Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

quan niệm văn học của nguyễn trãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (415.03 KB, 89 trang )

Quan niệm văn học của Nguyễn Trãi
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Lý do khoa học
Nguyễn Trãi là nhà tư tưởng, nhà chính trị thiên tài, là nhà thơ, nhà
văn kiệt xuất, là ngôi sao sáng của lịch sử Việt Nam ở thế kỉ XV, là danh
nhân văn hóa thế giới… Cho nên, “chỉ qua ông - và bắt buộc phải qua ông -
chúng ta nhìn và đánh giá cả một thời đại, cả một dân tộc, cả một con
đường” [24, 76]. Có lẽ vỡ lớ do đó mà trong nhiều thập kỉ qua, con người
và sự nghiệp Nguyễn Trãi luôn luôn là những vấn đề thu hút sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trong và ngoài nước, thuộc nhiều
ngành, nhiều lĩnh vực khác nhau. Văn học cũng không phải là một ngoại lệ.
Với Lam Sơn thực lục, Phỳ núi Chí Linh, Văn bia Vĩnh Lăng, Dư địa chí,
Quân trung từ mệnh tập, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập… văn nghiệp của
Nguyễn Trãi đó trở thành nguồn cảm hứng và đề tài vô tận cho nhiều nhà
nghiên cứu văn học. Trong số đó, có nhiều vấn đề đã được giải quyết trọn
vẹn, sâu sắc; song cũng có nhiều đề tài mới chỉ được đặt ra, nghiên cứu
bước đầu. Tìm hiểu quan niệm văn học của Nguyễn Trãi chính là một trong
những đề tài như thế, hứa hẹn còn nhiều vấn đề thú vị chưa được khám phá,
và đó cũng là lí do đầu tiên khiến chúng tôi mạnh dạn lựa chọn hướng
nghiên cứu này.
Bên cạnh đó, quá trình nghiên cứu văn học giúp chúng tôi nhận thấy,
việc nắm vững quan niệm văn học của một tác giả sẽ giúp chúng ta hiểu sõu
sắc hơn sáng tác của tác giả đó (bởi quan niệm văn học chi phối sáng tác và
ngược lại qua sáng tác hiểu sõu thêm quan niệm văn học). Do vậy, muốn
1
khai thác thêm nhiều giá trị của văn chương Nguyễn Trãi, việc nắm vững
quan niệm văn học của ông thiết nghĩ cũng là một trong những con đường
tiếp cận khả thủ, giúp chúng ta có thêm cơ sở để vượt qua lớp bụi thời gian
trên dưới sỏu trăm năm bao phủ lên những sáng tác của ông.
Nghiên cứu quan niệm văn học của Nguyễn Trãi không chỉ dừng lại ở


mục đích phục vụ việc khai thác các giá trị trong văn chương Ức Trai. Cái
đích xa hơn chúng tôi muốn đạt đến chớnh là: đặt quan niệm văn học của
Nguyễn Trãi trong hệ thống quan niệm văn học Việt Nam thời trung đại.
Nguyễn Trãi đã kế thừa những khớa cạnh nào trong quan niệm văn học của
các tác giả thời văn học Lý - Trần - Hồ… Quan niệm văn học của ông có
những điểm gì mới mẻ so với thời đại trước và so với thời ông đang sống;
đồng thời những quan niệm đó có được tiếp nối ở các tác giả sau như thế
nào, những khớa cạnh nào trong quan niệm văn học của Nguyễn Trãi được
kế thừa, tiếp nối, những phương diện nào được bổ sung…Việc làm này thiết
nghĩ là vô cùng cần thiết, góp một phần nhỏ khẳng định: nền lí luận của văn
học Việt Nam đã được xõy dựng từ mười thế kỉ văn học trung đại, trong đó
Nguyễn Trãi cũng đóng góp một phần quan trọng. Đó là cơ sở vững chắc
cho nền lí luận hiện đại của văn học Việt Nam, tạo thế và lực cho chúng ta
hội nhập với văn học khu vực và thế giới.
1.2. Lý do thực tiễn
Trong chương trình Ngữ văn ở phổ thông và đại học, các tác phẩm thơ
văn Nguyễn Trãi có số lượng và vị trí đáng kể. Nếu được trang bị những
kiến thức cần thiết về quan niệm văn học của Nguyễn Trãi thì chắc chắn việc
tiếp cận các sáng tác của Ức Trai sẽ thuận lợi và dễ dàng hơn. Do đó, về
phương diện sư phạm, luận văn cũng góp phần vào việc giảng dạy và học tập
văn chương Nguyễn Trãi một cách hiệu quả.
2
Những trình bày trên đõy đã cho thấy, Bước đầu tìm hiểu một số
phương diện trong quan niệm văn học của Nguyễn Trãi là một đề tài vừa có
ý nghĩa lý luận vừa có ý nghĩa thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu của đề tài
một luận văn cao học.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
2.1. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Trong phần lịch sử vấn đề, chúng tôi sẽ sơ bộ điểm lại toàn bộ tình
hình nghiên cứu quan niệm văn học của Nguyễn Trãi ở các tác giả trước

đây, xem đó là cơ sở, là tiền đề để chúng tôi triển khai đề tài nghiờn cứu
của mình. Quá trình thu thập và đọc tài liệu cho chúng tôi nhận thấy, việc
nghiên cứu quan niệm văn học Nguyễn Trãi của các tác giả được chia làm
ba hướng chính: nghiên cứu gián tiếp quan niệm văn học của Nguyễn Trãi,
nghiên cứu trực tiếp quan niệm văn học của Nguyễn Trãi và nghiên cứu
quan niệm văn học của ông trong bối cảnh nghiên cứu quan niệm văn học
trung đại Việt Nam.
2.1.1. Hướng nghiên cứu gián tiếp quan niệm văn học của Nguyễn Trãi
Ở hướng nghiên cứu này, các tác giả thường tập trung tỡm hiểu tư
tưởng của Nguyễn Trãi, xem đó là cơ sở và tiền đề để hiểu quan niệm văn
học cũng như sáng tác của ông.
*Hướng nghiên cứu tập trung vào tư tưởng của Nguyễn Trãi được đề
cập đến khá sớm, từ những năm 1960 của thế kỉ XX, với công trình Nguyễn
Trãi của tác giả Trần Huy Liệu, Nxb Khoa học, Hà Nội, 1966. Trong cuốn
sách trên, ở chương IV và chương V, tác giả đã đề cập đến nguồn gốc, nội
dung, phương pháp tư tưởng của Nguyễn Trãi. Chương V với nhan đề:
Phương pháp tư tưởng của Nguyễn Trãi đã khẳng định trong phương pháp tư
tưởng của Nguyễn Trãi vừa có nhõn tố duy vật, vừa có nhõn tố biện chứng.
Tuy nhiên sự chú ý của chúng tôi là ở chương IV: Nguồn gốc và nội dung tư
tưởng của Nguyễn Trãi. Trần Huy Liệu đã làm rừ vai trò của Nho giáo tại
3
Việt Nam giai đoạn cuối thế kỉ XIV - đầu thế kỉ XV và khẳng định: Nho giáo
là nguồn gốc tư tưởng của Nguyễn Trãi. Kết luận nêu trên được tác giả rút ra
sau khi tiến hành nghiên cứu bốn vấn đề trong tư tưởng của Nguyễn Trãi,
cũng là bốn vấn đề của học thuyết Nho giáo được Nguyễn Trãi vận dụng cụ
thể vào hoàn cảnh Việt Nam: Mệnh trời, nhân dân, nhân nghĩa, tư tưởng
hoà bình. Cũng giống như ông tổ của học phái Nho gia, Nguyễn Trãi tin vào
mệnh trời: “Ai mà cói được lòng trời” (Tự thán 15), “Nhõn sinh vạn sự tổng
quan thiên” - Đời người ta muôn việc đều ở trời (Hạ nhật mạn thành). Tư
tưởng nhõn dõn ở Nguyễn Trãi tuy chịu ảnh hưởng ít nhiều tư tưởng nhõn

dõn của Khổng Mạnh nhưng biểu hiện đậm đà, sõu sắc hơn, có hệ thống và
nhất trí hơn. Đó là tư tưởng nhõn dõn do thực tế Việt Nam hun đúc nên.
Khổng Tử thông cảm với nhõn dõn nhưng mặt khác ông lại coi nhẹ nhõn
dõn, bởi trong quan niệm của ông, dõn trong xã hội là kẻ tiểu nhõn. Những
cõu như: “quõn tử dụ ư nghĩa, tiểu nhõn dụ ư lợi” - quõn tử hiểu rừ ở đạo
nghĩa, tiểu nhõn hiểu rừ ở điều lợi - cho thấy màu sắc giai cấp rừ rệt trong
quan niệm nhõn dõn của Khổng Tử. Nguyễn Trãi nhờ những năm tháng sống
cuộc đời thanh bần cùng cha ở làng Nhị Khê, sống trong cảnh nghèo khổ ở
thành Đông Quan và mười năm “nếm mật nằm gai” cùng Lê Lợi trong cuộc
khởi nghĩa Lam Sơn đã giúp cho ông có điều kiện sống gần gũi với nhõn
dõn, cho nên tư tưởng nhõn dõn của Nguyễn Trãi đậm đà, tha thiết, sõu sắc,
có nhiều nét độc đáo, gần gũi với chúng ta. Ở tư tưởng nhõn nghĩa, Nguyễn
Trãi không chỉ xuất phát từ Khổng Tử (nhõn nghĩa là quan hệ đạo đức giữa
người với người) mà cũn sáng tạo nó từ thực tế Việt Nam, làm cho nó mang
một nội dung yêu nước: nhõn nghĩa trước hết “cốt ở yên dõn”. Tư tưởng hoà
bình ở Khổng Tử biểu hiện ở bác ái, lòng bác ái phải rộng ra khắp cả thiên
hạ, chứ không riêng một nước nào. Tuy nhiên Khổng Mạnh lại coi thường
các dõn tộc không thuộc Hoa Hạ “ta chỉ nghe rằng dùng đạo lý của người
Hoa Hạ để sửa đổi lề thói của bọn Man Di, chứ chưa hề nghe nói dùng lề
thói của bọn Man Di để sửa đổi đạo lý của người Hoa Hạ bao giờ” (Sách
4
Mạnh Tử, thiên Đằng Văn Công chương cú thượng), nên tư tưởng Khổng
Mạnh vẫn mang màu sắc dõn tộc chủ nghĩa, tư tưởng nước lớn. Với Nguyễn
Trãi, hoà bình gắn chặt với độc lập dõn tộc.
Cùng chung hướng nghiên cứu này, chúng ta cần phải đề cập đến bài
viết Tư tưởng của Nguyễn Trãi của tác giả Nguyễn Thiên Thụ trong sách
Nguyễn Trãi, Lửa Thiêng xuất bản, Sài Gũn, 1973, sau này được tác giả
Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu trong Nguyễn Trãi - Về tác gia và
tác phẩm. Trong bài viết này, tác giả không chỉ nhắc tới tư tưởng Nho giáo
mà cũn đề cập tới tư tưởng Lóo Trang, tư tưởng Phật giáo khi nghiên cứu tư

tưởng Nguyễn Trãi. Từ đó, tác giả đi tới kết luận, cả ba hệ tư tưởng đó đều
có những ảnh hưởng nhất định đối với tư tưởng Nguyễn Trãi. Đõy là một sự
bổ sung cần thiết cho những ý kiến của tác giả Trần Huy Liệu mà chúng tôi
đã đề cập tới ở phần trên.
Tiếp tục hướng nghiên cứu trên, tác giả Trần Đình Hượu trong cuốn
Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn húa thông tin, Hà
Nội, 1995 đã dành chương IV để bàn về vấn đề: Nguyễn Trãi và Nho giáo.
Mục đích của chương này là để trả lời cõu hỏi Nguyễn Trãi là nhà nho như
thế nào? Để trả lời cõu hỏi này, Trần Đình Hượu đã lần lượt làm rừ bốn vấn
đề: Nêu nhân nghĩa làm công lý - vận dụng Nho giáo chống quân xâm lược
nhà Minh; Vua Nghiêu Thuấn, dõn Nghiờu Thuấn, lòng ưu ái và xã hội lý
tưởng của Nguyễn Trãi; Quan điểm làm người và những day dứt quanh vấn
đề xuất xử; Dân tộc và nhân đạo - con đường tiếp thu Nho giáo của Nguyễn
Trãi. Ở vấn đề thứ nhất, tác giả nhận thấy, Nguyễn Trãi đã vận dụng Nho
giáo và vận dụng một cách sắc sảo, có hiệu quả để giành chớnh nghĩa cho sự
nghiệp chống ngoại xõm. Dưới ngòi bút của Nguyễn Trãi, Nho giáo thành
một sức mạnh, bao võy, công phá quõn thù. Khi đất nước hết chiến tranh,
Nguyễn Trãi muốn nhanh chóng xõy dựng lại cuộc sống thái bình, cùng
nhõn dõn yên nghỉ. “Ông đã lựa chọn mô hình theo ông nghĩ là đẹp nhất, để
khái quát, lý luận hoá tất cả những nguyện vọng của dõn tộc, của nhõn dõn.
5
Mô hình đó là xã hội Nghiêu Thuấn của Nho gia” [24, 98]. Trong vấn đề thứ
hai, Trần Đình Hượu khẳng định Nguyễn Trãi cũng tin như các nhà nho là có
thể xõy dựng một xã hội hoàn mỹ bằng giáo hoá, tu dưỡng đạo đức và đức
trị, không được làm tướng khanh thì làm nho thần. Cho nên trong quan điểm
làm người của Nguyễn Trãi, tác giả nhận thấy ông thường khuyên con người
ta không nên sợ nghèo, không nên tham lợi bởi đạo đức mới là “của chầy”.
Ông cũng nói an mệnh, an bần nhưng khuyên nên chăm chỉ làm ăn, cày lấy
ruộng, đào lấy giếng, sống no đủ. Lời khuyên tổng quát nhất là giữ “đạo
trung”. Tuy nhiên, Nguyễn Trãi cũng lại khuyên con người ta nên “vô tõm,

vô cầu, vô sự, biết lui, biết nhường… những chữ, những ý rút ra từ sách vở
Lóo - Trang. Điều khác nhau căn bản là ở chỗ Lóo - Trang có thái độ phi xã
hội, sống cô đơn, không thấy sự đầm ấm giữa những con người. Nguyễn Trãi
khuyên nên sống thường thường nhưng không phải tầm thường” [24, 102-
103]. Nguyễn Trãi cũng hay day dứt về vấn đề xuất xử, phản ánh cuộc đấu
tranh giữa tư tưởng Nho gia và Lóo - Trang trong suy nghĩ của ông. Tuy vậy
tác giả vẫn rút ra nhận xét căn bản là “Nguyễn Trãi vẫn là Nho chứ không
phải Trang” [24, 112], “cách đặt và giải quyết vấn đề xuất xử của Nguyễn
Trãi là Nho chứ không phải Trang” [24, 113], “nhiều luận điểm về cuộc đời
ở Nguyễn Trãi rút từ triết lý Trang Tử, nhưng cả hệ thống thì tư tưởng ông
lại thuộc Nho gia” [24, 113-114]. Từ đó, Trần Đình Hượu đi tới kết luận:
dõn tộc và nhõn đạo là con đường tiếp thu Nho giáo của Nguyễn Trãi , “ông
đã lựa chọn Nho giáo nhưng là xu hướng nhõn đạo chủ nghĩa nhất trong Nho
giáo thời đó” [24, 129].
Hướng nghiên cứu trên cũn được đề cập đến một lần nữa ở bài viết
Nhà tư tưởng và nhà nghệ sĩ trong Quốc âm thi tập của tác giả Trần Ngọc
Vương trong cuốn Văn học Việt Nam dũng riờng giữa nguồn chung, Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 1997. Tác giả nhận thấy có hai nhà tư tưởng, nhà nghệ sĩ
trong Quốc âm thi tập, “lúc thì tranh cói, lúc thì xoay lưng lại với nhau. Hai
khuynh hướng chủ đạo ấy song song tồn tại trong cùng một con người, lắm
6
lúc tạo ra những tõm trạng cay cực” [100, 236]. Một nhà tư tưởng phát ngôn
và hành động cho đạo Nho, nhà nghệ sĩ mang nặng nỗi ưu thời mẫn thế và
một nhà tư tưởng của triết học Lóo - Trang, người nghệ sĩ ca tụng thú thanh
nhàn, hoà mình vào tạo vật. Trên cơ sở đó, tác giả đi tới nhận định: “với tư
cách là nhà tư tưởng, định hướng cơ bản nhất, trục chớnh của tư tưởng
Nguyễn Trãi là Nho giáo […] Tư tưởng Lóo - Trang, đặc biệt là Trang, có
ảnh hưởng tới Nguyễn Trãi khá hiển nhiên. Ảnh hưởng của Phật giáo nói
chung, Thiền tông nói riêng, đối với ông không thật rừ ràng và có sức nặng
đáng kể” [100, 266]. “Sự cảm nhận cuộc đời, cảm nhận thế giới theo lối

nghệ sĩ (hồn nhiên, cảm tớnh, trực tiếp, “nguyên trạng”) chi phối hành động
và suy tư của ông nhiều hơn hẳn tác động của tri thức sách vở ” [100, 267].
Bên cạnh đó, chúng ta cũn có thể kể đến các bài viết như Ảnh hưởng
Đạo gia trong thơ Nguyễn Trãi của tác giả Lã Nhõm Thìn, Về cảm quan
Phật giáo trong thơ văn Nguyễn Trãi của tác giả Nguyễn Hữu Sơn, đều được
in trong Tạp chí văn học số 6, năm 2000. Các bài viết trên đều tập trung
khẳng định ngoài Nho giáo, tư tưởng Nguyễn Trãi, thơ văn Nguyễn Trãi cũn
chịu ảnh hưởng của hai triết thuyết lớn: Phật và Đạo.
Hướng nghiên cứu tập trung vào tư tưởng của Nguyễn Trãi mà chúng
tôi đề cập tới ở trên có lẽ chưa làm nổi bật được những khớa cạnh quan trọng
của quan niệm văn học Nguyễn Trãi. Tuy nhiên khi tiến hành nghiên cứu
một số phương diện trong quan niệm văn học của Ức Trai, chúng tôi không
thể bỏ qua mảng nghiên cứu này vì một lý do quan trọng: Tư tưởng của một
tác giả luôn luôn là điểm tựa, là cơ sở, là tiền đề để nhà văn đó xõy dựng
quan niệm văn học, phương chõm sáng tác. Muốn hiểu và khám phá chớnh
xác quan niệm văn học của Nguyễn Trãi, đòi hỏi chúng ta cần nắm vững tư
tưởng của ông.
*Trong hướng nghiên cứu gián tiếp quan niệm văn học của Nguyễn
Trãi, chúng ta cần phải đề cập tới nhánh nghiên cứu của tác giả Bựi Văn
Nguyên. Ở chuyên luận Văn chương Nguyễn Trãi, Nxb ĐH&THCN, Hà
7
Nội, 1984, Bựi Văn Nguyên đã dành chương thứ V để nghiên cứu quan niệm
văn học Nguyễn Trãi: Nguyễn Trãi và quan niệm văn chương vì nghĩa lớn,
vì chí lớn của kẻ anh hùng vỡ dõn vỡ nước. Có thể thấy rằng tác giả đã
không đi vào tỡm hiểu tư tưởng của Nguyễn Trãi mà trực tiếp đề cập đến
quan niệm văn học của ông. Song cách đặt vấn đề ở bài viết này vẫn chỉ
dừng lại ở phương diện gián tiếp. Tác giả không đưa ra một cõu thơ hay cõu
văn nào Nguyễn Trãi thể hiện trực tiếp quan niệm văn học vì nghĩa lớn, vì
chí lớn của kẻ anh hùng vì dõn vì nước. Quan niệm văn học đó được Bựi
Văn Nguyên khái quát lên thông qua việc phõn tích một hệ thống những

sáng tác của Nguyễn Trãi trên hai luận điểm lớn: văn chương phục vụ chớnh
nghĩa và văn chương thể hiện chí lớn vì dõn vì nước. Ở luận điểm một, tác
giả tập trung làm rừ quan niệm văn học: “văn (dĩ) tải đạo” của văn học trung
đại được Nguyễn Trãi thể hiện như thế nào. Theo tác giả, đạo trong quan
niệm “văn (dĩ) tải đạo” bao gồm hai mặt: thiên đạo và nhân đạo: “đặt vấn đề
quan hệ giữa sự vật và lòng người, chớnh là đặt vấn đề quan hệ giữa quy luật
tự nhiên và qui luật xã hội […] giữa thiên đạo và nhõn đạo” [57, 111]. Và
đến Nguyễn Trãi, quan niệm “văn (dĩ) tải đạo” có màu sắc cụ thể hơn, đó là
đạo cương thường, đạo thờ vua, đạo thờ cha, đạo trung hiếu hay như Nguyễn
Trãi hay nói là đạo quõn thõn. Trong luận điểm thứ hai, văn chương thể hiện
chí lớn vì dõn vì nước, tác giả tập trung thể hiện hai ý: văn chương Nguyễn
Trãi và chí lớn kẻ sĩ thức thời, văn chương Nguyễn Trãi và chủ nghĩa anh
hùng truyền thống. Văn chương Nguyễn Trãi và chí lớn kẻ sĩ thức thời thực
chất là để làm rừ quan niệm “thi (dĩ) ngôn chí” của văn học trung đại. Bựi
Văn Nguyên quan niệm chí ở đõy là tình, “thơ nói lên cái chí, là để nói lên
cái tình, dù thơ có tả cảnh, cũng để ngụ tình” [57, 118]. Dưới ánh sáng của
quan niệm đó, tác giả nhận xét: “cái chí lớn đó, tức cái chí vì dõn vì nước,
tức niềm ưu ái mà bản thõn Nguyễn Trãi đã nói đi nói lại nhiều lần” [57,
121]. “Văn chương Nguyễn Trãi đã thể hiện chí lớn của kẻ sĩ, thì trong một
chừng mực nhất định, cũng thể hiện truyền thống anh hùng của dõn tộc” [57,
8
123]. “Nguyễn Trãi đã đề cập đến nhiều khớa cạnh của chủ nghĩa anh hùng
theo quan niệm cũ” [57, 127]: người anh hùng là người có nhõn nghĩa, người
tài trí, lại phải có dũng khí đứng lên “trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”.
Hướng nghiên cứu của tác giả Bựi Văn Nguyên đã đặt ra được một số
phương diện khả thủ khi tỡm hiểu quan niệm văn học Nguyễn Trãi. So với
hướng nghiên cứu tập trung vào vấn đề tư tưởng của Ức Trai, cách suy nghĩ
của tác giả Văn chương Nguyễn Trãi đã tiến gần hơn đến vấn đề mà chúng
tôi đang quan tõm, đó chớnh là quan niệm văn chương của Nguyễn Trãi. Tuy
nhiên, tác giả mới chỉ đề cập được một phương diện trong quan niệm văn

học của Nguyễn Trãi, chủ yếu tập trung làm sáng tỏ quan niệm văn học
mang tớnh mẫu số chung của thời trung đại: “văn (dĩ) tải đạo”, “thi (dĩ) ngôn
chí”. Nhưng thực tế cho thấy rằng, với khối lượng tác phẩm phong phú, với
tư tưởng đa dạng, quan niệm văn chương Nguyễn Trãi không đơn thuần chịu
sự đóng khung trong quan niệm văn học của thời đại ông sống. Bên cạnh đó,
hướng tiếp cận gián tiếp của tác giả cũn cho thấy: đôi chỗ kết luận chưa thật
sát với mục đích của bài viết, đó cũng là điều khó tránh khỏi khi những dẫn
chứng đưa ra không phải là những cõu văn, cõu thơ trực tiếp thể hiện quan
niệm văn học của Nguyễn Trãi.
2.1.2. Hướng nghiên cứu trực tiếp quan niệm văn học của Nguyễn Trãi
Hướng nghiên cứu này tập trung tỡm hiểu những cõu văn, cõu thơ
Nguyễn Trãi trực tiếp thể hiện quan niệm văn học của ông. Đinh Gia Khánh
là người đi đầu đã chú ý tỡm hiểu quan niệm văn học của Nguyễn Trãi theo
hướng này.
Ngay từ những năm 1964, trong giáo trình Văn học cổ Việt Nam, tác
giả đã có đề cập đến quan niệm văn nghệ của Nguyễn Trãi nhưng chỉ xoay
quanh việc bình luận lời bàn về “gốc của nhạc” của Nguyễn Trãi với Lê Thái
Tông. Tác giả nhận thấy, thông qua lời bàn về “gốc của nhạc”, Nguyễn Trãi
đã thể hiện rừ một quan niệm: văn nghệ phải gắn bó mật thiết với cuộc sống
của quảng đại quần chúng. “Kể ra, thời loạn dụng vừ, thời bình chuộng văn.
9
Nay đúng là lúc nên làm lễ nhạc. Song không có gốc thì không đứng được,
không có văn thì không hành được. Hoà bình là gốc của nhạc, thanh õm là
văn của nhạc. […] Xin bệ hạ yêu nuôi nhõn dõn, để cho các nơi làng mạc
không có tiếng oán giận, than sầu, đó là không mất cội gốc của nhạc vậy.”
[36, 158-159]. Xõy dựng õm nhạc không phải chủ yếu trước hết quan tõm
đến văn, tức là đến hình thức, đến kĩ thuật, kĩ xảo và õm thanh. Xõy dựng
õm nhạc thì chủ yếu và trước hết là phải quan tõm đến gốc, đến hoà bình, tức
là đến sự hài hoà của tõm hồn, của cuộc sống.
Đến giáo trình xuất bản vào năm 1978 Lịch sử văn học Việt Nam (Thế

kỉ X - Nửa đầu thế kỉ XVIII), Tập 1, Nxb ĐH&THCN, vấn đề được đề cập
đến toàn diện hơn. Tác giả đã làm sáng tỏ quan niệm văn nghệ chiến đấu vì
dõn, vì nước của Nguyễn Trãi thông qua những cõu thơ Nôm thể hiện trực
tiếp như BKCG số 5, BKCG số 56. Thông qua những lời thơ có tớnh chất
như một bản tuyên ngôn văn học như thế, Nguyễn Trãi đã gắn văn chương
với sự nghiệp, gắn nhiệm vụ làm văn với bổn phận làm người. Văn chương
là “đao bút”, gắn liền với hành động “trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược”, gắn
liền với phẩm chất “có nhõn, có trí, có anh hùng”. Và văn chương cũn là nơi
để cái đẹp của cuộc sống được thăng hoa. Hý đề, Mạn thuật 13, Thuật hứng
7, Chu trung ngẫu thành chớnh là những tác phẩm thể hiện quan niệm này
của Nguyễn Trãi. Đồng thời những tác phẩm trên cũn thể hiện một quan
niệm văn học khác: Nguyễn Trãi đã có ý thức về mối quan hệ giữa văn học
và cuộc sống, thơ hay thì phải giúp người ta nhìn hiện thực ở một tầm cao
hơn mức bình thường. Ở những sáng tác như Trần tình 6, Tự thán 5, Hý đề,
Nguyễn Trãi cũn đề cập đến quan niệm về người nghệ sĩ, nhà thơ phải phát
hiện ra nhiều cái đẹp mà người thường không nhìn thấy, từ đó Nguyễn Trãi
càng thêm tự hào khi được làm thi nhõn.
Có thể thấy rằng, hướng nghiên cứu quan niệm văn học của Nguyễn
Trãi thông qua những cõu thơ, cõu văn Nguyễn Trãi trực tiếp thể hiện quan
niệm văn học đã mang lại nhiều kiến giải thú vị. Những vấn đề mà tác giả
10
Đinh Gia Khánh đặt ra, tuy mới chỉ bước đầu và mang tớnh chất khái quát
song hứa hẹn nếu được tiếp tục nghiên cứu sẽ bổ sung và phát hiện thêm
nhiều phương diện sõu sắc và mới mẻ. Đõy cũng là hướng nghiên cứu chủ
yếu của luận văn.
2.1.3. Hướng nghiên cứu quan niệm văn học Nguyễn Trãi trong bối cảnh
nghiên cứu quan niệm văn học trung đại Việt Nam
Đõy là hướng nghiên cứu xét về bản chất mang tớnh trực tiếp, song
không tập trung vào một tác giả cụ thể nào. Người nghiên cứu thường lựa
chọn một giai đoạn văn học trung đại, có khi là cả mười thế kỉ văn học trung

đại hoặc một vấn đề nào đó trong quan niệm văn học của thời trung đại để
tiến hành khảo sát, phõn tích, bình luận. Do đó hướng nghiên cứu này mang
tầm khái quát cao, quan niệm văn học của Nguyễn Trãi chỉ đóng vai trò là
một yếu tố trong một hệ thống lớn. Mặt khác, chúng ta cần nhận thức được
rằng, trong hệ thống lí luận văn học thời trung đại ở Việt Nam, giai đoạn thế
kỉ XVIII, XIX mới là thời kì nở rộ của các quan niệm; cũn các thế kỉ trước
đó, quan niệm văn học mới chỉ là manh nha, trình bày rải rác, đơn lẻ, tản
mạn. Nguyễn Trãi sống vào thế kỉ XV, cho nên dù trong sáng tác của ông có
xuất hiện quan niệm văn học thì chúng ta cũng phải thừa nhận, những quan
niệm văn học đó ở ông không nhiều. Do vậy, dù Nguyễn Trãi có mặt trong
những công trình nghiên cứu lớn hay nhỏ về quan niệm văn học thời trung
đại thì sự xuất hiện quan niệm văn học của ông cũng chỉ là thoáng qua,
không phải là trọng điểm. Tuy nhiên hướng nghiên cứu này có một ưu thế
nổi bật, đó là cung cấp cho chúng ta một cái nhìn lịch đại và đồng đại tương
đối đầy đủ, giúp chúng ta xác định được vị trí và vai trò của quan niệm văn
học Nguyễn Trãi trong mười thế kỉ văn học trung đại.
Trên Tạp chí văn học số 1 năm 1973, tác giả Trần Lờ Sỏng cú bài Thử
tìm hiểu quan niệm Thi ngụn chớ của nhà nho. Trong bài viết này, tác giả đã
đề cập tới ba vấn đề sau: Nguồn gốc của quan niệm thi ngụn chớ, Quan niệm
thơ núi chớ của nhà Nho Trung Quốc, Quan niệm thơ núi chớ của nhà Nho
nước ta. Ở vấn đề thứ ba - Quan niệm thơ núi chớ của nhà Nho nước ta, tác
11
giả đã đề cập tới quan niệm văn chương của Nguyễn Trãi: thơ núi chớ, thể
hiện trong bài Thu dạ dữ hoàng giang Nguyễn Nhược Thuỷ đồng phú: “hảo bả
tân thi hướng chớ luõn” - Hóy đem bài thơ mới nói đến cỏi chớ của mình. Bên
cạnh đó, Trần Lờ Sỏng cũn nhận thấy “Nguyễn Trãi làm thơ là để nói lên tình
cảm của mình […] Cỏi tỡnh mà Nguyễn Trãi quan niệm là tình cảm hết sức
rộng lớn […] Quan niệm thơ núi chớ của Nguyễn Trãi có lẽ là quan niệm thơ
thể hiện ước vọng của mình đối với cuộc sống” [65, 115]. Tuy nhiên tác giả
mới chỉ đưa ra dẫn chứng mà chưa dành nhiều tâm sức đánh giá, có lẽ một

phần là do khuôn khổ của bài viết, một phần là bởi mục đích chính của bài
viết là hướng tới khái quát quan niệm thơ núi chớ của nhà Nho nước ta.
Trong công trình Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung
đại Việt Nam của Phương Lựu năm 1997, tác giả đã có điều kiện tổng kết
một cách có hệ thống về quan niệm văn chương của cha ông ta trong mười
thế kỉ. Công trình bao gồm ba phần chớnh: Phần một: Hệ thống những quan
niệm văn học cơ bản; Phần hai: Hệ thống quan niệm về các chỉnh thể chủ
yếu của văn học; Phần ba: Các mối liên hệ lịch sử của hệ thống. Trong đó,
chúng tôi lưu tõm đến chương II của Phần một: Quan niệm văn học truyền
thụ đạo lý phong kiến trong thời hưng thịnh và chương VII của Phần hai: Về
thể loại thơ ca - Vấn đề thi dĩ ngụn chớ. Trong hai chương này, tác giả đã
nhắc tới quan niệm văn học của Nguyễn Trãi. Tại chương II, để làm rừ quan
niệm văn học truyền thụ đạo lý phong kiến trong thời hưng thịnh, tác giả đã
cho rằng: “Nguyễn Trãi cũng gắn liền văn học với ngôn luận của thánh hiền,
với đạo trung hiếu, với đức nhõn nghĩa. Ông viết: “Văn chương chép lấy đôi
cõu thánh […]” ” [44, 123]. Ở chương VII, tác giả nhận xét rằng: “từ trong
sự thống nhất chung của công thức “thi dĩ ngôn chí” đó, thì quan niệm thơ ở
Việt Nam cũng giống như ở Trung Quốc, là có sự bổ sung hoàn thiện dần
[…] đến Nguyễn Trãi thì càng nói rừ là làm thơ để lộ tõm tình, mà gọi là
“cởi buồn” ” [44, 279]. Có thể thấy ngay rằng, với một công trình lớn như
vậy, tác giả Phương Lựu chỉ dành cho quan niệm văn học của Nguyễn Trãi
những lời nhận xét khái quát, nêu lên một hai đặc điểm trong quan niệm văn
12
chương của Ức Trai. Tuy vậy, những ý kiến đánh giá đó cũng rất đáng quý,
có tớnh gợi mở cho chúng tôi tiếp tục nghiên cứu đề tài: Bước đầu tìm hiểu
một số phương diện trong quan niệm văn học của Nguyễn Trãi.
2.2. Vấn đề còn tồn tại cần tiếp tục nghiên cứu
Việc điểm lại sơ bộ các công trình nghiên cứu có liên quan tới đề tài
chúng tôi đang tỡm hiểu cho thấy, trong nhiều năm qua, vấn đề quan niệm
văn học trong sáng tác Nguyễn Trãi đã được nhiều học giả chú ý tỡm hiểu.

Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở sự khái quát hoặc những
nhận xét đơn lẻ, chưa thực sự đi sõu vào vấn đề. Hướng nghiên cứu tư tưởng
trong sáng tác của ông quá rộng lớn, phức tạp, dường như chưa nêu được đặc
điểm gì đáng kể trong quan niệm văn chương Nguyễn Trãi. Hướng nghiên
cứu gián tiếp thứ hai mà tác giả Bựi Văn Nguyên theo đuổi là thông qua sáng
tác để tỡm hiểu quan niệm văn học Nguyễn Trãi thì chưa nêu được những
cõu thơ, cõu văn Nguyễn Trãi trực tiếp thể hiện quan niệm văn chương. Tác
giả cũng mới chỉ đi sõu tỡm hiểu quan niệm văn chương vì nghĩa lớn, vì chí
lớn của kẻ anh hùng vì dõn vì nước. Hướng nghiên cứu đặt quan niệm văn
học của Nguyễn Trãi trong hệ thống quan niệm văn học trung đại Việt Nam
có ưu điểm là thể hiện cái nhìn đồng đại và lịch đại đối với vấn đề, tuy nhiên
quan niệm văn học của ông mới chỉ được các tác giả điểm qua ở một vài
khớa cạnh. Hướng nghiên cứu của tác giả Đinh Gia Khánh có ưu điểm nổi
bật là đã chỉ ra được những cõu văn, cõu thơ Nguyễn Trãi trực tiếp thể hiện
quan niệm văn chương. Tuy nhiên, những nhận xét của tác giả còn mang
tớnh chất gợi mở, chưa thật sự đi sõu vào vấn đề; tác giả cũng chưa khảo sát
được đầy đủ những cõu thơ, cõu văn Nguyễn Trãi thể hiện quan niệm văn
học.
Trên cơ sở phõn tích ưu điểm và hạn chế của những hướng nghiên cứu
nêu trên, chúng tôi nhận thấy hướng nghiên cứu của tác giả Đinh Gia Khánh,
đi tỡm những sáng tác Nguyễn Trãi trực tiếp thể hiện quan niệm văn học của
13
ông, từ đó khái quát thành những đặc điểm là phù hợp nhất với đề tài chúng
tôi đang tiến hành. Những ý kiến của các học giả đi trước cũng đóng vai trò
quan trọng để chúng tôi triển khai đề tài. Quá trình khảo sát và thống kê tư
liệu đã mang lại cho chúng tôi nhiều kết luận, trong đó có những ý kiến
tương đồng với đánh giá của các nhà nghiên cứu trước đó, song cũng có
những kiến giải mới. Tất cả cũng chỉ nhằm đạt tới mong muốn khắc họa
được phần nào quan niệm văn chương của một tác gia sống cách chúng ta
sỏu thế kỉ, từ đó có thêm một công cụ, một phương tiện để hiểu đúng, hiểu

sõu hơn những sáng tác của Nguyễn Trãi.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Luận văn sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau để giải
quyết đề tài:
3.1. Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp này được chúng tôi sử dụng để khảo sát các sáng tác của
Nguyễn Trãi, thống kê những dẫn chứng từ thơ văn Nguyễn Trãi trực tiếp
thể hiện quan niệm văn học của ông. Trên cơ sở dẫn chứng được khảo sát,
chúng tôi tiến hành phõn loại để tỡm ra những nội dung, khái quát thành
những luận điểm cơ bản. Do vậy, đõy là phương pháp nghiên cứu đầu tiên
chúng tôi phải sử dụng, có ảnh hưởng lớn đến kết quả của luận văn.
3.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Đõy là phương pháp thường được áp dụng để khai thác các dẫn chứng
(luận chứng). Phương pháp phõn tích, tổng hợp, do đó, được vận dụng để xử
lý các dẫn chứng, giúp đưa ra những kết luận xác đáng, thuyết phục.
3.3. Phương pháp hệ thống
Trên cơ sở những luận điểm đã tổng hợp được, chúng tôi vận dụng
phương pháp hệ thống để đặt quan niệm văn học của Nguyễn Trãi trong một
chỉnh thể. Phương pháp này giúp chúng ta tỡm ra quy luật cấu thành và vận
động, phát triển của quan niệm văn học Nguyễn Trãi nói riêng, quan niệm
văn học trong thời trung đại nói chung.
14
3.4. Phương pháp văn bản học
Chúng tôi sử dụng phương pháp này chủ yếu để khảo sát các dịch bản,
trên cơ sở đó lựa chọn dịch bản tốt nhất. Bên cạnh đó, ở phần thơ quốc õm
của Nguyễn Trãi, hiện nay vẫn cũn tồn nghi 33 bài được xem là trùng với
thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm. Do đó, vận dụng phương pháp này, chúng tôi
xác định được những dẫn chứng thể hiện quan niệm văn học của Nguyễn
Trãi thuộc trong số 33 bài thơ kể trên.
4. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong giới hạn của một luận văn thạc sĩ, chúng tôi chỉ bước đầu tìm
hiểu một số phương diện trong quan niệm văn học của Nguyễn Trãi. Dẫn
chứng được khảo sát từ các tư liệu:
-Quốc âm thi tập, Phạm Trọng Điềm, Trần Văn Giáp phiên õm và chú
giải, NXB Văn Sử Địa, HN, 1956.
-Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh phiên õm và chú giải, NXB
KHXH, HN, 1976.
-Thơ quốc âm Nguyễn Trãi, Bùi Văn Nguyên phiên õm và chú giải,
NXB GD, HN, 1994.
-Nguyễn Trãi toàn tập tõn biờn, Trung tõm nghiên cứu Quốc học, Nxb
Văn học, HN, 2000.
Trong đó, cuốn Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy Anh, NXB KHXH,
HN, 1976 là tài liệu nghiên cứu chính. Ba tập còn lại được dùng để tham khảo
và so sánh các bản dịch thơ, với mục đích lựa chọn được bản dịch tốt nhất.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vào vấn đề: quan niệm văn học.
Do vậy, vấn đề đầu tiên cần giải quyết chớnh là khái niệm quan niệm
văn học.
Theo chúng tôi, quan niệm văn học là thái độ, suy nghĩ, chiêm nghiệm
của nhà văn về văn chương (đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: bản chất của văn
15
học là gì?, văn học có chức năng gì?); về vai trò của người cầm bút; về
phương pháp sáng tác, về tư duy nghệ thuật…. đồng thời còn là tư tưởng,
tình cảm, những xúc cảm chân thành mãnh liệt nhất của nhà văn trước cuộc
sống và con người.
Tuy nhiên, với một tác gia lớn như Nguyễn Trãi, việc tìm hiểu quan
niệm văn học của ông quả thật là vấn đề không đơn giản. Điều này có hai
nguyên nhân: một là khối lượng tác phẩm của ông (đồ sộ và đến nay vẫn còn
nhiều tác phẩm bị thất truyền), hai là tư tưởng của ông - nền tảng ý thức hệ

quyết định đến quan niệm văn học của tác giả - rất phức tạp. Phải nắm vững
hai nhân tố này mới có hi vọng tìm hiểu đầy đủ, trọn vẹn quan niệm văn học
của Nguyễn Trãi. Song ở phạm vi một luận văn thạc sĩ, chúng tôi chưa thể
giải quyết triệt để vấn đề này. Do đó, trong luận văn này, chúng tôi chỉ tập
trung nghiên cứu và tìm hiểu một số phương diện trong quan niệm văn học
của Nguyễn Trãi, cụ thể là hai vấn đề:
+Quan niệm văn học của Nguyễn Trãi về bản chất của văn chương và
về người làm văn chương.
+Quan niệm văn học của ông về chức năng của văn chương.
Vấn đề thứ hai chúng tôi cần giải quyết chính là phạm vi tư liệu khảo
sát. Trong phần đối tượng nghiên cứu, chúng tôi khẳng định sẽ khảo sát toàn
bộ các sáng tác của Nguyễn Trãi trong tập Nguyễn Trãi toàn tập, Đào Duy
Anh phiên âm và chú giải, NXB KHXH, Hà Nội, 1976. Tuy nhiên ở phần thơ
Quốc âm của Nguyễn Trãi, chúng tôi nhận thấy có 33 bài thơ được xem là
trùng với thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiờm; 9 bài trùng từ một câu đến bảy
cõu (BKCG 12, 20, 26, 30, 36; Tự thán 6, Ngụn chớ 19, Thuật hứng 12, Tự
thán 18); 24 bài trùng cả tỏm cõu (Mạn thuật 2, 5; Trần tình 4, 5, 8; Thuật
hứng 8, 11, 13, 18, 20, 21, 22, 24, 25; Tự thán 8, 10, 13, 15, 21, 31, 32; BKCG
6, 8, 34).
(1)
Do vậy, khi tiến hành thống kê và phân loại các dẫn chứng
(1)
,
(2)
Xem thêm phần phụ lục trang 1, 2.
16
Nguyễn Trãi thể hiện trực tiếp quan niệm sáng tác của ông, chúng tôi sẽ cân
nhắc những dẫn chứng trùng lặp với những câu thơ còn tồn nghi kể trên
(2)
.

5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Đóng góp của luận văn chủ yếu là ở các điểm sau:
Thứ nhất, trong chừng mực nhất định, có thể coi luận văn là sự kế thừa
và hệ thống hoá sơ bộ những thành tựu nghiên cứu đã đạt được của các tác
giả trước đó về vấn đề quan niệm văn học của Nguyễn Trãi trên một số
phương diện nhất định. Qua đó, luận văn góp một phần nhỏ làm phong phú
thêm cho kho tàng lý luận của văn học trung đại Việt Nam nói riêng, nền lý
luận văn học của dõn tộc nói chung trong giai đoạn hội nhập và giao lưu văn
học, văn hoá quốc tế.
Thứ hai, luận văn là sự rà soát lại về cả hai mặt tư liệu và thẩm định
đánh giá của các học giả về quan niệm văn học của Nguyễn Trãi trong thời
gian tương đối dài. Về mặt tư liệu, luận văn không chỉ sử dụng lại những dẫn
chứng đã được các tác giả công bố trước đõy mà cũn tỡm kiếm, thống kê,
phõn loại thêm những dẫn chứng mới. Về mặt thẩm định, đánh giá, luận văn
cố gắng đưa ra những nhận định chõn xác nhất, khách quan nhất về những
giá trị của quan niệm văn học Nguyễn Trãi ở một số phương diện nhất định.
Luận văn tiếp tục phân tích và bổ sung những quan niệm văn học của
Nguyễn Trãi.
Thứ ba, thông qua việc tỡm hiểu một số phương diện trong quan niệm
văn chương Nguyễn Trãi, luận văn góp phần bổ sung và làm rừ diện mạo
lịch sử phát triển của quan niệm văn học trung đại Việt Nam giai đoạn thế kỉ
XV, đối sánh nó với các giai đoạn trước và sau ở thời trung đại, với quan
niệm văn học của Trung Hoa và quan niệm văn học thời hiện đại. Cần so
sánh đối chiếu để tỡm ra sự tương đồng và khác biệt trong quan niệm văn
học của Nguyễn Trãi với quan niệm của những tác giả trước và sau ông, để
thấy được Nguyễn Trãi đã kế thừa và có những vận dụng mới mẻ gì từ kho
(
17
tàng lí luận văn học cổ điển Trung Hoa. Những quan niệm của ông về văn
chương đã được tiếp tục phát huy ở các thế kỉ sau ra sao, chúng có cũn giá trị

đối với nền lí luận văn học hiện đại ngày nay hay không? Đõy chớnh là
những mục tiêu luận văn cố gắng thực hiện nhằm vừa đảm bảo tớnh khách
quan lịch sử, vừa có giá trị hữu ích, thực tiễn cho độc giả hiện đại.
6. BỐ CỤC LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và
Phụ lục, luận văn của chúng tôi được chia làm ba chương:
Chương 1: Ý thức hệ - Cơ sở hình thành quan niệm văn học của
Nguyễn Trãi.
Chương 2: Quan niệm văn học về bản chất của văn chương và về
người làm văn chương.
Chương 3: Quan niệm văn học về chức năng của văn chương.
18
PHẦN NỘI DUNG
CH ƯƠ NG 1
Ý THỨC HỆ - CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM
VĂN HỌC CỦA NGUYỄN TRÃI
Tư tưởng, ý thức hệ là một nhõn tố có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình
thành quan niệm văn học của Nguyễn Trãi nói riêng cũng như tất cả các tác
giả thời trung đại nói chung. Giai đoạn thế kỉ XV ở Việt Nam, nhắc đến ý
thức hệ là nhắc tới ba triết thuyết lớn: Nho giáo, Phật giáo, Đạo gia. Do đó
trong chương thứ nhất này, chúng tôi sẽ đi tỡm hiểu sơ bộ ảnh hưởng của ba
học thuyết đó tới tư tưởng của Nguyễn Trãi, trên cơ sở đó hình thành nên ở
ông những quan niệm văn học như thế nào. Như vậy, chương một không làm
nhiệm vụ miêu tả lại đặc điểm của từng học thuyết mà nhiệm vụ chớnh là đề
cập tới những phương diện nào của các triết thuyết kể trên có ảnh hưởng
đến sự hình thành quan niệm văn học ở Nguyễn Trãi.
Trước khi đi vào những luận điểm cụ thể, chúng ta cần lưu ý rằng, từ
thế kỉ X đến thế kỉ XIV, ở Việt Nam tồn tại thế “tam giáo tịnh hành”. Nói là
“tịnh hành” nhưng thực chất, Phật giáo vẫn chiếm vị thế hàng đầu, Nho giáo
đứng hàng kế tiếp, Đạo gia dù sao vẫn chưa được bình đẳng so với hai học

phái trước. Nhưng tương quan đó không phải là bất biến. Bởi Phật giáo đến
giữa thời Trần đã bắt đầu suy (giữa thế kỉ XIII). Trong khi đó Nho giáo ngày
càng củng cố vị thế trong đời sống chớnh trị xã hội và đến cuối thời Trần đã
chiếm được thế thượng phong. Đạo gia tuy không có được vị thế như vậy,
nhưng tư tưởng triết lý Đạo gia lại hoà vào trong Nho giáo, nhất là Phật giáo
để len vào đời sống tinh thần của nhiều trí thức một cách khá tinh tế và để lại
dấu ấn không nhỏ. Đến thế kỉ XV, thế “tam giáo tịnh hành” đã bị phá vỡ. Vị
thế chủ đạo của Nho giáo đã từng bước được xác lập từ cuối thời Trần, đến
thời Hồ (1400-1407) được củng cố và đến đầu đời Lê thì đạt đến sự toàn trị
và được duy trì cho đến thế kỉ XVIII, XIX. Phật giáo dần dần rút khỏi đời
19
sống chớnh trị xã hội, bị bài xích, phê phán khá nặng, về sau không thể phục
hưng lại được. Trong bản thõn Phật giáo cũng không có những đại diện ưu tú
như thời kỳ trước nên tiếng nói của nó không mấy trọng lượng. Tư tưởng
Phật giáo không thể tồn tại độc lập như trước mà nhiều khi phải dựa vào Nho
giáo, Đạo gia. Đạo gia vẫn tiếp tục phát triển, hoặc tự thõn hoặc thông qua
Nho giáo mà tác động đến đời sống văn hoá tinh thần. Nguyễn Trãi là con
người của thế kỉ XV nên tư tưởng, sự nghiệp sáng tác, cũng như quan niệm
văn học của ông chắc chắn chịu ảnh hưởng xu thế chung của ý thức hệ thời
đại. Trong các phần tiếp theo của chương một, chúng tôi sẽ cố gắng làm rừ
vai trò của từng học thuyết đối với sự hình thành quan niệm văn học của ông.
1.1. Tư tưởng Phật giáo
Phật giáo là một triết thuyết mà về mặt triết học, quan niệm rằng: bản
chất cuộc sống là do bốn nỗi khổ “sinh, lóo, bệnh, tử” tạo thành. Mục đích
của đời người là cầu mong được giải thoát khỏi tất cả mọi nỗi khổ đó, để đi
tới chỗ hoàn toàn thanh tĩnh, không sống chết, không nghiệp báo luõn hồi,
đó là cảnh giới niết bàn (nirvana). Những điều mà Phật Thích-ca chứng
nghiệm dưới gốc bồ đề và mong muốn đem ra giác ngộ chúng sinh đi lên con
đường giải thoát mà đi đến cừi niết bàn, về đại thể gồm có: Tứ diệu đế, Thập
nhị nhân duyên và Bỏt chính. Trong Tứ diệu đế (bốn điều suy ngẫm rừ ràng),

chúng tôi lưu tõm đến điều thứ tư: Đạo đế (Maraga) - những điều suy ngẫm
về phương pháp tu hành để đạt tới chỗ đắc đạo, chủ yếu gồm có tám điều
chõn chính (bát chớnh), trong đó có điều thứ tám là chính định - chăm chú
vào cừi thiền định. Phật giáo coi thiền định (yên tĩnh suy nghĩ) là một
phương pháp tu hành quan trọng. Thiền vốn là Thiền-na, dịch õm chữ
Dhyana trong tiếng Xăng-xcơ-rít, có nghĩa là yên tĩnh mà suy nghĩ. Trong số
các phương pháp tu hành tọa thiền, Bồ-đề-đạt-ma đưa ra hai phương pháp:
Lí nhập và hành nhập. Nội dung của lí nhập là từ trong nhận thức tìm cách
thoát li thế giới hiện thực để đạt tới thế giới siêu hiện thực (tức chân như),
không những quên sự tồn tại của cá nhân mình mà còn phải quên cả tính
20
chân thực của thế giới khách quan. Hành nhập thì bao gồm bốn phép sau
đây: gạt bỏ ý niệm phản kháng, luyện lấy tính nhẫn nhục chịu đựng; gạt bỏ
mọi sự phân biệt phải trái, thiện ác; gạt bỏ mọi ước muốn nguyện vọng; suy
nghĩ và hành động đúng như giỏo lớ của đạo Phật. Trên cơ sở đó, sau này
các môn đồ của Bồ-đề-đạt-ma đã đi tới quan niệm: coi thế giới khách quan là
không thực, các sự vật khách quan và các quy luật vận động của chúng đều
là hư ảo; coi thế giới tinh thần là cái có trước, là thực tại, là vĩnh cửu. Họ gọi
thế giới không sinh không diệt trong tâm tưởng của họ là chân như, là tính
Phật…
Phật giáo xuất phát từ một nhận định tổng quan về tớnh vô thường,
tớnh lõm thời, hữu hạn, tớnh khả biến và vì thế tớnh “giả dối” của thế giới
sắc tướng nên đi đến khái niệm vô niệm, có nghĩa là cần phải quên hết, đừng
nghĩ đến bất kì một sự vật gỡ trờn thế giới này, cốt để cho tâm được yên tĩnh
trong sáng. Người ta có sáu cửa (sáu giác quan: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý)
để tiếp xúc với ngoại giới. Nhờ sáu cửa đó người ta có tri thức và các tri
thức do cảm quan đem lại đó được gọi là lục thức. Nhưng muốn có lục thức,
trước hết phải có lục trần (sáu đối tượng bị nhận thức qua sáu cửa). Tuy
nhiên, lục trần ngăn trở con đường đi vào đạo, cho nên cần phải gạt bỏ
chỳng, dựng “trớ tuệ chân thực” của mình soi tỏ nội tâm, khiến cho mọi

vọng niệm (những ý nghĩ không phù hợp với đạo) đều bị diệt trừ, thấy rõ
được tự tính vốn có, như vậy là có thể thành Phật, đắc đạo, đốn ngộ.
Trong thế giới Phật giáo, con người nhờ yên tĩnh thiền định mà đạt tới
những giõy phút chứng nghiệm sự hoà hợp giữa chủ thể và khách thể, giữa ý
tưởng biểu đạt và cái được biểu đạt, vươn tới sự tỉnh thức (Buddha), trực
giác vụ phân biệt trí (Nirvikalpajanana), vụ ngôn như Bồ-đề-đạt-ma chỉ
hướng: “giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhõn tõm, kiến tớnh
thành Phật” - Truyền lại không lệ thuộc vào giáo nghĩa, văn tự, đi thẳng vào
lòng người, thấy được bản tớnh và thành Phật.
21
Những trình bày trên đõy cho thấy, “tư duy Phật giáo gần gũi với tư
duy văn học ở tính trực giác và tính hướng nội […] chú trọng đến chữ “tõm”,
khai thác tận cùng các yếu tố thuộc về “tõm” chứ không đơn thuần chỉ là sự
tìm hiểu để khai thác mặt tõm lớ xã hội. Tư duy này gần gũi và có liên quan
đến quy luật nhận thức để sáng tạo văn học nghệ thuật” [45, 174]. Tư duy
Phật giáo đặc biệt gần gũi với việc sáng tác thơ ca, chớnh vì vậy ở Trung
Hoa, Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến các trường phái thơ ca như ở thời
Đường, Tống, Minh, Thanh.
Nghiên cứu các sáng tác của Nguyễn Trãi, chúng ta nhận ra có cảm
quan Phật giáo trong thơ văn ông. “Xét trên phương diện từ vựng, dễ thấy
Nguyễn Trãi sử dụng các lớp từ có ý nghĩa như những điển tích, thuật ngữ
nhà Phật, hoặc xa gần giàu ý nghĩa biểu cảm tư tưởng, tõm linh và đời sống
tu hành của nhà Phật […] Ngoài ra là số lớn các thuật từ nhà Phật trong thơ
chữ Hán như tiền duyên, tục sự, phi tớch, ngó ẩn, hương hoả, thiền sáp, Phật
bỏt, chõn thõn, nhất phái, kiếp kiếp, cơ hà diệu, thượng thừa thiền, vô thụ
phi đài, thần tích phi lai; và trong thơ chữ Nôm cũng rất nhiều từ nhà Phật
như Bụt, đất Bụt, kiếp, duyên, nghiệp, nghiệp ba thân, hương lửa ba thân,
tượng thấy ba thân, chiền (chùa), chùa chiền, tây phương, Như Lai, tâm, vô
tâm, vô sự, trai, thiền, rừng thiền, thiền định, tự tại, cơ mầu, ẩn, ẩn dật, đại
ẩn, ẩn cả lâm tuyền…” [67, 78]. Bên cạnh lớp ngôn từ hình thức, tư tưởng

Phật giáo cũn thõm nhập vào cả nội dung các sáng tác của Nguyễn Trãi. Tuy
nhiên ở đõy, chúng tôi không có điều kiện đi sõu để làm rừ vấn đề này vì
không thuộc phạm vi nghiên cứu của bài viết. Điều quan trọng chúng ta cần
nhận thấy là: Phật giáo có ảnh hưởng nhất định đến tư tưởng Nguyễn Trãi,
cho dù về cơ bản ông là một nhà Nho. Do vậy quan niệm sáng tác văn
chương của ông chắc chắn cũng chịu sự chi phối của triết thuyết này.
Nhờ tiếp thu được khía cạnh tích cực của tư duy Phật giáo (tính trực
giác, tính hướng nội) mà ở một số câu thơ của Nguyễn Trãi cú cỏi thần diệu,
siêu thoát riêng. Đặc biệt, tư duy ấy để lại dấu ấn trong quan niệm văn học
22
của ông: quan niệm về “cảnh tượng” trong sáng tác, về khả năng thần diệu
của thơ ca.
1.2. Tư tưởng Đạo gia
(1)
Đạo gia coi Đạo là phạm trù tối cao, là bản thể tồn tại của tự nhiên có
trước trời đất. Trời đất muôn vật đều từ đạo tự nhiên hoá sinh ra, và đều
thống nhất trong Đạo. Đạo là cái tồn tại trừu tượng, nhưng có mặt ở khắp
mọi nơi, là cái cơ sở tồn tại của muôn vật, là căn nguyên tiến hoá của vũ trụ.
Đạo gia đề xuất hai vấn đề rất quan trọng trong hệ thống tư tưởng của họ là:
Thiên đạo tự nhiên (sự tồn tại và sinh hoá của trời đất, vũ trụ, muôn vật đều
là do sức sáng tạo tự thân) và nhân đạo vô vi (đạo của nhân gian - nhân đạo -
cần phải phù hợp với tính chất của đạo trong cõi tự nhiên - thiên đạo). Thiên
đạo đã là tự nhiên thì nhõn đạo cũng phải thuận theo quy luật tự nhiên của
muôn vật, tuõn theo xu thế tự nhiên của quá trình phát triển của sự vật,
không nên có những hành động cố ý ngăn trở, phá hoại… Trang Tử phủ
nhận về mặt triết học khả năng tác động của con người đối với thế giới,
những cái nhân vi con người bày đặt thêm vào tự nhiên chỉ có hại, cho nên
chủ trương để mặc theo tự nhiên. Trên cơ sở đó, triết thuyết này chế giễu
chuyện cầu danh, chê cười thái độ nhập thế, cứu thế, lên án cả đạo đức, nhõn
nghĩa - cũng là những cái nhõn vi do thánh nhõn của Nho gia bày đặt - phá

hoại cái thuần phác, tự nhiên, làm loạn xã hội, làm hỏng con người. Từ triết
thuyết đến thực tế, Đạo gia chỉ chú trọng cái sinh thể, cái bản ngã, đúng hơn,
cái tự kỷ, đả phá cái luõn thường của Nho giáo.
Trong công trình Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc, tác giả Li-xê-vớch
đã chỉ rừ mối quan hệ giữa Đạo và cảm hứng sáng tác thơ ca: “người ta cho
rằng, con người chỉ có một giác quan có thể liên hệ được với cái tuyệt đối, và
giác quan này là trái tim […] Sự kết hợp động và tĩnh, sự tràn đầy cảm xúc
(1)
Ở đây, chúng tôi không sử dụng thuật ngữ “Đạo giáo” mà sử dụng khái niệm “Đạo gia” là bởi hai lí do
sau:
- Đạo giáo: là một thứ tôn giáo dựa vào Lão giáo (học thuyết của Lão Tử) nhưng đã biến thành một
thứ đạo tu tiên, mưu cầu trường sinh bất tử, chứa đựng yếu tố mê tín dị đoan.
-Đạo gia: chỉ những người theo học thuyết Lão-Trang, nhấn mạnh học thuyết gốc.
23
và sự tự lắng đọng đến mức “trống rỗng”, khả năng phõn lập cái thống nhất
ra các yếu tố đối lập, chớnh tất cả những thuộc tớnh này được quy cho trái
tim ở xứ Trung Quốc cổ đại và đã làm cho tim gần gũi với đạo là cái bất
biến, nhưng sáng tạo ra cái vận động; là cái trống rỗng nhưng lại chứa đựng
cái hiện hữu; là cái duy nhất nhưng lại sinh ra nhiều vẻ” [35, 23-24]. Cũng
trong chương thứ nhất của công trình này, tác giả đưa ra nhận xét: “vào thời
Tiền Hán trái tim được xem là một điểm, là nơi nảy sinh ra ngôn từ thơ.”
[35, 25] và “văn học đích thực bao giờ cũng là hồi õm của đạo thoát ra từ
con tim” [35, 26]. Những nhận định đó cho thấy vai trò, tầm ảnh hưởng của
triết thuyết này đối với nhiều thế hệ sáng tác văn chương trong thời trung đại
ở phương Đông; cũng như sự tác động của Đạo gia đối với việc hình thành
quan niệm văn học ở nhiều tác gia trung đại Việt Nam.
Ở Việt Nam, từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV, trong nhiều sáng tác thơ ca,
chúng ta đã thấy có dấu ấn ảnh hưởng của Đạo gia. Nhưng ảnh hưởng của
triết thuyết này trong việc hình thành quan niệm văn học thì có lẽ phải đến
thế kỉ XV mới xuất hiện rừ, tiêu biểu là các tác giả như Lê Thánh Tông,

Thõn Nhõn Trung, Hoàng Đức Lương… Trong nhiều sáng tác của ông vua
tưởng như thuần Nho học này, chúng ta vẫn bắt gặp một số quan niệm mang
màu sắc Đạo gia (một số truyện ở tập Thỏnh Tông di thảo, một số bài thơ
chữ Hán). Điều đó lí giải vì sao Lê Thánh Tông tự xưng là “Thiên Nam động
chủ”, “Đạo Am chủ nhõn”. Tư tưởng Đạo gia cũn tác động đến quan niệm
thơ ca của ông, nhất là quan niệm về tõm lý sáng tạo thơ. Trong bài tựa
Quỳnh uyển cửu ca, Lê Thánh Tông chịu ảnh hưởng từ quan niệm hư tĩnh
của Lóo Trang, ông cho rằng chớnh trạng thái hư tĩnh ấy là khởi nguồn sáng
tạo của thơ ông: “Ta lúc rảnh rỗi sau muôn việc, trong khoảng nửa ngày, mắt
xem rừng sách, lòng dạo vườn văn, không nghe huyên náo, lòng như hoa
thơm, dục ít thần trong, ở yên cao hứng… Tình của ta thư thái, khí tinh anh
cuồn cuộn tuôn ra, lời khuôn mẫu từng từng lớp lớp” [73]. Cận thần của Lê
Thánh Tông là Thõn Nhõn Trung thì đề cao sự tự nhiên, giản dị của thơ.
24
Bình bài Ngự chế hạnh đường ngẫu thành, ông viết: “bài thơ trước thì tả
cảnh thực chõn xác tuyệt diệu, sau thì phô bày ca vịnh việc thực, từ khoẻ khí
tráng, đó là tấm lòng đẹp đẽ phát ra một cách tự nhiên, không cần mượn sự
đẽo gọt mà trăm sự xảo diệu vẫn lộ rừ” [73]. Hoàng Đức Lương với quan
niệm cho thơ là “màu sắc ở ngoài mọi màu sắc, mựi vị ở ngoài mọi mựi vị”
rừ ràng cũng có ảnh hưởng sõu xa từ Đạo gia.
Ở thế kỉ XV, Đạo gia vẫn tiếp tục có những ảnh hưởng nhất định đối
với tư tưởng và sau nữa là việc hình thành quan niệm văn học ở nhiều tác
giả, trong đó có Nguyễn Trãi. Đã có nhiều bài viết khẳng định màu sắc Đạo
gia trong tư tưởng Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi về cơ bản là Nho chứ không
phải Trang, tuy nhiên ông đã biết “kết hợp tư tưởng Nho gia và Lóo Trang
để khái quát hoá, lý luận hoá, lấy con người tự nhiên, tự do, tự tại làm cơ sở
cho một thái độ sống vì đời, làm việc thiện cho nhau, có quan hệ đầm ấm với
nhau đồng thời đảm bảo thú vui riêng, không khắt khe lên án dục vọng một
cách tôn giáo” [24, 115]. Do đó, chúng ta có thể tỡm thấy màu sắc Đạo gia
trong cảm hứng sáng tác của Nguyễn Trãi, ông đến với cái huyễn ảo của Đạo

gia để phủ nhận danh lợi, để ung dung, tự tại; đến với vô vi theo đại đạo tự
nhiên của Đạo gia để sống thuận theo quy luật tự nhiên, sống hoà hợp với
thiên nhiên. Tư tưởng Đạo gia cũn được tỡm thấy trong nghệ thuật biểu hiện
của tác giả, ở những điển cố, hình tượng nghệ thuật.
Từ đó, chúng ta có thể đi đến những kết luận sau:
Thứ nhất, “Đạo gia ảnh hưởng khá toàn diện và khá sõu trong thơ
Nguyễn Trói” [84, 74].
Thứ hai, Đạo gia theo đuổi một nhân sinh quan xuất thế, thanh tĩnh vô
vi, coi nhẹ sự sống chết, không quan tâm đến thế sự, chủ trương giữ cho
được sự thuần nhất, sự hồn nhiên, dứt bỏ sự khôn ngoan tinh khéo, cố gắng
giảm bớt dục vọng ham muốn cho tõm hồn được trong sáng, thanh thản. Vì
vậy, cái mạnh của Đạo gia cũng chớnh là sức ảnh hưởng của triết thuyết này
đối với việc hình thành quan niệm sáng tác của nhiều tác giả trung đại, trong
đó có Nguyễn Trãi là: coi trọng trực giác, trực cảm, chủ trương kiệm lời, “lời
25

×