Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tính chất nghệ thuật trong tranh đông hồ và hàng trống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.1 KB, 24 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vào dịp tết cổ truyền hàng năm của nước ta. Nhân dân thường hay treo
tranh nói chung và tranh dân gian nói riêng. đó cũng là 1 nét độc đáo của dân
téc.
Vì theo truyền thống quan niệm của dân treo tanh vào dịp tết cảnh sắc vui
tươi, rực rỡ cầu mong cho cuộc sống giàu sức sống và xua đi mọi điều không
may mắn, rủi ro của năm cò.
Ở Việt Nam ta có nhiều dòng tranh ddan gian nổi tiếng nh:
Đông Hồ (Bắc Ninh) Hàng Trống (Hà Nội), tranh Kim Hoàng (Hà Tây) làng
Sình (huế) …. Cùng những dòng tranh dân gian ở các vùng miền núi dân téc, ở
miền Nam.
Mỗi nơi, dòng tranh đều cã những kỹ thuật riêng, sắc thái biểu cảm riêng.
Trong tất cả các dòng tranh dân gian Việt Nam, nổi bật và đặc biệt nhất là 2 dòng
tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống. Cả hai dòng tranh này cũng giống nh
các dòng tranh khác đều nói chung phản ánh đời sống nhân dân lao động cùng
tập quán, tín ngưỡng.
Đặc điểm về thể hiện là đơn giản về tư tưởng còng nh cách thể hiện.
Đây là loại hình nghệ thuật đậm đà bản sắc dân téc và đang ngày càng bị mai
mét. Chính vì vậy mà tôi chọn đề tài tiểu luận của mình là tính chất nghệ thuật
trong tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống.
2. Mục đích, nhiêm vụ nghiên cứu.
a. Mục đích nghiên cứu.
- Tìm hiểu tích chất nghệ thuật trong tranh Đông Hồ và Hàng Trống.
- Gìn giữ và phát huy 2 dòng tranh này
b. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Tìm hiểu kỹ về 2 dòng tranh này và các vấn đề liên quan .
1
3. Phương pháp nghiên cứu.
- Tham khảo tài liệu có liên quan đến đề tài, vấn đề cần nghiên cứu.
- Trực giác


- Quan sát
- Thực tế
- Phương pháp tổng hợp
4. Đối tượng nghiên cứu.
Tranh đông hồ và tranh hàng trống
5. Bè cục: gồm 3 phần.
- Nguồn gốc, xuất xứ của tranh Đông Hồ và Hàng Trống
- Tính chất nghệ thuật trong tranh Đông Hồ và Hang Trống.
- Giữ gìn và phát huy dòng tranh Đông Hồ và Tranh Hàng Trống.
2
B – NỘI DUNG
CHƯƠNG I: NGUỒN GỐC XUẤT XỨ TRANH ĐÔNG HỒ
VÀ HÀNG TRỐNG
1. Tranh Đông Hồ.
1.1. Nguồn gốc tranh Đông Hồ.
Xuất hiện vào khoảng thời lý (1010 – 1225) và Hồ (1400 – 1414) được
phát triển vào thời lê (1535 – 1788). Các nhà nghiên cứu cho rằng thời kỳ hưng
thịnh nhất vào khoảng thế kỷ XVII và cuối thế kỷ XIX. Tranh Đông Hồ lưu hành
khắp cả nước.
1.2. Xuất Xứ
Làng Đông Hồ thuộc huyện Thuận Thành – Bắc Ninh. Có dòng họ
Nguyễn Đăng nổi tiếng vẽ mẫu, khắc ván. Đây là nơi nổi tiếng về nghề in tranh
bằng bản khắc gỗ vì lẽ đó Nghề thủ công này có tên là Đông Hồ.
2. Tranh Hàng Trống.
2.1. Nguồn gốc của tranh Hàng Trống.
Hiện nay vẫn chưa có tài liệu nào cho biết đích xác thời điểm ra đời còng
nh điều kiện ra đời trang Hàng Trống. Thời kì hưng thịnh nhất của tranh Hàng
Trống vào thế kỷ XVII, cuối thế kỷ XIX.
2.2.1 Xuất xứ của tranh Hàng Trống.
Dòng tranh Hàng Trống phát triển ở các phố Hàng Trống, Hàng Nón,

Hàng Quạt nhưng nhiều nhất ở phố Hàng Trống. Trên nền đất cũ của thôn tư
pháp thuộc tông tiêu tóc (sau là Thuận Mỹ) huyện Thọ Xương cũ. Trong đó có
dòng họ lê văn nổi tiếng cùng với các hộ cư dân bản địa lâu đời. Cũng có nhiều
thợ vẽ tài hoa từ các nơi khác đến đây làm thuê cho các chủ xưởng in tranh. Do
buôn bán cạnh tranh nên thường in kèm theo tên hiệu nh Thanh An, Vĩnh Lợi
hay phóc Bình ….
Các bản in cổ nhất được khắc 2 mặt của dòng tranh Hàng Trống chỉ còn
thấy ở bảo tàng lịch sử Việt Nam. Đó là 1 số bản in có niên hiệu”Quý mùi lục
nguyệt khởi Minh Mạng tứ niên” nghĩa là được khắc vào tháng 6 năm 1823 đời
Minh Mạng, thời Nguyễn. Những nhà nghiên cứu đã tìm thấy những dòng ghi
chép về tranh dân gian Hàng Trống trong nhiều sách cổ. Thi sĩ Hoàng Sĩ khải
3
(Thế kỉ XVI) cũng đã nhắc đến tục chơi tranh Hàng Trống trong ngày tết qua bài
thơ tả quang cảnh tết ở kinh thành Thăng Long. Tranh Hàng Trống chủ yếu là
tranh là tranh thờ phục vụ cho nhưng điện thờ mang màu sắc đạo giáo hoặc tín
ngưỡng. Bên cạnh đó tranh Hàng Trống thể hiện ước vọng của tầng líp trên và thị
dân.
Tranh Đông Hồ và Hàng Trống mang tính chất dân téc sâu đậm trong nội dung
và phong cách góp phần làm cho nền mỹ thuật Việt Nam có dấu Ên riêng. Tính
chất nghệ thuật chung của tranh Đông Hồ và tranh Hàng Trống là có 1 phong
cách độc đáo, phong cách tạo hình đơn giản, sử dụng nhiều màu bẹt, màu gần với
thiên nhiên. Nguyên liệu dễ kiếm nhưng tạo được vẻ đẹp. Đó chính là giá trị và
nhiều nét độc đáo của tranh dân gian.
Rất nhiều yếu tố tạo nên bức tranh Đông Hồ và Hàng Trống. Tìm hiểu
những điều chủ yếu sau làm nên bức tranh dân gian đặc sắc nh: chất liệu, cách
làm tranh, các hình thức biểu đạt (hình và màu không gian, đường nét màu sắc,
đề tài ….) trong tranh Đông Hồ và Hàng Trống.
CHƯƠNG II: TÍNH CHẤT NGHỆ THUẬT TRONG TRANH
HÀNG TRỐNG VÀ TRANH ĐÔNG HỒ
1. Chất liệu của tranh Đông Hồ và Hàng Trống

1.1. Chất liệu trong tranh Đông Hồ.
”Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân téc sống bõng trên giấy điệp”
Nét dân gian đáng yêu của tranh Đông Hồ quả thực cũng nằm ở màu sắc
chất liệu giấy in. Bí quyết của màu sắc trong tranh là ở chất điệp. Điệp là màu
tráng có ánh sáng lấp lánh. Chất bột trắng lấy từ vỏ con điệp ở biển.
Tranh khắc gỗ dân gian Đông Hồ thường in trên giấy dó quét điệp. Do đó,
trước khi in quét điệp bằng chổi thông và tạo thành các đường ganh. Có thể nói,
cái đặc biệt của tranh Đông Hồ ở chỗ đó mà tranh Hàng Trống, tranh làng Sinh…
không thể có màu sắc muôn ngàn hồng tía của tranh, cũng không thể có nền giấy
điệp quyến rò đó. Các ván gỗ khắc tranh thường làm từ gỗ thị loại gỗ này Ýt lồi,
mịn màng, dẻo quánh, dùng in tranh rất bền.
4
Màu sắc tô đẹp bức tranh. Màu sắc trong tranh Đông Hồ mang đến cho
người xem vẻ đẹp méc mạc trở thành nét riêng trong tranh Đông Hồ. Muốn giá
thành của tranh dân gian vừa với tói tiền của người dân nghệ nhân phải dùng
những nguyên liệu dễ kiếm tìm từ thiên nhiên. Đó là thứ có sẵn từ xung quanh,
họ chế tạo ra màu vẽ cho mình. Tranh Đông Hồ rất hạn chế pha màu trực tiếp
nên màu sắc hoàn toàn giữ nguyên, theo màu tự nhiên.
Màu đen lấy từ than lá tre đốt, ủ ngâm ải
Màu vàng từ hoa hoè đem sao, sắc lấy nước
Màu đỏ lấy từ sỏi ở đồi núi
Màu xanh lấy từ lá chàm ngâm lấy nước
Màu trắng từ điệp nghiền kỹ thành bột
1.2 Chất liệu trong tranh hàng Trống
Tranh hàng trống sử dụng phẩm màu
Các ván khắc gỗ tranh hàng trống thường là gỗ thị nét đen in trong tranh
là mực tàu.
Tranh Hàng Trống in trên giấy dó hoặc giấy báo khổ rộng. Nhưng bộ
tranh lớn thường được bôi trên giấy dày rộng.

Từ những nguyên liệu dễ kiếm, các nghệ nhân Đông Hồ và Hàng Trống
tạo nên những bức tranh độc đáo được nhân dân ưu chuộng.
2. Kỹ thuật vẽ trnh Đông Hồ và tranh Hàng trống.
2.1.1 Kỹ thuật vẽ tranh Đông Hồ
Hình thức phổ biến của tranh Đông Hồ là tranh khắc gỗ màu in trên nền
giấy điệp, màu sắc dân gian tươi thắm, đặt cạnh màu nhau rất hài hoà. Để hoàn
thiện bức tranh Đông Hồ cần rất nhiều thời gian.
Các nghệ nhân phải trải qua ba khâu chủ yếu:
- Vẽ màu
- khắc ván
- in tranh
Các nghệ nhân sáng tác tranh gỗ dân gian Đông Hồ thường vẽ theo
lối”nhập tâm”. vận dụng trí nhớ bàn tây nghề thành thục.
5
Tranh Đông Hồ mỗi mầu mẫu một ván và in thứ tự theo quy trình đồ hoạ
chặt chẽ. Màu in trước lên giấy dó điệp bằng chất lá thông tạo nên những đường
ganh theo đường quét. Nét đen in sau cùng. Khi in màu thì màu đậm in trước.
Tranh được vẽ bằng cách bôI màu vảo bản khắc gỗ, mỗi màu một bản sau đó Ên
khuôn lên giấy tranh được phơi khô.
Nhờ cách in này tranh sản xuất với số lượng lớn và không đòi hỏi kĩ thuật
cầu kỳ nhiều.
Các nghệ nhân Đông Hồ rất hạn chế pha màu trực tiếp: họ pha màu bằng
kĩ thuật in chồng màu tạo ra nhiều màu khác nhau vì thông thường màu in sau sẽ
không bao giê phủ kín màu in trước. Để khi in màu và nét không bị lem nhem
các nghệ nhân quan tâm sát sao đến cả khâu vẽ tranh, khắc ván, in tranh.
2.2 Kĩ thuật vẽ tranh Hàng Trống.
Khác với tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống sau khi vẽ mẫu, khắc gỗ rồi in
nét và cuối cùng mới tô màu bằng tay. Do vậy ở mỗi tranh hàng trống thường có
những điểm khác tuy cùng một mẫu. để được một bức tranh Hàng Trống các
nghệ nhân phải trải qua 3 khâu.

- Vẽ mẫu
- Khắc ván
- In nét đen sau đó tô màu bằng tay
Một điểm khác nữa giữa 2 dòng tranh là tranh Đông Hồ nhiÒu ván in
(mỗi mẫu một ván) còn tranh Hàng Trống chỉ có một ván in nét đen.
Tranh hàng trống nét đen in trước rồi tô với phẩm màu lên sau. Vì sử dụng
màu phẩm nên hoà sắc của tranh rất phong phú và gợi được khối và không gian.
Gam mầu chủ yếu là lam, hồng, đỏ lục, da cam, vàng hoa hiên. Tuy màu phẩm tô
bằng tay mà màu đậm hay nhạt không có khái niệm không xa gần. Tranh tô màu
thiên về kĩ càng mang tính trang trí cao.
3. Các hình thức biểu đạt trong tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống
Bố cục là sự sắp xếp kích thước, tương quan của những đường nét hình
dáng, màu sắc của các vật thể trong một tác phẩm. Nói cách khác bố cục chính là
sự sắp xếp tất cả các yếu tố ngôn ngữ tạo hình để xây dựng lên một tác phẩm, là
nổi rõ ý đồ của người nghệ sĩ.
6
Bố cục trong tranh Đông Hồ và Hàng Trống theo lối ước lệ thuận mắt
không theo luật xa gần.
3.1. Hình và mảng.
Theo Vương Hoàng Lực (hoạ sĩ người Trung Quốc) ”khi thị giác con
người chú ý đến sự vật thường tập trung vào một điểm và coi mọi thứ chung
quanh là bối canh và môi trường. chính vì vậy mà các hoạ sĩ lợi dụng sự giới hạn
của thị giác, đem điểm chú ý đó làm nổi nên rõ thành hình, những cái còn lại thì
xử lý thành hình nền”
Cách sắp xếp bố cục trong tranh Đông Hồ thuận mắt, hình to nền thoáng,
mảng lớn. Hình cách nhân vật trong tranh Đông Hồ và Hàng Trống đa dạng tạo
nên nhiều bố cục khác nhau .
Tranh đám cưới chuột (hình 2) của Đông Hồ, hình các con chuột sắp xếp
theo chiều ngang, dàn đều, líp trên, líp dưới không theo không gian thật, xa gần
do đó tạo cho người xem dài vô tận. Chính cái nền tranh phẳng đã quy đinh ước

lệ thuận mắt. đã nhấn mạnh thủ pháp phóng to – thu nhá cho phép làm nổi bật
nhân vật trung tâm hoặc phân biệt vị trí xã hội.
Trong tranh đám cưới chuột con mèo đại diện cho tầng líp thống trị được
phóng to, hình con ngựa được thu nhỏ. Thành ra con mèo to hơn con ngựa rất
nhiều.
Để đạt mục đích gợi nhiều hơn tả, nghệ thuật hình khối Việt Nam, tranh
Đông Hồ sử dụng thủ pháp mô hình hoá. Trong tranh đấu vật có ba đấu vật được
khoanh gọn trong ba hình cơ bản: Đôi trên hình tam giác, đôi dưới hình thang và
đôi dưới phải hình bán nguyệt, hai đấu vật ngồi chờ được khuôn lại trong hai
hình chữ nhật tạo nên co ro của cái rét của lễ hội đầu xuân. Bố cục của bức
tranh”đấu vật”mang tính đối xứng giữa các vật đấu, bố cục này làm cho người
xem có cảm giác về sự vững trãI, ngang tài ngang sức của các chàng trai. Còn
không khí ngày tết thì được qua hai chi tiết là hai tràng pháo( hình 3).
Hai con trâu húc nhau trong tranh”chọi trâu” thuộc tranh Đông Hồ mang yếu
tố động về chiều ngang của hình chữ nhật nằm và cái khoẻ khoắn chắc chắn của hai
con trâu được thể hiện trong cách vuông vức của hình thể.
7
Tranh”phật bà quan âm” trong tranh Hàng Trống có hinh phật bà quan âm
ngự trên đài sen, đứng chầu hai bên là Kim Đồng và Ngọc Nữ. bố cục tranh trang
nghiêm và cân đối. Loại hình bố cục này bắt gặp trong tranh Đông Hồ như”Ông
tơ”.
Tranh thờ Hàng Trống có nhiều dạng bố cục khác nhau. Các nhân vật
trong tranh được thể hiện bằng hình to nhỏ khác nhau, không theo luật xa gần mà
theo địa vị xã hội, điều này thể hiện rõ nhất ở tranh thờ như”tứ phủ, tam phủ, bát
tiên quá hải, táo quân, thổ công ….” Bởi các ông Hoàng, bà chóa lớn hơn người
hầu, thần phải hơn dân và luôn ở vị trí trọng tâm cả trong tranh Đông Hồ và
Hàng Trống .
Sang bức tranh”bịt mắt bắt dê, rông rắn”( hình 4) là những trò chơi quên
thuộc của trẻ em ngày xưa. về mặt nghệ thuật đây là những bức tranh có bố cục
đẹp. Tranh”bịt mắt băt dê” sắp xếp hình đám trể chạy vòng quanh điểm trung

tâm là con dê, một bế bịt mắt bắt dê. Một em bị dê hất ngã chổng chân lên trời
tạo ra nhiều hướng khác nhau trong tranh. Quang cảnh vừa vui nhén vừa căng
thẳng vừa hồi hộp.
Mảng trong tranh Đông Hồ thường chiếm diện tích lớn so với tranh Hàng
Trống. Tranh Đông Hồ chỉ có Ýt màu nhưng các nghệ nhân sử dụng và điều tiết
hợp lý. Những mảng màu đã được nhắc đi nhắc lại. dải đều trên khắp mặt tranh,
gây cảm giác nh có nhiều màu nh tranh”gà đàn, đám cưới chuột, canh nông, bịt
mắt bắt dê, chim công ….”
3.2. Đường nét
Trong tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống những mảng màu được
giới hạn bởi nét. Đường nét là một thủ pháp biểu hiện của hội hoạ. Đường nét tạo
nên sự uyển chuyển, nhịp nhàng, khoẻ khoắn của tranh. Tác dụng cơ bản của
đường nét là bao ngoài xác định giới hạn của hình ảnh. Tuy nhiên đường nét
không chỉ là đường viền hình thể, trong tranh Đông Hồ và hàng trống được tả
nhiều chất khác nhau.
Hãy xem kĩ các bức tranh của Đông Hồ:”Gà đại cát, gà đàn, vinh hoa, phó
quý, phóc léc song toàn …”nét cã chỗ mau, chỗ thưa có mảng để trống, có nét
8
lông dày cứng, vuốt nhọn như lưỡi mác, có những nét lông cổ chỉ là những vạch
ngắn song song cách đều. Cũng có lông đuôi mẹ vểnh lên, lại có lông đuôi gà
trống rủ cong xuống duyên dáng, có khi lông cổ và lưng lại xếp nhưng gói lợp.
Trong tranh”gà đàn” đầu cánh mẹ được tả bằng các chấm xếp hàng đều đặn, chắc
là để tả lông nhỏ xốp, mềm mà cũng là thay đổi các phương án cho đỡ nhàm mắt
[Hình 5].
Ngoài ra các nghệ nhân Đông Hồ tả cọng sen rất tài tình ở tranh chăn trâu
thổi sáo. cọng sen tả gai bằng các nét băm, một tập hợp các nét băm ngắn, xếp
dài đều đặn vừa cho ta thấy cọng sen vừa gợi ý có lắm gai. Con trâu dưới cằm,
thân hình của nó có líp lông tơ mềm mại bằng các nét băm song song lượn công
đều nhau rất uyển chuyển. Trong tranh”phó quý, (bé ôm vịt), chăn trâu thả diều”
ta cũng bắt gặp nét băm này.

Nét mở rộng thành mảng, mảng co thành nét,”tranh đám cưới chuột”, các
con chuột đang khúm núm. nét từ đuôi chạy đến lưng bỗng mở ra thành mảng rồi
co lại để đến phải gồng mình, lên gần tay và có cơ đùi, lấy hết can đảm tiến đến
hối lé lão mèo khủng khiếp.
Nét gợi khối nh trong tranh”bé ôm vịt” cổ con vịt là hai đường chạy song
song tạo cảm giác bẹt nhưng cổ con vịt được cài các nét ngắn, hơi cong nhằm tả
nét gấp khi cổ vịt co lại.
Một điều thó vị nữa vè nét là mỗi bé kiểu tóc khác nhau ở tranh Đông Hồ.
Thoạt nhìn ta tưởng bé chỉ là một, dù ôm gà hay vịt, cóc hay cá. Nhưng nếu nhìn
kĩ sẽ phải thán phục các nghệ nhân xưa: mỗi bé một kiểu tóc. Vẫn chỉ là một loạt
các nét ngắn nhưng với cách xếp khác nhau sẽ cho ra những cấu trúc tóc khác
nhau.
Tranh Đông Hồ phục vụ bà con nông dân nên tranh có viền dứt khoát.
khoẻ khoắn làm bức tranh sinh động, chất đồ hoạ và biểu cảm cao.
Tranh Hàng Trống phục vụ cho những đối tượng là tần líp trung lưu và thị
dân nên đường nét trong tranh thường mảnh mai trau chuốt và tinh tế.
Bức tranh”Ngò hổ” của Hàng Trống nét đen mảnh trau chuột, màu tô
bằng tay nên nét viền đen của tranh”ngò hổ” nhiều chỗ lẫn với màu. Ngoài ra
những nét mặt, chùm râu, ánh mắt và những đường vằn vện toàn thân được cách
9
điệu rõ ràng, nhịp của đường vằn, dáng vẻ uy nghi tạo nên sức mạnh và sự thiêng
liêng, của tính chất tranh thê [Hình 6].
Những bức tranh Hàng Trống như: thất đồng, tử tôn vạn đại, tam đa….
Nét còn diễn tả sự mềm mại của quần áo hay căng tròn, mòm mĩm của da thịt em
bé. Đường net trên khuôn mặt các ông Hoàng, bà chóa gần gũi đôn hậu.
Đường nét trong tranh Hàng Trống mảnh nhỏ, trau chuốt nhiều khi chìm
lẫn trong màu sắc thể hiện sự công phu và tính sáng tạo.
Đường nét cũng là 1 yếu tố quan trọng trong tranh Đông Hồ và tranh Hàng
Trống để tạo nên những bức tranh độc đao mang đậm bản sắc dân téc.
3.3 Không gian.

Khoảng cách giữ các vật thể trong tranh theo chiều ngang, dọc và sâu. trên
bề mặt phẳng của tranh, người xem dẽ dàng thấy khoảng cách giữa các vật thể.
Trong tranh thê Hàng Trống vẽ cảnh từ mặt đất tới bầu trời, ta bắt gặp các líp
không gian. Điều Êy khiến không gian tranh thật lớn.
Quan niệm không gian truyền thống hội hoạ của phương đông chỉ cần vẽ
đường bao quanh ranh giới hình dạng vật thể là đã biểu hiện sự tồn tại lẫn nhau
giữa không gian và vật thể.
Tranh”đám cưới chuột” là hình các con chuột sắp xếp líp trên líp dưới tạo
cảm giác không gian rộng lớn hay trong tranh thờ Hàng Trống không gian rộng
lớn từ cảnh trời tới biển.
Tranh Đông Hồ và Hàng Trống vẽ theo lối ước lệ thuận mắt không theo
không gian xa, gần nhưng lại thấy có lý, như hư mà thực, thực mà hư. Đó là cái
tài của các nghệ nhân xưa trong tranh Đông Hồ và Hàng Trống.
3.4. Màu sắc.
Nếu màu đặc chưng của tranh Đông Hồ là nâu, lục, vàng, đỏ rất méc mạc,
Êm áp, mang hương vị đồng đất thôn làng thì màu đặc chưng của tranh Hàng
Trống là cánh sen, lam với vàng, đỏ, da cam với đường nét thanh tó, rất thị thanh,
trong sáng, rực rỡ. Màu sắc trong tranh Đông Hồ và Hàng Trống rất thích hợp
với tiết xuân.
Màu sắc trong tranh đều là những màu chế từ thiên nhiên, dùng trực tiếp ở
dạng nguyên thuỷ nên màu tranh Đông Hò tươi thắm, không gắt gao, loè loẹt và
10
giữ độ bền lâu. Những mảng màu phẳng được tạo chất một cách tự nhiên do hiệu
quả của kĩ thuật in. các nghệ nhân Đông Hồ hạn chế pha màu thực hiên theo
nguyên tắc màu đậm in trước. Thông thường màu in sau không bao giê phủ kín
màu in trước tạo ra nhiều màu khác nhau trong 1 mảng màu.
Màu sắc trong tranh”Hàng Trống mang tính trang trí cao” do tô bằng tây
nên màu rất đa dạng phong phú, kỹ thuật dùng màu Èn hiện tạo không khí hư hư,
thực thực của các bức tranh thờ. ánh sáng dường nh trên cao đổ xuống đều các đồ
vật và người không có bóng. Màu sắc trong tranh thờ tự nhiên, Ýt pha trộn và

dùng cả màu vàng bạc óng anh bằng ngân nhò, kim nhò, tạo hiệu quả đối chọi,
tươi tắn.
Tranh”thất đồng” Hàng Trống, cách vên màu trên da thịt làm cho những
em bé trở nên căng tròn, quần áo mềm mại. bức tranh mang đến không khí rực
rỡ, tươi mát của ngày đầu xuân. màu sắc bức tranh lộng lẫy, sang trọng và gợi
cảm giác bình yên
Hay bức tranh”tố nữ” nét vẽ tinh tế về màu sắc uyển chuyển gây mĩ cảm
đậm đà, duyên dáng. Ngoài ra sắc độ màu trong tranh Hàng Trống được điều
chỉnh theo cảm nhận của người vẽ.
*một phần nữa tạo nên bức tranh là chữ trong tranh Đông Hồ và tranh
hàng trống chủ yếu là chữ hán và nôm. chữ góp phần không nhỏ trong bức tranh.
Chữ giúp người xem biểu ý đồ tác giả hơn, bổ sung thêm thông tin cho bức tranh.
Chữ trong tranh có thể là thơ, tục ngữ, câu đối, hoặc chỉ là câu nói thường ngày
nhưng ý nghĩ rộng và sâu.
4. ĐÒ tài trong tranh Đông Hồ và Hàng Trống.
Hai dòng tranh nay từ bao đời nay thường ảnh hưởng lẫn nhau, bổ sung
cho nhau nhưng người xem vận nhận ra nét riêng của mỗi dòng tranh.
Tranh dân gian được sản xuất với số lượng lớn, lưu hành réng rãi và phục
vụ đông đảo quần chúng, cho nên đề tài dễ hiểu, ngôn ngữ tạo hình đơn giản,
hình tượng rõ ràng, đáp ứng được nhu cầu về tâm lý, tình cảm của người chơi
tranh. Tranh dân gian có nhiều loại và chia nh sau
4.1. Tranh chúc phóc.
11
Hay được bán trong dịp tết, màu sắc và tinh thần tranh chúc phóc rất thích
hợp với tết xuân. Những tranh phổ biến như:”lợn âm dương, gà đại cát, thổ công,
táo quân, tam đa, phóc léc thọ, tử tôn vạn đại… ” nói lên ước muốn nghìn đời
của bà con nhân dân về cuộc sống Êm no, hạnh phóc, đông con nhiều cháu….
Vào ngay tết mọi người hay dán hai bên cổng cánh cửa nhà những vị thần
hộ mệnh, tiền tài…” đó là quyền lực siêu nhiên bảo vệ cho gia đình một năm mới
an khang thịnh vượng. Tranh thần hộ mệnh là những ông tướng nhà trời che chở

cho gia đình.
Tranh treo tết có nhiều nguồn gốc tín ngưỡng phức tạp mà nhiều khi
người dân không biết tới chỉ thấy đẹp thì mua về dán trang trí ngày tết.
Quan niệm về thần quyền của dân gian không có gì giống tín ngưỡng của
các tín đồ tôn giáo. Nó đơn giản và thiết thực hơn. Tranh”táo quân” có câu
chúc”niên tăng phú quý, nhất hưởng vinh hoa”. Tranh thổ công có câu”thổ công
tương trợ, trạch chủ bình an”.
Tranh lợn gà là loại tranh cổ nhất và có tính dân téc nhiều nhất. Tranh vẽ
đàn gà, đàn lợn với số lượng nhiều. Nó mang ý nghĩa phồn thực, đông đúc.
Trong dân gian người ta tin tưởng là ma quỷ sợ tiếng gáy cho nên tranh gà ngoài
việc tưởng tượng sự sung túc còn có ý nghĩa trừ tà ma.
Trong tranh Hàng Trống,”thất đông” là bức tranh được các tầng líp thị dân
ưa chuộng. Bức tranh mang đến người xem không khí rức rỡ, tươi mát của những
ngày đầu xuân.
4.2. Tranh tín ngưỡng tôn giáo
Việt Nam cũng như các nước nông nghiệp khác trong quá trình đấu
tranh chinh phục thiên nhiên, đứng trước đất trời rộng lớn bao la huyền bí,
người dân thường có những ý niệm không rõ rệt về vũ trụ, con người, thiên
nhiên. Những hình thái tín ngưỡng cơ sở đó được phản ánh trong tranh dân
gian.
Ở Việt Nam ngoài phật giao, nho giao, lão giáo, còn có tục bái thờ các vị
thần linh tín ngưỡng”đồng bóng” 1 tín ngưỡng lan sâu trong giới phụ nữ miền bắc
và miền trung, mà hình thức thể hiện là trạng thái”lên đồng hầu bóng”. Tranh thờ
Hàng Trống chủ yếu phục vụ cho tín ngưỡng đồng bóng.
12
Những vị thần linh trong tín ngưỡng đồng bóng gồm có: Đức Ngọc Hoàng
Thượng Đế ngự trị trên ngai vàng và xung quanh có văn vũ đứng trầu nh mét
triều đình dưới hạ giới. Dưới nữa là các Cậu và các Cô. loài vật được thờ cóng
trong tín ngưỡng là hổ và rắn.
Tranh chúc tụng dân gian Đông Hồ có liên quan mật thiết với tranh tín

ngưỡng. Trong gia đình, ngoài thờ tổ tiên, người Việt Nam còn có tục thờ Thổ
công. Thổ công là một dạng mẹ Đất, là vị thần trông coi gia cư, định đoạt phóc
hoạ của một gia đình. Sống ở đâu thi có Thổ công ở đó. Những tranh như”Táo
quân, Thần hộ mệnh, Thổ công…” cùng với ý nghĩa chúc tụng cũng nói lên tín
ngưỡng rõ rệt như: Ngọc Hoàng, Quan Âm Thị Kính… thì cũng kèm theo ý ước
mong được các vị thần phù hộ để được sung sướng.
Tranh thờ hàng Trống mang sắc thái và giá trị thẩm mĩ riêng. các bức
tranh thờ Hàng trống phục vụ cho những điệu có màu sắc đạo giáo và tín ngưỡng
nh: Ngò hổ, bạch hổ, đức thánh thần…
Tranh”Hổ”(hình7) Hàng trống mang tính chất trang nghiêm. Tranh”Ngò
Hổ” mang ý nghĩa diệt trừ ác, chấn trị tà ma. Hổ to ngồi giữa, bốn hổ nhỏ ngồi
chia làm bốn hướng tụ về hổ chính đều toát lên một sức sống mãnh liệt. Người
Việt Nam trị tà ma bằng bùa Ngò Sắc, bằng bức tranh dân gian Ngò Hổ. Năm Hổ
ở năm phương với năm màu theo ngò hành với ý nghĩa: Hổ tượng trưng cho sức
mạnh, chấn trị ở năm phương, tà ma không có lối nào thoát (Hổ màu đỏ là hoả
tượng trưng cho phương nam, Hổ màu xanh là méc tương trưng cho phương
đông, Hổ trắng là kim tượng trưng cho phương tây, Hổ vàng là thổ là trung tâm).
Tục thờ mẫu Liễu Hạnh đã trở thành một tín ngưỡng Việt Nam rất điển
hình. Không phải ngẫu nhiên mẫu Liễu Hạnh được thờ rộng rãi nh vậy. Do thời
kì Nho giáo độc tôn vai trò truyền thống của người phụ nữ bị xâm phạm
Là thể loại tranh thờ, từ nội dung đến hình thức đều mang tính chất tôn giáo
phục vụ tín ngưỡng của nhân dân nhưng dưới bàn tan khoé léo, óc sáng tạo và trí
tưởng tượng của các nghệ sĩ dân gian đã tạo nên bức tranh có giá trị như tranh Ông
Hoàng, Bà Chúa… với vẻ mặt dịu dàng gần gũi con người.
4.3. Tranh sinh hoạt
13
Tranh phản ánh sinh hoạt của nhân dân như:”chợ quê, hứng dùa, chăn
trâu…” Những bức tranh chủ đề sinh hoạt truyền thống trùng với tranh Đông Hồ,
chỉ có tinh thần thể hiện và kĩ thuật in khác nhau.
Hiện nay, ông Lê Đình Nghiêm là nghệ nhân sở hữu hơn hai trăm bộ ván

in cổ của dòng tranh Hàng Trống. Trong đó có bức ván in còn nguyên vẹn giá trị
rất cao về nghệ thuật: ván in”chợ quê, canh nông chi đồ…” Bản khắc”chợ quê”
diễn tả cảnh đẹp chợ đông đúc, nhén nhịp và ồn ào của vùng quê. Hình ảnh trong
tranh là những gì gần gũi, quen thuộc với cuộc sống người nông dân. Dưới cây
đa cổ thụ là dãy quán chợ với đủ mọi hàng hoá và những người ở tầng líp khác
nhau giống như một xã hội thu nhỏ. Mọi chi tiết của phiên chợ được khắc hoạ tỉ
mỉ hình ảnh các bà, các cô quần áo thướt tha người xem bói kẻ đánh bạc…
“Bịt mắt bắt dê”,”Rồng rắn lên mây” là những trò chơi quen thuộc của trẻ
em ngày xưa. Nh vậy, tranh dê nói chung và tranh đặc sắc”bịt mắt bắt dê” nói
riêng đều đã phản ánh chân thành ước mơ về một cuộc sống sôi nổi vui tươi bằng
hình ảnh gần gũi, với lối vẽ cụ thể, sinh động. Bức tranh là cảnh thanh bình, yên
vui và là mong ước của người dân.
Đề tài cuộc sống chính là mảng phong phú và thó vị của tranh Đông Hồ.
Người xem rất quen thuộc với tranh”Hứng dừa””Đánh ghen”. Bức tranh biểu
hiện được cuộc sống hiện thực và hóm hỉnh.
4.4. Tranh châm biếm
Là mét trong những vũ khí sắc bén của nhân dân chống cường quyền.
Trong một xã hội nh xã hội phong kiến trước đây ở nước ta, người dân không có
quyền nói lên ý muốn của mình, chỉ trích việc làm sai của triều đình, họ chỉ có
cái cười để đả kích những cái cổ hủ, lạc hậu của xã hội. Tranh dân gian thuộc đề
tài châm biếm, phê phán thãi hư tật xấu trong xã hội như”Đám cưới chuột, Đánh
ghen, Thầy đồ cóc…”.
Tranh”Đám cưới chuột” chống thãi hư danh, tệ nạn bóc lột và đặc biệt là
tính chất giai cấp thể hiện rõ rệt. Hình ảnh những con chuột trong đám cưới đến
cầu thân một con mèo, cho thấy đó là một điều hão huyền, không tưởng vì bản
chất của mèo là ăn thịt chuột.
14
Bức tranh”Đánh ghen” rất quen thuộc với tất cả những ai đã từng biết đến
tranh dân gian Đông Hồ.”Đánh ghen” khắc hoạ một cảnh đánh ghen sinh động,
quyết liệt được thể hiện bằng hai câu lục bát:

“Thôi thôi vuốt giận làm lành
Chi đến sinh sự nhục mình nhục ta.”
Rõ là lời can ngăn yếu ớt của ông chồng trước cơn ghen của bà cả. Bà cả
cầm chiếc kéo lăn xả sẵn sàng”Thử chơi một trận xem chồng về ai”. Còn bà hai
có sự che chở của ông chồng vênh mặt lên thách đố và ở tư thế trần trụi chêu tức.
Ông chồng buông lời can ngăn yếu ớt. Câu chuyện xảy ra sau bức bình phong,
dưới cây tùng, chứng tỏ là một gia đình khá giả.
Các nghệ nhân Đông Hồ miêu tả thật hóm hỉnh sâu sắc về đời sống vợ
chồng [Hình 8].
4.5. Tranh lịch sử và tranh truyền thuyết
Đề tài tranh này cũng phổ biến trong dân gian, nhưng về việc nắm rõ sử ta
và sử Trung Quốc cùng truyền thuyết dân téc, thì tác giả Ýt nhiều cũng có một
trình độ học thức nào đó. Điều này không phải dễ với các nghệ nhân nghiệp dư
làng Đông Hồ trong buổi đầu. Trong tranh lịch sử và truyền thuyết thường có
những câu thơ chứ Hán và chữ Nôm giải thích nội dung của tranh. Chứng tỏ tác
giả của tranh lịch sử không phải là người nông dân thông thường, họ là những
nhà Nho học dở dang thuộc giai cấp bình dân, có khả năng về hội hoạ và viết chữ
đẹp. Đó là loại tranh dân gian như tranh Hàng Trống của Thanh An Hiệu (Hà
Nội)…
Chủ đề tranh dân gian dù rót ra đề tài lịch sử hay lịch sử Trung quốc đều
nêu cao những tầm gương chung, vì nước, vì dân được quần chúng nhân dân tôn
sùng như: Trưng Chắc, Trưng Nhị, Ngô Quyền, Quan Công, Trương Phi… Hầu
hết tranh dân gian lấy đề tài trong chuyện thơ đều có tinh thần chống cường
quyền, chống sự bất công và tệ nạn xã hội cũ: Thạch Sanh, Thuý Kiều…
Những tranh thể lội lịch sử, truyền thuyết, phong cảnh thường là bức tranh
tứ bình bốn bức một bộ, nhị bình gồm hai bức một bộ. Bộ tranh tứ bình diễn ý
một số truyện nổi tiếng được nhân dân yêu thích. Màu sắc và bót pháp trong
tranh thống nhất.
15
Bé tranh tứ bình”Truyện Kiều” của Đông Hồ thật hoành tráng. các diễn

biến chính diễn dàn từ trên xuống dưới từ trái sang phải, đan lồng vào nhau.
Người và cảnh, cốt truyện ở Trung Quốc nhưng Thuý Vân, Thuý Kiều, Kim
Trọng… ở đây lại rất Việt Nam.
Dù thuộc thành phần nào, nhân vật trong tranh dân gian cũng đứng về
phía chính nghĩa, chống áp bức. Tranh”Bà Chóa Ba” là mét điển hình nổi bật.
Nhân vật Bà Chóa Ba là một thiếu nữ sinh trưởng trong chốn quyền quý. Bà
không muốn vui hưởng các may mắn của địa vị mình, lại có tư tưởng chán ghét
xã hội mà bà đang sống nên quyết định đi tu. Trong thời phong kiến, việc chán
ghét xã hội bỏ đi tu, ngoài sự mê tín thường là một sự phản ánh tiêc cực chế độ
xã hội lúc bấy giê. Nhờ nội dung tiến bộ mà tranh còng nh truyện”Bà Chóa Ba”
được nhân dân mến mộ.
4.6. Tranh trang trí và phong cảnh
Tranh trang trí, phong cảnh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống thuộc loại
thế hệ sau. Loại tranh này chịu ảnh hưởng của công thức nghệ thuật Trung Quốc.
Phần lớn tác giả là những nhà Nho học dở dang, cho nên hầu hết các tác phẩm
đều có những bài thơ chữ Hán với nét bót sắc sảo. tinh thần và bót pháp có khác
tranh cổ.
Còng trong loại tranh này có tranh đẹp nhất của nghệ thuật dân gian nh
tranh”Tố nữ” (hình 9)của Hàng Trống. Bộ tranh tứ bình”Tố nữ” diễn tả vé đẹp
kín đáo, đôn hậu của bốn cô gáI mặc áo dài, quần lĩnh hoa chanh, vấn khăn, tóc
bỏ đuôi gà, cổ cao ba ngấn, mặt tròn với các nhạc cụ trong tay tạo thành một dàn
nhạc dân téc. Tuy nhiên, tính chất giai cấp của tranh này là văn hoá giai cấp cầm
quyền. Tiêu chuẩn cái đẹp là tiêu chuẩn quý téc. Bởi thế ta thấy truyện thơ dân
gian cũng lấy đơn vị phong kiến là mục tiêu cuối cùng cho việc làm của các anh
hùng hào kiệt như Lục Vân tiên, Thạch Sanh … trong thời phong kiến, giai cấp
bình dân bị hạn chế gắt gao trong việc trang điểm để so sánh được với quý téc.
Thế mà tác giả miêu tả mỹ nhân bình dân không kém vẻ phong lưu, thanh nhã
qua đó thể hiện được người dân tự hào và tự tin ở giai cấp mình .
16
C- KẾT LUẬN

Chơi tranh là một thó vui, nhu cầu, phong tục cổ truyền đẹp của nhân dân.
Tranh dân gian Đông Hồ và Hàng Trống làm phong tục và đậm nét thêm bản sắc
truyền thống văn hoá dân téc tranh dân gian thể hiện giá trị thẩm mỹ, triết lý xã
hội và ý nghĩa nhân văn.
Tranh Đông Hồ và Hàng Trống đều thể hiện ước muốn hạnh phóc của
người dân.
Nếu tranh Đông Hồ thường phản ánh cuộc sống lao động và sinh hoạt
hàng ngày của miền quê. Thì tranh Hàng Trống thường đI vào những đề tài tín
ngưỡng, chúc tụng ngày xuân. mỗi bản in thể hiện một truyền thuyết hoặc một
câu chuyện ngụ ngôn mang tính triết lý, 1 bức thông điệp đầy màu sắc. chúng ta
có thể thấy những bình luận xã hội phong biến qua các hình tượng tranh. Cảm
hứng sáng tạo tranh Đông Hồ và Hàng Trống đều khởi nguồn từ hiện thực.
Mặc dù tranh Đông Hồ và Hàng Trống có đặc tính riêng về phong cách
tạo hình, kĩ thuật biểu đạt và đối tượng phục vụ, trong quá trình phát triển chúng
ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, nhằm bổ sung và phục vụ tốt hơn nhu cầu thẩm mĩ
của khách hàng.
Khi tiếp xúc với tranh Hàng Trống, tranh Đông Hồ có thêm đề tài mới,
nhất là tranh bót pháp điêu luyện hơn. Ngược lại tranh hàng trống cũng bổ xung
đề tài mới từ tranh Đông Hồ tạo nên sự đa dạng cho dòng tranh này. giữ gìn và
phát huy khôi phục dòng tranh Đông Hồ và Hàng Trống cũng như các dòng tranh
Khác là việc làm cần thiết
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
17
Hình 2: Đám cưới chuột- tranh đông hồ
Hình 3: Đấu vật - tranh đông hồ
18
Hình 4: Bịt mắt bắt dê - tranh hàng trống
Hình 5: Gà đàn- tranh đông hồ
19
Hình 6: Ngũ hổ-tranh hàng trống

Hình 7: Hổ – Tranh Hàng Trống
20

Hình 8: Đánh ghen- tranh đông hồ
21

Hình 9: Tố Nữ- Tranh hàng trống
22
MỤC LỤC
Trang
23
24

×