền Bắc và miền
Nam năm học 1989-90 (so sánh với SGK chỉnh lí hợp nhất năm 2000).
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Cho đến nay, ở VN đã có không ít công trình nghiên cứu về vấn đề
giảng dạy Đường thi ở trường phổ thông. Có thể kể đến những công trình
tiêu biểu như: Thơ Đường ở trường phổ thông của Hồ Sĩ Hiệp [9], Dạy học
các tác phẩm thơ Đường ở trường THCS và THPT: Theo chương trình ngữ
văn mới của Lê Xuân Soan [10], trong đó có phần “Vị trí, vai trò của phần
thơ Đường trong chương trình SGK Ngữ văn trung học, Thơ Đường trong
nhà trường của Trần Ngọc Hưởng [56], Bình giảng thơ Đường và việc dạy
học thơ Đường ở trường PT của Nguyễn Thị Bích Hải [27], trong đó có
phần “Vị trí của thơ Đường và việc dạy học thơ Đường ở trường PT”,
VHTQ với nhà trường – tập tiểu luận của Hồ Sĩ Hiệp [8], trong đó có bài

“Cái vỏ hình thức thơ Đường trong SGK văn học” Các bài viết này đã có
công đề cập đến một nội dung quan trọng trong giảng dạy văn học cho HS
PT, nhiều bài đã nêu được những ưu nhược điểm của công tác giảng dạy
Đường thi. Tuy nhiên các bài viết này mới chỉ xem xét vấn đề theo quan
điểm của Lí luận phương pháp dạy học bộ môn Ngữ văn, chưa có một tác
phẩm nào tìm hiểu vấn đề này từ góc độ mỹ học tiếp nhận.
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-2
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
Mới đây, năm 2007, Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Mạnh Thị Minh,
lớp K48 NVSP chính quy, do sự hướng dẫn của GV Phạm Ánh Sao đã trực tiếp
bàn về vấn đề: Đường thi trong SGK phổ thông ở VN. Khóa luận này đã có
công rất lớn trong việc hệ thống hóa và chỉ ra những đặc điểm, những đổi thay
trong cách lựa chọn, trình bày và hướng dẫn tìm hiểu Đường thi trong SGK
văn. Đồng thời khóa luận cũng đã lí giải được một đôi điều dẫn đến sự đổi mới
nội dung Đường thi trong mối liên hệ với những tiến bộ của lí luận văn học.
Khóa luận trên đã giải quyết phần nào câu chuyện về giảng dạy Đường thi ở
VN. Tuy nhiên, còn một vấn đề hết sức quan trọng mà do phạm vi đề tài qui
định, khóa luận của sinh viên Mạnh Thị Minh mới chỉ đề cập đến chứ chưa làm
sáng tỏ được, đó là những thay đổi trong cách biên soạn VHTQ trong hai bộ
SGK Văn 10 cải cách ở miền Bắc và miền Nam năm học 1989-90. Do vậy, ở
khóa luận này, chúng tôi không mô tả lại toàn bộ chương trình giảng dạy
VHTQ trong SGK Ngữ văn từ năm 1989-90 cho đến nay mà chỉ đi sâu tìm
hiểu hai bộ SGK Văn 10 cải cách ở miền Bắc và miền Nam năm học 1989-90
để hoàn thiện tiếp công việc tìm hiểu về Đường thi được giảng dạy ở VN mà
tác giả Mạnh Thị Minh còn để ngỏ
1.2. Tính cấp thiết của đề tài:
Như khóa luận của Mạnh Thị Minh đã đề cập đến: Một trong những
biểu hiện của CCGD chính là nỗ lực đổi mới chương trình học, đổi mới
phương pháp dạy học. Cải tiến SGK nhằm giải quyết một vấn đề trung tâm

của CCGD và SGK Ngữ văn cũng không nằm ngoại lệ. Do đó tìm hiểu nội
dung biên soạn và những biến đổi của nội dung này trong SGK là công việc
cần thiết giúp người nghiên cứu thấy sự biến đổi của phương pháp dạy học
tương ứng. Đặc biệt, trong quá trình cải tiến SGK Ngữ văn, chúng ta chú ý
đến hai bộ SGK Văn 10 cải cách năm học 1989-90. Ở thời kỳ này chúng ta có
hai bộ SGK được biên soạn khác nhau ở hai miền Bắc và miền Nam. Tại sao
lại có sự khác biệt này? Để có cái nhìn tổng thể về quá trình cải cách giáo dục
ở nước ta trong từng thời kỳ, chúng ta cần thiết phải trả lời được câu hỏi này.
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-3
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
Khi một bộ SGK ra đời đó là cả một quá trình khổ công lao động của
những nhà biên soạn sách. Và để minh chứng cho hiệu quả của nó đòi hỏi
phải trải qua quá trình thử nghiệm thực tế đó chính là công việc giảng dạy
nó ở trường phổ thông, trong đó giáo viên đóng một vai trò quan trọng trong
việc cung cấp và truyền đạt những thông tin mà SGK yêu cầu tới đối tượng
tiếp nhận cụ thể là HS. Trong chương trình SGK Ngữ văn mỗi phần có một
vị trí khác nhau và đem đến những hiệu quả giáo dục khác nhau nhằm đáp
ứng mục tiêu dạy học. VHNN là một trong những nội dung chủ yếu trong
SGK Ngữ văn ở tất cả các cấp học và bậc học; đây cũng là một nội dung
tương đối khó đòi hỏi GV phải có sự đầu tư thời gian và tâm huyết thì mới
giảng dạy thành công được. Vì sao khi giảng dạy nội dung này, người GV
lại gặp nhiều khó khăn như vậy? Chúng tôi cũng đồng ý với Mạnh Thị Minh
rằng GV khi dạy VHNN gặp phải hai khó khăn lớn. Thứ nhất, chúng ta
giảng dạy VHNN chủ yếu dựa vào bản dịch nghĩa, vì GV và HS không đủ
trình độ tiếp cận với nguyên tác. Do vậy khó có thể diễn đạt hết giá trị nghệ
thuật của tác phẩm. Khó khăn thứ hai là gần như mỗi tác phẩm được đưa vào
SGK là đại biểu cho nền văn học của một quốc gia và muốn giảng dạy thành
công, GV cần có “phông” văn hóa sâu rộng về quốc gia đó. Không những
thế GV còn phải ý thức được giá trị và vai trò của từng tác phẩm trong việc

giáo dục nhân cách cho HS. Dưới góc độ là người giảng dạy, GV cần phải
nắm được ý đồ lựa chọn của người biên soạn sách. Tại sao tác giả này lại
được đưa vào chương trình mà không phải tác giả khác, tại sao tác phẩm này
được học ở phổ thông trung học chứ không phải phổ thông cơ sở? Cụ thể ở
đề tài này, chúng ta cần phải tìm hiểu tại sao năm học 1989-90, những tác
giả, tác phẩm được chọn giảng ở hai bộ SGK ở hai miền lại có sự khác
nhau? Có sự khác nhau như thế nào về đối tượng tiếp nhận ở thời kỳ này?
Đây tưởng như chỉ là công việc của nhà biên soạn sách nhưng lại cũng chính
là một nhiệm vụ hết sức cần thiết của người GV bởi nếu không nắm được ý
đồ, mục đích của người biên soạn GV rất dễ lạc hướng trong giảng dạy.
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-4
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
Bên cạnh đó, người GV cũng cần phải nhận thức đầy đủ tác dụng của
Đường thi trong vai trò định hướng và giáo dục nhân cách cho HS. Trước
hết, thơ Đường có khả năng cung cấp cho HS những hiểu biết cơ bản về một
thời đại huy hoàng trong lịch sử thơ ca nhân loại; bồi dưỡng cho HS tình yêu
thiên nhiên, niềm tin vào cuộc sống; giáo dục cho HS biết sống gắn bó với
nhân dân, biết chia sẻ đồng cảm với những số phận đau khổ; đồng thời rèn
luyện năng lực tư duy sáng tạo cho HS. Mục đích đưa Đường thi vào
chương trình SGK phổ thông không chỉ đơn thuần làm phong phú thêm nội
dung VHNN mà chủ yếu là nhằm mục đích giáo dục nhân cách toàn diện
cho HS. Chính vì vậy, công việc cải cách SGK là công việc đòi hỏi các nhà
cải cách giáo dục phải tốn nhiều thời gian và công sức nhất. Gần đây, trong
bối cảnh nền giáo dục nước nhà có nhiều đổi mới, chương trình và SGK liên
tục được chỉnh sửa, bổ sung và cũng có khá nhiều ý kiến xung quanh câu
chuyện này.
Năm học 1989-90 là giai đoạn bước ngoặt trong công tác cải cách giáo
dục ở nước ta. Chương trình VHTQ được đưa vào giảng dạy trong SGK Văn
10 năm học này có sự khác biệt ở miền Bắc với miền Nam và lại càng có sự

khác biệt so với SGK chỉnh lý hợp nhất năm 2000. GV cần nắm vững được sự
khác biệt này để thấy được diễn biến của chương trình Ngữ văn qua các đợt
cải cách, chỉnh lý, thấy được mối liên quan giữa tri thức văn chương giữa các
vùng miền, từ đó có cách xử lí thích hợp đối với từng bài học cụ thể.
Xuất phát từ những vấn đề lí luận và thực tiễn trên, chúng tôi nhận
thấy: xem xét VHTQ trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách ở miền Bắc và miền
Nam năm học 1989-90 là một công việc cần thiết để hoàn thiện hơn nữa vấn
đề tiếp nhận văn học trong trường phổ thông của chúng ta hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu:
Thông qua việc tìm hiểu VHTQ trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách ở
miền Bắc và miền Nam năm học 1989-90, chúng tôi muốn đưa ra những
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-5
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
đánh giá và tổng kết về cách thức lựa chọn cũng như những thay đổi của nội
dung này trong chương trình cải cách SGK ở hai miền Bắc, Nam trong năm
học đó.
Giảng dạy Ngữ văn không chỉ cung cấp kiến thức văn học cho HS mà
còn là công việc tiếp nhận văn học và định hướng tiếp nhận văn học cho HS
PT. Nghiên cứu sự biến đổi của chương trình SGK ở hai vùng miền khác
nhau và ở hai giai đoạn khác nhau sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn những lí luận
mới về tiếp nhận văn học, hoàn thiện vấn đề giảng dạy VHTQ ở VN.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mô tả nội dung Đường thi trong SGK Văn 10 cải cách ở miền Bắc
và miền Nam năm học 1989 -1990 trên hai phương diện: tuyển chọn và biên
soạn, có so sánh với chương trình chỉnh lí hợp nhất năm 2000.
- Lý giải sự thay đổi của nội dung chương trình giữa các vùng miền và
các giai đoạn khác nhau dưới sự tác động của các yếu tố: Lịch sử văn hóa xã
hội, chủ trương chính sách giáo dục của nhà nước, công cuộc đổi mới

phương pháp dạy học bộ môn, quá trình tiếp nhận lí luận văn học hiện đại
3. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: tác phẩm Đường thi trong SGK Văn 10 cải
cách năm học 1989-90 và nội dung hướng dẫn tìm hiểu tác phẩm.
- Khách thể nghiên cứu: Chương trình SGK Văn 10 cải cách ở miền
Bắc và miền Nam năm học 1989-90 phần thơ cổ TQ: thơ Đường.
3.2. Phương pháp nghiên cứu:
Để trình bày đề tài này một cách khoa học, hệ thống và logic, phương
pháp chủ yếu mà chúng tôi lựa chọn là mô tả, thống kê, phân tích, so sánh
các tư liệu thu thập được về nội dung thơ Đường trong ba bộ SGK mà chúng
tôi đã kể đến ở phần phạm vi tư liệu nghiên cứu. Sau khi thống kê xử lí số
liệu, chúng tôi đi vào phần chính là lí giải sự khác biệt của ba bộ SGK này
trên cơ sở lý thuyết về mỹ học tiếp nhận.
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-6
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
4. Phạm vi nghiên cứu và tư liệu:
Do phạm vi của đề tài này chỉ tập trung nghiên cứu chương trình
VHTQ (thơ Đường) trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách ở miền Bắc và miền
Nam năm học 1989-90 trong đó có sự so sánh với SGK Ngữ văn chỉnh lí
hợp nhất năm 2000 nên phạm vi tư liệu mà chúng tôi lựa chọn để nghiên cứu
chỉ giới hạn trong ba bộ SGK:
- SGK Văn 10 cải cách ở miền Bắc năm học 1989-90 do GS. Nguyễn
Đăng Mạnh chủ biên.
- SGK Văn 10 cải cách ở miền Nam năm học 1989-90 do GS. Nguyễn
Lộc chủ biên.
- SGK Ngữ Văn 10 chỉnh lí hợp nhất năm 2000 do Nguyễn Hải Hà và
Lương Duy Trung chủ biên.
5. Đóng góp của đề tài:

- Như đã nói ở trên, đề tài này không nhằm mục đích hệ thống hóa lại
toàn bộ diến biến của quá trình cải cách SGK Ngữ văn phổ thông từ năm
1989 đến nay mà chỉ đi sâu tìm hiểu một khía cạnh nhỏ và hết sức cụ thể của
hệ thống này. Dựa trên cái nhìn lịch sử và hệ thống, đề tài này cố gắng chỉ ra
cho chúng ta thấy sự khác biệt trong cách lựa chọn, trình bày và hướng dẫn
tìm hiểu tác phẩm VHTQ (thơ Đường) trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách ở
miền Bắc và miền Nam năm học 1989-90 (có sự so sánh với SGK chỉnh lí
hợp nhất năm 2000). Trên cơ sở đó, chúng tôi đưa ra một số cách lí giải sự
khác biệt này dựa trên lý thuyết thi pháp học hiện đại trong đó mới nhất là lí
thuyết mỹ học tiếp nhận.
- Cùng với đề tài khóa luận của Mạnh Thị Minh: Đường thi trong
SGK phổ thông ở VN, đề tài này mong muốn được hoàn thiện diện mạo quá
trình tiếp nhận Đường thi ở VN, cụ thể trong phạm vi chương trình giáo dục
phổ thông.
- Từ phía là một GV, chúng tôi cũng mong muốn làm một công việc
có ý nghĩa thiết thực đối với nghề nghiệp của mình sau này là nắm được bản
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-7
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
chất của chương trình cải cách SGK qua các thời kỳ và các vùng miền, từ đó
có cách ứng xử hợp lí đối với những tri thức văn chương của nhân loại.
6. Cấu trúc của đề tài:
Khóa luận của chúng tôi, ngoài Mở đầu và Kết luận, thì Nội dung
chính gồm 3 chương sau:
Chương 1: So sánh việc tuyển chọn thơ Đường trong hai bộ SGK
Văn 10 cải cách ở miền Bắc và miền Nam năm học 1989-90.
Chương 2: So sánh việc biên soạn thơ Đường trong hai bộ SGK Văn
10 cải cách ở miền Bắc và miền Nam năm học 1989-90.
Chương 3: Lí giải việc tuyển chọn và biên soạn thơ Đường trong hai
bộ SGK Văn 10 cải cách ở miền Bắc và miền Nam năm học 1989-90: từ góc

độ mỹ học tiếp nhận.
Ngoài ra, cuối khóa luận còn có Tài liệu tham khảo và Phụ lục.
7. Quy cách trình bày khóa luận:
Khóa luận của chúng tôi được trình bày theo quy cách Trường Đại học
KHXH & NV Hà Nội qui định cho KLTN.
Sau trích dẫn tư liệu đều có ngoặc vuông ghi lần lượt: Số thứ tự tài
liệu (theo danh mục tài liệu tham khảo xếp ở phía cuối khóa luận), trang thứ
bao nhiêu của tài liệu đó.
Phần tài liệu tham khảo bao gồm: SGK và Sách giáo viên; Sách
nghiên cứu; Luận văn và luận án; Báo, tạp chí. Các tài liệu này sắp xếp theo
thứ tự a, b, c tên tác giả.
Chú thích trực tiếp ở chân trang dành riêng cho việc giải thích từ ngữ,
khái niệm xuất hiện trong trang viết đó.
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-8
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
SO SÁNH VIỆC TUYỂN CHỌN THƠ ĐƯỜNG
TRONG HAI BỘ SGK VĂN 10 CẢI CÁCH
Ở MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM NĂM 1989-90
Theo Phùng Văn Tửu trong Cảm thụ và giảng dạy VHNN [46], giai
đoạn từ 1956 đến 1979, kể cả sau đợt chỉnh lí SGK năm 1979, SGK môn
Văn vốn không giới thiệu thơ Đường trong chương trình PT. Từ năm 1989
đến 1990 bắt đầu tiến hành đợt cải cách chương trình THPT với quy mô
rộng, trong đó có môn văn học nói chung và bộ phận VHNN nói riêng. Trên
cơ sở chương trình thống nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép triển khai
song song hai bộ SGK Văn 10 do hai tập thể các nhà khoa học của trường
Đại học sư phạm Hà Nội và Hội nghiên cứu văn học TP HCM biên soạn.
Trong khuôn khổ các tác giả, tác phẩm do chương trình ấn định, Bộ cho

phép hai bộ sách có thể chọn những đoạn trích giảng khác nhau. Đến năm
2000, sau khi rút kinh nghiệm những ưu nhược điểm của bộ sách thí điểm,
SGK môn văn ở THPT được tổ chức lại thành một bộ duy nhất (SGK Ngữ
Văn chỉnh lí hợp nhất) dùng trong cả nước. Lúc đó, bộ phận VHNN được
giới thiệu trong cả 3 lớp là 21 tác giả của hai nước Châu Á (TQ và Ấn Độ),
năm nước châu Âu (Hi Lạp, Anh, Pháp, Nga, Đức), một nước châu Mĩ (Hoa
Kì). Như vậy, mảng VHNN có quy mô phát triển đột biến. Số lượng các nhà
văn tăng gấp đôi. Ngoài một vài nền văn học quen thuộc từ trước, HS còn
được tiếp xúc với những nền văn học khác. Riêng phần VHTQ, SGK giới
thiệu 6 tác giả: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Thôi Hiệu (thế kỉ VIII), Bạch Cư Dị (thế
kỉ IX), La Quán Trung (thế kỉ XIV) và Lỗ Tấn (thế kỉ XX).
Như vậy, Đường thi chính thức được đưa vào SGK văn bậc THPT từ
những năm 1989-90. Tuy nhiên điều chúng tôi quan tâm ở đây là vào thời
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-9
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
điểm này, chúng ta có hai bộ SGK cùng tồn tại song song với nhau ở 2 miền
là miền Bắc và miền Nam. Nó có sự giống và khác nhau như thế nào?
Chúng ta cùng đi vào mô tả diện mạo của hai bộ SGK này ở phần tiếp theo.
1.1. Tác giả, tác phẩm được chọn giảng:
Qua khảo sát hai bộ SGK Văn 10 cải cách ở miền Bắc và miền Nam
năm 1989-90, chúng tôi thấy có sự khác biệt rõ nét ở các tác giả và các tác
phẩm được chọn giảng. Cụ thể như sau:
Bảng 1: Bảng thống kê các tác giả, tác phẩm được chọn giảng:
• SGK miền Bắc năm 1990:
STT Tác phẩm Tác giả
1 Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Lý Bạch
2 Tảo phát Bạch Đế thành (Đọc thêm) Lý Bạch
3 Thu hứng Đỗ Phủ
4 Nguyệt dạ (Đọc thêm) Đỗ Phủ

5 Hoàng Hạc lâu Thôi Hiệu
6 Tỳ bà hành Bạch Cư Dị
• SGK miền Nam năm 1990:
STT Tác phẩm Tác giả
1 Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Lý Bạch
2 Tảo phát Bạch Đế thành (Đọc thêm) Lý Bạch
3 Đăng cao Đỗ Phủ
4 Hoàng Hạc lâu (Đọc thêm) Thôi Hiệu
5 Tỳ bà hành Bạch Cư Dị
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-10
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
• SGK chỉnh lí năm 2000:
STT Tác phẩm Tác giả
1 Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng Lý Bạch
2 Tảo phát Bạch Đế thành (Đọc thêm) Lý Bạch
3 Thu hứng Đỗ Phủ
4 Đăng cao (Đọc thêm) Đỗ Phủ
5 Hoàng Hạc lâu Thôi Hiệu
6 Tỳ bà hành Bạch Cư Dị
Qua ba bảng thống kê các tác giả, tác phẩm trên chúng ta thấy:
- Về các tác giả được chọn giảng, ở ba bộ SGK trên đều giới thiệu và
đưa vào giảng dạy 4 tác giả lớn tiêu biểu cho Đường thi đó là: Lý Bạch, Đỗ
Phủ, Thôi Hiệu và Bạch Cư Dị. Tuy nhiên, các tác phẩm được chọn giảng và
cách phân bố các tác phẩm này lại có sự khác nhau.
- Về các tác phẩm được chọn giảng: chúng ta thấy ở ba bộ SGK trên,
các tác phẩm được chọn giảng của Lý Bạch, Thôi Hiệu và Bạch Cư Dị là
như nhau và không có sự thay đổi khi chỉnh lí. Điều này chứng tỏ giá trị và
mức độ phù hợp của các tác phẩm này đối với HS, chỉ có các tác phẩm của
Đỗ Phủ là có sự khác biệt giữa hai bộ SGK miền Bắc và miền Nam.

+ SGK miền Bắc: chọn giảng 2 tác phẩm là Thu hứng và Nguyệt dạ
+ SGK miền Nam: chỉ chọn giảng 1 tác phẩm là Đăng cao
+ SGK năm 2000: lại chọn giảng 2 tác phẩm là Thu hứng và Đăng
cao
Và qua bảng trên chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy số lượng các tác
phẩm được chọn giảng ở 3 bộ SGK đã có sự chênh lệch mặc dù không đáng kể:
+ SGK miền Bắc và SGK chỉnh lí năm 2000: 6 tác phẩm trong đó Lý
Bạch (2), Đỗ Phủ (2), Thôi Hiệu (1), Bạch Cư Dị (1)
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-11
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
+ SGK miền Nam: 5 tác phẩm trong đó Lý Bạch (2), Đỗ Phủ (1), Thôi
Hiệu (1), Bạch Cư Dị (1)
1.2. Vai trò của từng tác phẩm trong chương trình:
Nội dung chương trình trong các bộ SGK không chỉ có sự thêm bớt về
số lượng các tác phẩm mà còn thay đổi cả về vai trò của các tác phẩm đó
trong quá trình giảng dạy. Có thể vẫn là tác phẩm đó nhưng vai trò của nó
trong nội dung dạy học bộ môn đã có sự thay đổi: ở cuốn sách này, nó được
giảng chính nhưng ở cuốn sách khác nó lại được xếp vào phần bài đọc thêm.
Sự chuyển dịch vị trí những tác phẩm này từ chỗ là tác phẩm giảng chính
sang đọc thêm hay ngược lại không chỉ đơn thuần là sự thay đổi vai trò của
tác phẩm mà nó còn phản ánh tư duy cũng như tư tưởng, quan điểm của
người biên soạn sách. Đồng thời chúng ta cũng có thể hiểu đó là do sự chi
phối của nhiều yếu tố xã hội và thời đại qui định. Để làm rõ hơn vấn đề này
chúng ta quan sát bảng thống kê sau:
Bảng 2: Thống kê số lượng tác phẩm giảng chính và đọc thêm:
SGK Giảng chính Đọc thêm
Miền Bắc 1990 4 2
Miền Nam 1990 3 2
SGK năm 2000 4 2

Có trường hợp cùng một tác phẩm nhưng ở sách này là giảng chính
nhưng ở sách kia lại là đọc thêm đó là:
- Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu: SGK miền Bắc năm 1990: giảng chính;
SGK miền Nam năm 1990: đọc thêm; SGK năm 2000: giảng chính.
Chúng ta có thể lí giải hiện tượng này là do các nhà biên soạn sách ở
miền Nam nhận thấy bài thơ này khó về nghệ thuật, quá sức đối với HS nên
chỉ xếp nó vào bài đọc thêm để HS tham khảo. Còn theo ý của các nhà biên
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-12
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
soạn sách miền Bắc thì đây là một tác phẩm đặc sắc tiêu biểu cho nội dung
và nghệ thuật của thơ Đường nên đã đưa nó vào phần giảng chính. Đến năm
2000, sau quá trình thử nghiệm ở miền Bắc và miền Nam, các nhà soạn sách
xác định được mức độ phù hợp của tác phẩm này đối với HS nên đã quyết
định chọn giảng chính tác phẩm này.
- Đăng cao – Đỗ Phủ: SGK miền Nam năm 1990: giảng chính; SGK
năm 2000: đọc thêm
Về tác phẩm này, chúng ta thấy ở bộ SGK miền Bắc năm 1990 không
được đưa vào giảng dạy, còn ở bộ SGK miền Nam lại được đưa vào giảng
chính, đó là do ý đồ của người biên soạn sách. Năm 2000, hai tác phẩm được
chọn giảng của Đỗ Phủ là hai tác phẩm được chọn ra từ hai bộ SGK cải cách
năm 1989-90 trong đó bài Thu hứng được giảng chính và Đăng cao là bài
đọc thêm. Điều này cũng là do mức độ phù hợp của các tác phẩm này đối
với quá trình tiếp nhận của HS.
1.3. Tình hình thể loại – bản dịch:
Bảng 3: Bảng thống kê thể loại của các tác phẩm thơ Đường trong
chương trình (cả 2 bộ SGK)
STT Tác phẩm nguyên tác Tác giả
nguyên tác
Thể loại

1 Hoàng Hạc lâu tống Mạnh
Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Lý Bạch Thất ngôn tuyệt cú
2 Tảo phát Bạch Đế thành Lý Bạch Thất ngôn tuyệt cú
3 Thu hứng Đỗ Phủ Thất ngôn luật thi
4 Nguyệt dạ Đỗ Phủ Ngũ ngôn luật thi
5 Đăng cao Đỗ Phủ Thất ngôn luật thi
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-13
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
6 Tỳ bà hành Bạch Cư Dị Thất ngôn cổ thể
7 Hoàng Hạc lâu Thôi Hiệu Thất ngôn luật thi
Bảng 4: Bảng thống kê tác phẩm Đường thi và dịch giả được lựa
chọn: (cả 2 bộ SGK)
ST
T
Tác phẩm nguyên tác
Tác giả
nguyên tác
Dịch giả
1 Hoàng Hạc lâu tống Mạnh
Hạo Nhiên chi Quảng Lăng
Lý Bạch Ngô Tất Tố
2 Tảo phát Bạch Đế thành Lý Bạch Tương Như
3 Thu hứng Đỗ Phủ Nguyễn Công Trứ
4 Nguyệt dạ Đỗ Phủ Tản Đà
5 Đăng cao Đỗ Phủ Nam Trân
6 Tỳ bà hành Bạch Cư Dị Phan Huy Thực
(Phan Huy Vịnh?)
7 Hoàng Hạc lâu Thôi Hiệu Tản Đà – Khương

Hữu Dụng
Qua hai bảng thống kê trên ta có thể rút ra những nhận xét về tình
hình thể loại và bản dịch như sau:
- Về thể loại: Qua bảng thống kê thể loại của các tác phẩm thơ Đường
trên chúng ta thấy có hai thể loại tiêu biểu đó là: cổ thể và cận thể. Trong đó
cổ thể chiếm tỉ lệ không đáng kể, chỉ có 1/7 bài (chiếm 14,3%). Còn lại 85,7
% là thơ cận thể bao gồm các thể loại: thất ngôn tuyệt cú, thất ngôn luật thi.
Như vậy chúng ta thấy cận thể là một trong những thành tựu nổi bật của
nghệ thuật sáng tác thơ Đường, được nhiều nhà thơ sử dụng để sáng tác.
Chúng ta cũng nhận thấy trong các thể cận thể thì thể loại tuyệt cú được sử
dụng tương đối nhiều. Đây là thể thơ ngắn nhất TQ phù hợp với thị hiếu và
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-14
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
nhu cầu của con người hiện đại. Không những thể, vì là thể thơ ngắn nhất, ít
câu chữ nhất nhưng vẫn phải truyền tải đến cho người đọc những nội dung
sâu sắc nên có thể nói thể loại này là sự đúc kết và thăng hoa cảm xúc và kĩ
thuật của người nghệ sĩ. Qua đây chúng ta có thể nói rằng, thơ Đường đã đạt
được những thành tựu tốt đẹp về phương diện nghệ thuật. Các nhà thơ
Đường đã mạnh dạn sáng tạo nhiều thể thơ mới lạ đem đến cho thơ ca những
phong cách nghệ thuật độc đáo mà hàng nghìn năm trước chưa hề có.
- Về bản dịch: Chúng ta chủ yếu học thơ Đường qua bản dịch thơ, vì
vậy việc tìm hiểu bản dịch có ý nghĩa rất quan trọng. Dịch thuật là truyền
thống lâu đời của dân tộc ta, công việc này tiến hành từ khi chữ Nôm xuất
hiện và còn kéo dài cho đến ngày nay. Lịch sử dịch thơ Đường bằng chữ
Quốc ngữ bắt đầu bằng những bản dịch trên báo và tạp chí đầu thế kỷ XX,
sau đó là trong những tuyển tập thơ Đường và cả trong các bộ văn học sử
phần văn học đời Đường. Dịch thuật là một công việc rất khó, không chỉ đòi
hỏi người dịch phải hiểu được nguyên lý dịch thuật, nắm rõ văn bản tác
phẩm mà còn phải thấm được vào hồn mình cái hồn của nó, có nghĩa là phải

yêu nó. Nếu không làm được những điều ấy thì bản dịch nếu không vụng về
về hình thức, câu từ thì cũng làm nhạt đi cái hay, cái sâu sắc của nội dung
tác phẩm. Thơ Đường là một trong những tinh hoa nghệ thuật của VHTQ và
nhân loại. Mỗi bài thơ Đường là một thế giới nghệ thuật độc đáo, gợi ít mà ý
nhiều, cô đọng, hàm súc về nội dung, có tính chặt chẽ về niêm luật, thể loại,
tính ước lê, cổ kính trang nghiêm… tạo thành một thể riêng biệt. Chính bởi
cái hay, cái độc đáo, tinh tế ấy của thơ Đường đã đặt ra cho các dịch giả một
thách thức lớn: làm sao để có một bản dịch hay về một bài thơ Đường? Trên
thực tế, mỗi dịch giả có một phong cách sáng tạo và cách dịch thâm thuý
khác nhau dưới các khía cạnh thưởng ngoạn đa dạng với những nhận thức
tinh tế, những cảm xúc nghệ thuật, những rung động thẩm mĩ đa chiều khi
đọc thơ Đường, vì vậy, có rất nhiều bài thơ Đường mà số lượng bản dịch của
nó lên đến hàng chục bài như Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, Phong Kiều dạ
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-15
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
bạc của Trương Kế và cả Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. Dịch giả ở nước ta
không chỉ dừng lại ở các nhà cựu học: Tùng Vân, Á Nam, Tản Đà mà cả
những nhà Thơ Mới và thành viên của Tự lực văn đoàn. Về thể loại các bản
dịch, ngoài những bản dịch theo nguyên thể còn có thể lục ngôn, song thất
lục bát, lục ngôn, hát nói
Qua khảo sát bản dịch và các dịch giả được lựa chọn trong SGK,
chúng ta thấy trong cả hai bộ SGK năm 1989-90, có 7 tác phẩm với 7 dịch
giả được lựa chọn. Chúng ta thấy có những gương mặt khá tiêu biểu đó là:
Tản Đà, Khương Hữu Dụng, Tương Như, Nguyễn Công Trứ, Ngô Tất Tố,
Nam Trân, Phan Huy Thục, trong đó Tản Đà dịch 2 tác phẩm (Nguyệt dạ và
Hoàng Hạc lâu). Đây đều là những dịch giả nổi tiếng ở nước ta, bản dịch
của họ được nhiều người đón nhận và lựa chọn. Các bản dịch của những tác
giả này không những đảm bảo được tương đối về yêu cầu tín, đạt, nhã mà
còn có giá trị nghệ thuật cao.

Tiểu kết:
Trước đây trong chương trình Văn ở nhà trường PT các cấp có phần
VHTQ. VHTQ đưa vào trích giảng ở PTTH lúc đó gồm một số thần thoại,
truyền thuyết cổ đại. Về Kinh thi - một tập thơ cổ điển của TQ ra đời cách đây
hơn 2500 năm – có trích giảng hai bài thơ ca dân gian phản ánh tinh thần đấu
tranh chống áp bức bóc lột của nhân dân TQ thời cổ là bài Phạt đàn (Chặt gỗ
đàn) và bài Thạc thử (Con chuột xù). Tác phẩm Sử ký của Tư Mã Thiên được
trích giảng hai đoạn: đoạn Bữa tiệc hồng môn (trích trong Cao tổ bản kỷ) và
Liêm Pha và Lạn Tương Như (trích trong Liêm Pha và Lạn Tương Như liệt
truyện) Về thơ Đường có bài Thạch Hào lại (Tên lại ở Thạch Hào) của Đỗ
Phủ. Văn học hiện đại TQ chủ yếu là học các truyện ngắn tiêu biểu của Lỗ Tấn
như AQ chính truyện và Cố hương dạy ở chương trình văn cuối cấp PTTH. Tuy
không nhiều nhưng văn thơ TQ đưa vào trích giảng ở nhà trường PT lúc đó có
tác dụng tốt để lại ấn tượng sâu sắc cho HS, nhất là giúp các em liên hệ so sánh
với thơ văn VN học trong chương trình. Ví dụ học hai bài thơ dân gian trong
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-16
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
Kinh thi là Phạt đàn và Thạc thử HS có thể hiểu thêm phần ca dao chống đế
quốc, phong kiến của VN. Học AQ chính truyện của Lỗ Tấn, các em có thể liên
hệ so sánh với truyện Chí Phèo (Nam Cao)
Trong chương trình cải cách môn Văn ở miền Bắc và miền Nam năm
học 1989-90, phần VHTQ rất được chú ý. Thơ, văn TQ đưa vào trích giảng
ở nhà trường PT chọn lựa có hệ thống và đầy đủ hơn. Ở PTCS, các em được
học một số bài thơ tiêu biểu của Lý Bạch và Đỗ Phủ. Về Đỗ Phủ, các em học
bài thơ về chủ nghĩa hiện thực và nhân đạo của ông. Đó là bài Thạch Hào
lại (Tên lại ở Thạch Hào) và bài Mao ốc vị thu phong sở phá ca (Bài ca gió
thu tốc nhà). Hai bài thơ bài thơ này chẳng những có giá trị về nội dung mà
còn có giá trị về nghệ thuật. Về thơ lãng mạn của Lý Bạch, HS học ba bài đó
là bài Hành lộ nan (Đường đi khó) và hai bài thơ tả cảnh thiên nhiên Vọng

Lư Sơn bộc bố (Ngắm thác núi Lư), Tĩnh dạ tư (Suy nghĩ trong đêm thanh
tĩnh).
Ở PTTH, HS lại được học ba nhà thơ lớn là Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch
Cư Dị. Về Đỗ Phủ, các em được tiếp xúc ba bài thơ trữ tình nổi tiếng của
ông đó là bài Thu hứng (Hứng thu) và Nguyệt dạ (Đêm trăng) (SGK miền
Bắc); Đăng cao (Lên cao) (SGK miền Nam). Về Lý Bạch, các em được học
bài thơ nói về tình bạn của ông đó là bài Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo
Nhiên chi Quảng Lăng (Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng
Lăng) và bài thơ Tảo phát Bạch Đế thành (Sáng ra đi từ thành Bạch Đế).
Bên cạnh đó, HS còn được học 2 bài thơ của 2 tác giả nổi tiếng của thơ
Đường là: Hoàng Hạc lâu (Thôi Hiệu) và Tỳ bà hành (Bạch Cư Dị).
Mặc dù các tác phẩm được chọn giảng trong chương trình SGK để dạy
cho HS quá ít so với kho tàng thơ Đường đồ sộ của VHTQ nhưng đó đều là
những tác phẩm điển hình có nội dung, tư tưởng đặc sắc và là đỉnh cao nghệ
thuật của nền thi ca nhân loại. Bất chấp khoảng cách địa lí cũng như khoảng
cách về thời gian, những tác phẩm Đường thi với những giá trị nhân văn cao
đẹp của nó vẫn có sức lôi cuốn mãnh liệt đối với nhiều thế hệ bạn đọc.
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-17
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
CHƯƠNG 2
SO SÁNH VIỆC BIÊN SOẠN THƠ ĐƯỜNG
TRONG HAI BỘ SGK VĂN 10 CẢI CÁCH
Ở MIỀN BẮC VÀ MIỀN NAM NĂM HỌC 1989-90
2.1. Cách dùng tiêu đề tác phẩm:
* SGK miền Bắc năm 1990:
- Chỉ dùng tiêu đề phiên âm chữ Hán.
- Tên tác phẩm: viết hoa, in đậm
* SGK miền Nam năm 1990:
- Chỉ dùng tiêu đề phiên âm chữ Hán

- Tên tác phẩm: viết thường, in đậm
Về cách sử dụng tiêu đề tác phẩm, hai bộ SGK ở miền Bắc và miền
Nam năm 1989-90 giống nhau ở chỗ là đều chỉ sử dụng tiêu đề phiên âm
chữ Hán, tuy nhiên cách đánh máy văn bản lại có sự khác nhau: một bên là
viết hoa in đậm và một bên là viết thường và in đậm. Cách trình bày tiêu đề
tác phẩm không chỉ khác nhau trong cùng một thời điểm biên soạn SGK
năm 1990 mà so với các bộ SGK trước và sau nó, chúng tôi đã khảo sát và
cũng nhận ra sự khác biệt. Có rất nhiều cách trình bày tiêu đề tác phẩm:
ngoài cách mà hai bộ SGK Văn 10 ở miền Bắc và miền Nam năm 1990 đã
sử dụng, còn có nhiều cách trình bày tiêu đề tác phẩm khác mà các bộ SGK
Văn 10 sau này đã sử dụng. Ví dụ:
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-18
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
- Dùng tiêu đề chữ Hán là chính và tiêu đề tiếng Việt là phụ như bộ
SGK Văn 10 chỉnh lí hợp nhất năm 2000 (Tiêu đề chữ Hán viết hoa, in đậm;
tiêu đề tiếng Việt viết thường, in nghiêng và đặt trong dấu ngoặc đơn ở phía
dưới tiêu đề phiên âm chữ Hán, có chú thích ở những từ ngữ cần làm rõ).
2.2. Cách giới thiệu văn bản:
* Giống nhau:
- Qua khảo sát chúng tôi thấy về cách giới thiệu văn bản tác phẩm, cả
hai bộ SGK ở miền Bắc và miền Nam đều giới thiệu cả phần phiên âm, dịch
nghĩa (hay dịch văn xuôi) và dịch thơ (trừ tác phẩm Tỳ bà hành do quá dài).
- So với các bộ SGK sau này, đây vẫn là cách trình bày chủ yếu mà
những người biên soạn sách lựa chọn sử dụng. Đây là một công việc có ý
nghĩa quan trọng và thể hiện ý thức của người biên soạn bởi chúng ta đang
học về thơ cổ TQ. Ngoài việc hiểu được bản dịch nghĩa, dịch thơ, người học,
người đọc còn phải rèn luyện năng lực tư duy thông qua việc tiếp cận với
nguyên tác của tác phẩm. Chúng ta phải có sự đối chiếu và đánh giá các bản
dịch so với nguyên tác; cao hơn, chúng ta còn có thể có những cách dịch

khác theo tầm nhận thức của chúng ta. Vì vậy, theo chúng tôi đây là một
cách giới thiệu văn bản mang tính truyền thống, phù hợp và cần được các
nhà biên soạn lưu giữ.
Tuy nhiên, khi đi vào từng phần văn bản được giới thiệu, chúng ta sẽ
thấy có sự khác biệt về hình thức trình bày giữa hai bộ SGK mà chúng ta
đang khảo sát.
* Khác nhau:
- SGK miền Bắc: các phần phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ đều viết
thẳng đứng, không in nghiêng
- SGK miền Nam: các phần phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ đều
được viết theo chữ in nghiêng
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-19
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
2.3. Về kênh hình trong SGK:
Kênh hình trong SGK mà chúng tôi muốn đề cập đến ở đây chính là
những tranh ảnh minh họa cho mỗi bài học. Đây chỉ là phần phụ của nội
dung bài học nhưng lại có vai trò tích cực trong việc tăng tính trực quan sinh
động của người đọc (người học) khi tiếp nhận văn bản tác phẩm. Điều đặc
biệt mà chúng tôi nhận thấy trong quá trình khảo sát hai bộ SGK ở miền Bắc
và miền Nam năm 1990 là hai bộ sách này đều không có tranh ảnh minh họa
cho mỗi bài học Đường thi (Riêng bài Khái quát thơ Đường trong SGK Văn
ở miền Nam có duy nhất một hình minh họa đó là: Tranh thủy mặc TQ thế
kỷ XII). Đến năm 2000, phần thơ Đường trong sách Văn 10 cũng chỉ bổ sung
tranh ảnh minh họa chân dung của hai nhà thơ tiêu biểu của Đường thi là Lý
Bạch và Đỗ Phủ. Chỉ đến những bộ SGK được biên soạn sau năm 2000,
người ta mới chú ý đến việc dùng tranh ảnh để minh họa cho nội dung bài
học. Sự thay đổi này là một kết quả đáng ghi nhận.
2.4. Cách thức trình bày nội dung bài học Đường thi trong SGK:
- Ở hai bộ SGK miền Bắc và miền Nam đều có phần giới thiệu khái

quát về thơ Đường (Nội dung và hình thức nghệ thuật)
Đây là một điểm đổi mới so với chương trình THCS. Để hiểu một tác
phẩm văn học mà nhất là tác phẩm đó lại thuộc một nền văn học đỉnh cao
như văn học cổ TQ, chúng ta không thể xem xét tác phẩm đó như một chỉnh
thể độc lập mà nhất thiết phải đặt nó trong các mối quan hệ. Bài khái quát
thơ Đường giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về thời đại, lịch sử văn hóa
xã hội TQ; giới thiệu cho chúng ta những đặc điểm chung về nội dung và
hình thức của thơ Đường cũng như mối quan hệ giữa thơ Đường với VN (bổ
sung trong cuốn SGK chỉnh lí năm 2000). Những tri thức này sẽ giúp chúng
ta có những sự liên hệ nhất định khi tiếp nhận văn bản tác phẩm.
- Về trình tự cấu trúc bài học được sắp xếp như sau:
+ SGK Văn 10 ở miền Bắc năm 1990: Tên tác phẩm, tên tác giả, văn bản tác
phẩm (gồm phần phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ), chú giải, hướng dẫn học bài.
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-20
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
+ SGK Văn 10 ở miền Nam năm 1990: Tên tác phẩm, tên tác giả, tiểu
dẫn, văn bản tác phẩm (gồm phần phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ), chú
thích, hướng dẫn học tập.
(SGK năm 2000: Tên tác giả, tiểu dẫn, tên tác phẩm, văn bản tác
phẩm, chú thích, hướng dẫn học bài).
- Về cách thức trình bày dịch giả và xuất xứ bản dịch:
+ SGK Văn 10 ở miền Bắc năm 1990: chỉ in tên người dịch, không in
xuất xứ bản dịch.
Ví dụ: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng: Ngô
Tất Tố dịch; Tảo phát Bạch Đế thành: Tương Như dịch; Thu hứng: Nguyễn
Công Trứ dịch; Nguyệt dạ: Tản Đà dịch; Hoàng Hạc lâu: Tản Đà dịch (bản
1), Khương Hữu Dụng dịch (bản 2); Tỳ bà hành (không ghi tên người dịch)
+ SGK Văn 10 ở miền Nam năm 1990: in tên người dịch và in cả xuất
xứ của bản dịch.

Ví dụ: Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng: Ngô
Tất Tố dịch (Thơ Đường, tập II, NXB Văn học, Hà Nội – 1987); Đăng cao:
Nam Trân dịch (Thơ Đường, tập II, NXB Văn học, Hà Nội – 1987); Tỳ bà
hành: Phan Huy Thục dịch (Thơ Đường, tập 1, NXB Văn học, Hà Nội –
1987); Tảo phát Bạch Đế thành: Tương Như dịch (Thơ Đường, tập II, NXB
Văn học, Hà Nội – 1987); Hoàng Hạc lâu: Tản Đà dịch, Ngày nay số 80,
1937) (Giống với SGK Văn 10 chỉnh lí hợp nhất năm 2000)
- Về cách sắp xếp thứ tự các bài học trong SGK:
Bảng5: Bảng sắp xếp thứ tự các bài học trong SGK
Chúng ta đối chiếu qua 2 bảng thống kê sau:
• SGK miền Bắc năm 1990:
STT Tên bài học
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-21
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
1 Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng - Lý Bạch
2 Tảo phát Bạch Đế thành (Đọc thêm) - Lý Bạch
3 Thu hứng – Đỗ Phủ
4 Nguyệt dạ (Đọc thêm) – Đỗ Phủ
5 Hoàng Hạc lâu – Thôi Hiệu
6 Tỳ bà hành – Bạch Cư Dị
• SGK miền Nam năm 1990:
STT Tên bài học
1 Hoàng Hạc lâu tống Mạnh Hạo Nhiên chi Quảng Lăng - Lý Bạch
2 Đăng cao – Đỗ Phủ
3 Tỳ bà hành – Bạch Cư Dị
4 Tảo phát Bạch Đế thành (Đọc thêm) - Lý Bạch
5 Hoàng Hạc lâu (Đọc thêm) – Thôi Hiệu
Qua hai bảng thống kê trên, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, sách
giáo khoa ở miền Bắc năm 1989-90 sắp xếp trình tự bài học theo tác giả

nghĩa là học hết tác phẩm của tác giả này sẽ chuyển sang các tác phẩm
của các tác giả khác, kể cả tác phẩm giảng chính và tác phẩm đọc thêm
(Điểm này giống với SGK chỉnh lí hợp nhất năm 2000). Còn ở sách giáo
khoa miền Nam năm 1989-90 chúng ta lại thấy người biên soạn sắp xếp
trình tự bài học theo vai trò của bài học đó trong nội dung chương trình
nghĩa là học hết những bài học chính sẽ chuyển sang những bài đọc thêm
cũng của chính tác giả đó.
Như vậy, tuy cùng giảng dạy một nội dung Đường thi nhưng ngay
trong năm 1989-90, hai bộ SGK ở miền Bắc và miền Nam đã có sự khác
nhau về một số phương diện hình thức. Đặt trong mối quan hệ so sánh với
bộ SGK chỉnh lí hợp nhất năm 2000 chúng ta càng thấy rõ những sự khác
biệt và thay đổi của hai bộ SGK này: không chỉ khác nhau về kênh chữ,
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-22
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
kênh hình mà còn trong cách thức trình bày nội dung bài học Đường thi
trong SGK. Những phương diện hình thức nãy sẽ cho chúng ta một cái
nhìn toàn diện hơn về nội dung được soạn giảng trong những bộ SGK này
cũng như giúp chúng ta có cái nhìn sâu sắc hơn về quan niệm của đội ngũ
những người biên soạn SGK.
2.5. Cấu trúc chi tiết nội dung bài học Đường thi:
2.5.1. Bài khái quát về thơ Đường:
* SGK miền Bắc năm 1990:
- Bài khái quát về thơ Đường: có thể tóm lược cách trình bày và nội
dung các mục lớn như sau:
GIỚI THIỆU CHUNG
Thơ Đường là một thành tựu hết sức rực rỡ và độc đáo, không chỉ của
nền thơ ca cổ điển TQ mà của cả nền thơ ca nhân loại. Hiện còn 48000 bài
của trên 2300 tác giả.
I. NGUYÊN NHÂN PHÁT TRIỂN

- Về lịch sử xã hội: Sự thịnh hành của đời Đường (618 – 907) tạo có
sở vật chất thuận lợi cho sự phát triển của văn hóa, văn học và thơ ca. Sự
biến An Lộc Sơn – Sử Tử Minh làm cho đất nước TQ rối ren. Đây chính là
chất liệu hiện thực cho các tác phẩm văn học
- Về văn hóa – tư tưởng:
+ Đời sống văn hóa phong phú đã nâng cao tầm hiểu biết của các nhà
thơ tạo nên sụ đa dạng về phong cách trên thi đàn đời Đường.
+ Các ngành nghệ thuật ở đời Đường: hội họa, âm nhạc, vũ đạo, thư
pháp đều rất phát triển.
+ Chế độ thi cử đời Đường coi trọng thơ ca.
- Những đỉnh cao của thơ Đường: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị,
Vương Duy
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-23
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
II. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC NGHỆ
THUẬT THƠ ĐƯỜNG:
1. Khái quát nội dung:
- Thơ Đuờng thường chỉ xoay quanh những đề tài quen thuộc như/;
thiên nhiên, chiến tranh, tình yêu, tình bạn, phụ nữ.
- Vượt lên trên sự trùng lặp đó thơ Đường đã để lại những tác phẩm
độc đáo. Nhiều nhà thơ Đường đã thể hiện một sự đồng cảm chân thành, một
tình nhân ái sâu nặng trong lúc nêu lên những nỗi khổ của các tầng lớp nhân
dân đương thời, nhất là nông dân và phụ nữ.
2. Hình thức nghệ thuật
a) Thể thơ: Các nhà thơ đời Đường sáng tác theo 3 thể: Đường luật, cổ
phong và từ.
- Từ là một loại thơ đặc biệt ra đời giữa đời Đường, kết hợp chặt chẽ
với âm nhạc.
- Cổ phong là thể thơ tương đối tự do, không bị ràng buộc về số chữ

trong một câu (nhưng thường là 5 và 7 chữ), số câu trong bài, về cách gieo vần
(có thể là gieo cả vần trắc lẫn vần bằng), về niêm, luật, đối (tuy vậy cũng có bài
tiếp thu một số yếu tố của thơ luật để tạo nên các kiểu trung gian).
Đường luật gồm ba dạng chính: bát cú (tám câu, có thể là “thất ngôn”
hoặc “ngũ ngôn”), tuyệt cú (bốn câu) và bài luật (trường luật)
b) Luật thơ:
- Sự phối hợp các thanh bằng và trắc hết sức hài hòa
- Cấu trúc bài thơ hết sức chặt chẽ
c) Ngôn ngữ thơ: chữ dùng ở thơ Đường thường đơn giản nhưng rất
tinh luyện. Số chữ được dùng rất ít nên làm thơ Đường không thể sử dụng
chữ tùy tiện
d) Tứ thơ: Tứ trong thơ Đường rất phong phú và đa dạng. Cùng với
các đặc điểm trên, đặc điểm này làm cho thơ Đường, đặc biệt là những bài
bát cú và tuyệt cú, mang tính chất hàm súc nổi bật.
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-24
Phạm Thị Phương Thơ Đường trong hai bộ SGK Văn 10 cải cách
* SGK miền Nam năm 1990:
- Bài khái quát về thơ Đường: được trình bày như sau:
GIỚI THIỆU CHUNG
Thơ Đường là một thành tựu xuất sắc của nền thơ cổ Trung Hoa, đồng
thời cũng là một hiện tượng đặc biệt trong lịch sử văn học thế giới. Trong
vòng 3 thế kỉ, thơ ca đời Đường đã để lại cho lịch sử tên tuổi của 2300 nhà
thơ với khoảng 48000 bài thơ. Nhưng sự phát triển rực rỡ của thơ Đường đặt
trong bối cảnh lịch sử xã hội của nó là một điều hoàn toàn có thể hiểu được
1. Hoàn cảnh xã hội đời Đường
- Nhà Đường lập nước (618 – 907)
- Kinh tế, xã hội phồn vinh, cục diện chính trị ổn định
- Giữa thế kỉ III, tình hình xã hội đời Đường có nhiều thay đổi. Sau sự
biến An Lộc Sơn, Sử Tử Minh khiến cho nhà Đường trở nên suy thoái.

2. Nguyên nhân phát triển của thơ Đường
- Kinh tế phồn vinh, xã hội thái bình ở đầu đời Đường đã chuẩn bị cơ
sở vật chất cho sự phát triển của thơ ca.
- Khi nhà Đường đi vào suy thoái, thơ đi sâu hơn vào những vấn đề
của đời sống, khuynh hướng hiện thực phát triển mạnh.
- Chế độ khoa cử “dĩ thi thủ sĩ” (dùng thơ để chọn người tài) của nhà
Đường cũng là một trong những nguyên nhân làm cho thơ Đường phát triển.
- Về tư tưởng: bên cạnh Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo cũng phát
triển mạnh
- Bên cạnh thi ca thì âm nhạc, vũ đạo, hội họa, điêu khắc cũng rất
phát triển
3. Các thời kì và các tác giả tiêu biểu của thơ Đường:
- Thơ Đường có thể chia ra làm bốn thời kì: Sơ Đường (618 – 713),
Thịnh Đường (713 – 766), Trung Đường (766 – 835) và Văn Đường (835 –
Khóa luận tốt nghiệp - Lớp NVSP K50 - ĐH KHXH & NV Hà Nội
-25

×