Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

kiến trúc hướng dịch vụ và ứng dụng (service-oriented-architecture)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 47 trang )

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
KHOA CÔNG NGHỆ THÔNG TIN

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
CẤP SINH VIÊN 2010
Đề tài:
KIẾN TRÚC HƯỚNG DỊCH VỤ & ỨNG DỤNG
(SERVICE-ORIENTED-ARCHITECTURE)
Mã số đề tài
Chủ nhiệm đề tài
Cố vấn khoa học
: S2010-08-21
: Nguyễn Thị Dung
: Th.s. Nguyễn Hồng Tân
Thái Nguyên 12/2010
i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ KIẾN TRÚC HƯỚNG DỊCH VỤ (SERVICE-ORIENTED-
ARCHITECTURE) 2
CHƯƠNG 2:
PHÁT TRIỂN PHẦN MỀM DỰA VÀO SOA 12
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 36
41
KẾT LUẬN 42
TÀI LIỆU THAM KHẢO 43
CHỮ KÝ XÁC NHẬN 45
ii
MỞ ĐẦU
Sự phát triển của Internet đã thúc đẩy nhu cầu cộng tác, làm việc qua


mạng và sử dụng các dịch vụ trực tuyến dần trở thành một nhu cầu thiết yếu
trong cuộc sống của chúng ta. Điều đó đòi hỏi các ứng dụng không chỉ là những
hệ thống hoạt động đơn lẻ trên một máy trạm (máy client) và chịu phụ thuộc vào
một nền tảng cố định nào nữa, mà chúng phải là những hệ thống linh động giúp
người dùng làm việc “mọi lúc, mọi nơi”. Điều đó đã làm nhà phát triển phải đối
mặt với hàng loạt các vấn đề mới như làm sao tích hợp các thành phần phân tán
lại với nhau; hay tái sử dụng những thành phần có sẵn; vấn đề triển khai và bảo
trì… đang là một vấn đề làm điên đầu các nhà phát triển.
Tuy nhiên, một thực tế hiện nay là phần mềm đang ngày càng trở nên
phức tạp quá mức và dường như đang vượt khỏi khả năng kiểm soát của các mô
hình phát triển hiện có. Nguyên nhân khiến cho hệ thống có độ phức tạp tăng cao
là do sự xuất hiện của nhiều công nghệ mới tạo nên môi trường không đồng nhất,
trong khi nhu cầu trao đổi, chia sẻ, tương tác giữa các hệ thống ngày càng tăng và
không thể đáp ứng được trong môi trường như vậy. Cùng với đó là vấn đề lập
trình dư thừa và không thể tái sử dụng gây tốn kém rất nhiều không những trong
giai đoạn phát triển hệ thống mà trong cả vận hành bảo trì phần mềm. Giải pháp
cho các vấn đề này là gì?
“SOA” hay “Kiến trúc Hướng dịch vụ” là mô hình phần mềm không phải
là mới, song đang rất phát triển hiện nay. Đây cũng được coi là giải pháp ưu việt
cho các vấn đề đã đề cập ở trên. Kiến trúc này được phát triển từ đầu những năm
2000 đi đầu là IBM. Hiện nay SOA đang được ứng dụng rộng rãi với sự đầu tư
nghiên cứu của rất các tập đoàn lớn như IBM, Oracle, SAP, Microsoft…
Vậy thật sự SOA là gì ? Nó có thật sự hoàn hảo? Làm thế nào để triển
khai SOA? Các vấn đề của hệ thống SOA là gì ? Đó cũng chính là những câu hỏi
mà đề tài sẽ nghiên cứu và trả lời.
Thái Nguyên, năm 2010
Nguyễn Thị Dung
1
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN VỀ KIẾN TRÚC HƯỚNG DỊCH VỤ

(SERVICE-ORIENTED-ARCHITECTURE)
1.1. Kiến trúc phần mềm hiện nay
1.1.1. Một số kiến trúc phần mềm phân tán hiện nay
Một số mô hình kiến trúc phân tán đang sử dụng phổ biến nhất hiện nay
là: CORBA, RMI, DCOM, và EJB. Các kiến trúc này là sự mở rộng của các hệ
thống hướng đối tượng bằng cách cho phép phân tán các đối tượng trên mạng.
Đối tượng có thể có không gian địa chỉ bên ngoài ứng dụng, hoặc ở một máy
khác so với máy chứa ứng dụng trong khi vẫn được tham chiếu sử dụng như một
phần của ứng dụng.
RMI (Remote Method Invocation):
RMI là một phần của bộ J2SDK (Java 2 Platform Standard Development
Kit) của Sun và là các hàm thư viện hỗ trợ cho các lời triệu gọi phương thức từ
xa và trả về giá trị cho các ứng dụng tính toán phân tán. RMI cho phép chạy các
đối tượng trên môi trường JVM (Java Virtual Machine) triệu gọi với đối trượng
chạy trên nền JVM khác thông qua việc sử dụng giao diện chung của các phương
thức trên client và server. RMI cung cấp cho việc trao đổi truyền thông giữa các
chương trình được viết bằng ngôn ngữ lập trình Java.
Ưu điểm của kiến trúc đối tượng phân tán RMI là người lập trình chỉ cần
lập trình các lời gọi phương thức vì đối tượng được gọi đã hiện diện trong máy
ảo của nó. Nhưng nhược điểm là RMI chỉ thích hợp cho các ứng dụng viết trên
ngôn ngữ Java.
CORBA (Common Object Request Broker Architecture)
Là một chuẩn công nghiệp được đưa ra bởi OMG (Object Management
Group), cho phép gọi các phương thức từ xa và nhận kết quả trả về, nhưng không
giống như RMI, nó có thể được sử dụng khi bên phía gọi và bên phía phương
thức được gọi có thể sử dụng ngôn ngữ lập trình khác nhau, bao gồm cả trường
hợp cả 2 bên không sử dụng ngôn ngữ Java.
CORBA được định nghĩa từ 2 thứ:
2
• Thực thể mà cho phép liên lạc giữa 2 tiến trình được gọi là 1 mô

giới yêu cầu đối tượng (Object Request Broker - ORB).
• Một giao thức được ORB dùng để liên lạc giữa nhiều tiến trình,
được gọi là IIOP (Internet Interoperability Protocol).
Ưu điểm của CORBA: các lập trình viên có thể tùy chọn ngôn ngữ lập
trình, nền tảng phần cứng, giao thức mạng và công nghệ để phát triển mà vẫn
thỏa mãn các tính chất của CORBA. Tuy nhiên CORBA có nhược điểm là nó là
ngôn ngữ lập trình cấp thấp, rất phức tạp, khó học và cần một đội ngũ phát triển
có kinh nghiệm. Ngoài ra các đối tượng CORBA khó tái sử dụng. Các ứng dụng
dựa trên CORBA hiện nay đang dần đi vào thoái trào.
DCOM (Distributed Component Object Model)
DCOM là công nghệ độc quyền của Microsoft, nó định nghĩa các thành
phần của phần mềm được phân tán qua các mạng máy tính để truyền thông với
các thành phần khác. DCOM hỗ trợ kết nối giữa các đối tượng và kết nối này có
thể được thay đổi lúc đang chạy. Các đối tượng DCOM được triển khai bên trong
các gói nhị phân chứa mã lệnh quản lý vòng đời của đối tượng và việc đăng ký
đối tượng.
Hình 1.1: Mô hình tương tác của các đối tượng DCOM.
DCOM mang đến nhiều ưu điểm như: dễ triển khai, chi phí thấp, tính ổn
định, không phụ thuộc vào địa lý, quản lý kết nối hiệu quả và dễ mở rộng. Tuy
nhiên, các công nghệ của Microsoft có một nhược điểm lớn là bị giới hạn trên hệ
nền Windows do chiến lược độc quyền của Microsoft.
1.1.2. Vấn đề phát sinh, nguyên nhân và giải pháp
Hiện nay áp lực đặt lên các doanh nghiệp ngày càng lớn như: giảm chi phí
đầu tư cơ sở hạ tầng, khai thác có hiệu quả các công nghệ có sẵn, phục vụ yêu
cầu khách hàng tốt hơn, đáp ứng tốt các thay đổi thường xuyên về nghiệp vụ, khả
năng tích hợp cao với các hệ thống bên ngoài…
3
Xây dựng được hệ thống đáp ứng được tất cả các nhu cầu đó quả là vấn đề
vô cùng khó khăn. Bởi vậy một hướng đi mới cho các doanh nghiệp chính là tìm
kiếm các giải pháp tích hợp các ứng dụng có sẵn hoặc kết hợp với ứng dụng của

các doanh nghiệp khác sao cho thỏa mãn nhu cầu.
Trong quá trình kết hợp chắc chắn sẽ gặp những khó khăn:
- Không đủ khả năng quản lý quy trình nghiệp vụ
- Tốn chi phí tích hợp
- Quá nhiều định dạng dữ liệu
- Nhu cầu và yêu cầu của khách hàng thường xuyên thay đổi nhanh
chóng nhằm tạo ra tính cạnh tranh liên tục.
- Vấn đề an ninh bảo mật.
Đa phần những khó khăn trên là bắt nguồn từ các nguyên nhân sau:
- Phức tạp: Ngày nay mỗi doanh nghiệp công nghệ thông tin có nhiều
những hệ thống trên các nền tảng khác nhau, và hoạt động nghiệp vụ khác nhau.
Các công ty phát triển phần mềm phải thuê các nhóm nhân viên giàu kinh
nghiệm, có khả năng trên các lĩnh vực khác nhau để phát triển, triển khai và quản
lý các ứng dụng và hệ thống mà bản thân chúng không đồng nhất. Thêm đó là
việc nâng cấp khó khăn, tích hợp cùng với nhau, và bảo mật ngày càng cao đã
làm gia tăng tính phức tạp cho hệ thống.
- Không linh hoạt: Cùng với sự phức tạp trong chiến lược phát triển,
cũng như cơ sở hạ tầng của các công ty. Hầu như công ty nào cũng có những ứng
dụng có sẵn nhưng khó nâng cấp, khó kết hợp hoạt động, mà không thể thay thế
được. Vấn đề tích hợp trở nên khó khăn hơn và tốn kém hơn.
- Không bền vững: Tiếp đó là sự không bên vững của hệ thống. Các
phương pháp tiếp cận truyền thống trong việc xây dựng các hệ thống phần mềm
thương dẫn đến rất nhiều những giải pháp khác nhau được lắp ghép, tích hợp.
Kết quả mỗi khi thay đổi về quy trình nghiệp vụ hay yêu cầu thì các công ty phải
chấp nhận phát triển những dự án tốn kém hoặc thay thế các công nghệ không
phù hợp.
Chính vì vậy mà các doanh nghiệp cần phải có một hướng tiếp cận mới để
giải quyết vấn đề môi trường không đồng nhất và tốc độ chóng mặt của sự thay
đổi công nghệ trong khi nguồn ngân sách bị hạn hẹp. May mắn thay, vẫn còn có
4

một giải pháp để giải quyết khá toàn diện về mọi mặt khó khăn này và nó đã
được triển triển khai trong thực tế. “Kiến trúc hướng dịch vụ” (Service Oriented
Architecture - SOA) là cách tiếp cận để xây dựng hệ thống công nghệ thông tin
cho phép các doanh nghiệp tận dụng những gì đang có và dễ dàng thay đổi theo
yêu cầu để hỗ trợ cho doanh nghiệp.
SOA được xem như là bước phát triển tiếp theo của nghành công nghệ
phần mềm.
1.2. Kiến trúc hướng dịch vụ - SOA
1.2.1. Khái niệm
 SOA (Service Oriented Architecture) – Kiến trúc Định hướng Dịch vụ là
một cách tiếp cận hay một phương pháp luận để thiết kế và tích hợp các thành
phần khác nhau, bao gồm các phần mềm và các chức năng riêng lẻ lại thành một
hệ thống hoàn chỉnh. Kiến trúc SOA rất giống với cấu trúc của các phần mềm
hướng đối tượng gồm nhiều module. Tuy nhiên khái niệm module trong SOA
không đơn thuần là một gói phần mềm, hay một bộ thư viện nào đó. Thay vào
đó, mỗi module trong một ứng dụng SOA là một dịch vụ được cung cấp rải rác ở
nhiều nơi khác nhau và có thể truy cập thông qua môi trường mạng. Nói một
cách ngắn gọn, một hệ thống SOA là một tập hợp nhiều dịch vụ được cung cấp
trên mạng, được tích hợp lại với nhau để cùng cộng tác thực hiện các tác vụ nào
đó theo yêu cầu của khác hàng.
Một trong những cách hiểu sai lầm nhất về SOA là coi SOA là một công
nghệ. Mặc dù SOA hoạt động được là nhờ công nghệ, nhưng khách hàng cần
phải chuyển đổi từ chỗ chỉ việc tích hợp công nghệ SOA sang việc phải điều
chỉnh các phương pháp thực hiện dự án, chính sách bảo trì và thay đổi để đạt
được các lợi ích về khả năng trưởng thành và đáp ứng.
 Dịch vụ (service) là yếu tố then chốt trong SOA. Có thể hiểu dịch vụ như là
một loại module thực hiện một quy trình nghiệp vụ nào đó. Một trong những mục
đích của SOA là giúp các ứng dụng có thể “giao tiếp” được với nhau mà không
cần biết các chi tiết kỹ thuật bên trong. Để thực hiện điều đó SOA định ra một
chuẩn giao tiếp (dùng để gọi hàm dịch vụ) được định nghĩa rõ ràng và độc lập

với nền tảng hệ thống, và có thể tái sử dụng. Như vậy, SOA là cấp độ cao hơn
của phát triển ứng dụng, chú trọng đến quy trình nghiệp vụ và dùng giao tiếp
chuẩn để giúp che đi sự phức tạp kỹ thuật bên dưới. Sự trừu tượng là cốt lõi của
5
khái niệm dịch vụ, nó giúp cho các doanh nghiệp có thể tích hợp các thành phần
hiện có vào các ứng dụng mới và các thành phần này có thể được chia sẻ hoặc tái
sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau của công ty đó mà không cần phải chỉnh
sửa mã nguồn hay phải tái cấu trúc lại hệ thống.
Tóm lại, một dịch vụ có các đặc điểm sau:
 Có ranh giới rõ ràng (Boundaries Are Explicit): Mỗi service được xây
dựng dựa trên các giao chuẩn hóa đã được sử dụng rộng rãi. Chi tiết hiện
thực của mỗi service sẽ không được thể hiện ra bên ngoài. Mỗi service chỉ
công bố một số các giao của nó cho người sử dụng có thể dùng để gởi các
yêu cầu và nhận kết quả trả về.
 Tính tự trị (Autonomous): Về mặt lý thuyết, mỗi service có tính độc lập
cao, có thể được xây dựng và đưa vào sử dụng mà không phụ thuộc vào
các service khác.
 Share the Schema and Contract, Not the Class: Về mặt trao đổi dữ liệu,
các service không truyền các class và type. Thay vào đó, các class và type
sẽ được đặc tả hình thức (data được đặc tả trong schema, behavior được
đặc tả thành các contract).
 Service Compatibility Is Based on Policy: Sự tương thích giữa các service
được căn cứ vào các policy (chính sách). Tương thích về mặt cấu trúc dựa
trên các đặc tả hình thức bao gồm contract (dựa trên Web Service
Description Language (WSDL) hoặc Business Process Execution
Language for Web Services (BPEL4WS)) và schema (XSD). Sự tương
thích dựa trên policy cung cấp khả năng phân tích cũng như đảm bảo sự
tương thích giữa các service.
Có nhiều cách khác nhau để kết nối các dịch vụ, chẳng hạn dùng các giao
thức mạng có sẵn, hoặc tạo một giao thức riêng. Nhưng từ năm 2001, các dịch vụ

web (Web service) được xây dựng dựa trên nền tảng web toàn cầu, bất cứ nơi
nào cũng có, đã trở thành một phương pháp phổ biến cho việc kết nối các thành
phần của hệ thống SOA với nhau. Thoạt nhìn SOA và Web Service trông có vẻ
giống nhau nhưng chúng không phải là một. Chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về các
Web Service trong các phần tiếp theo.
6
Hình 1.2: Mô hình cơ bản của SOA.
1.2.2. Nguyên lý SOA
SOA tìm cách giải quyết một số vấn đề theo cách nhìn lấy ứng dụng làm
trung tâm. Có thể tóm gọn những phát biểu đó theo các nguyên lý như sau:
- Ứng dụng phải mở ra khả năng cho phép các ứng dụng mới hoặc ứng
dụng đang tồn tại có thể sử dụng được. Nó cũng phải có khả năng kết nối
tới các dịch vụ được đưa ra bởi các ứng dụng khác để tạo thành các dịch
vụ cao cấp hơn hay còn gọi là ứng dụng tổ hợp.
- Sự khác biệt về công nghệ không thành vấn đề và khả năng tương tác trở
thành mục tiêu then chốt.
- Các chuẩn mở phải được thông qua để cho phép tích hợp giữa các doanh
nghiệp. Phối hợp tiến trình nghiệp vụ giữa nhiều nhà cung cấp, nhiều đối
tác thậm chí có thể với cả khách hàng.
- Phải chú ý tới việc quản lý và và đảm bảo khả năng có thể quản trị của hệ
thống để đảm bảo tính linh hoạt do ba nguyên tắc đầu tiên không bị xáo
trộn và xung đột với nhau.
Nói cách khác, SOA nhấn mạnh việc hạ thấp các rào cản truyền thống tới
khả năng tái sử dụng của ứng dụng. Tôn trọng nguyên tắc thiết kế này của SOA
sẽ giải quyết được bài toán lớn về vấn đề tích hợp cũng như bảo trì hệ thống phần
mềm đang là thách thức đối với các nhà phát triển công nghệ thông tin trong giai
đoạn hiện nay.
Dựa trên nguyên lý, hệ thống SOA có những tính chất cơ bản. Để có thể
xem xét hoạt động và xây dựng được hệ thống thì việc hiểu rõ tính chất của hệ
thống đóng vai trò rất quan trọng.

7
1.2.3. Tính chất của SOA
1.2.3.1. Kết nối lỏng lẻo
Vấn đề kết nối nói tới một số ràng buộc giữa các module lại với nhau. Có
2 loại kết nối là lỏng lẻo và chặt chẽ. Các module có tính chất kết nối lỏng lẻo có
một số ràng buộc được mô tả rõ ràng trong khi các module có tính kết nối chặt lại
có nhiều ràng buộc không thể biết trước. Hầu như mọi kiến trúc phần mềm đều
hướng đến tính kết nối lỏng lẻo giữa các module. Mức độ kết nối của hệ thống
ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng chỉnh sửa hệ thống. Kết nối càng chặt bao
nhiêu thì có nhiều thay đổi chỉnh sửa khi có sự thay đổi nào đó xảy ra. Mức độ
kết nối tăng dần khi bên sử dụng dịch vụ cần biết nhiều thông tin ngầm định của
bên cung cấp dịch vụ để sử dụng dịch vụ được cung cấp. Nghĩa là nếu bên sử
dụng dịch vụ biết vị trí và chi tiết định dạng dữ liệu của bên cung cấp dịch vụ thì
quan hệ sẽ càng trở nên chặt chẽ. Ngược lại, nếu bên sử dụng dịch vụ không cần
biết mọi thông tin chi tiết của dịch vụ trước khi triệu gọi nó thì quan hệ giữa 2
bên càng có tính lỏng lẻo.
Kết nối lỏng lẻo làm cho sự phụ thuộc ở mức tối thiểu. Khi đó, những sự
thay đổi sẽ có ảnh hưởng ít nhất tới hệ thống và hệ thống vẫn có thể hoạt động
khi có thành phần nào đó bị hư hỏng. Tối thiểu hóa sự phụ thuộc giúp hệ thống
linh hoạt, và ít xảy ra sự cố.
Tính kết nối lỏng lẻo giúp gỡ bỏ những ràng buộc điều khiển giữa những
hệ thống đầu cuối. Mỗi hệ thống có thể tự quản lý độc lập nhằm tăng năng xuất,
khả năng mở rộng và khả năng đáp ứng cao. Những thay đổi cài đặt cúng được
che dấu đi. Tính chất kết nối lỏng lẻo đem đến sự độc lập giữa bên cung cấp và
bên sử dụng nhưng nó đòi hỏi các giao diện phải theo chuần và cần một thành
phần trung gian quản lý, trung chuyển yêu cầu giữa các hệ thống đầu cuối.
1.2.3.2. Tái sử dụng dịch vụ
Bởi vì các dịch vụ được cung cấp trên môi trường mạng và được đăng ký
ở một nơi nhất định nên chúng dễ ràng được tìm thấy và sử dụng lại. Nếu một
dịch vụ không có khả năng tái sử dụng, nó cũng không cần đến giao diện mô tả.

Các dịch vụ có thể được tái sử dụng lại bằng cách kết hợp lại với nhau theo nhiều
mục đích khác nhau. Tái sử dụng lại các dịch vụ còn giúp loại bỏ những thành
phần trùng lặp và tăng tốc độ vững chắc trong cài đặt, nó còn giúp đơn giản hóa
việc quản trị. Thực ra tái sử dụng dịch vụ lại dễ dàng hơn tái sử dụng thành tố
8
hay lớp. Những dịch vụ được dùng chung bởi tất cả các ứng dụng của một hệ
thống SOA gọi là những dịch vụ chia sẻ cơ sở hạ tầng.
1.2.3.3. Quản lý chính sách
Tập các chính sách là tập tất cả các qui tắc chung mà mọi thành phần
trong hệ thống đều phải tuân thủ. Khi sử dụng các dịch vụ chia sẻ trên mạng, tùy
theo mỗi ứng dụng sẽ có một luật kết hợp riêng gọi là các chính sách. Các chính
sách cần được quản lý và áp dụng cho mỗi dịch vụ cả trong quá trình thiết kế và
trong thời gian triển khai.
Việc đó làm tăng khả năng tạo ra các dịch vụ có đặc tính tái sử dụng. Bởi
vì các chính sách được thiết kế tách biệt, và tùy vào mỗi ứng dụng nên giảm tối
đa các thay đổi phần mềm. Nếu không sử dụng các chính sách, thì các nhân viên
phát triển phần mềm, nhóm điều hành và nhóm hỗ trợ phải làm việc với nhau
trong suốt thời gian phát triển để cài đặt và kiểm tra những chính sách. Ngược
lại, nếu sử dụng các chính sách, những nhân viên phát triển phần mềm chỉ cần
tập trung vào quy trình nghiệp vụ trong khi nhóm điều hành và nhóm hỗ trợ tập
trung vào các luật kết hợp.
1.2.3.4. Tự động dò tìm và ràng buộc động
SOA hỗ trợ khái niệm khai thác dịch vụ (service discovery). Một người sử
dụng cần đến một dịch vụ nào đó có thể tìm kiếm dịch vụ dựa trên một số tiêu
chuẩn khi cần. Người sử dụng chỉ cần hỏi một registry về một dịch vụ nào thỏa
yêu cầu tìm kiếm. Ví dụ, một hệ thống chuyển khoản, khách hàng yêu cầu một
registry tìm tất cả các dịch vụ có khả năng kiểm tra thẻ tín dụng. Registry trả về
một tập các danh mục thỏa mãn yêu cầu. Các mục đó chứa thông tin về dịch vụ,
bao gồm cả chi phí giao dịch. Bên sử dụng sẽ chọn một dịch vụ có phí giao dịch
thấp nhất trong danh sách các dịch vụ trả về, kết nối đến nhà cung cấp dịch vụ

dựa trên thông tin địa chỉ registry đã cung cấp để sử dụng dịch vụ kiểm tra thẻ tín
dụng. Trong phần mô tả dịch vụ kèm theo đã có tất cả các tham số cần thiết dùng
để thực thi dịch vụ, bên sử dụng chỉ cần định dạng dữ liệu yêu cầu đúng theo mô
tả và gửi đi. Nhà cung cấp dịch vụ sẽ thực thi kiểm tra thẻ tín dụng và trả về một
thông điếp có định dạng đúng như trong phần mô tả dịch vụ. Mối ràng buộc duy
nhất giữa bên cung cấp và bên sử dụng là bản hợp đồng được cung cấp bởi
registry trung gian. Mối ràng buộc này là ràng buộc trong thời gian chạy. Tất cả
thông tin cần thiết về dịch vụ được lấy về và sử dụng trong khi chạy. Vậy với
9
SOA, bên sử dụng dịch vụ không cần biết định dạng của thông điệp yêu cầu và
thông điệp trả về, cũng như địa chỉ dịch vụ cho đến khi cần.
1.2.3.5. Khả năng tự hồi phục
Với kích cỡ và độ phức tạp của những hệ thống phân tán ngày nay, khả
năng phục hồi của một hệ thống sau khi bị sự cố là một yếu tố rất quan trọng.
Một hệ thống tự phục hồi là hệ thống có khả năng tự phục hồi sau khi lỗi mà
không cần sự can thiệp của con người.
Độ tin cậy là mức độ đo khả năng của một hệ thống xử lý tốt như thế nào
trong tình trạng hỗn loạn. Trong SOA, các dịch vụ luôn có thể hoạt động hay
ngừng hoạt động bất cứ lúc nào, nhất là đối với những áp dụng tổng hợp từ nhiều
dịch vụ của nhiều tổ chức khác nhau. Độ tin cậy phụ thuộc vào khả năng phục
hồi của phần cứng sau khi bị lỗi. Hạ tầng mạng phải cho phép các kết nối động từ
nhiều hệ thống khác nhau kết nối đến trong khi chạy. Một khía cạnh khác ảnh
hưởng đến độ tin cậy là kiến trúc mà dựa trên đó những ứng dụng được xây
dựng. Một kiến trúc hỗ trợ kết nối và thực thi động sẽ có khả năng tự phục hồi
hơn một hệ thống không hỗ trợ những tính năng trên.
Ngoài ra, những hệ thống dựa trên dịch vụ yêu cầu tách biệt giữa giao
diện và cài đặt, nên có thể có nhiều cài đặt khác nhau cho cùng một giao diện.
Nếu một thể hiện service nào đó không hoạt động thì một thể hiện khác vẫn có
thể hoàn tất giao dịch cho khách hàng mà không bị ảnh hưởng gì. Khả năng này
chỉ có được khi client tương tác với giao diện của dịch vụ chứ không tương tác

trực tiếp cài đặt của dịch vụ. Đây là một trong những tính chất cơ bản của hệ
thống hướng dịch vụ (SOA).
1.2.4. Lợi ích của SOA
Sử dụng mô hình SOA trong việc thiết kế hệ thống mang lại rất nhiều lợi
ích về cả mặt kinh tế và kỹ thuật.
Về mặt kinh tế:
- Doanh nghiệp có điều kiện tập trung thời gian để tìm kiếm các giải
pháp cho các bài toán liên quan đến kinh tế.
- Thúc đẩy khả năng phát triển của hệ thống hiện có cũng như khả năng
mở rộng của hệ thống trong tương lai.
Lợi ích về mặt kỹ thuật:
10
- Độc lập hệ thống : những service không phụ thuộc vào hệ thống và
mạng cụ thể.
- Có khả năng tái sử dụng.
- Khả năng hồi đáp thích nghi tốt và nhanh hơn để đáp ứng với sự thay
đổi về yêu cầu giao dịch.
- Cho phép dễ dàng triển khai chương trình, môi trường chạy và quản lý
service dễ dàng hơn.
- Những sự xác nhận và chứng minh của Service consumer về những tính
năng security dựa trên giao tiếp Service tốt hơn cơ chế kết nối chặt
chẽ.
1.2.5. Ưu nhược điểm của SOA
SOA có thể được coi là một kiến trúc ưu việt trong thiết kế và xây dựng
hệ thống phần mềm cho doanh nghiệp bởi:
- Hệ thống uyển chuyển và lâu dài thuận tiện cho việc chỉnh sửa, nâng cấp
hoặc mở rộng hệ thống.
- Dễ dàng và nhanh chóng tạo ra các tiến trình nghiệp vụ từ các service đã
có.
- Khả năng tương tác của các service.

Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm SOA vẫn tồn tại một số yếu điểm như sau:
- Hệ thống phức tạp.
- Khó miêu tả dữ liệu không cấu trúc trong header của message.
- Đặc biệt, khi xây dựng ứng dụng tổng hợp từ nhiều dịch vụ với tính tái sử
dụng cao thì vấn đề bảo mật như: xác thực, phân quyền, bí mật và toàn
vẹn dữ liệu, bảo vệ quyền riêng tư… trở thành một bài toán hết sức phức
tạp và đòi hỏi giải quyết bằng những hướng tiếp cận bảo mật hoàn toàn
mới so với các phương pháp bảo mật truyền thống.
Trên đây là những trình bày tổng quan và đặc trưng nhất của SOA. Vậy
SOA hoạt động như thế nào? Bằng cách nào để triển khai nguyên lý SOA vào hệ
thống phần mềm thực tế và qui trình xây dựng hệ thống ra sao? Phần tiếp theo sẽ
đi sâu hơn về SOA và trả lời các câu hỏi đó.
11
CHƯƠNG 2:
PHÁT TRIỂN PHẦN MỀM DỰA VÀO SOA
2.1. Mô hình hoạt động và kiến trúc chi tiết của hệ thống
2.1.1. Mô hình tổng thể của SOA
Hình 2.1: Mô hình tổng quan của SOA
- Service Provider: Cung cấp các service phục vụ cho một nhu cầu nào đó.
User (service consumer) không cần quan tâm đến vị trí thực sự mà service
họ cần sử dụng đang hoạt động. Họ chỉ cần quan tâm dịch vụ đó là gì.
- Serive Consumer: khách hàng dịch vụ hay những user sử dụng service
được cung cấp bởi Service Provider.
- Service Registry: Nơi lưu trữ thông tin về các service của các Service
Provider khác nhau, Service Consumer dựa trên những thông tin này để
tìm kiếm và lựa chọn Service Provider phù hợp.
Service Provider sẽ đăng ký thông tin về service mà mình có thể cung cấp
(các chức năng có thể cung cấp, khả năng của hệ thống (resource, performance,
giá cả dịch vụ ) vào Service Registry. Service Consumer khi có nhu cầu về một
service nào đó sẽ tìm kiếm thông tin trên Service Registry. Ngoài chức năng hỗ

trợ tìm kiếm, Service Registry còn có thể xếp hạng các Service Provider dựa trên
các tiêu chí về chất lượng dịch vụ, bầu chọn từ các khách hàng đã sử dụng
service Những thông tin này sẽ hỗ trợ thêm cho quá trình tìm kiếm của Service
Consumer. Khi đã xác định được Service Provider mong muốn, Service
Consumer thiết lập kênh giao tiếp trực tiếp với Service Provider nhằm sử dụng
service hoặc tiến hành thương lượng thêm (về mặt giá cả, resource sử dụng ).
12
2.1.2. Mô hình giao tiếp bằng thông điệp (message) trong SOA
So với kiểu thiết kế Component-Based (hướng thành phần), điểm khác
biệt chính của SOA là cung cấp khả năng giao tiếp giữa các thành phần trong hệ
thống sử dụng thông điệp (message) dựa trên các giao thức đã được chuẩn hóa
(HTTP, FTP, SMTP ). Chính nhờ đặc điểm này, hệ thống SOA trở nên độc lập
với nền (platform independent). Các service hoạt động trên các platform khác
nhau vẫn có thể giao tiếp với nhau nhờ vào các interface giao tiếp đã được chuẩn
hóa để cộng tác xử lý một tác vụ nào đó.
Hình 2.2: Message được truyền nhận giữa các dịch vụ
Sử dụng thông điệp (message) để giao tiếp có các lợi thế sau:
• Độc lập nền: thông điệp (message) trở thành ngôn ngữ chung của các
platform và các ngôn ngữ lập trình khác nhau. Điều này đảm bảo các service trên
các platform khác nhau hoạt động với cấu trúc dữ liệu đặc thù của platform đó.
• Giao tiếp bất đồng bộ: Người gửi và người nhận không cần phải chờ
thông điệp trả lời sau khi đã gởi đi một thông điệp. Điều này giúp cho người gửi
và người nhận tiếp tục xử lý công việc sau khi gửi thông điệp mà không cần
dừng thực thi để chờ thông điệp trả lời.
• Giao tiếp tin cậy: các thông điệp từ bên gửi có thể được gửi đến một
service trung gian có nhiệm vụ lưu trữ (store) các thông điệp. Service trung gian
sẽ chuyển tiếp (forward) thông điệp cho bên nhận khi bên nhận có thể xử lý yêu
cầu tiếp theo. Cơ chế Store-and-Forward này đảm bảo các thông điệp sẽ không bị
thất lạc trong trường hợp Receiver bị quá tải và không thể nhận thêm yêu cầu
mới.

• Quản lý luồng: Việc trao đổi thông điệp theo cơ chế bất đồng bộ giúp
ứng dụng không cần ngừng thực thi để chờ một tác vụ kết thúc mà có thể tạo ra
các luồng (thread) xử lý các công việc khác nhau.
13
• Giao tiếp từ xa: Các thông điệp lưu trữ thông tin về các đối tượng dữ
liệu dưới dạng đặc tả hình thức thay thế việc phải serialization and deserialization
các đối tượng dữ liệu truyền qua mạng khi ứng dụng thực hiện gọi từ xa một ứng
dụng khác.
• Bảo mật end-to-end: Thông điệp có thể lưu trữ thông tin về hình thức
bảo mật của kênh giao tiếp. Điều này cung cấp khả năng điều khiển liên quan đến
bảo mật như xác thực và phân quyền.
2.1.3. Kiến trúc phân tầng chi tiết
Hiện nay chưa có một mô hình chính thức nào của SOA. Thật sự SOA là
một phương pháp luận giúp chúng ta tận dụng sức mạnh của các nguồn lực,
nguồn tài nguyên khác nhau trong mạng máy tính để trở thành một hệ thống nhất.
Mỗi một công ty có một mô hình SOA khác nhau. Nhìn chung mô hình SOA có
các đặc điểm sau:
Hình 2.3: Kiến trúc chi tiết của SOA
- Tầng Connectivity: đây là tầng thấp nhất của SOA, có nhiệm vụ giao
tiếp trực tiếp với các thành phần khác như cơ sở dữ liệu, giao tiếp với các
ứng dụng khác, các web service… Vì vậy có thể coi đây là tầng vật lý của
SOA.
- Tầng Orchestration: là các dịch vụ xử lý các quy trình nghiệp vụ và
độc lập với tầng vật lý phía bên dưới. Tầng orchestration chứa các thành
phần đóng vai trò vừa là dịch vụ sử dụng vừa là những dịch vụ cung cấp.
Những dịch vụ này sử dụng những dịch vụ của tầng kết nối và các dịch vụ
orchestration khác để kết hợp những chức năng cấp thấp hơn thành những
dịch vụ hoạt động ở cấp cao hơn, có hành vi gần với những chức năng
nghiệp vụ hơn.
14

- Tầng Composite Application: là các ứng dụng tổng hợp nhằm mục đích
trình diễn (presentation) và hiển thị thông tin cho người dùng cũng như
cung cấp một giao diện cho người dùng tương tác với hệ thống như là một
phần mềm duy nhất. Tầng này có thể là các website, portal, các ứng dụng
client mở rộng (rich client), các thiết bị di động thông minh (smart
device),…
- Các thành phần khác: gồm có quy trình phát triển (development), quản lý
các dịch vụ (service management), và quản lý con người (governance).
Như vậy có thể thấy SOA không chỉ đơn thuần là về mặt công nghệ mà nó
là tổng hòa của rất nhiều yếu tố: công nghệ, cơ sở hạ tầng, con người và
quy trình nghiệp vụ.
Hình 2.4: Các thành phần tham gia triển khai hệ thống SOA
Vậy khi nào sử dụng SOA? Đó là khi thiết kế hệ thống đặt ra một câu hỏi
lớn là việc cân nhắc giữa khả năng sử dụng lại và hiệu năng của hệ thống. Nếu hệ
thống cần việc chạy nhanh cho một ứng dụng đặc biệt thì RMI, CORBA, DCOM
là sự lựa chọn. Nhưng hệ thống khó có thể thay đổi hoặc sử dụng lại. Nếu hệ
thống dự định thay đổi thường xuyên mà không yêu cầu quá cao về tốc độ thì
SOA là phương cách tiếp cận tốt nhất. Nó dễ dàng sử dụng lại trong tương lai và
cho phép các ứng dụng tương tự được thiết kế một cách nhanh chóng.
SOA là tư duy hệ thống ưu việt cho giai đoạn công nghệ hiện nay. Vậy
làm cách nào để triển khai tư duy đó vào các ứng dụng thực tế? Đó là vấn đề về
công nghệ. Phần tiếp theo sẽ trình bày một công nghệ có thể nói là thể hiện tốt
nhất cho SOA hiện nay – Web Service.
15
2.2. SOA và ứng dụng Web Service
2.2.1. Giới thiệu về Web service
Đặc điểm chính của SOA là tách rời phần giao tiếp với phần thực hiện
dịch vụ. Điều này cho phép chúng ta liên tưởng đến một công nghệ được đề cập
nhiều hiện nay: Web Service. Web Service cho phép truy cập thông qua định
nghĩa giao thức-và-giao tiếp.

Về cơ bản, SOA là kiến trúc phần mềm phát xuất từ định nghĩa giao tiếp
và xây dựng toàn bộ mô hình ứng dụng như là mô hình các giao tiếp, hiện thực
giao tiếp và phương thức gọi giao tiếp. Giao tiếp là trung tâm của toàn bộ triết lý
kiến trúc này. Thực ra, tên gọi “kiến trúc định hướng giao tiếp” thích hợp hơn
cho SOA. Dịch vụ và module phần mềm nghiệp vụ được truy cập thông qua giao
tiếp, thường theo cách thức yêu cầu - đáp trả. Ngay cả với yêu cầu dịch vụ một
chiều thì nó vẫn là yêu cầu trực tiếp có chủ đích từ một phần mềm này đến một
phần mềm khác. Một tương tác định hướng dịch vụ luôn bao hàm một cặp đối
tác: nguồn cung cấp dịch vụ và khách hàng sử dụng dịch vụ.
Web service là một công nghệ triệu gọi từ xa có tính khả chuyển cao nhất
hiện nay: mang tính độc lập nền, độc lập ngôn ngữ. Với web service, các chương
trình viết bằng các ngôn ngữ lập trình khác nhau, chạy trên các nền tảng (phần
cứng & OS) khác nhau đều có thể trao đổi với nhau thông qua công nghệ này.
Tầng transport của Web Service thường dùng những công nghệ truyền tải phổ
dụng nhất như HTTP, SMPT (tuy hiện nay thường chỉ dùng HTTP) nên khả
năng phân tán trên diện rộng như Internet là rất thuận tiện. Mà SOA là kiến trúc
kết nối lỏng lẻo các service và các service đó tương tác với nhau thông qua Web
service. Do đó, kiến trúc SOA sử dụng Web service như là một giải pháp chính
để giải quyết vấn đề tích hợp nghiệp vụ giữa các hệ thống. Và đặc biêt trong quá
trình internet hóa mọi dịch vụ hiên nay, thì triển khai dịch vụ bằng Web service
có thể nói là điều “tất nhiên”.
2.2.2. SOA và Web service trong vấn đề tích hợp hệ thống
Web services là những thành phần ứng dụng, giao tiếp bằng cách sử dụng
giao thức mở chứa đựng và mô tả chính nó, có thể được phát hiện bằng cách sử
dụng UDDI và có thể được sử dụng bởi ứng dụng khác khác nhau. Web service
hoạt động dựa trên nền tảng là XML và HTTP. Trong đó: XML cung cấp một
ngôn ngữ mà có thể được sử dụng giữa các nền tảng và ngôn ngữ lập trình khác
16
nhau và vẫn thể hiện thông điệp và chức năng phức tạp; Các giao thức HTTP là
giao thức Internet được sử dụng nhiều nhất.

Web Service với mô hình hoạt động 3 bên tương ứng với mô hình hoạt
động của SOA, sử dụng một bộ các chuẩn công nghệ. Đó là:
- XML: Chuẩn định dạng dữ liệu và thông điệp.
- SOAP: Giao thức dựa trên XML và HTTP cho phép giao tiếp trên môi
trường mạng.
- WSDL: Ngôn ngữ mô tả Web Service theo chuẩn.
- UDDI: Một bộ khung chuẩn cho phép mô hình hóa và cụ thể hóa các Web
Service đã được đăng ký.
Hình 2.5: Mô hình hoạt động của web service
Hoạt động của mô hình Web Service như sau:
- Service Provider: Dùng Web Services Description Language (WSDL) để
mô tả dịch vụ mà mình có thể cung cấp và xuất bản (đăng ký) với Service
Broker (tương tự với Service Registry trong SOA).
- Service Broker: Lưu trữ thông tin về các service được cung cấp bởi các
Service Provider. Cung cấp chức năng tìm kiếm hỗ trợ Service Requester
(Service Consumer trong SOA) trong việc xác định Service Provider phù
hợp. Thành phần chính của Service Broker là các kho lưu trữ được mô tả
bởi Universal Discovery, Description, and Integration (UDDI).
17
- Service Requester: Dùng WSDL để đặc tả nhu cầu sử dụng (loại service,
thời gian sử dụng, resource cần thiết, mức giá ) và gởi cho Service
Broker. Bằng việc sử dụng UDDI và chức năng tìm kiếm của Service
Broker, Service Requester có thể tìm thấy Service Provider thích hợp.
Ngay sau đó, giữa Service Requester và Service Provider thiết lập kênh
giao tiếp sử dụng SOAP để thương lượng giá cả và các yếu tố khác trong
việc sử dụng service.
Như vậy, sử dụng Web Service cho việc tích hợp SOA giúp ứng dụng đạt được
những mục tiêu theo nguyên lý SOA:
- Thông qua các chuẩn công nghiệp. Các chuẩn này gồm Web Service với
các định nghĩa thành phần chuẩn công nghiệp cho XML.

- Sử dụng được những phần mềm thương mại đã xây dựng sẵn nhiều nhất
có thể. Phần mềm phải cung cấp các kênh giao tiếp (adapter) cho Web
service.
- Đóng gói các ứng dụng cho phép kế thừa với giao diện đúng theo chuẩn
công nghệ chung. Các Web Service đều phải được sử dụng thông qua giao
diện này.
- Sử dụng dữ liệu và tầng dữ liệu độc lập nằm giữa các ứng dụng để ẩn đi
cấu trúc dữ liệu bên dưới. Mọi tương tác với dữ liệu đều phải thông qua
Web Service.
Làm thế nào Web Service có thể đạt được những mục tiêu trên? Chúng ta
sẽ đi vào xem xét chi tiết các công nghệ và kỹ thuật thực hiện của Web Service.
2.2.3. Cấu trúc và chi tiết các thành phần của Web service
Nền tảng của các dich vụ web gồm các yếu tố: XML (eXtensible Markup
Language), SOAP (Simple Object Access Protocol), UDDI (Universal
Description, Discovery and Integration), WSDL (Web Services Description
Language).
18
Hình 2.6: Các thành phần của Web service
2.2.3.1. XML - eXtensible Markup Language
XML là một chuẩn mở do W3C đưa ra và được phát triển từ SGML. XML
là một ngôn ngữ mô tả văn bản với cấu trúc do người sử dụng định nghĩa, nó
được sử dụng để định nghĩa các thành phần dữ liệu trên trang web và cho những
tài liệu B2B.
Về hình thức, XML hoàn toàn có cấu trúc thẻ giống như ngôn ngữ HTML,
nhưng không tuân theo một đặc tả quy ước như HTML, người sử dụng hay các
chương trình có thể quy ước định dạng các tag XML để giao tiếp với nhau. Trong
khi HTML định nghĩa thành phần được hiển thị như thế nào thì XML lại định
nghĩa những thành phần đó chứa cái gì. Với XML, các thẻ có thể được lập trình
viên tự tạo ra trên mỗi trang web và được chọn là định dạng thông điệp chuẩn bởi
tính phổ biến và hiệu quả mã nguồn mở.

Do Web Service là sự kết hợp của nhiều thành phần khác nhau nên nó sử
dụng các tính năng và đặc trưng của các thành phần đó để giao tiếp. Vì vậy XML
là công cụ chính để giải quyết vấn đề này và là kiến trúc nền tảng cho việc xây
dựng một Web Service, tất cả dữ liệu sẽ được chuyển sang định dạng thẻ XML.
Khi đó, các thông tin mã hóa sẽ hoàn toàn phù hợp với các thông tin theo chuẩn
của SOAP hoặc XML-RPC và có thể tương tác với nhau trong một thể thống
nhất.
Ví dụ về tài liệu XML:
<?xml version="1.0" encoding = “UTF-8” ?>
19
<DOCUMENT>
<GREETING>
Xin Chào XML
</GREETING>
<MESSAGE>
Đây là chương trình XML đầu tiên
</MESSAGE>
</DOCUMENT>
Tài liệu XML chỉ chứa dữ liệu, không nhắc đến cách trình bày. Điều này
có ý nghĩa đó là một XML parser, không cần phải hiểu ý nghĩa của các thẻ. Nó
chỉ cần tìm các thẻ và xác định đây là một tài liệu XML hợp lệ vì trình duyệt
không cần phải hiểu ý nghĩa của các thẻ, nên người dùng có thể tạo ra các thẻ bất
kì để sử dụng.
2.2.3.2. SOAP (Simple Object Access Protocol)
Là một giao thức dựa trên XML để cho phép các ứng dụng trao đổi thông
tin qua HTTP, được thiết kế đơn giản và dễ mở rộng. Đơn giản, SOAP là một
giao thức để truy cập một Web Service, một giao thức truyền thông hay một định
dạng để gửi tin nhắn. Tất cả các thông điệp SOAP đều được mã hóa sử dụng
XML, cho nên không bị ràng buộc bởi bất kỳ ngôn ngữ lập trình nào hoặc công
nghệ nào. Vì những đặc trưng này, nó không quan tâm đến công nghệ gì được sử

dụng để thực hiện miễn là người dùng sử dụng các message theo định dạng
XML. Tương tự, service có thể được thực hiện trong bất kỳ ngôn ngữ nào, miễn
là nó có thể xử lý được những message theo định dạng XML.
Hình 2.7: Mô hình gửi nhận thông điệp qua SOAP
Bộ khung của một thông điệp SOAP bao gồm:
- Protocol Header: Cho biết thông tin về các chuẩn giao thức được sử dụng.
20
- SOAP Envelop: Phần chính của thông điệp. Thông tin chính của message
bao gồm:
• SOAP Header: Chứa các SOAP header.
• SOAP body: Thông tin về name và data được đặc tả dưới dạng
XML. Ngoài ra còn có trường lỗi được dùng để gởi các web service
exception.
Hình 2.8: Cấu trúc của một SOAP message
Ví dụ:
<?xml version="1.0"?>
<soap:Envelope
xmlns:soap=" />envelope"
soap:encodingStyle=" />encoding">
<soap:Header>

</soap:Header>
<soap:Body>

<soap:Fault>

21
</soap:Fault>
</soap:Body>
</soap:Envelope>

2.2.3.3. WSDL (Web Service Discription Language)
WSDL là một ngôn ngữ dựa trên XML dùng để mô tả giao diện của Web
Service. Nó cung cấp một cách thức chuẩn để mô tả các kiểu dữ liệu được truyền
trong các thông điệp thông qua Web Service, các hoạt động được thực hiện trên
các thông điệp và ánh xạ các hoạt động này đến giao thức vận chuyển.
• WSDL dựa trên XML.
• WSDL được dùng để mô tả các Web Service .
• WSDL được dùng để xác định vị trí Web Service.
• WSDL là một chuẩn của W3C.
WSDL định nghĩa cách mô tả Web Service theo cú pháp tổng quát của
XML, bao gồm các thông tin:
• Tên dịch vụ.
• Giao thức và kiểu mã hóa sẽ được sử dụng khi gọi các hàm của Web
Service.
• Loại thông tin: thao tác, tham số, những kiểu dữ liệu (có thể là giao
diện của Web Service cộng với tên cho giao diện này).
Một WSDL hợp lệ gồm hai phần:
• Phần giao diện: mô tả giao diện và giao thức kết nối.
• Phần thi hành: mô tả thông tin để truy xuất service.
Cả hai phần này sẽ được lưu trong 2 tập tin XML:
• Tập tin giao diện service (cho phần 1).
• Tập tin thi hành service (cho phần 2).
22
Hình 2.9: Cấu trúc WSDL
 Tập tin giao diện - Service Interface
Một tài liệu WSDL mô tả một Web Service gồm các thành phần chính:
Element Defines
<types> Các kiểu dữ liệu được sử dụng bởi các Web Service
<message> Các thông điệp được sử dụng bởi các Web Service
<portType> Các hoạt động được thực hiện bởi các Web Service

<binding> Các giao thức truyền thông được sử dụng bởi các Web Service
Cấu trúc một tài liệu WSDL sẽ như sau:
<definitions>
<types>
definition of types
</types>
<message>
definition of a message
</message>
<portType>
definition of a port
</portType>
<binding>
definition of a binding
23

×