Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

tăng cường hiệu lực quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu masime

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (406.79 KB, 66 trang )

Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
Tăng cường hiệu lực quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty cổ
phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
LỜI MỞ ĐẦU
rong những năm qua, thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa đa phương
hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại và thực hiện chủ trương
khuyến khích xuất khẩu của Đảng và Nhà nước, hoạt động xuất khẩu của nước ta có
những bước tiến vượt bậc. Xuất khẩu đã đóng góp một vai trò quan trọng trong tăng
trưởng kinh tế liên tục trong những năm qua.
T
Để khuyến khích xuất khẩu, Đảng và Nhà nước đã có những chính sách và biện
pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của đất nước. Trong đó, quản trị tài chính
xuất khẩu là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện nâng cao hiệu quả
xuất khẩu. Tuy nhiên, quản trị tài chính cho xuất khẩu lại là một vấn đề không dễ thực
hiện. Các doanh nghiệp còn non yếu trong nghiệp vụ. Một số chính sách và giải pháp
liên quan thì đã tỏ ra lỗi thời hoặc mất tác dụng, không phù hợp với thông lệ quốc tế,
với sự phát triển của các ngân hàng và tổ chức tài chính. Tại mỗi doanh nghiệp, để
tăng cường hiệu lực quản trị tài chính xuất khẩu không chỉ đòi hỏi nỗ lực của từng
doanh nghiệp nói chung mà còn cần một hế thống chính sách đúng đắn của Đảng và


Nhà nước. Chính vì vậy, nghiên cứu hoàn thiện và tăng cường hiệu lực quản trị tài
chính có ý nghĩa đặc biệt quan trong cả về thực tiễn và lý luận.
Nhận thức được tầm quan trong của công tác quản trị tài chính xuất khẩu, sau
một thời gian nghiên cứu thực tế tại Công ty Cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu
Masimex, em đã quyết định chọn đề tài: “ Tăng cường hiệu lực quản trị tài chính
xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex”.
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về quản trị tài chính xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư
và xuất nhập khẩu Masimex.
Chương III: Một số giải pháp và đề xuất, kiến nghị nhằm tăng cường hiệu lực
quản trị tài chính xuất khẩu tại công ty cổ phần vật tư và xuất nhập khẩu Masimex.
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
Luận văn được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của PGS. TS Nguyễn Văn
Thanh và sự giúp đỡ của toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty, đặc biệt là cán
bộ nhân viên phòng XNK I. Em xin gửi lời cảm ơn chân thành.
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
4
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
CHƯƠNG I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ
TÀI CHÍNH XUẤT KHẨU
1.1. Khái niệm, đặc trưng quản trị tài chính xuất khẩu
1.1.1. Khái niệm, vai trò quản trị tài chính xuất khẩu
1.1.1.1. Khái niệm chung
Bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh cũng đều phải
có lượng vốn tiền tệ ứng trước nhất định để mua các yếu tố đầu vào cần thiết như máy
móc, thiết bị, công cụ, lao động, nguyên liệu, năng lượng, dịch vụ. Lúc này doanh

nghiệp tiêu tiền và tiền đi ra khỏi doanh nghiệp. Khi có sản phẩm, dịch vụ bán ra trên
thị trường, doanh nghiệp thu được tiền về và sử dụng vào mục đích tiếp tục sản xuất
kinh doanh và phát triển thị trường. Quá trình sản xuất và kinh doanh của doanh
nghiệp được thực hiện liên tục không ngừng làm cho việc mua bán, việc tiêu tiền và
thu tiền diễn ra trong doanh nghiệp một cách thường xuyên và đan xen lẫn nhau. Điều
này đòi hỏi cần hoạch định các giải pháp tối ưu trong từng giai đoạn để đưa ra các
quyết định đầu tư hiệu quả, đưa ra các quyết định hợp lý với chi phí sử dụng vốn thấp,
đảm bảo năng lực thanh toán của doanh nghiệp với nguồn tài chính tối ưu - thoả mãn
đủ về số lượng, đúng về thời gian. Vì vậy bất cứ một doanh nghiệp hoạt động sản xuất
kinh doanh nào đều cần có nhà quản trị tài chính doanh nghiệp và quản trị tài chính là
một bộ phận quan trọng trong doanh nghiệp
Quản trị tài chính doanh nghiệp bao gồm tổng thể các hoạt động của nhà quản
trị trong quá trình nghiên cứu, dự báo, phân tích, ra các quyết định tài chính và tổ
chức thực hiện các quyết định đó nhằm thực hiện các mục tiêu đã được xác định.
Trong đó, tài chính doanh nghiệp là hệ thống các quan hệ kinh tế biểu hiện dưới
hình thức các quan hệ tài chính phát sinh trong các hoạt động tạo lập, phân phối và sử
dụng các quỹ tiền tệ phục vụ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm thực
hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp ngoại thương thì các quan hệ
tài chính đó phát sinh trong quá trình mua bán, trao đổi hàng hoá trong nước và ngoài
nước để thực hiện mục tiêu là đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Hiện nay, chính
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
5
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
phủ cũng như các doanh nghiệp khuyến khích xuất khẩu để giảm nhập siêu và tăng
nguồn doanh thu cho đất nước cũng như doanh nghiệp. Và quản trị tài chính xuất khẩu
cũng là một trong những giải pháp để tăng cường xuất khẩu của doanh nghiệp.
Quản trị tài chính xuất khẩu bao gồm các hoạt động tổng hợp, phân tích, đánh
giá thực trạng về tài chính cho xuất khẩu và đưa ra những quyết định về mặt tài chính
ngắn hạn cũng như dài hạn cho xuất khẩu của doanh nghiệp.

Thực chất của việc quản trị tài chính xuất khẩu là hoạch định, phân tích, lựa chọn
và đưa ra quyết định, thực hiện tài trợ xuất khẩu hợp lý. Tài trợ xuất khẩu là một bộ
phận của tài trợ ngoại thương (hay còn gọi là tài trợ thương mại quốc tế). Tài trợ xuất
khẩu nhằm vào mục đích là tìm kiếm nguồn tài chính, nguồn vốn để thực hiện hoạt
động xuất khẩu. Hiện nay ở Việt Nam, tài trợ xuất khẩu chủ yếu được cung cấp bởi
các ngân hàng thương mại. Hình thức tài trợ xuất khẩu của chính phủ còn rất nhiều
hạn chế và doanh nghiệp ít có cơ hội tiếp cận.
1.1.1.2. Vai trò quản trị tài chính xuất khẩu
- Quản trị tài chính xuất khẩu trong doanh nghiệp phải tiến hành phân tích và đưa
ra một cơ cấu nguồn vốn tài trợ xuất khẩu tối ưu cho doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
- Quản trị tài chính xuất khẩu phải thiết lập một chính sách phân chia lợi nhuận một
các hợp lý đối với doanh nghiệp, vừa bảo vệ được quyền lợi của chủ doanh nghiệp và các
cổ đông, vừa đảm bảo được lợi ích hợp pháp, hợp lý cho người lao động; xác định phần
lợi nhuận để lại từ sự phân phối này là nguồn quan trọng cho phép doanh nghiệp mở rộng
hoạt động xuất khẩu hoặc đầu tư vào những mặt hàng xuất khẩu mới, thị trường mới, tạo
điều kiện cho doanh nghiệp có mức độ tăng trưởng cao và bền vững.
- Quản trị tài chính xuất khẩu trong doanh nghiệp còn có nhiệm vụ kiểm soát
việc sử dụng cả các tài sản có liên quan đến xuất khẩu trong doanh nghiệp, tránh tình
trạng sử dụng lãng phí, sai mục đích.
1.1.2. Nội dung quản trị tài chính xuất khẩu
1.1.2.1. Các loại hình tài trợ xuất khẩu
Ở góc độ thực hành nghiệp vụ, hoạt động quản trị tài chính xuất khẩu hay tài trợ
xuất khẩu có thể tiếp cận dưới hai hình thức tuỳ theo nhu cầu của doanh nghiệp cần tài
trợ. Đó là tài trợ trước khi giao hàng và tài trợ sau khi giao hàng.
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
6
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
Các loại hình dịch vụ tài trợ trước khi giao hàng nhằm tài trợ nhu cầu vốn lưu
động của nhà xuất khẩu trong việc thực hiện đơn đặt hàng của người mua nước ngoài

hay hợp đồng ngoại thương. Thông thường, nhu cầu tài trợ của nhà xuất khẩu bao gồm
các khoản mục chi phí cho tài sản lưu động tăng lên, chẳng hạn như giá trị vật tư
nguyên liệu, sản phẩm dở dang và dự trữ thành phẩm. Trong một số trường hợp, đó có
thể là tài trợ các khoản nợ ngắn hạn cho nhà cung ứng để đổi lấy các tài sản lưu động
ấy, hoặc tài trợ các khoản tiền hàng phải thu của nhà xuất khẩu từ khi thực hiện điều
kiện thanh toán đến lúc thực sự nhận tiền chuyển đến của người mua nước ngoài.
Các loại hình dịch vụ tài trợ sau khi giao hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn lưu
động của nhà xuất khẩu sau khi giao hàng, thường là tài trợ các khoản phải thu từ việc
bán hàng có thời hạn của nhà xuất khẩu. Ngoài ra, tuỳ theo cơ chế thanh toán thoả
thuận áp dụng giữa hai bên mua bán, việc ngân hàng tài trợ người mua thanh toán tiền
hàng cho nhà xuất khẩu cũng được xem là thuộc loại hình tài trợ sau khi giao hàng.
1.1.2.1.a. Các loại tài trợ trước khi giao hàng
Tài trợ trước khi giao hàng có rất nhiều dạng thức khác nhau trong thực tế, song
về cơ bản đó là loại hình tài trợ nhà xuất khẩu trong giai đoạn thu mua nguồn hàng, vật
tư nguyên liệu để sản xuất và tiến hành giao hàng trong một thương vụ độc lập.
A/ Tài trợ cho từng thương vụ độc lập
Đây là loại tài trợ trên cơ sở một đơn đặt hàng, một hợp đồng ngoại thương hay
một L/C cụ thể đã được mở. Quyết định cho vay phụ thuộc chủ yếu vào tính hiệu quả
của thương vụ và nguồn thu hồi nợ vay cũng chính từ nguồn thu của thương vụ này.
Đây là loại tài trợ xuất khẩu trước khi giao hàng chủ yếu.
Doanh nghiệp xuất khẩu để có thể được tài trợ theo hình thức này cần đáp ứng
các yêu cầu:
- Nhà xuất khẩu hoặc nhà cung ứng cần phải có một đơn đặt hàng hoặc một cam
kết mua hàng chắc chắn từ nhà nhập khẩu nước ngoài, trong khi đó hàng hoá chưa
được sản xuất hoặc chưa được thu mua từ nhà sản xuất.
- Đối với những doanh nghiệp khách hàng mới hay những thương vụ kinh doanh
mặt hàng mới, để được ngân hàng tài trợ, doanh nghiệp thường phải xuất trình một
L/C đã được mở bởi một ngân hàng có uy tín, hoặc L/C đã được xác nhận của một
ngân hàng có uy tín khác.
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5

7
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
Vấn đề đặt ra là, trong thực tế những nhà sản xuất không những sản xuất hàng hoá
dành cho mục đích xuất khẩu mà còn tiêu thụ nội địa, do đó việc thẩm định phương án
xin vay xuất khẩu, xem xét bảo đảm tiền vay cho thương vụ, giám sát mục đích sử dụng
vốn vay và khống chế nguồn thu trả nợ trở nên rất phức tạp và khó kiểm soát.
Mức tài trợ thông thường được khống chế theo tỷ lệ phần trăm giá trị đơn đặt
hàng, và thường xoay quanh từ 70% đến 80%. Việc doanh nghiệp xuất khẩu tham gia
thương vụ với một tỷ lệ vốn nhất định là để gắn trách nhiệm của doanh nghiệp xuất
khẩu với thương vụ được thực hiện một cách hiệu quả, tạo khả năng hoàn trả vốn vay
cho ngân hàng. Hiện nay ở hầu hết các nước, kể cả Việt Nam, tuỳ thuộc vào yêu cầu
của doanh nghiệp mà việc tài trợ cho xuất khẩu có thể bằng nội tệ hay ngoại tệ. Trong
thực tế, nhiều hợp đồng tài trợ xuất khẩu sử dụng đồng tiền mà nhà xuất khẩu sẽ thu từ
hợp đồng xuất khẩu, điều này sẽ giúp ngân hàng và doanh nghiệp giảm được rủi ro tỷ
giá và không cần đến các thị trường phái sinh, ví dụ như, doanh nghiệp xuất khẩu vay
ngoại tệ, sau đó bán giao ngay lấy nội tệ để trang trải các chi phí trước khi giao hàng.
Doanh nghiệp xuất khẩu sẽ dùng ngoại tệ thu được thanh toán hàng xuất để trả cho
ngân hàng. Để khuyến khích xuất khẩu, chính phủ một số nước quy định tỷ lệ tối thiểu
trong tổng số dư nợ của một ngân hàng phải dành cho xuất khẩu. Những quy định này
thường chỉ rõ đối tượng khách hàng mục tiêu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Vấn đề bảo đảm tiền vay trong xuất khẩu đối với doanh nghiệp có thể rất đa
dạng, bao gồm:
- Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản như: cầm cố, thế chấp bằng tài sản của
doanh nghiệp vay, bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ ba, bảo đảm bằng tài sản hình
thành từ vốn vay.
- Biện pháp bảo đảm tiền vay phi tài sản: bảo đảm bằng tín chấp, cho vay theo
chỉ định của chính phủ.
B/ Tín dụng hạn mức trước khi giao hàng
Điểm khác biệt chủ yếu giữa tín dụng hạn mức và tín dụng thương vụ là: tín dụng

hạn mức không bị hạn chế vào một thương vụ cụ thể mà nhằm tài trợ cho một chuỗi
các thương vụ liên tiếp trong một thời hạn nhất định, thường tối đa là 2 năm.
Hạn mức tín dụng ở đây được hiểu là mức dư nợ tối đa được duy trì trong một
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
8
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
thời gian nhất định mà tổ chức tín dụng và doanh nghiệp xuất khẩu thoả thuận trong
hợp đồng tài trợ xuất khẩu. Tuỳ theo thoả thuận, trong một số trường hợp hạn mức tín
dụng được rút xuống dần trong từng thời kỳ tài trợ. Hoặc trong thời hạn hợp đồng tín
dụng hạn mức, doanh nghiệp xuất khẩu có thể vừa rút vốn, vừa trả nợ tiền vay. Hoặc
ngân hàng có thể quy định rằng khoản rút vốn lần đầu phải được hoàn trả đầy đủ trước
khi rút vốn lần tiếp theo và cứ tiếp tục như vậy cho đến hết thời hạn hợp đồng. Về thực
chất, cách giải ngân này thuộc loại tín dụng tuần hoàn trong thời hạn hợp đồng. Trong
thưc tế, hạn mức tín dụng chỉ được cấp cho những doanh nghiệp có hồ sơ kinh doanh
xuất khẩu tốt, chấp hành nghiêm chỉnh lịch trình trả nợ. Đồng thời, hình thức này rất
phù hợp với những hoạt động xuất khẩu có thị trường ổn định, thường xuyên, không
mang tính thời vụ.
C/ Tài trợ thương vụ tự thanh tiêu
Với loại tài trợ này, ngân hàng đóng vai trò như một đối tác tài chính của doanh
nghiệp xuất khẩu. Ngân hàng không những chia sẻ rất nhiều yếu tố rủi ro với doanh
nghiệp, mà còn bám rất sát tiến trình giao dịch, từ lúc thu mua nguyên liệu ban đầu
đến khi đưa vào sản xuất, lưu kho, vận chuyển hàng cho đến khi được thanh toán.
Về thuật ngữ, loại tài trợ này có tên gọi là “tài trợ tự thanh tiêu” bởi vì việc thu
hồi nợ gốc và lãi vay của ngân hàng tuỳ thuộc hoàn toàn vào việc thanh toán của người
mua. Nói cách khác, trong loại hình tài trợ này, ngân hàng ít dựa vào vai trò của bảo
đảm tín dụng như đối với các loại hình tài trợ khác. Thay vào đó, ngân hàng phải giám
sát quá trình thương vụ chặt chẽ để đảm bảo an toàn và khả năng thu hồi vốn và lãi tài
trợ. Ngân hàng cần liên kết với doanh nghiệp xuất khẩu để xác định cấu trúc giao dịch
tài trợ sao cho thích hợp nhất. Điều này không chỉ bao hàm bản thân phương thức tài

trợ, mà còn là các công cụ thanh toán, cơ chế chống đỡ rủi ro (như bảo lãnh và bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu), các kỹ thuật bổ trợ về đánh giá tín nhiệm người mua,
marketing, quy trình báo cáo, v.v
Loại hình tài trợ này thích hợp đối với các thương vụ xuất khẩu những mặt hàng
phi truyền thống, theo đó mức cầu hàng hoá trên thị trường quốc tế tuy mạnh nhưng
doanh nghiệp xuất khẩu còn non yếu (do mới thành lập hoặc khó khăn về nguồn vốn
kinh doanh). Khi xem xét tài trợ loại này, ngân hàng cần khẳng định về tiềm năng
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
9
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
vững chắc và triển vọng tăng trưởng của doanh nghiệp xuất khẩu cùng mặt hàng xuất
khẩu, đồng thời ngân hàng cũng phải sẵn sàng chia sẻ rủi ro và tận lực hỗ trợ thương
vụ đi đến thành công cuối cùng. Điều đó đòi hỏi sự hiểu biết rõ ràng về nhau giữa
ngân hàng và doanh nghiệp, sự cộng tác minh bạch và đầy đủ từ phía doanh nghiệp,
cùng thiện chí từ hai phía trong khi cộng tác.
Tại các nước dựa vào tăng trưởng xuất khẩu để phát triển, tài trợ thương vụ tự thanh
tiêu đã chứng tỏ là loại hình tài trợ năng động và hiệu quả nhất, bởi vì nó kết hợp được
các tiềm năng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp non trẻ, rất năng động và sáng
tạo nhưng thiếu vốn, với các tổ chức tài chính dồi dào vốn và giàu kinh nghiệm.
D/ Tài trợ ứng trước
Hoạt động xuất khẩu và quan hệ thương mại quốc tế ở các nước đang phát triển
thường là lĩnh vực mới mẻ và chưa có bề dày truyền thống. Do vậy, ngân hàng ở
những nước này có thể chưa đạt đến những kỹ thuật tài trợ tinh vi hàm ẩn trong các
loại hình tài trợ trình bày ở trên. Khi đó, dạng thức tín dụng xuất khẩu ngắn hạn thông
thường là tín dụng ứng trước có bảo đảm bằng bất kỳ loại tài sản nào có thể dùng làm
bảo được của doanh nghiệp xuất khẩu hoặc thương nhân, kể cả tài sản cá nhân hay
hàng hoá.
Với loại tài trợ này, ngân hàng không phải băn khoăn nhiều về bản chất và các
chi tiết của giao dịch xuất khẩu được tài trợ. Lý do có thể là vì ngân hàng quá ít kinh

nghiệm nên không thể đóng vai trò tư vấn cho doanh nghiệp vay, hoặc vì doanh
nghiệp không yêu cầu ngân hàng nhúng tay vào giao dịch. Thực tế là các ngân hàng có
thể chỉ quan tâm đến chất lượng tài sản được dùng làm bảo đảm món vay và hồ sơ tín
dụng của doanh nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp có thể yêu cầu ngân hàng đóng vai trò
là ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng nhận tiền thanh toán nếu giao dịch bằng L/C.
E/ Tài trợ thấu chi
Tương tự loại hình tài trợ ứng trước có bảo đảm, tài trợ thấu chi dạng cổ điển là
một trong những dạng thức tín dụng xuất khẩu ngắn hạn đơn giản nhất tại các nước
đang phát triển có nền ngoại thương chưa mạnh. Theo đó, ngân hàng cho phép doanh
nghiệp xuất khẩu có thể chi vượt số dư tài khoản của mình trong một giới hạn xác
định, gọi là hạn mức tài trợ thấu chi, và có sự theo dõi của ngân hàng. Loại tài trợ này
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
10
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
có thể cấp cho doanh nghiệp trong thời hạn từ vài tháng đến một năm. Vào cuối thời
hạn tài trợ, doanh nghiệp có thể vay bồi hoàn đầy đủ. Bảo đảm tín dụng thường là tài
sản thế chấp bất kỳ mà doanh nghiệp có thể có được. Ngân hàng không tham gia vào
bất cứ khía cạnh nào trong các giao dịch của doanh nghiệp xuất khẩu, trừ việc thực
hiện vai trò ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng nhận tiền thanh toán trong giao dịch
L/C hoặc thanh toán bù trừ.
G/ Bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Để khuyến khích phát triển xuất khẩu, chính phủ các nước thường đề ra một số
biện pháp ưu đãi dành cho giới kinh doanh xuất khẩu, đặc biệt là cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ và các nhà sản xuất những mặt hàng phi truyền thống. Những biện pháp
này có thể là các chương trình bảo hiểm và bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, hoặc bảo lãnh
rủi ro chính trị và rủi ro thương mại của các tổ chức chuyên nghiệp nằm giữ nhằm giúp
ngân hàng mạnh dạn hơn trong việc tài trợ xuất khẩu cho những doanh nghiệp chưa
hội đủ điều kiện an toàn. Chẳng hạn như một số doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc
yêu cầu ngân hàng tài trợ, không phải vì năng lực kinh doanh tồi hoặc sản phẩm không

tốt mà là do doanh nghiệp mới thành lập, còn mới mẻ với môi trường và tài trợ kinh
doanh, hoặc do doanh nghiệp không có đủ tài sản đảm bảo.
Quy mô và dạng thức bảo lãnh tín dụng xuất khẩu ở mỗi nước đều có những đặc
trưng riêng biệt. Thông thường bảo lãnh được cấp cho các tổ chức tài trợ ở mức nhất
định (khoảng 80%) đối với rủi ro không thanh toán của người mua vì những lý do
chính trị hoặc lý do thương mại.
H/ Tín dụng thương mại: hình thức này được hình thành trong các doanh nghiệp
xuất khẩu khi doanh nghiệp nhận được hàng hóa, dịch vụ của người cung cấp trong
nước nhưng chưa phải trả tiền ngay. Doanh nghiệp có thể sử dụng các khoản tiền này
khi chưa đến kỳ hạn thanh toán như là một nguồn vốn bổ sung để tài trợ cho nhu cầu
vốn trong xuất khẩu cũng như nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Khác với các
khoản nợ tích luỹ, tín dụng thương mại rất linh động về thời hạn thanh toán cũng như
các điều kiện chiết khấu và quy mô tài trợ. Quy mô nguồn vốn tín dụng thương mại
phụ thuộc vào số lượng hàng hoá mua chịu và thời hạn mua chịu của khách hàng. Nếu
giá trị hàng hoá mua chịu càng lớn, thời hạn mua chịu càng dài thì nguồn vốn tín dụng
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
11
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
thương mại càng lớn. Mức độ sử dụng tín dụng thương mại của một doanh nghiệp tuỳ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó chi phí của khoản tín dụng là yếu tố quan trọng.
Trong một số trường hợp, việc sử dụng tín dụng thương mại cũng tiềm ẩn những rủi ro
đối với doanh nghiệp, điều này làm tăng nguy cơ phá sản đối với doanh nghiệp. Ngoài
ra, tín dụng thương mại cho nhà xuất khẩu còn được thể hiện qua việc người nhập
khẩu thanh toán trước một phần tiền hàng, cụ thể đó là:
- Tín dụng thương mại cấp cho nhà nhập khẩu (gọi là tín dụng xuất khẩu) là loại tín
dụng do người xuất khẩu cấp cho người nhập khẩu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Tím
dụng xuất khẩu được cấp dưới hình thức chấp nhận hối phiếu và mở tài khoản.
- Tín dụng thương mại cấp cho người xuất khẩu (gọi là tín dụng nhập khẩu) là
loại tín dụng do người nhập khẩu cấp cho người xuất khẩu để nhập hàng thuận lợi.

Hình thức tồn tại của loại tín dụng nay là tiền ứng trước để nhập hàng. Việc ứng tiền
trước có tính chất khác nhau tùy theo từng trường hợp cụ thể. Nếu người xuất khẩu
thiếu vốn do phải thực hiện các hợp đồng xuất khẩu có kim ngạch lớn thì tiền ứng
trước mang tính chất tín dụng; còn ngược lại, nếu người xuất khẩu không tin vào khả
năng thực hiện hợp đồng của người nhập khẩu mà bắt phải đặt cọc cho việc giao
hàng, tiền ứng trước mang tính chất là vật đảm bảo thực hiện hợp đồng. Khoản
tiền ứng trước được hoàn trả bằng cách khấu trừ dần vào số tiền hàng theo tỷ lệ cố
định hoặc theo tỷ lệ tăng dần hoặc chỉ một lần vào chuyến hàng giao cuối cùng.
1.1.2.1.b. Các loại tài trợ sau khi giao hàng
Các loại hình tài trợ cho nhà xuất khẩu sau khi giao hàng bao gồm các công cụ
phát sinh sau khi hàng hoá đã được gửi cho nhà nhập khẩu nước ngoài. Những nhà
xuất khẩu thường cần đến loại hình tài trợ này khi năng lực tài chính của họ đủ tài trợ
cho mọi nhu cầu vốn lưu động trong quá trình sản xuất, thu mua hàng xuất khẩu,
nhưng thiếu nguồn bù đắp cho các khoản phải thu, nhất là các khoản phải thu từ người
nhập khẩu mua hàng trả chậm có thời hạn vượt quá thời hạn trả chậm thông thường là
30 ngày.
Các công cụ phát sinh sau khi giao hàng làm căn cứ tài trợ cho doanh nghiệp xuất
khẩu bao gồm:
- Bộ chứng từ hàng xuất (theo phương thức nhờ thu hay phương thức tín dụng
chứng từ).
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
12
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
- Hối phiếu đã chấp nhận còn thời hạn.
Tổng quát, các hình thức tài trợ sau khi giao hàng mà ngân hàng có thể cấp cho
doanh nghiệp đó là: chiết khấu các khoản phải thu, ứng trước giá trị hối phiếu nhờ thu,
ứng trước các khoản phải thu và tài sản khác.
* Chiết khấu các khoản phải thu: dựa vào bộ chứng từ hàng xuất, ngân hàng tài
trợ nhà xuất khẩu khoản tiền bằng giá trị hoá đơn trừ đi các loại phí và lãi tài trợ. Lãi

tài trợ được tính theo thời gian chờ đợi đến khi hoá đơn được thanh toán. Nhà xuất
khẩu sẽ nhượng bán cho ngân hàng các công cụ thanh toán (như hối phiếu, lệnh phiếu,
L/C,v.v.) để ngân hàng có thể nhận tiền hàng trực tiếp từ người mua. Trong trường
hợp rủi ro người mua không thanh toán, ngân hàng có quyền truy đòi nhà xuất khẩu
bồi hoàn khoản tài trợ trừ khi ngân hàng thoả thuận tài trợ trước đó là loại tài trợ miễn
truy đòi.
* Ứng trước giá trị hối phiếu nhờ thu: với loại tài trợ này, ngân hàng không chiết
khấu hoá đơn mà ứng trước cho khách hàng mức tài trợ theo tỷ lệ giá trị hoá đơn (tối
đa là 100%, tuỳ theo mức độ rủi ro được cân nhắc). Sau đó, doanh nghiệp xuất khẩu sẽ
hoàn trả nợ vay cho ngân hàng khi nhận được nguồn tiền thanh toán trực tiếp từ người
mua nước ngoài. Bảo đảm cho loại tài trợ ứng trước này thường là các khoản tiền hàng
phải thu của nhà xuất khẩu.
* Ứng trước các khoản phải thu và tài sản khác: loại tài trợ này rất giống với loại
tài trợ trình bày ở trên, ngoại trừ rằng ngân hàng sẽ tài trợ ứng trước cho nhà xuất khẩu
trên cơ sở các khoản phải thu không phải tiền hàng, chẳng hạn như tiền thưởng xuất
khẩu hay tiền hoàn thuế của chính phủ, tiền sang nhượng thương vụ xuất khẩu.
Cụ thể có thể trình bày trong hai phương thức thanh toán bằng L/C và phương
thức chứng từ nhờ thu.
A/ Đối với phương thức L/C
Sau khi gửi hàng, nhà xuất khẩu trình bộ chứng từ hàng xuất cùng với L/C gốc và
đề nghị ngân hàng tài trợ. Sau khi xem xét bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với L/C thì
ngân hàng sẽ mua (chiết khấu) bộ chứng từ. Như vậy, nhà xuất khẩu sẽ được thanh
toán ngay lập tức mà không cần chờ đợi tiền thanh toán từ nhà nhập khẩu.
Thư tín dụng (L/C) luôn là công cụ cực kỳ quan trọng và phổ biến trong các giao
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
13
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
dịch tài trợ ngoại thương ở tất cả các nước trên thế giới. Trong cơ chế giao dịch ngoại
thương hiện nay, L/C thông thường do một ngân hàng phục vụ người nhập khẩu phát

hành trên cơ sở yêu cầu của người nhập khẩu, với các nội dung điều khoản điều kiện
do bên mua đề nghị phù hợp với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đã ký kết với nhà
xuất khẩu. L/C có hiệu lực được gửi đến nhà xuất khẩu, thể hiện một cam kết thanh
toán chắc chắn và có điều kiện của ngân hàng phát hành dành cho người thụ hưởng là
nhà xuất khẩu, rằng ngân hàng này sẽ thanh toán giá trị L/C – cũng chính là giá trị
thương vụ - khi và chỉ khi nhà xuất khẩu đáp ứng phù hợp tất cả các điều khoản quy
định trong nội dung L/C thông qua bộ chứng từ ngoại thương xuất trình. Trong thực tế,
nhiều dạng L/C ra đời nhằm tài trợ vốn lưu động của các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, trong đó có bốn dạng thức thường gặp nhất bao gồm: L/C giáp lưng, tín dụng
ngoại bảng dựa trên L/C, nhượng bán L/C và L/C cho phép chuyển nhượng.
* L/C giáp lưng: được sử dụng khi nhà sản xuất hoặc các đối tác thầu phụ yêu
cầu nhà xuất khẩu thanh toán trước khi nhà xuất khẩu thu được tiền hàng người mua
cuối cùng ở nước ngoài. Doanh nghiệp có thể trình L/C của bên mua cho ngân hàng
của mình và yêu cầu ngân hàng này phát hành một L/C mới cho nhà sản xuất hoặc các
đối tác thầu phụ. L/C mới này là của doanh nghiệp xuất khẩu dành cho nhà sản xuất,
chủ thầu nhưng sử dụng L/C của người mua nước ngoài làm bảo đảm. L/C của doanh
nghiệp xuất khẩu và L/C của bên mua được gọi là L/C giáp lưng.
* Tín dụng ngoại bảng dựa trên L/C: đây là một biến dạng khác của tài trợ bằng
L/C giáp lưng. Bằng các cấp tín dụng ngoại bảng dựa trên L/C gốc, ngân hàng không
sử dụng L/C của bên mua làm bảo đảm, và nhờ vậy giảm được rủi ro nhà xuất khẩu
không hoàn thành hợp đồng ký kết với bên mua. Việc phát hành L/C mới của ngân
hàng sẽ dựa vào uy tín chung của nhà xuất khẩu, và điều này được xem là bổ sung (cấp
thêm) hạn mức tín dụng chung của ngân hàng cấp cho người này. Khi nhà xuất khẩu
thu tiền hàng từ L/C gốc, khoản tiền ấy được dùng để thanh toán dư nợ vay của mình
tại ngân hàng. Khi cấp tín dụng ngoại bảng như thế, ngân hàng rất có thể yêu cầu nhà
xuất khẩu bổ sung vào bảo đảm tín dụng và thường đó là quyền sở hữu hàng xuất khẩu
sẽ giao cho người nhập khẩu.
* Nhượng bán L/C: để nhanh chóng bổ sung vốn lưu động, nhà xuất khẩu có thể
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
14

Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
nhượng bán giá trị L/C gốc do ngân hàng bên mua phát hành. Mọi L/C đều có thể
nhượng bán được mà không cần xin phép ngân hàng bên mua hoặc bất kỳ ai. Việc
nhượng bán L/C gốc rất đơn giản, nhà xuất khẩu chỉ cần thông báo cho ngân hàng yêu
cầu thanh toán một phần hoặc toàn bộ giá trị L/C đó cho một bên thứ ba được chỉ định
(thường là người cung ứng hàng xuất khẩu). Nếu người cung ứng không tin vào tính
xác thực của L/C này, nhà xuất khẩu có thể gửi bản sao cho người cung ứng, với các
chi tiết danh tính hoặc điều kiện chứng từ xoá đi không muốn tiết lộ.
* L/C cho phép chuyển nhượng: Khi nhà xuất khẩu muốn người cung ứng giao
thẳng hàng hoá hoặc vật tư nguyên liệu cho người mua nước ngoài mà không cần
chuyển tiếp thông qua mình, nhà xuất khẩu sẽ nghĩ đến việc sử dụng L/C cho phép
chuyển nhượng. Ở đây, nhà xuất khẩu đóng vai trò người trung gian trong giao dịch.
Để L/C có thể chuyển nhượng được phải có sự cho phép của người mua (và ngân hàng
bên mua), theo lối chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ giá trị L/C. Các điều khoản
về thanh toán, các chỉ thị giao hàng, các điều khoản bảo hiểm hàng hoá, ký mã hiệu,
bộ chứng từ xuất trình,… đều giữ nguyên khi chuyển nhượng L/C. Nếu chỉ chuyển
nhượng một phần giá trị L/C, nhà xuất khẩu sẽ chỉ thị ngân hàng thanh toán cho người
cung ứng trong một giới hạn L/C nhất định, phần còn lại của nhà xuất khẩu sẽ được
cân đối bằng các hoá đơn bán hàng.
Căn cứ vào chất lượng bộ chứng từ (bao gồm tính phù hợp với L/C, mặt hàng
xuất khẩu, thị trường, nước nhà nhập khẩu, danh tiếng của ngân hàng mở L/C…) mà
ngân hàng quyết định chiết khấu bộ chứng từ có truy đòi hay miễn truy đòi.
- Chiết khấu bộ chứng từ miễn truy đòi là việc ngân hàng trên cơ sở giá trị bộ
chứng từ hàng xuất, sau khi đã trừ đi lãi suất phát sinh và các chi phí liên quan đến
nghiệp vụ thu tiền từ ngân hàng mở L/C sẽ thanh toán số tiền còn lại cho nhà xuất
khẩu với điều kiện là miễn truy đòi nhà xuất khẩu. Như vậy, ngân hàng đã mua đứt bộ
chứng từ và chịu rủi ro trong trường hợp nước ngoài không thanh toán. Theo quy định
hiện hành, để được Ngân hàng ngoại thương Việt Nam chiết khấu bộ chứng từ theo
điều kiện miễn truy đòi, thì doanh nghiệp xuất khẩu cần thoả mãn các điều kiện sau:

1. L/C trả tiền ngay và cho phép đòi tiền bằng điện.
2. L/C quy định rằng vận đơn lập theo lệnh của ngân hàng mở L/C và toàn bộ
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
15
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
vận đơn gốc được xuất trình qua Ngân hàng Ngoại Thương.
3. Chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều khoản của L/C.
4. Ngân hàng phát hành phải là ngân hàng có uy tín trên thị trường quốc tế,
thường xuyên giao dịch với Ngân hàng Ngoại Thương, thanh toán sòng phẳng.
5. Thị trường truyền thống (nước nhà nhập khẩu).
6. Một số thông tin khác liên quan đến mặt hàng, giá cả trên thị trường của mặt
hàng xuất khẩu vào thời điểm chiết khấu.
7. Thư yêu cầu thanh toán đềnghị chiết khấu miễn truy đòi phải có đầy đủ chữ
ký của Chủ Tài khoản và Kế Toán trưởng (nếu có đăng ký Kế Toán trưởng).
Căn cứ vào điều kiện chiết khấu và tình trạng bộ chứng từ, mà ngân hàng sẽ
quyết định chấp nhận hay từ chối chiết khấu miễn truy đòi.
- Chiết khấu bộ chứng từ có truy đòi là việc ngân hàng trên cơ sở giá trị bộ
chứng từ hàng xuất, sau khi đã trừ đi lãi suất phát sinh và các chi phí liên quan đến
nghiệp vụ thu tiền từ ngân hàng mở L/C sẽ thanh toán số tiền còn lại cho nhà xuất
khẩu với điều kiện là có truy đòi nhà xuất khẩu, nếu ngân hàng không thu được tiền từ
ngân hàng mở L/C. Như vậy, ngoài điều kiện bộ chứng từ hoán hảo thì khả năng thu
được tiền từ bộ chứng từ phụ thuộc vào năng lực tài chính và thiện chí của ngân hàng
mở L/C cũng như luật pháp của nước nhà nhập khẩu (chủ yếu liên quan đến quản lý
ngoại hối và các phán quyết của toà án).
Theo quy định hiện hành, để được Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam chiết
khấu bộ chứng từ theo điều kiện có truy đòi, thì doanh nghiệp xuất khẩu cần thoả mãn
các điều kiện sau:
a/ Đối với L/C trả tiền ngay:
- Ngân hàng phát hành là ngân hàng có uy tín.

- Thị trường truyền thống.
- Doanh nghiệp xuất khẩu phải có tín nhiệm, có quan hệ thanh toán tốt, mở tài
khoản và hoạt động thường xuyên tại Ngân Hàng Ngoại thương.
- Doanh nghiệp xuất khẩu cam kết hoàn trả số tiền Ngân Hàng Ngoại Thương đã
chiết khấu trong trường hợp Ngân hàng trả tiền từ chối thanh toán.
- Thư yêu cầu chiết khấu truy đòi phải có đầy đủ chữ ký của Chủ tài khoản và Kế
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
16
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
toán trưởng (nếu đăng ký Kế toán trưởng).
b/ Đối với L/C trả chậm có thời hạn từ 60 ngày đến 360 ngày:
Ngoài các điều kiện đã nêu trên, việc chiết khấu chỉ được thực hiện khi nhận
được điện chấp nhận thanh toán và/hoặc hối hối phiếu được chấp nhận thanh toán và
ngày đáo hạn bởi Ngân hàng phát hành/Ngân hàng xác nhận L/C.
Căn cứ vào điều kiện chiết khấu và tình trạng bộ chứng từ, mà ngân hàng quyết
định chấp nhận hay từ chối chiết khẩu bộ chứng từ có truy đòi.
B/ Đối với phương thức chứng từ nhờ thu
Bộ chứng từ nhờ thu chỉ được bảo đảm thanh toán bởi chính nhà nhập khẩu, do
đó, nó không được đảm bảo về mặt tín nhiệm, nghĩa là không có ngân hàng bảo đảm
thanh toán. Chính vì vậy, nếu ngân hàng chiết khấu bộ chứng từ nhờ thu, thì chỉ nên
chiết khấu theo điều kiện có truy đòi. Ngoài ra, để tiến hành chiết khấu có truy đòi,
ngân hàng còn phải tin vào khả năng thanh toán của nhà nhập khẩu cũng như kiểm
soát được hàng hoá trước khi được thanh toán.
Một điểm đáng lưu ý là do tài trợ xuất khẩu sau khi giao hàng (hay còn gọi là
chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất) mang tính chất thương lượng mua bán giá trị bộ
chứng từ, do đó không đòi hỏi các biện pháp bảo đảm tín dụng như tài trợ trước khi
giao hàng, mà được bảo đảm bằng chính giá trị bộ chứng từ hàng xuất, do đó cần phân
tích thẩm định chính xác chất lượng bộ chứng từ trước khi quyết định tài trợ.
1.1.2.1.c. Các kỹ thuật tài trợ ngoại thương chuyên biệt

* Bảo lãnh ngân hàng: trong ngoại thương, nhà xuất khẩu và nhà khập khẩu
luôn lo ngại về các rủi ro có thể xảy ra trong quá trình thực hiệ hợp đồng, rủi ro đối với
nhà xuất khẩu đó là khi nhà nhập khẩu sau khi nhận hàng bị mất khả năng thanh toán.
Trong thương mại quốc tế, bảo lãnh ngân hàng được xem là loại hình tài trợ ngoại
thương, nhằm phòng ngừa những tổn thất cho người thụ hưởng bảo lãnh do có sự vi
phạm nghĩa vụ của bên đối tác liên quan. Trong một nghiệp vụ bảo lãnh thường có ít
nhất 3 bên tham gia là: người bảo lãnh (ngân hàng bảo lãnh), người được bảo lãnh,
người thụ hưởng bảo lãnh. Khi cung cấp dịch vụ bảo lãnh ngân hàng theo yêu cầu của
khách hàng (người được bảo lãnh), ngân hàng bảo lãnh bảo đảm với người thụ hưởng
rằng người được bảo lãnh sẽ hoàn thành những nghĩa vụ thoả thuận trong hợp đồng.
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
17
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
Nếu các nghĩa vụ này không được hoàn thành, tổ chức bảo lãnh cam kết thanh toán đề
bù cho người thụ hưởng. Trong lĩnh vực thương mại quốc tế, đối tượng giao dịch được
bảo lãnh là thương vụ mua bán giữa các bên xuất khẩu và nhập khẩu. Tổ chức bảo lãnh
thường là ngân hàng thương mại, trú đóng tại nước của người bảo lãnh. Người được
bảo lãnh và người được thụ hưởng có thể là nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu, tuỳ
theo nghĩa vụ được bảo lãnh. Ví dụ như bảo lãnh hoàn thành hợp đồng do ngân hàng
cấp theo yêu cầu của nhà xuất khẩu, bảo lãnh nghĩa vụ hoàn thành hợp đồng của người
này và cam kết bồi thường cho nhà nhập khẩu trường hợp không hoàn thành nghĩa vụ.
Ngược lại, một bảo lãnh thanh toán lại do ngân hàng cấp theo yêu cầu của người mua,
bảo lãnh nghĩa vụ thanh toán của người này, và cam kết đền bù cho nhà xuất khẩu nếu
bên mua không thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền hàng.
Khác với các công cụ chống đỡ rủi ro không thanh toán như tín dụng thư (L/C),
bảo lãnh hối phiếu, hoặc chấp phiếu ngân hàng, bảo lãnh ngân hàng thường được sử
dụng vào mục đích ngăn chặn và hạn chế tổn thất rủi ro không hoàn thành nghĩa vụ
hợp đồng, mà chủ yếu là nghĩa vụ của nhà xuất khẩu (bên bán) trong việc cung ứng
hàng hoá, dịch vụ, xây dựng công trình, thực hiện dự án quốc tế v.v Bảo lãnh ngân

hàng thường được dùng trong các giao dịch thương mại quốc tế, hoặc trong các dự án
cung ứng hàng hoá, dịch vụ trung – dài hạn, đặc biệt là tư liệu sản xuất, như nhà máy,
dây chuyền công nghệ, hoặc những mặt hàng chiến lược và có doanh số bán cao như
dầu hoả, than đá .v.v… Hầu hết các tổ chức quốc tế như World Bank, hoặc Asian
Development Bank và các tổ chức chủ thầu dự án chính phủ tại các nước đang phát
triển đều thường dùng bảo lãnh ngân hàng trong một phần hoặc trọn gói các giao dịch
mua bán của mình.
* Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: trong lĩnh vực ngoại thương, dịch vụ bảo hiểm
tín dụng xuất khẩu thường do một tổ chức tài chính cung cấp với sự chỉ đạo hoặc đỡ
đầu của chính phủ, hoặc cũng có thể do các công ty bảo hiểm tư nhân thực hiện
Mục tiêu bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chủ yếu là nhằm:
- Bảo vệ nhà xuất khẩu trước rủi ro người mua nước ngoài không thực hiện nghĩa
vụ thanh toán tiền – hàng vì những lý do thương mại và/hoặc chính trị.
- Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá dịch vụ bằng những điều khoản thanh toán
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
18
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
mang tính cạnh tranh.
- Hỗ trợ quá trình thâm nhập của nhà xuất khẩu vào những khu vực thị trường
nước ngoài có rủi ro cao.
- Giúp nhà xuất khẩu và các ngân hàng tài trợ có khả năng linh hoạt hơn về tài
chính trong xử lý các khoản nợ thương mại của nước ngoài.
Theo truyền thống thực hành ở các nước, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thường
được cung ứng dưới hai hình thức:
- Bảo hiểm cho nhà xuất khẩu đối với rủi ro không thanh toán của khách hàng
người mua nước ngoài.
- Nới rộng bảo lãnh cho ngân hàng tài trợ giao dịch xuất khẩu, nhờ vậy mà nhà
xuất khẩu thường được hưởng lãi suất ưu đãi.
* Tài trợ xuất khẩu của chính phủ: do tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở

mỗi quốc gia đều có những loại hình bảo hiểm đặc thù nên hoạt động tài trợ nối kết
với những loại hình bảo hiểm này cũng rất khác biệt theo từng quốc gia. Ở Việt Nam
hiện nay, Quyết định 133/TTg (ban hành 2001) của Thủ tướng Chính phủ về tín dụng
hỗ trợ xuất khẩu được quy định như sau:
- Cho vay xuất khẩu
Đối tượng cho vay: Nhà xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu và nhà nhập khẩu có
hợp đồng nhập khẩu hàng hoá thuộc Danh mục mặt hàng vay vốn tín dụng xuất khẩu
được ban hành kèm theo Nghị định số 151/2006/NĐ-CP về tín dụng đầu tư và tín dụng
xuất khẩu của Nhà nước.
Mức vốn cho vay: tối đa bằng 85% giá trị hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu đã ký
hoặc giá trị L/C đối với cho vay trước khi giao hàng hoặc giá trị giá hối phiếu hợp lệ
đối với cho vay sau khi giao hàng; mức vốn cho vay đối với từng trường hợp do Ngân
hàng Phát triển Việt Nam quyết định.
Thời hạn cho vay: xác định theo khả năng thu hồi vốn phù hợp với đặc điểm của
từng hợp đồng xuất khẩu và khả năng trả nợ của nhà xuất khẩu hoặc nhà nhập khẩu
nhưng không quá 12 tháng; trường hợp cần thiết, thời hạn cho vay trên 12 tháng thì
nhà xuất khẩu mới đủ điều kiện thực hiện hợp đồng xuất khẩu, Ngân hàng Phát triển
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
19
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
Việt Nam đề nghị Bộ Tài chính xem xét, quyết định.
- Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu
Đối tượng bảo lãnh: là nhà xuất khẩu có hợp đồng xuất khẩu hàng hoá thuộc
Danh mục mặt hàng vay vốn tín dụng xuất khẩu. nhưng không vay vốn tín dụng xuất
khẩu của nhà nước.
Mức bảo lãnh, phí bảo lãnh: mức bảo lãnh cho nhà xuất khẩu vay vốn không quá
85% giá trị hợp đồng xuất khẩu hoặc giá trị L/C; Nhà xuất khẩu được bảo lãnh phải trả
phí bảo lãnh bằng 1%/năm trên số dư tín dụng được bảo lãnh.
- Bảo lãnh dự thầu và bảo lãnh thực hiện hợp đồng

Đối tượng bảo lãnh: nhà xuất khẩu tham gia dự thầu thực hiện hợp đồng xuất
khẩu hàng hoá thuộc Danh mục mặt hàng vay vốn tín dụng xuất khẩu.
Mức bảo lãnh, phí bảo lãnh: mức bảo lãnh tối đa không quá 3% giá dự thầu đối với
bảo lãnh dự thầu và tối đa không quá 15% giá trị hợp đồng xuất khẩu đối với bảo lãnh
thực hiện hợp đồng xuất khẩu; nhà xuất khẩu được bảo lãnh phải trả phí bảo lãnh là
0,5%/năm trên giá trị bảo lãnh nhưng tối đa bằng 100 triệu đồng/1 hợp đồng bảo lãnh.
* Factoring quốc tế: Factoring là một dạng tài trợ cổ điển và đã phát triển mạnh
trong giai đoạn nền thương mại quốc tế bùng nổ mạnh nhanh chóng như hiện nay. Khi
nhà xuất khẩu bán hàng theo phương thức ghi sổ, nghĩa là cho phép người mua thanh
toán sau khi giao hàng, sẽ làm phát sinh các khoản phải thu trên sổ sách. Factoring
quốc tế là dịch vụ bao thanh toán cấp cho người mua và người bán ở hai quốc gia khác
nhau sử dụng phương thức thanh toán ghi sổ, D/A hay D/T. Tài trợ Factoring quốc tế,
với các tính năng kỹ thuật đặc thù, có thể giúp nhà xuất khẩu vừa nhận được tiền ngay
khi giao hàng, không phải bận tâm về rủi ro thương mại từ phía bên mua, vừa tiết giảm
khối lượng công việc ghi chép sổ sách và theo dõi quá trình thu nợ của người mua
nước ngoài.
Các chức năng của factoring bao gồm: dịch vụ thu nợ, dịch vụ quản lý sổ sách
bán hàng, dịch vụ credit protection, tài trợ ngắn hạn, dịch vụ tư vấn. Trong đó, tài trợ
ngắn hạn đó là nhà factor thường ứng trước một phần ngay khi mua các khoản phải thu
và áp dụng mức lãi suất chiết khấu đối với khoản ứng trước này, phần còn lại có chức
năng dự phòng rủi ro.
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
20
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
Lợi ích factoring đối với nhà xuất khẩu:
- Cho phép nhà xuất khẩu bán hàng theo phương thức thanh toán ghi sổ và D/A,
nghĩa là người nhập khẩu được cấp tín dụng thương mại, do đó làm tăng năng lực xuất
khẩu và cạnh tranh của nhà xuất khẩu.
- Khả năng mở rộng thị trường xuất khẩu mới, bởi vì rủi ro không thanh toán bởi

nhà nhập khẩu đã được nhà factor nhập khẩu bảo lãnh.
- Do được tài trợ ngay sau khi bán hàng, làm cho việc bán hàng trở nên giống với
trả tiền ngay. Điều này làm tăng khả năng thanh khoản, và tăng vòng quay vốn, từ đó
tăng được doanh số bán hàng.
- Do các công việc như quản lý sổ sách bán hàng, quản lý và thu hồi nợ đã được
chuyển giao cho nhà Factor, nên công ty xuất khẩu có điều kiện tập trung phát triển
khâu tiếp thị và bán hàng, kết quả là tăng được doanh thu và lợi nhuận.
- Giảm được những khoản phải thu khó đòi trên bảng cân đối tài chính.
- Vấn đề bất đồng ngôn ngữ là luật pháp được các nhà Factor chuyên nghiệp xử lý.
* Forfaiting: là dịch vụ tài trợ xuất khẩu thông qua việc chiết khấu các khoản
phải thu xuất khẩu bằng hối phiếu, kỳ phiếu và các công cụ chuyển nhượng khác với
điều kiện miễn truy đòi người bán, tại một mức lãi suất cố định và đến 100% trị giá
của hợp đồng.
Như vậy, trong giao dịch forfaiting, nhà xuất khẩu bán đứt (miễn truy đòi người
bán) các khoản phải thu xuất khẩu cho nhà forfaiter để được nhận tiền ngay, nghĩa là
nhà xuất khẩu đã chuyển hoá từ việc bán hàng chịu (tín dụng thương mại) sang bán
hàng trả tiền ngay. Nhà forfaiter có thể nắm giữ các giấy tờ có giá cho đến khi đáo hạn
(như một khoản đầu tư) hoặc bán lại chúng cho những nhà đầu tư khác với điều kiện
miễn truy đòi.
Lợi ích đối với nhà xuất khẩu:
- Tránh được rủi ro lãi suất và rủi ro tỷ giá.
- Được tài trợ miễn truy đòi.
- Được trả tiền ngay sau khi giao hàng, tạo khả năng thanh khoản, giảm được nhu
cầu vay vốn ngân hàng hoặc tận dụng được cơ hội đầu tư mới hoặc dùng tiền vào mục
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
21
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
đích khác (trả nợ…).
- Nhà xuất khẩu không mất thời gian và tiền bạc vào việc quản lý, giám sát và thu nợ.

- Nhà forfaiter (chứ không phải nhà xuất khẩu) sẽ đảm nhận các rủi ro như: rủi ro
lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro từ nhà bảo lãnh. rủi ro quốc gia nước nhập khẩu.
Tuy nhiên, nhà xuất khẩu cũng gặo những bất lợi như:
- Phải sở hữu những hối phiếu và kỳ phiếu hợp pháp, và phải thu xếp để chúng
được ngân hàng bảo lãnh thanh toán.
- Do nhà forfaiter đảm nhận mọi rủi ro, nên mức hoa hồng phí và mức lãi suất
chiết khấu sẽ cao hơn nhiều so với các hình thức tài trợ khác.
1.1.2.2. Quản trị tài chính xuất khẩu
Nội dung quản trị tài chính xuất khẩu hay tài trợ xuất khẩu tuân theo quy trình
quản trị nói chung, bao gồm các bước lập kế hoạch tài trợ xuất khẩu, tổ chức thực hiện
tài trợ xuất khẩu và kiểm tra, kiểm soát quá trình thực hiện các kế hoạch tài trợ, từ đó
đánh giá những thành công đạt được và những tồn tại cần khắc phục từ việc tài trợ
xuất khẩu.
1.1.2.2.a. Lập kế hoạch tài trợ xuất khẩu
Lập kế hoạch tài trợ xuất khẩu bao gồm các nội dung: xác định nhu cầu tài trợ
cho xuất khẩu, tìm kiếm các nguồn tài trợ, phân tích, lựa chọn nguồn tài trợ thích hợp
và đề ra các bước, các kế hoạch để thực hiện tài trợ xuất khẩu
Nhu cầu vốn để tài trợ xuất khẩu xuất phát từ việc đánh giá các chi phí để thực
hiện hợp đồng xuất khẩu, đánh giá khả năng tự tài trợ của doanh nghiệp. Chi phí xuất
khẩu bao gồm các chi phí mua hàng trong nước, chi phí sàng lọc, lưu kho bãi chờ xuất,
chi phí hải quan, chi phí vận chuyển và các chi phí có liên quan khác. Quy mô hợp đồng
xuất khẩu càng lớn càng đòi hỏi nhiều chi phí. Chính vì vậy, để có thể mở rộng hoạt
động xuất khẩu, doanh nghiệp cần có nguồn vốn tương đối lớn. Đối với doanh nghiệp
xuất khẩu có quy mô vừa và nhỏ thì đây là một vấn đề lớn cần giải quyết và họ thường
có xu hướng tìm kiếm các nguồn tài trợ từ phía ngân hàng và tổ chức tài chính. Doanh
nghiệp Việt Nam thường tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng là chủ yếu vì gần như hoạt
động tài trợ xuất khẩu ở Việt Nam do ngân hàng cung cấp. Còn với tài trợ từ phía nhà
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
22
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại

quốc tế
nước thì ít được các doanh nghiệp quan tâm vì còn nhiều hạn chế và khó tiếp cận.
Hiện nay, các ngân hàng cung cấp khá nhiều hình thức tài trợ ngoại thương mà
doanh nghiệp có thể lựa chọn. Các tiêu chí để lựa chọn nguồn tài trợ như chi phí sử
dụng nguồn tài trợ, tính thuận lợi và nhanh chóng của nguồn tài trợ, các yêu cầu từ
phía tổ chức tài trợ. Trong số đó chi phi sử dụng nguồn tài trợ là một chỉ tiêu quan
trọng, chi phí thấp luôn có lợi cho doanh nghiệp. Trong các loại hình tài trợ xuất khẩu
thì vay vốn hay vay ứng trước có tổng chi phí sử dụng là cao nhất. Nhưng đây lại là
loại hình tài trợ trước khi giao hàng được các doanh nghiệp Việt Nam ưa chuộng. Sau
khi đã lựa chọn được nguồn tài trợ phù hợp cần lập kế hoạch sử dụng nguồn tài trợ
hợp lý và tổ chức thực hiện kế hoạch một cách hiệu quả. Kế hoạch sử dụng nguồn tài
trợ phải bám sát với kế hoạch thực hiện hợp đồng xuất khẩu: lúc nào cần tài trợ, tài trợ
bao nhiêu, phân bổ nguồn vốn tài trợ đó như thế nào, kế hoạch thanh toán các khoản
nợ vay và chi phí lãi vay…
1.1.2.2.b. Tổ chức thực hiện tài trợ xuất khẩu
Quy trình chung thực hiện tài trợ xuất khẩu từ nguồn tài trợ là ngân hàng như sau:
- Thực hiện các thủ tục theo yêu cầu từ phía tổ chức tài trợ: đối với ngân hàng
thường phải chuẩn bị các chứng từ một cách chuẩn xác và đầy đủ. Hình thức vay vốn
tài trợ cho từng thương vụ thường yêu cầu phương án kinh doanh có hiệu quả, vật bảo
đảm. Phương thức tài trợ qua hình thức L/C đòi hỏi sự chuẩn xác giữa chứng từ và yêu
cầu trong L/C.
- Nhận được nguồn tài trợ và thực hiện hoạt động xuất khẩu, phân bổ nguồn tài
trợ theo kế hoạch đã đặt ra.
- Thực hiện hoàn trả các khoản phí và lãi theo tiến trình mà ngân hàng đặt ra.
1.1.2.2.c. Kiểm tra, kiểm soát quá trình trình tài trợ xuất khẩu
Quan trọng nhất của việc kiểm tra, kiểm soát là đảm bảo nguồn tài trợ được phân
bổ, giải ngân theo đúng kế hoạch và có hoạt động điều chỉnh cho phù hợp. Chính trong
quá trình kiểm tra, kiểm soát này, doanh nghiệp có thể phát hiện ra những mặt không
phù hợp của khoản tài trợ hay yếu kém trong khâu thực hiện của doanh nghiệp, để từ
đó có thể lựa chọn những nguồn tài trợ thích hợp hơn với khả năng của doanh nghiệp

và mang lại hiệu quả tài trợ cao hơn. Các chỉ tiêu kiểm tra, kiểm soát như: nguồn vốn
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
23
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
có đáp ứng được đầy đủ nhu cầu vốn thiếu hụt hay không, tiến trình tài trợ của ngân
hàng và tổ chức tài chính có phù hợp với thực tế hoạt động xuất khẩu hay không…
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến tính khả thi và hiệu quả của các giải pháp tăng
cường hiệu lực quản trị tài chính xuất khẩu
1.2.1. Chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu của nhà nước
Hiện nay, Quyết định 133/TTg (ban hành 2001) của Thủ tướng Chính phủ về tín
dụng hỗ trợ xuất khẩu lại lạc hậu và không đáp ứng yêu cầu thực tiễn của WTO. Theo
quyết định này Chính phủ sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện XK các mặt hàng
thuộc nhóm khuyến khích XK ban hành hàng năm.
Việc hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp chủ yếu được thực hiện qua hình thức cho
vay với lãi suất ưu đãi (bằng khoảng 80% lãi suất tín dụng đầu tư phát triển của nhà
nước). Qua 4 năm thực hiện chính sách này Quỹ Hỗ trợ phát triển (HTPT) đã thực
hiện cho vay khoảng trên 30.000 tỷ đồng, qua đó góp phần không nhỏ vào việc hỗ trợ
doanh nghiệp tăng năng lực cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường đóng góp vào kết
quả xuất khẩu của cả nước Tuy nhiên, trên thực tế, việc triển khai theo Quy chế này
ngày càng trở lên thiếu tính thực tiễn. Trước tiên, về danh mục mặt hàng thuộc diện
được hưởng ưu đãi tín dụng xuất khẩu chưa có tính ổn định cao. Hơn nữa, việc ban
hành danh mục thường rất chậm so với yêu cầu thực tế triển khai hoạt động tín dụng
hỗ trợ xuất khẩu của doanh nghiệp nên đã tạo những cản trở tới hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn vốn tín dụng của quỹ được doanh nghiệp đánh
giá là chưa đáp ứng được so với nhu cầu cần hỗ trợ từ phía các doanh nghiệp. Kết quả
khảo sát cho thấy các doanh nghiệp mong muốn được vay vốn với mức cao hơn để
phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Nhiều doanh nghiệp cũng phàn nàn về việc cho vay
hợp đồng xuất khẩu và đề nghị cần có cơ chế vay theo hạn mức để giảm bớt thủ tục
vay vốn của doanh nghiệp cũng như tạo chủ động nguồn vốn cho doanh nghiệp. Chính

việc hạn chế về nguồn vốn vay nên các doanh nghiệp lại phải chủ động tìm thêm các
nguồn vốn khác từ ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác để có đủ vốn
phục vụ các hợp đồng xuất khẩu của mình. Do đó doanh nghiệp phải thực hiện rất
nhiều thủ tục, mất rất nhiều thời gian. Bên cạnh đó, các yêu cầu bảo đảm tiền vay cũng
được phản ánh là một trong những rào cản các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
24
Luận văn tốt nghiệp Khoa Thương Mại
quốc tế
dụng ưu đãi. Phần lớn các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, giá trị tài sản thấp, do
vậy không đủ điều kiện để vay vốn từ Quỹ HTPT hoặc được vay với mức vốn hạn chế.
Ngoài ra, tài sản bảo đảm tiền vay thường được định giá thấp hơn nhiều so với giá trị
thực dẫn đến các doanh nghiệp hầu như không tiếp cận được nguồn vốn tín dụng.
Một số điều trong chính sách hỗ trợ xuất khẩu không còn phù hợp:
- Các hình thức hỗ trợ còn đơn giản, mà chủ yếu là cho vay đối với đơn vị xuất
khẩu, chưa có các hình thức hỗ trợ theo thông lệ quốc tế và mô hình của ngân hàng
nhập khẩu như bảo hiểm xuất khẩu, cho vay đối với bên mua (nhà nhập khẩu)
- Địa vị pháp lý và phạm vi hoạt động của Quỹ hỗ trợ phát triển còn hạn chế,
chưa đáp ứng được các nhu cầu cung cấp tín dụng và các dịch vụ ngân hàng đối với
đơn vị xuất khẩu, như: không được chủ động huy động nguồn vốn ngắn hạn để mở
rộng cho vay ngắn hạn hỗ trợ xuất khẩu phù hợp với kế hoạch và mục tiêu .
- Chưa thực hiện việc cung cấp các dịch vụ thanh toán, nên gặp nhiều khó khăn
trong việc quản lý theo dõi nguồn thu bán hàng để thu nợ, bên cạnh đó các đơn vị xuất
khẩu cũng phải mất thêm chi phí, thời gian do vừa phải giao dịch với quỹ hỗ trợ phát
triển về tín dụng vừa phải giao dịch với các ngân hàng thương mại về thanh toán.
- Điều kiện vay vốn cũng là điểm các doanh nghiệp cho rằng có nhiều vướng
mắc. Theo cơ chế chính sách hiện hành, các đơn vị xuất khẩu vay vốn phải có ít nhất
30% giá trị tài sản bảo đảm tiền vay bằng tài sản thuộc quyền sở hữu của mình hoặc
100% giá trị tài sản bảo lãnh của bên thứ ba.Các điều kiện về bảo lãnh tín dụng đầu tư
quy định tương tự như cho vay, nên chưa khuyến khích được các doanh nghiệp sử

dụng hình thức này để giảm sức ép về cầu vốn cho quỹ hỗ trợ phát triển. Lãi suất cho
vay quá thấp nên chưa kích thích được các đơn vị xuất khẩu sử dụng vốn có hiệu quả
để hạ thấp chi phí. Việc hỗ trợ xuất khẩu trực tiếp bằng hình thức ưu đãi về lãi suất
cho vay không còn phù hợp với các điều kiện khi Việt Nam gia nhập WTO.
- Việc cho vay còn mang tính dàn trải: Tỷ lệ nợ quá hạn là 2% có thể chưa phản
ánh chính xác chất lượng tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, vì việc phân loại nợ và đánh giá
chất lượng tín dụng hiện nay của Quỹ là dựa trên tuổi nợ (thời gian quá hạn), chưa phù
hợp với thông lệ quốc tế là phải đánh giá trên cơ sở khả năng thu hồi nợ và mức độ rủi
ro của khoản vay.
Đỗ Hà Mi - Lớp 40E5
25

×