Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

vấn đề xuất khẩu 6 mặt hàng nông sản chủ lực của việt nam sau khi gia nhập wto

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (435.71 KB, 47 trang )

Đề tài nghiên cứu khoa học
Đề tài: Vấn đề xuất khẩu 6 mặt hàng nông sản chủ
lực của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Việt Nam nằm ở một vị trí có điều kiện thuận lợi để sản xuất và xuất khẩu nông sản.
Các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam đã đóng góp rất lớn vào giá trị xuất khẩu
hàng hóa và thu ngoại tệ cho đất nước. Sau 4 năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO ngành nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể đóng góp vào
nền kinh tế quốc dân, bên cạnh đó còn một số hạn chế và thách thức đối với ngành nông
nghiệp Việt Nam nói chung và các sản phẩm chủ lực trong xuất khẩu từ Nông nghiệp nói
riêng. Đóng góp to lớn vào giá trị xuất khẩu của cả nước thì cần nhắc tới 6 mặt hàng nông
sản chủ lực của Việt Nam như: Gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, chè và hạt điều.
1. Lý do chọn đề tài :
Việt Nam là nước đang phát triển đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ
thấp. Dựa vào điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp tham gia vào
thị trường quốc tế. Trước kia với chế độ tập trung quan liêu bao cấp, thị trường Việt Nam
chỉ gói gọn thị trường trong nước, nền kinh tế đình trệ, dần dần đâm vào khủng hoảng và
suy thoái. Với sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam đã tìm ra con đường đúng
đắn mở rộng thị trường ngoài nước để giao lưu, học hỏi và trao đổi sản phẩm, đẩy mạnh
quá trình phát triển của sản xuất. Nông nghiệp không nằm ngoài sự vận động đó. Sản phẩm
nông nghiệp Việt Nam nổi tiếng trên trường quốc tế vì giá rẻ và sản phẩm thủ công chiếm
tỉ trọng lớn, chất dinh dưỡng được đảm bảo, Tuy nhiên các mặt hàng nông sản của Việt
Nam khi tham gia vào thị trường quốc tế không chỉ gặp những thuận lợi nhất định mà còn
gặp rất nhiều khó khăn. Để nghiên cứu sâu hơn về các mặt hàng nông sản Việt Nam chúng
tôi quyết định thực hiện đề tài này nhằm mục đích nhận biết rõ những thuận lợi và khó
khăn của các mặt hàng nông sản Việt Nam vốn là thế mạnh của kinh tế cả nước để từ đó
Nhà nước và cơ quan chức năng có những điều chỉnh phù hợp để nâng cao năng suất cũng
như giá trị sản lượng nông sản xuất khẩu thu lại nhiều lợi ích cho đất nước. Là sinh viên
chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn nhóm chúng tôi quyết định làm
đề tài này để tìm hiểu sâu thêm và củng cố thêm kiến thức đã thu thập được. Đó là mục
đích để thực hiện nghiên cứu đề tài này.


ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
1
Đề tài nghiên cứu khoa học
2. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và lý luận về công tác xuất khẩu nông sản Việt Nam
ra thị trường quốc tế sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, từ đó
tìm ra những thuận lợi khó khăn của 6 mặt hàng nông sản chủ lực để tìm cách hạn chế khó
khăn và tận dụng cơ hội để nâng cao giá trị xuất khẩu và góp phần tăng trưởng kinh tế đất
nước.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu :
Phân tích cơ sở lý luận để làm rõ các quan điểm, nhận định, tiên đoán của các nhà
kinh tế về vấn đề xuất khẩu của Việt Nam khi tham gia nhập WTO.
Phân tích những thuận lợi, khó khăn của 6 mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam
khi tham gia xuất khẩu.
Đề xuất một số giải pháp và kết luận cần thiết khi thực hiện đề tài.
4. Đối tượng nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu là những bài báo, đề tài của các tác giả nói về tình hình xuất
khẩu nông sản Việt Nam, tập trung nghiên cứu các bài viết về 6 nông sản chủ lực nêu trên.
5. Phạm vi nghiên cứu :
Nghiên cứu thị trường xuất khẩu của 6 mặt hàng nông sản chủ lực: gạo, cà phê, cao
su, hồ tiêu, chè, điều của Việt Nam kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
tổ chức thương mại thế giới WTO, tức từ ngày 7/11/2006.
6. Phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thống kê
Phương pháp thu thập số liệu
Phương pháp phân tích
Phương pháp quan sát,
Dựa vào các số liệu thu thập được phân tích vấn đề từ đó tìm ra những kết luận cần
thiết để giải quyết vấn đề.
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN

2
Đề tài nghiên cứu khoa học
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
Trong một nền kinh tế mở thì hoạt động xuất nhập khẩu là không thể thiếu được và
đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng to lớn đến tăng trưởng của một nước
Xuất khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho
nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo IMF là việc bán hàng hóa
cho nước ngoài. (theo điều 28, mục 1, chương 2 luật thương mại Việt Nam 2005) xuất
khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực
đặc biệt nằm trên lãnh thổ việt nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của
pháp luật
Trong tính toán tổng cầu,xuất khẩu được coi là nhu cầu bên ngoài, đối với những nền
kinh tế mà cầu nội địa yếu, thì xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế.
Chính vì thế, nhiều nước đang phát triển theo đuổi chiến lược công nghiệp hoá hướng vào
xuất khẩu Việt Nam là một nước có tiềm năng về xuất khẩu nông sản.Tuy nhiên ,lại
chưa phát huy được hết ưu thế đó của mình.
Sự gia nhập vào tổ chức thương mại vừa là cơ hội lớn vừa là thách thức không nhỏ
cho nền kinh tế Việt Nam trong hoạt động xuất nhập khẩu.Nếu chúng ta không nghiêm
khắc nhìn lại và khắc phục thì những ưu thế về thị trường hoa quả sẽ không còn nữa.
Các nước láng giềng của Việt Nam như Trung Quốc ,Thái Lan…vừa là thị trường
của ta vừa là đối thủ mạnh cạnh tranh với ta trên thị trường này.Họ đã có rất nhiều thay đổi
trong các chính sách để thích nghi trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ hiện
nay, đặc biệt là trong “sân chơi” WTO
Tìm hiểu một chút về WTO
Tên đầy đủ là: World Trade Organization
WTO – Hiệp hội thương mại thế giới là sân chơi chung cho thị trường toàn cầu. Là
Tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh điều chỉnh những hoạt động buôn bán đa phương
mang tính chất tương đối tự do, công bằng và tuân thủ những luật lệ rõ ràng.
Là Tổ chức Quốc tế duy nhất quản lý luật lệ giữa các quốc gia trong thương mại quốc

tế, đó là những hiệp định đã và đang tiếp tục được đàm phán và ký kết giữa các quốc gia
hoặc lãnh thổ quan thuế thành viên.
• Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi gia nhập WTO
Thuận lợi không nhiều
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
3
Đề tài nghiên cứu khoa học
Đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng trong lĩnh vực nông nghiệp, đem vào công nghệ mới,
tiên tiến để thúc đẩy ngành chế biến nông sản, nhờ đó giúp mở mang những vùng đất
hoang hóa, sản xuất những sản phẩm nông nghiệp độc đáo mà những công ty này đang có
thị trường, đưa hàng nông sản Việt Nam ra thị trường thế giới nhiều hơn sau.
Khi Việt Nam gia nhập WTO, những lợi ích tiềm năng như mở rộng thị trường cho
những mặt hàng xuất khẩu truyền thống nông nghiệp và thủy sản, đồng thời chúng ta có cơ
hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (về lâu dài) giúp tránh được những vụ
kiện vô lý như cá tra - cá ba sa giữa Việt Nam và Mỹ. Một khi ngành nông nghiệp đứng
vững trên sân chơi WTO thì kinh tế nông nghiệp trở thành động lực chính thúc đẩy công
cuộc xóa đói giảm nghèo. Lúc đó, nông nghiệp là chìa khóa tạo ra sự ổn định và phát triển
vùng nông thôn. Trong bối cảnh đó, ngành nông nghiệp có thêm nhiều cơ hội phát triển
Cùng với những ưu thế sẵn có của nông sản Việt Nam, việc gia nhập WTO tiếp tục
tạo đà thuận lợi cho xuất khẩu nông sản. Bên cạnh những bạn hàng truyền thống, hầu hết
các ngành hàng xuất khẩu trong năm nay đều tiếp nhận thêm những bạn hàng mới. Nếu
như nhiều năm trước đây, xuất khẩu cao su của Việt Nam chủ yếu tập trung vào thị trường
Trung Quốc thì năm qua đã có sự chuyển dịch rõ rệt. Từ đầu năm đến nay sản lượng cao su
xuất khẩu sang Trung Quốc giảm chỉ còn khoảng 59%, trong khi xuất sang các thị trường
khác như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, Đức lại tăng đáng kể. Đặc biệt, sản lượng cao su
xuất sang thị trường Malaixia trong năm nay đã tăng 3 lần so với năm trước và đây được
đánh giá là thị trường chiến lược của cao su Việt Nam trong tương lai. Với ngành chè,
những nỗ lực cải thiện chất lượng chè Việt Nam sau khi gia nhập WTO còn mang lại kết
quả rõ nét hơn. Theo Hiệp hội hội Chè Việt nam, sau những nỗ lực của ngành chè trong
việc đầu tư phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến chè theo quy hoạch, đồng thời tổ

chức lại ngành chè theo hướng từng bước hiện đại hoá, tăng nhanh tỷ lệ các sản phẩm chè
tinh chế, có chất lượng cao và đa dạng hoá sản phẩm, năm nay giá chè xuất khẩu của Việt
Nam đã được cải thiện đáng kể với mức tăng khoảng 25%, tương ứng mức tăng 270-280
USD/tấn.
• Thách thức quá lớn
Khó khăn về trình độ phát triển
Mặc dù đã trải qua gần 20 năm mở cửa và đổi mới, nhưng hiện nay, Việt Nam vẫn
là nước đang phát triển ở trình độ thấp. Gần 80% dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp,
nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn hình thành và còn nhiều ảnh hưởng của thời
kinh tế tập trung bao cấp. Tình trạng độc quyền vẫn tồn tại khá nặng nề trong một số lĩnh
vực, nhất là tài chính, ngân hàng, điện, bưu chính viễn thông; khả năng cạnh tranh của
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
4
Đề tài nghiên cứu khoa học
doanh nghiệp còn rất thấp; hệ thống pháp luật hiện hành chưa đáp ứng các yêu cầu của hội
nhập… Tất cả các yếu tố ấy làm cho tiến trình hoàn tất các thủ tục và đáp ứng các điều
kiện tham gia WTO của ta chậm trễ. Những yêu cầu về mở cửa thị trường do các thành
viên WTO đưa ra rất cao, trong khi Việt Nam chỉ đủ sức đưa ra những cam kết thấp
Bất lợi của người đi sau
Việc gia nhập WTO sau 148 nước, trong đó có những nước tiềm năng xuất khẩu lớn
như Thái Lan, Trung Quốc… càng làm tăng sự bất lợi của Việt Nam. Việc Trung Quốc trở
thành thành viên chính thức của WTO năm 2001 đã khiến Việt Nam khó khăn hơn trong
việc cạnh tranh với hàng hóa Trung Quốc vốn đang tràn ngập thị trường thế giới với giá rẻ.
Việt Nam và Trung Quốc vốn tương đối giống nhau về trình độ kinh tế cũng như các mặt
hàng xuất khẩu. Xuất khẩu chủ lực của Việt Nam có bốn sản phẩm giống của Trung Quốc,
đó là hàng dệt may, giày dép, gốm sứ và hàng điện tử. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều có
mục tiêu là xuất sang các thị trường Nhật, ASEAN, EU, Mỹ. Là thành viên của WTO, Trung
Quốc được hưởng những mức thuế ưu đãi khi xuất sang các nước này, do vậy cuộc cạnh
tranh sẽ ngày càng trở nên gay gắt.
Cạnh tranh với các nước phát triển và đang phát triển

Gia nhập WTO nghĩa là tham gia một sân chơi bình đẳng. Nhiều nước đang phát
triển có cùng trình độ như Việt Nam, có các chủng loại hàng hóa, dịch vụ tương tự như
chúng ta, nhưng họ đã gia nhập WTO trước và đã được hưởng một số ưu đãi. Việt Nam sẽ
là đối thủ cạnh tranh với các nước đang phát triển khác về hàng xuất khẩu vào các thị
trường lớn như Mỹ, EU… Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các nước này không muốn chúng
ta có những điều kiện ưu đãi hơn họ khi chúng ta gia nhập WTO. Vì vậy, trong quá trình
đàm phán đa phương và song phương, Việt Nam cần khẳng định quyết tâm tham gia một
sân chơi bình đẳng, tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác, đặc biệt là với các đối tác có
tiềm năng xung đột cạnh tranh nhưng đồng thời phải thuyết phục để họ hiểu thực trạng
kinh tế Việt Nam và có những nhân nhượng thỏa đáng.
Khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng sẽ phải cạnh tranh với các nước đã phát triển,
nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp mà Việt Nam có thế mạnh. Việt Nam mong muốn giữ
nguyên mức trợ cấp xuất khẩu như hiện nay và dần dần giảm xuống phù hợp với các điều
khoản của WTO. Thế nhưng, tại một số nước phát triển, nông sản vẫn tiếp tục được trợ giá
và rõ ràng hàng nông sản Việt Nam xuất sang các nước phát triển sẽ khó cạnh tranh được
với hàng nông sản nội địa vốn vẫn đang được các nước này bảo hộ.
Mâu thuẫn giữa năng lực thực thi và năng lực cam kết
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
5
Đề tài nghiên cứu khoa học
Để tham gia WTO, Việt Nam không những phải hoàn thiện khung luật pháp đáp
ứng điều kiện của một nước thành viên mà còn phải nghiêm túc thực hiện cam kết đó. Để
đáp ứng các yêu cầu trên, Chính phủ Việt Nam đã đề ra Chương trình xây dựng luật pháp
để gia nhập WTO với hai phần: luật phục vụ nghĩa vụ của các nước thành viên WTO (bắt
buộc) như:
Luật về an toàn thực phẩm: suốt trong quá trình sản xuất, trái cây và rau quả Việt
Nam phải có Chứng chỉ “nông nghiệp an toàn” hay “nông nghiệp tốt” (Good Agricultural
Practices, GAP) để chứng minh mặt hàng này luôn an toàn vệ sinh.
Luật về chất lượng: mặt hàng nông sản Việt Nam phải cần rất nhiều chứng chỉ,
chẳng hạn như chứng chỉ xác nhận nguồn gốc giống (chứng chỉ xác nhận giống không

thuộc loại cây biến đổi gen, GMO), chứng chỉ báo cáo chất lượng (hàm lượng protein,
chống oxy hóa, vitamine, đồng bộ về giống, độ chín, kích cỡ và màu sắc) để chứng minh
mặt hàng có chất lượng cao và bổ dưỡng.
Luật về số lượng: lượng hàng hóa lưu hành trong thị trường nông sản thế giới ngày
nay vừa lớn về số (trăm tấn, ngàn tấn, vạn tấn), vừa đồng bộ (giống, kích cỡ, màu sắc, bao
bì) và chính xác về thời gian giao hàng (đúng ngày quy định hoặc thứ Tư mỗi tuần, tuần
đầu mỗi tháng ).
Luật về giá cả: để yểm trợ cho cạnh tranh, giá cả trở nên một yếu tố quyết định. Đây
là một thứ “luật bất thành văn” của bất cứ một cơ sở sản xuất hay một quốc gia nào trên thế
giới muốn tham dự cuộc chơi. Nông dân Việt Nam phải hết sức quan tâm đến điểm này để
mặt hàng luôn có giá rẻ - vốn là một lợi thế của Việt Nam trong mấy năm qua.
Trong bốn luật chơi kể trên, cái khó nhất cho nông nghiệp Việt Nam hiện nay là chu
trình “nông nghiệp an toàn” hay “nông nghiệp tốt”, GAP. Đây là một chương trình kiểm
tra an toàn thực phẩm xuyên suốt từ A đến Z của dây chuyền sản xuất, bắt đầu từ khâu
chuẩn bị nông trại, canh tác đến khâu thu hoạch, sau thu hoạch, tồn trữ, kể cả những yếu tố
liên quan đến sản xuất như môi trường, các chất hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, bao bì
và ngay cả điều kiện làm việc và phúc lợi của người làm việc trong nông trại.
Như vậy, chu trình nông nghiệp an toàn GAP là một bộ hồ sơ trình bày công nghệ
sản xuất của nông trại đồng thời cũng là bộ hồ sơ ghi chép chi tiết những hoạt động của
nông trại đó. Một số các nước ASEAN như Malaysia, Thái Lan, Singapore và Indonesia
tuy có biên soạn chương trình GAP cho mình, nhưng việc xuất khẩu rau quả và trái cây của
họ vẫn không thuận lợi hơn vì những chu trình này đã không đáp ứng các đòi hỏi khắt khe
của thị trường châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản - là những thị trường vùng ôn đới có điều
kiện khí hậu, khoa học kỹ thuật nông nghiệp và văn hóa ẩm thực khác biệt.
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
6
Đề tài nghiên cứu khoa học
Cam kết khi gia nhập WTO không cho phép Chính phủ Việt Nam trợ cấp xuất khẩu.
Tuy nhiên, Chính phủ được phép trợ cấp khuyến nông và phục vụ phát triển nông nghiệp.
Vậy thì xây dựng chiến lược phát triển mạnh ngành trái cây, rau quả và hoa; nhanh chóng

hoàn thành chu trình nông nghiệp an toàn VietGAP; và dấy lên một phong trào tập huấn
VietGAP đều khắp cho nông dân mới là trợ cấp WTO đúng kiểu nhất để Chính phủ giúp
nông dân tham gia vào một cuộc chơi tuy hào hứng nhưng đầy bất trắc rủi ro.
Việt Nam hứa sẽ tuân thủ các cam kết của mình ngay sau khi gia nhập WTO cho dù
các cam kết này có thể mâu thuẫn với pháp luật hiện hành. Tuy vậy, việc thực thi các cam
kết là khó vì yêu cầu của các nước rất cao trong khi hệ thống pháp luật của ta chưa hoàn
chỉnh, nhiều quy định mới được thông qua, hoặc mới ban hành nhưng chưa được áp dụng
trong thực tiễn.
Theo Hiệp định về các khía cạnh sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs) của
WTO, các nước thành viên phải có hệ thống bảo vệ bản quyền, bằng phát minh, sáng chế,
nhãn mác hàng hóa… rất nghiêm ngặt. Thế nhưng, ở nước ta, việc sản xuất hàng giả, hàng
nhái, ăn cắp bản quyền, mẫu mã… vẫn diễn ra tràn lan và chưa được giải quyết triệt để.
Tình hình trên làm cho các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể cạnh tranh bình đẳng và
đúng luật trên thị trường thế giới.
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
7
Đề tài nghiên cứu khoa học
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU
6 MẶT HÀNG NÔNG SẢN CHỦ LỰC
1. Gạo
Mặt hàng nông sản nước ta nhìn chung có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước
và thị trường quốc tế. Trong 15 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực thì có hơn một nửa là hàng
nông sản, bao gồm: gạo, cà phê, nhân điều, hồ tiêu, cao su,, chè, rau quả, lạc nhân. Một số
mặt hàng xét về quy mô có thể tác động đến thị trường và giá cả trên thế giới như gạo, cà
phê Robusta, hồ tiêu, cao su, nhân điều. Sau ba năm gia nhập WTO, mặc dù phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng nông sản Việt Nam cũng đạt được nhiều thành
tựu đáng kể.
Trong các mặt hàng nông sản thì gạo chiếm tỷ trọng cao nhất, gạo không những
góp phần ổn định tình hình lương thực trong nước mà còn chiếm tỷ lệ cao trong sản
lượng lương thực thế giới. Mặt hàng này đã đem lại cho nền kinh tế Việt Nam nguồn ngoại

tệ tương đối cao đồng thời góp phần làm tăng vị thế của Việt Nam trong thị trường thế
giới. Điều đó cho thấy mặt hàng lúa gạo đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống người
dân Việt Nam cũng như trong công cuộc phát triển kinh tế Việt Nam.
Trong nhiều năm, Việt Nam luôn là nước xuất khẩu gạo lớn đứng thứ 2 trên thế giới,
có sức cạnh tranh mạnh mẽ với các cường quốc sản xuất lúa gạo như Thái Lan và Ấn Độ.
1.1 Thành tựu sau ba năm gia nhập WTO
Năm 2007
Năm 2007, cả nước đã xuất khẩu được 4,54 triệu tấn gạo với kim ngạch 1,47 tỷ USD,
giảm 0,64% về lượng nhưng tăng 15,2% về trị giá so với năm 2006. Đơn giá xuất khẩu
trung bình đạt cao nhất từ trước tới nay, đạt trung bình 324 USD/tấn, tăng 20,44% so với
giá xuất khẩu trung bình năm 2006 và tăng 22,72% so với giá xuất khẩu trung bình năm
2005.
Về chủng loại
Năm 2007, xuất khẩu gạo 15% tấm đạt 1,512 triệu tấn với kim ngạch 501,5 triệu
USD, tăng 15,04% về lượng và tăng 37,96% về trị giá so với năm 2006; tăng 21,84% về
lượng và tăng 44,67% về trị giá so với năm 2005. Năm 2007, loại gạo này được xuất khẩu
chủ yếu sang các thị trường Indonesia (900.225 tấn, trị giá 281 triệu USD): Cuba (407.460
tấn, trị giá 160 triệu USD); Malaixia (50.490 tấn, trị giá 15 triệu USD)….
Về thị trường
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
8
Đề tài nghiên cứu khoa học
Đứng đầu về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam năm 2007 là Philippine với
1,454 triệu tấn, trị giá 464,87 triệu USD,giảm 3,71% về lượng nhưng tăng 8,3% về trị giá
so với năm 2006. Xuất khẩu sang thị trường này chủ yếu là gạo 25% tấm.
Xuất khẩu sang Indonesia năm 2007 tăng khá mạnh, đạt 1,11 triệu tấn gạo với trị giá
360,66 triệu USD, tăng tới 226,6% về lượng và tăng 244,75% về trị giá so với năm 2006;
còn so với năm 2005 tăng 1029,39% về lượng và tăng 1220,74% về trị giá. Thị trường này
chủ yếu nhập khẩu gạo 15% tấm và gạo nếp 10% tấm.
Năm 2008

Sản lượng lúa cả nước là 38 triệu tấn, xuất khẩu gạo đạt kim ngạch 4,709 triệu tấn
với giá trị là 2,882 tỉ USD. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2008 cũng đạt mức
cao, bình quân là 550 USD/tấn, gần gấp đôi so với năm 2007.
Thị Trường xuất khẩu năm 2008
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
9
Đề tài nghiên cứu khoa học
Năm 2009
Cả nước hiện có 216 doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Năm 2009, thị trường hàng hoá thế
giới chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế nghiêm trọng,
trong đó có lúa gạo. Dưới sự điều hành xuất khẩu linh hoạt của Chính phủ, năm qua, cả
nước đã xuất khẩu được 6,052 triệu tấn gạo, là năm xuất khẩu nhiều nhất từ trước đến nay;
trong đó chủng loại gạo cao cấp chiếm đến 40, 25%. Tổng giá trị xuất khẩu đạt 2,463 tỉ
USD (giá FOB); về số lượng tăng 29,35% so năm 2008. Theo dự báo của ngành nông
nghiệp, lượng lúa hàng hoá cần tiêu thụ trong năm 2010 là hơn 11, 5 triệu tấn và sản lượng
tồn từ năm 2009 chuyển sang thì lượng gạo hàng hoá cần tiêu thụ trong năm 2010 là 7,25
triệu tấn.
Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong tháng 4 năm 2010
lượng xuất khẩu gạo của cả nước đạt 700 ngàn tấn, đạt giá trị 385 triệu USD, đưa tổng
lượng gạo xuất khẩu 4 tháng đầu năm lên 2,14 triệu tấn, thu về 1,18 tỷ USD. Riêng các
doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) trong 4 tháng năm
2010 đã ký hợp đồng xuất khẩu hơn 3,9 triệu tấn gạo các loại và hiện đã xuất đi được gần 2
triệu tấn. So với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu gạo 4 tháng đầu năm 2010 giảm 13,85% về
số lượng, nhưng giá trị FOB chỉ giảm 1,26%, trị giá CIF tăng 0,23%. Trong đó, các hợp
đồng tập trung chiếm trên 60 % (tăng 2,3%) và hợp đồng thương mại trên 39% (giảm hơn
30% so với năm trước). Giá xuất khẩu bình quân đạt 466,95 USD/tấn, tăng 59,53 USD/tấn
so với cùng kỳ năm 2009.
Việc ký kết và giao hàng các hợp đồng thương mại có dấu hiệu khôi phục trở lại
trong tháng 3 và tháng 4 năm 2010. Hợp đồng thương mại tháng 3 tăng hơn 139% so với
tháng 2 và tháng 4 tăng hơn 39,8% so với tháng 3 năm 2010. Điều này cho thấy, xuất khẩu

gạo của nước ta đang có những tín hiệu lạc quan. Hiện nay, thị trường cũng thể hiện một số
yếu tố tích cực như: Iraq đang đấu thầu 120.000 tấn; Brazil mất mùa, thiếu gạo, có thể
nhập 1,5 triệu tấn và tác động đến nhu cầu gạo từ châu Á; Trung Quốc bị hạn hán, có thể
nhập một lượng lớn lương thực; Nam Mỹ hiện xuất khẩu gạo giá cao, không cạnh tranh
được với các nguồn châu Á
Hiện nay, gạo Việt Nam có mặt trên 100 nước chiếm 20%thị phần gạo thế giới. Bên
cạnh đó, giá trị gạo của ta cũng ngày càng được đánh giá cao hơn.
1.2 Khó khăn, hạn chế
Thứ nhất, sản lượng gạo tăng nhưng giá trị không tăng; gạo Việt Nam xuất khẩu giá
thấp nhất thế giới.
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
10
Đề tài nghiên cứu khoa học
Từ nhiều năm nay, Việt Nam vẫn là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới chỉ
sau Thái Lan. Có một thực tế là chúng ta xuất khẩu mỗi năm một tăng và năm 2009 đạt
mức kỉ lục 6 triệu tấn. Tuy nhiên, khi nhìn lại về giá trị thì hạt gạo Việt Nam lại thuộc hàng
thấp trong các nước xuất khẩu. Nhiều người cho rằng: đã đến lúc cần tính toán lại, nhằm
nâng cao giá trị mặt hàng vốn được xem là lợi thế của chúng ta.
Số liệu mới đây của Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho thấy gạo 5% tấm của Thái Lan
được chào bán 500 USD/tấn, Pakistan chào bán 415 USD/tấn trong khi Việt Nam chỉ có
thể chào bán 400 USD/tấn. Tương tự, gạo 25% tấm của Việt Nam cũng thấp hơn khoảng
70USD/tấn so với Thái Lan.
Tình trạng trên đã kéo dài từ nhiều năm nay, qua đó cho thấy mặc dù chúng ta luôn
duy trì vị trí thứ 2 về số lượng gạo xuất khẩu trên thế giới nhưng mức lợi nhuận thực mang
về lại chưa tương xứng. Theo các doanh nghiệp xuất khẩu, gạo Việt Nam vẫn được bán ra
thế giới, nhưng không phải ai cũng biết về chất lượng, về tên gọi của gạo Việt Nam.
Các chuyên gia nông nghiệp cho rằng do chú trọng vào tăng năng suất hơn là chất
lượng nên suốt một thời gian dài, gạo Việt Nam chủ yếu được sản xuất từ những giống
phẩm chất thấp.
Ngoài ra, việc hình thành những vùng chuyên canh lúa xuất khẩu vẫn còn khó khăn

do tỉ lệ đất của mỗi nông hộ khá thấp. Như tại ĐBSCL, bình quân một hộ trồng lúa chỉ có
1,3 hecta. Trong đó có đến 30,6% hộ có diện tích từ 0,2 - 0,5 hecta và 7,7% hộ có diện tích
dưới 0,2 hecta.
Các chuyên gia nông nghiệp cho rằng do chú trọng vào tăng năng suất hơn là chất
lượng nên suốt một thời gian dài, gạo Việt Nam chủ yếu được sản xuất từ những giống
phẩm chất thấp.
Thứ hai, thị trường gạo khó ổn định. Việt Nam là nước xuất khẩu lúa gạo lớn
nhưng nông dân lại không được hưởng nhiều lợi nhuận do giá cả và thị trường liên tục biến
động bất lợi. Theo Bộ Tài chính, từ khi hộ gia đình nông dân được xem là đơn vị kinh tế tự
chủ, thóc gạo cung ứng ra thị trường do hàng triệu hộ nông dân sản xuất tạo nên một thị
trường cạnh tranh hoàn hảo.
Tuy nhiên, có vẻ như sự cạnh tranh hoàn hảo ở đây chỉ nhìn từ phía người bán khi
mỗi hộ nông dân chỉ bán ra một lượng thóc gạo rất nhỏ so với toàn thị trường. Nông dân
không thể độc quyền về thị trường thì cũng không độc quyền về giá, phải chấp nhận giá thị
trường; một số lượng nhỏ nông dân tham gia hay rút khỏi thị trường cũng không ảnh
hưởng đến mức giá chung.
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
11
Đề tài nghiên cứu khoa học
Trong khi đó, người mua thì lại có quyền tự do lựa chọn mà không cần biết người
bán là ai. Với tính mùa vụ của lúa gạo, có thời điểm hàng triệu hộ nông dân cùng bán lúa
gạo. Khi đó, người mua là những DN, các tư thương nhân cơ hội đó để ép giá, nông dân bị
lỗ vốn nhưng họ không thể tích trữ để giữ giá vì không có vốn.
Các doanh nghiệp xuất khẩu lớn được kỳ vọng là người bình ổn thị trường mua lúa
trực tiếp đến nông dân khoảng 20%, 80% còn lại mua qua “trung gian” và lực lượng này
luôn ép giá bán xuống dưới giá mà các doanh nghiệp mua. Vì vậy, lợi nhuận của người sản
xuất luôn bị giảm sút. Điệp khúc “được mùa, rớt giá” thể hiện rõ ở những thời điểm này
nhưng nông dân không tự mình khắc phục được.
Ngược lại, vào lúc giáp hạt, người sản xuất hết lúa bán ra ít, khối lượng cung nhỏ hơn
mức cầu nên giá thóc, gạo trên thị trường tăng cao. Vì thế, giá cao nhưng nông dân không

hưởng lợi gì. Thực tế, đầu 2008, khi giá thế giới tăng kéo theo giá trong nước tăng ảo. Tuy
nhiên, giá tăng chỉ gây khó cho người tiêu dùng, còn nông dân cũng không được hưởng
nhiều vì lúa không còn để bán.
Chuyên gia của Bộ Tài chính nhận định, sự biến động của thị trường đã tác động
làm dịch chuyển, thậm chí phá vỡ cơ cấu sản xuất, cây trồng làm cho sản xuất không ổn
định, người sản xuất không yên tâm đầu tư do giá cả không ổn định, dẫn đến thua lỗ, phá
sản. Trong quá trình kinh doanh người trồng lúa tuy biết điều đó nhưng không thể tự khắc
phục được những bất lợi của thị trường mà đòi hỏi phải có sự can thiệp hỗ trợ của Nhà
nước.
Thứ ba, gạo chất đầy kho. Cuối tháng 2-2010, khi giá lúa gạo trong nước đang có
dấu hiệu xuống thấp, ngay lập tức VFA đã chỉ đạo 30 doanh nghiệp lớn thu mua tạm trữ
trong hai đợt với số lượng 1,5 triệu tấn gạo. Việc thu mua tạm trữ đã được doanh nghiệp
chấp hành khá tốt. Nhiều doanh nghiệp hy vọng giá gạo giảm chỉ trong thời gian ngắn rồi
lên lại khi thị trường sôi động. Trái với dự đoán, xuất khẩu gạo trong thời gian gần đây
đang có chiều hướng không thuận lợi khi thị trường ế ẩm, giá gạo giảm mạnh. Thị trường
không thuận lợi cùng với việc phải đẩy mạnh thu mua tạm trữ đã khiến các doanh nghiệp
gạo gặp nhiều khó khăn. Ví dụ Công ty Lương thực Trà Vinh trong kho còn tồn khoảng
60.000-70.000 tấn. Đây chính là gánh nặng mà công ty đang phải chịu trước áp lực của lãi
suất ngân hàng 13-14%/năm như hiện tại. Dù lượng gạo tồn còn khá nhiều nhưng trước
mắt công ty vẫn phải mua gạo tạm trữ theo chủ trương của hiệp hội. Nếu công ty không
mua thì nông dân không biết bán gạo cho ai. Thị trường trầm lắng thế này, công ty cũng
chưa biết giải quyết sao” - Giám đốc Nguyễn Văn Việt lo lắng. Hơn thế nữa, hị trường gạo
thế giới đang trầm lắng đã gây ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo của công ty. Công ty không có
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
12
Đề tài nghiên cứu khoa học
thêm được hợp đồng xuất khẩu nào mới. Những năm trước vào thời điểm này, Công ty
Lương thực Trà Vinh ký được khá nhiều hợp đồng thương mại nhưng trong năm nay rất ít,
chỉ chiếm khoảng 10% lượng gạo xuất khẩu của công ty. Từ đầu năm đến nay, công ty
xuất khẩu được khoảng 30.000 tấn, chủ yếu sang thị trường tập trung Malaysia, Philippines

với những hợp đồng được ký giữa chính phủ hai nước.
Thứ tư là cơ chế điều hành xuất khẩu gạo bộc lộ nhiều yếu kém. Bên cạnh
những kết quả khả quan, việc điều hành xuất khẩu gạo thời gian qua bộc lộ nhiều tồn tại
cần chấn chỉnh. Với cơ chế điều hành như hiện nay, tất cả mọi doanh nghiệp đều có quyền
kinh doanh xuất khẩu gạo. Số lượng doanh nghiệp xuất khẩu gạo đã lên đến hơn 200 doanh
nghiệp. Điều đáng nói là trong số đó có nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được những
yêu cầu tối thiểu về cơ sở vật chất phục vụ xuất khẩu. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp
không dự trữ đủ lượng gạo cần thiết cho xuất khẩu, chỉ khi ký được hợp đồng xuất khẩu
mới tổ chức mua lúa gạo của dân, dẫn đến tình trạng tới mùa thu hoạch, nông dân phải chờ
doanh nghiệp ký hợp đồng xuất khẩu, thương lái mới đến mua. Nếu giữ cơ chế cũ, Việt
Nam mỗi năm xuất tới 6 triệu tấn gạo, nếu chia cho hàng trăm doanh nghiệp thì sẽ tăng
thêm chi phí. Hơn nữa, từ 2011, Việt Nam cho phép doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào
lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu gạo, kéo theo khả năng dư thừa các nhà máy xay xát, kho
chứa
1.3 Giải pháp:
Thứ nhất, giữ giá để ổn định thị trường. Theo dự báo mới nhất của Bộ Nông
nghiệp Mỹ, sản lượng gạo toàn cầu năm 2010 đạt khoảng 436,3 triệu tấn, giảm 2,5% so với
năm 2009. Trong khi đó, dự báo tiêu thụ gạo toàn cầu năm 2010 sẽ ở mức kỷ lục 437,1
triệu tấn, cao hơn 2,2 triệu tấn so với năm 2009. Theo các chuyên gia, mặc dù dự báo sản
lượng gạo toàn cầu năm 2010 sụt giảm, sức tiêu thụ tăng và thương mại tăng nhưng do ảnh
hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế vẫn còn, tất yếu sẽ tác động đến sức
mua nên tình hình thị trường vẫn diễn biến phức tạp: giá gạo có thể tăng do nhu cầu tăng;
nhu cầu tăng nhưng sức mua có thể giảm (do thu nhập giảm); sự cạnh tranh của các loại
lương thực có thể thay thế khác (đặc biệt là lúa mì, giá lại thấp hơn nhiều so với gạo).
Căn cứ dự báo sản lượng lúa gạo năm 2010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
Nông thôn báo cáo Thủ tướng theo văn bản số 457/BNN-KH ngày 11/2/2010, lượng lúa
hàng hoá cần tiêu thụ trong năm 2010 là 11,54 triệu tấn, chưa kể tồn kho năm 2009 chuyển
sang, Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã đưa ra kế hoạch xuất khẩu năm 2010: quý 1 xuất
khẩu 1,2 triệu tấn, quý 2 xuất khẩu 2 triệu tấn, quý 3 xuất 1,5 triệu tấn và quý 4 là 1,3 triệu
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN

13
Đề tài nghiên cứu khoa học
tấn. Thị trường xuất khẩu chính vẫn là Philippinnes, Malaysia, Cuba, châu Phi… (không
thay đổi nhiều so với năm 2009).
Để công tác xuất khẩu gạo đạt hiệu quả cao hơn, Hiệp hội lương thực Việt Nam cần
phát huy hơn nữa vai trò đại diện cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam tham vấn cho
Chính phủ chỉ đạo, điều hành công tác xuất khẩu gạo đạt được hiệu quả; tăng cường công
tác thông tin thị trường trực tiếp đến nông dân; các doanh nghiệp cần xây dựng vùng
nguyên liệu chuyên canh để bảo đảm sản xuất đáp ứng yêu cầu chất lượng và xây dựng
thương hiệu hàng hoá nâng cao giá trị hàng hoá. Cần tổ chức lại hệ thống thương lái và xay
xát gắn kết với các doanh nghiệp xuất khẩu để mua lúa gạo theo giá thị trường, không dưới
mức giá tối thiểu của Chính phủ phê duyệt. Duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu, bằng
các đa dạng sản phẩm, tăng cường mối quan hệ với các khách hàng truyền thống và thiết
lập khách hàng mới.
Để đạt được các mục tiêu xuất khẩu đề ra như trên, các doanh nghiệp xuất khẩu
trước hết cần thống nhất, đoàn kết dưới sự điều phối của Hiệp hội Lương thực Việt Nam,
theo sự chỉ đạo và điều hành của Chính phủ, kiên quyết đấu tranh với hiện tượng tiêu cực,
bán phá giá, gây thiệt hại đến quyền lợi của người sản xuất, của doanh nghiệp. Và trước
những biến động khó lường trong năm 2010, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần giữ giá
gạo ổn định, có thể chấp nhận được để cạnh tranh với các quốc gia xuất khẩu khác.
Thứ hai, nâng cao sức cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam. Trước mắt, Việt Nam
cần nâng cao năng lực điều phối điều hành giữa Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và Ủy ban Nhân dân các tỉnh,
thành phố vùng sản xuất lúa gạo cũng như VFA trong công tác chỉ đạo, điều phối hoạt
động xuất khẩu.
Việc tổ chức lại các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, loại bỏ bớt thành phần tham gia
xuất khẩu tự phát và chạy theo lợi nhuận thương mại; tạo cơ chế tích tụ quy mô hoạt động
xay xát, chế biến và dự trữ thông qua việc quy định cấp phép kinh doanh có điều kiện cũng
rất cần thiết.
Việc liên kết chặt chẽ giữa sản xuất, kinh doanh, nâng cao giá trị, chất lượng và xây

dựng thương hiệu hạt gạo Việt Nam đang trở nên cấp thiết trong xu thế hội nhập, công tác
marketing là hết sức cần thiết trong việc đưa hạt gạo Việt Nam ra thị trường thế giới. Cũng
như bao loại hàng hóa khác, gạo Việt Nam cũng cần phải định vị thương hiệu và nếu
không có chiến lược rõ ràng thì việc bán gạo cũng chi phối bởi quy luật cung cầu như bao
loại hàng hóa thông thường khác; phương phải nhanh chóng tổ chức lại sản xuất theo
hướng cánh đồng một giống ở những tổ hợp tác, trang trại, hợp tác xã. Điều này sẽ thuận
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
14
Đề tài nghiên cứu khoa học
lợi cho việc gieo sạ đồng loạt, khống chế dịch bệnh và thực hiện quy trình cơ giới hóa một
cách đồng bộ.
Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ hợp lý cho nông dân và doanh
nghiệp trong việc bao tiêu, tiêu thụ sản phẩm. Có như vậy, hạt gạo Việt Nam mới có
thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế./.
Thứ ba, Cần xây dựng thương hiệu cho gạo Việt Nam, tăng giá trị hạt gạo Việt
Nam. Việt Nam xuất khẩu lượng gạo lớn nhưng giá luôn thấp hơn gạo của Thái Lan vài
chục USD/tấn, nguyên do là gạo Việt Nam chưa có thương hiệu và chất lượng chưa ổn
định.
Trong khi đó, trên thị trường nội địa, gạo đóng gói có nhãn hiệu bày bán ở các siêu
thị cũng có giá cao hơn gạo cùng loại ở các sạp khoảng 20%. Do đó, điều cần làm là xây
dựng thương hiệu lúa gạo trên cơ sở chuẩn hóa chất lượng lúa gạo theo tiêu chuẩn quốc tế.
Điều kiện là doanh nghiệp có chiến lược xây dựng thương hiệu gạo chất lượng cao
tham gia “Liên kết bốn nhà”, cụ thể là tham gia chuỗi giá trị, liên kết xây dựng vùng
nguyên liệu thông qua hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, để bảo đảm chất lượng nguồn nguyên
liệu chế biến.Theo ông Richard Moore, chuyên gia Thương hiệu thế giới: "Giá gạo liên
quan đến chất lượng gạo và phương cách giao hàng. Nâng cao giá trị hạt gạo cần sự đầu tư
lớn về tiếp thị, bao bì và bán hàng. Xây dựng thương hiệu hạt gạo từ sản phẩm thông
thường khi gắn lên bao bì một thương hiệu là gắn với tạo dựng uy tín và liên hệ với khách
hàng trên thị trường. Thái Lan làm thương hiệu rất tốt nên họ vẫn là nước xuất khẩu gạo
đứng đầu thế giới và giá trị luôn cao hơn Việt Nam".

Còn Chủ tịch Hiệp hội Makerting thế giới, ông Hermawan Kartajaya, khi nói về
vấn đề này đã cho rằng do chúng ta chưa khám phá ra tính đặc trưng của hạt gạo Việt Nam,
làm cho nó trở nên nổi trội lên và giúp cho người tiêu dùng có thể phân biệt đâu là gạo Việt
Nam, đâu là gạo Thái Lan hay Trung Quốc Có như thế, chúng ta mới đánh đúng vào tâm
lý của người tiêu dùng. Một khi đã được nhận biết và ưa chuộng một thương hiệu, vấn đề
giá cả sẽ trở thành thứ yếu và người ta sẵn sàng bỏ tiền ra để mua vì sự hài lòng, thay vì
phải phân vân hay mặc cả về giá cả.
Vì vậy, vấn đề tạo mối liên hệ chặt chẽ với nông dân, nâng cao chất lượng và xây
dựng thương hiệu sản phẩm, duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu. Phải xem đây là
những vấn đề cốt tử, mang tính vĩ mô của nền kinh tế khi vẫn còn dựa vào thế mạnh nông
nghiệp.
Bộ Công Thương cho biết, theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, kể từ năm
2011, các công ty nước ngoài được quyền tham gia xuất khẩu gạo của Việt Nam. Nắm bắt
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
15
Đề tài nghiên cứu khoa học
lộ trình này, hiện nay các công ty kinh doanh gạo nước ngoài cũng đã thiết lập đại diện tại
Việt Nam, mặc dù không tham gia trực tiếp xuất khẩu gạo, nhưng họ đã cung cấp dịch vụ,
làm đại lý cho công ty lương thực tỉnh, hoặc ký hợp đồng với các công ty xuất khẩu. Đây
cũng là điều đáng lo cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong nước nếu không có sự
chuẩn bị kịp thời.
Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, năm 2010 xuất gạo sẽ có nhiều thách thức,
đòi hỏi phải có sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh, vì thương mại có tác dụng
hướng dẫn sản xuất và xác định kết quả sản xuất bằng cách tiêu thụ hợp lý sản phẩm làm
ra. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu để nâng cao giá trị sản
phẩm và xác lập thị phần , các doanh nghiệp cần liên kết với nông dân xây dựng vùng
nguyên liệu chuyên canh để bảo đảm sản xuất đáp ứng yêu cầu chất lượng và xây dựng
thương hiệu riêng.
Thứ tư, đẩy mạnh công tác điều hành xuất khẩu gạo. Trên cơ sở phương hướng
và nhiệm vụ đề ra, Hiệp hội Lương thực Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò đại diện cho

doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo Việt Nam, tham vấn cho Chính phủ chỉ đạo điều
hành công tác xuất khẩu gạo đạt được hiệu quả cao nhất. Trước mắt cần tập trung các
nhiệm vụ chính sau đây:
Liên kết chặt chẽ giữa sản xuất kinh doanh thương mại có tác dụng hướng dẫn sản
xuất và xác định kết quả sản xuất bằng cách tiêu thụ hợp lý sản phẩm làm ra. Do đó cần có
biện pháp tăng cường thông tin thị trường trực tiếp đến nông dân.
Nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu để nâng cao giá trị sản phẩm và xác
lập thị phần. Doanh nghiệp cần xây dựng vùng nguyên liệu chuyên canh để bảo đảm sản
xuất đáp ứng yêu cầu chất lượng và xây dựng thương hiệu riêng. Có thể nghiên cứu mô
hình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trên cơ sở thành lập tổ hợp tác hoặc công ty
cổ phần sản xuất và tiêu thụ lúa gạo, trong đó nông dân có thể góp vốn bằng quyền sử dụng
đất và lao động, doanh nghiệp đầu tư giống, vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm, bảo đảm
lợi ích hài hòa giữa doanh nghiệp và người sản xuất.
Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, chính quyền địa phương và hội nông dân các
cấp triển khai các biện pháp hỗ trợ nông dân trong sản xuất, thu hoạch và đầu tư cải thiện
công nghệ sau thu hoạch, để hạn chế thất thoát và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Tổ chức lại hệ thống thương lái và xay sát gắn kết với các doanh nghiệp xuất khẩu.
Thương lái, cơ sở xay xát và cung ứng gạo xuất khẩu phải đăng ký và mua lúa gạo theo giá
thị trường, nhưng không dưới mức giá tối thiểu được Chính phủ hướng dẫn, để bảo đảm
mức lãi hợp lý cho nông dân, có sự giám sát và quản lý của chính quyền địa phương.
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
16
Đề tài nghiên cứu khoa học
Duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu, trên cơ sở đa dạng sản phẩm, tăng cường
quan hệ với các khách hàng truyền thống và thiết lập quan hệ khách hàng mới.
Nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh doanh trên cơ sở bảo đảm giá bán phù hợp với
giá thị trường, không để bị ép giá và đặc biệt là cạnh tranh phá giá.
Phát huy nội lực, tăng cường sức cạnh tranh để đáp ứng yêu cầu hội nhập ngày càng
sâu rộng đối với ngành hàng trong thời gian tới. Các doanh nghiệp Việt Nam phải khẩn
trương chuẩn bị các điều kiện để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài được kinh

doanh lúa gạo tại Việt Nam theo cam kết với WTO vào năm 2011, trên cơ sở kiện toàn cơ
sở vật chất, tăng cường năng lực mua vào dự trữ, chế biến, bảo quản, nâng cao chất lượng,
nâng cao tay nghề và khả năng tiếp thị, ổng định và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Những thách thức đặt ra đối với xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới là rất lớn
và khó khăn, nhưng cần vượt qua để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu, đưa ngành lương thực
Việt Nam lên tầm cao mới. Để thực hiện có kết quả các mục tiêu đề ra, các doanh nghiệp
trước hết cần thống nhất, đoàn kết với sự điều phối của Hiệp hội Lương thực Việt Nam,
theo sự chỉ đạo và điều hành của Chính phủ vì lợi ích chung, tạo sức mạnh để cạnh tranh
trên thị trường thế giới trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng. Kiên quyết đấu tranh
với những hiện tượng tiêu cực, gian lận, bán phá giá, gây thiệt hại đến quyền lợi của người
sản xuất và lợi ích quốc gia./.
2. Cao su
Trong số các mặt hàng nông sản chủ lực thì cao su là mặt hàng tương đối quan
trọng tham gia vào xuất khẩu thu lại ngoại tệ cho đất nước. Việt Nam là một nước có điều
kiện thuận lợi để sản xuất và xuất khẩu cao su, tuy nhiên bên cạnh đó còn nhiều khó khăn
trong các giai đoạn để sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này. Sau đây là điển hình cho những
thành tựu và khó khăn mà ngành cao su gặp phải:
2.1 Thành tựu
Những thành tựu đạt được của ngành cao su Việt Nam sau khi gia nhập WTO:
Sau khi gia nhập WTO thị trường của Việt Nam đã được mở rộng rất nhiều. Sau 2
năm tham gia tổ chức thương mại thế giới cao su Việt Nam đã xuất khẩu sang hơn 45 thị
trường, có mặt tại Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, và mở rộng sang Đông Âu, Trung
Đông, Nam Mỹ và Châu Phi. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm
2008, 2009 sản xuất và xuất khẩu cao su có dấu hiệu ngừng trệ tuy nhiên hiện tại ngành
cao su đã có dấu hiệu phục hồi và đạt được thành tựu đáng kể:
Cùng thời điểm này năm 2009, do suy thoái kinh tế, các ngành sản xuất nguyên liệu
cao su đình đốn, giá mủ cao su xuất khẩu chỉ ở mức 1.200 USD/tấn. Sang đầu năm 2010,
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
17
Đề tài nghiên cứu khoa học

giá tăng lên 3.000 USD/tấn và hiện nay tăng lên mức 3.300 USD/tấn, tăng gần 300% so
với năm 2009.
Do giá tăng nên hai tháng đầu năm 2010, tuy xuất khẩu cao su của Việt Nam mới đạt
hơn 76.300 tấn, giảm 0,1% về lượng nhưng lại tăng 87% (xấp xỉ 192,7 triệu USD) về trị
giá so với cùng kỳ.
Sau đây là bảng tổng kết và dự tính hoạt động và khai thác cao su Việt Nam
**2010 *2009
Diện tích (hécta) 715.000 674.200
Sản lượng mủ khô (tấn) 770.000 723.700
Nhập khẩu (tấn) 130.000 144.200
Mục tiêu xuất khẩu (tấn) 750.000 726.000
Tiêu thụ nội địa (tấn) 140.000 120.000
2 tháng đầu năm 2010 2 tháng đầu năm 2009
Khối lượng xuất khẩu (tấn) 67.800 76.400
Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 169.5 103
( nguồn Tổng cục thống kê, các bộ ngành, các thương nhân)
Hiện Việt Nam có trên 500 nhà xuất khẩu cao su, xuất khẩu trên 80% sản lượng.
Nước ta cũng nhập cao su từ Thái Lan, Campuchia và Indonesia. Geruco là công ty xuất
khẩu cà phê lớn nhất cả nước.
70% lượng cao su xuất khẩu của nước ta là sang Trung Quốc, các thị trường xuất
khẩu quan trọng khác bao gồm Malaysia, Singapore, Hàn Quốc, Nga, Đài Loan, Mỹ, Nhật
và EU.
Hiện Việt Nam là nước xuất khẩu cao su lớn thứ 4 thế giới sau Thái Lan, Indonesia
và Malaysia.
Ngoài những thành tựu đạt được như trên là nhờ một phần lớn bởi khả năng của
chúng ta nhưng không thể phủ nhận những điều kiện thuận lợi trong việc xuất khẩu cao su
sau khi gia nhập WTO. Ví dụ như chúng ta được hưởng lợi từ đãi ngộ của Tối huệ
quốc( MFN- qui chế đối xử bình đẳng với các nước khác), thị trường tiêu thị mở rộng do
quan hệ ngoại giao,…
Đặc biệt sau khi gia nhập WTO thì ngành cao su Việt Nam đã có những bước

chuyển mạnh từ khâu sản xuất đến xuất khẩu, từ giải quyết việc làm đến vấn đề bảo vệ môi
trường, nâng cao đời sống nhân dân,…Ví dụ điển hình là trong năm 2009 hàng vạn công
nhân của Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam đã vượt khó khăn do ảnh hưởng của
khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn giữ được những thành quả đáng tự hào. Phong trào thi
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
18
Đề tài nghiên cứu khoa học
đua của Công nhân đã giúp đẩy nhanh sản xuất và nâng cao trình độ người lao động. Nếu
như năm 2003 có 42 sáng kiến làm lợi khoảng 7 tỷ đồng thì năm 2008 đã có gần 100 sáng
kiến với giá trị làm lợi lên tới 55 tỷ đồng. Tiền lương của công nhân được cải thiện rõ rệt
năm 2008 mức lương công nghân đã lên tới 5 triệu đồng/tháng/người.
Ngoài các phong trào thi đua lao động giỏi, phát huy sáng kiến, luyện tay nghề, thì
nhiều phong trào thi đua khác cũng được nhân rộng từ mọi cấp, đơn vị trên cả nước. Đơn
cử với việc thành lập Câu lạc bộ 2 tấn, ngành CSVN đã thúc đẩy hàng loạt đơn vị một cuộc
“chạy đua” về năng suất sản phẩm. Ban đầu, chỉ có 11 nông trường tham gia đạt 2 tấn/ha;
nhưng về sau, có tới 10 Cty đạt 2 tấn/ha ở miền Đông Nam Bộ.
Tiếp theo, một số Cty ở duyên hải miền Trung đạt 1,8 tấn/ha, có 52 nông trường ở
Tây Nguyên đạt trên 2 tấn/ha. Đặc biệt, có 11 nông trường liên tục duy trì năng suất 2
tấn/ha từ những ngày chưa thành lập Câu lạc bộ 2 tấn; thậm chí, có nông trường đạt tới con
số kỷ lục 2,4 - 2,8 tấn/ha
Theo công đoàn Cao su Việt Nam, điều quan trọng nhất trong hàng loạt giải pháp
“vượt khó” kể trên, là tập đoàn cố gắng giữ mức tiền lương, thu nhập của trên 86.000 CN
không bị giảm. Thậm chí, một số Cty có mức lương cao trên 6 triệu đồng/người/tháng như:
Tân Biên (6,4 triệu đồng), Dầu Tiếng (6,04 triệu đồng). Một số Cty đạt trên 5 triệu
đồng/tháng/người như: Tây Ninh (5,7 triệu đồng), Chư Sê (5,18 triệu đồng), Đồng Phú
(5,14 triệu đồng)
Theo thống kê mới nhất thực trạng xuất nhập khẩu sản phẩm của cao su Việt Nam 4
tháng đầu năm có sự chuyển biến rõ rệt.
Tháng
Xuất khẩu Nhập khẩu

ngàn USD So 2009 (%) ngàn USD So 2009 (%)
1 19.040 155,2 24.380 103,0
2 12.654 28,2 17.999 22,7
3 23.457 117,4 22.466 18,1
4 22.880 103,7 22.479 0,9
Tổng cộng 78.031 98,3 87.325 28,5
4T 2009 39.353 62.973
Nguồn: Tổng cục Hải quan, Hiệp hội Cao su Việt Nam tổng hợp

Vỏ xe là mặt hàng chủ lực trong các sản phẩm cao su xuất cũng như nhập. Kim
ngạch xuất khẩu vỏ xe trong 4 tháng đầu năm đạt 64,6 triệu USD, chiếm khoảng 82,9 %
tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm cao su. Xuất khẩu vỏ xe có mức tăng trưởng khá, tăng
43,1 % về trị giá, tăng 19,9% về số lượng và tăng 19,3% về giá so với cùng kỳ năm trước.
Chiếm tỷ lệ cao nhất về giá trị xuất khẩu là vỏ xe tải (62,5%), kế đến là vỏ xe máy 2 bánh
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
19
Đề tài nghiên cứu khoa học
(20,2%), vỏ xe đạp (8,1%), vỏ xe công nghiệp (6,3%). Đặc biệt vỏ xe ô-tô tuy giá trị xuất
khẩu còn ít nhưng đáng khích lệ vì cùng kỳ năm 2009 không xuất khẩu được.
Trong 4 tháng đầu năm 2010, vỏ xe Việt Nam được xuất trên 102 thị trường. Hoa Kỳ
có thị phần dẫn đầu, chiếm 25,7% với những sản phẩm chính là vỏ xe tải,vỏ xe công
nghiệp, vỏ xe đặc ruột, kế đến là Malaysia (7 %), Ai Cập (6,6%), Brazil (4,8%) và
Cambodia (4,4%).
Những công ty dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu lốp xe là Cty TNHH Lốp xe Kumho
Việt Nam (45,1%), Casumina (11,9%), Cty Cao su Kenda Việt Nam (11,8%), Cty TNHH
Công nghiệp Cao su Chính Tân (4,9%), Cty CP Cao su Đà Nẵng (4,7%), Cty TNHH Săm
lốp Liên Phúc (4,6%).
Thị trường của vỏ xe Việt Nam xuất khẩu trong 4 tháng đầu năm 2010
Thị trường
Ngàn

USD
Thị phần
%
Các sản phẩm chính được xuất khẩu
Hoa Kỳ 16.640 25,7 Vỏ xe tải, xe công nghiệp, vỏ xe đặc ruột
Malaysia 4.523 7,0
Vỏ xe tải, xe máy 2 bánh, xe con, xe công nghiệp,
OTR
Ai Cập 4.261 6,6 Vỏ xe tải, xe máy 2 bánh, ruột vỏ xe
Brazil 3.130 4,8 Vỏ xe tải, xe máy 2 bánh, xe đạp
Cambodia 2.859 4,4
Vỏ xe tải, xe máy 2 bánh, xe đạp, xe nông nghiệp,
OTR
Đài Loan 2.049 3,2 Vỏ xe máy 2 bánh, xe công nghiệp, OTR, xe đạp
Singapore 1.990 3,1 Vỏ xe tải, xe máy 2 bánh
Vương quốc Á
Rập 1.851 2,9 Vỏ xe tải, xe máy 2 bánh, xe công nghiệp, ruột vỏ xe
Úc 1.418 2,2
Vỏ xe tải, công nghiệp, xe máy 2 bánh, xe nông
nghiệp
Việt Nam 1.352 2,1
Vỏ xe máy 2 bánh, xe tải, ruột vỏ xe, xe công nghiệp,
OTR
Nhật Bản 1.260 1,9
Vỏ xe công nghiệp, ruột vỏ xe, xe con, xe nông
nghiệp
Nguồn: Tổng cục hải quan, Hiệp hội cao su Việt Nam tổng hợp.
2.2 Khó khăn
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì ngành Cao su Việt Nam gặp không ít khó
khăn thách thức khi tham gia hội nhập.

Đầu tiên là vấn đề về vốn cung cấp để sản xuất cao su Việt Nam gặp nhiều khó
khăn. Việt Nam là nước xuất khẩu cao su lớn thứ 5 thế giới vì thế việc đầu tư vốn để sản
xuất cao su rất cần thiết. Trong những năm vừa qua nhà nước đã đâu tư cho nông nghiệp
nói chung và ngành cao su nói riêng rất nhiều ưu đãi lớn tuy nhiên sự đầu tư đó vẫn chưa
cân xứng với những gì mà ngành cao su đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Việc đẩy
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
20
Đề tài nghiên cứu khoa học
nhanh hoạt động thu hút vốn đầu tư từ nước ngoài là việc làm cần thiết. Sau khi gia nhập tổ
chức thương mại thế giới các nước đã tăng dần tỉ lệ đầu tư vốn vào Việt Nam.
Trong bối cảnh như vậy, ngành cao su Việt Nam đang rất cần sự hợp tác của các nhà
đầu tư nước ngoài, đặc biệt trong lĩnh vực chế biến, để nâng cao giá trị gia tăng cho ngành.
“Nhiều công ty cao su của Việt Nam đang kêu gọi nguồn vốn đầu tư. Các nhà đầu tư
nước ngoài có thể đầu tư vào ngành cao su Việt Nam thông qua việc tham gia cổ phần tại
các doanh nghiệp, như Công ty cổ phần Cao su Tây Ninh (TRC), Công ty Cao su Đồng
Phú (DRC), Công ty Cao su Hòa Bình (HRC) ” Bên cạnh đó, một số nhà đầu tư nước
ngoài lo ngại rằng, việc Mỹ áp dụng thuế nhập khẩu cao đối với sản phẩm lốp ô tô của
Trung Quốc sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến xuất khẩu cao su của Việt Nam, bởi hiện nay,
sản phẩm cao su của Việt Nam chủ yếu xuất khẩu sang Trung Quốc. Đây là khó khăn
thách thức đối với ngành cao su Việt Nam hiện nay.
Ngoài những khó khăn về vốn ngành cao su Việt Nam thì vấn đề đầu ra cho sản
phẩm cao su cũng gặp nhiều khó khăn. Sau khi gia nhập WTO thì việc nhập khẩu vào các
thị trường phải tuân thủ những điều kiện hay gọi là rào cản qui định của tổ chức. Việt Nam
là nước đang phát triển nên việc tiếng nói trên trường quốc tế vẫn gặp rất nhiều khó
khăn.Các nước cạnh tranh xuất khẩu 1 mặt hàng chung vào 1 thị trường nào đó thì Việt
Nam luôn gặp những rào cản về kỹ thuật hoặc những rào cản về giá cả. Việc giảm sút tỷ lệ
xuất khẩu các loại nông sản trong một số giai đoạn qua là do thị trường quốc tế diễn biến
phức tạp và Việt Nam chưa tìm được giải pháp để chiếm lĩnh thị trường lâu dài và bền
vững.
Một khó khăn nữa đối với ngành cao su Việt nam là vấn đề lao động, ngành này sử

dụng quá nhiều lao động chân tay và công việc rất vất vả. Đây là khó khăn thách thức với
ngành cao su nói riêng và ngành nông nghiệp nói chung. Lao động trong ngành cao su chủ
yếu là trình độ thấp ko được đào tạo bài bản mà chủ yếu qua kinh nghiệm.
Ngành cao su và chế biến các sản phẩm từ cao su có thể áp dụng khoa học công
nghệ tiên tiến hiện đại Tuy nhiên Việt Nam luôn đi chậm hơn so với các nước phát triển
đến tận mấy chục năm. Vì vậy thực trạng về khoa học công nghệ với ngành cao su là một
khó khăn lớn của ngành này.
Tiếp theo khó khăn trên thì một rào cản hữu hình cũng là khó khăn để phát triển
ngành cao su Việt Nam. Hiện nay có rất nhiều qui định của nhà nước để phát triển ngành
cao su tuy nhiên những chính sách đó thực hiện không đạt được hiệu quả rõ rệt. Vì vậy để
thúc đẩy xuất khẩu cao su thì cần có những biện pháp phát triển sản xuất cao su trong nước
và những chính sách cụ thể tạo điều kiện thuận lợi để thúc đẩy xuất khẩu.
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
21
Đề tài nghiên cứu khoa học
Sau khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO cũng có những ảnh hưởng tiêu
cực tới xuất khẩu cao su Việt Nam: Giá cả các mặt hàng thiết yếu với nền kinh tế ( như
dầu thô) biến động không ngừng và rất khó lường đã đẩy giá các mặt hàng liên quan biến
động theo dẫn đến lạm phát, phá sản, khủng hoảng kinh tế Dẫn tới ảnh hưởng tới ngành
cao su. Đồng đô la mất giá do nền kinh tế Mỹ suy thoái và chính sách của Mỹ để giải quyết
vấn đề thâm hụt thwowgn mại dẫn đến giá trị thanh toán nhập khẩu dựa vào đồng đô la
chiếm tỷ lệ lớn. Đặc biệt khi thị trường mở thì khả năng cạnh tranh với các đối thủ xuất
khẩu trong vùng ( Thái Lan, Trung Quốc, Malaysia, Indonesia) sẽ càng khốc liệt hơn.
Trên đây không phải là toàn bộ những khó khăn ảnh hưởng tới xuất khẩu cao su
Việt Nam nhưng đó là điển hình để từ đó chúng ta tìm biện pháp thích hợp để phát triển
ngành cao su đặc biệt là đẩy mạnh xuất khẩu.
2.3 Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu cao su Việt Nam
Để phát triển cao su Việt Nam trong tương lai cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
Đầu tư vốn sản xuất thúc đẩy phát triển trồng và khai thác cây cao su hiệu quả.
Giải pháp đẩy mạnh công tác khuyến nông, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho các

hộ trồng cao su đăc biệt là công tác giống.
Giải pháp về thị trường xuất khẩu cao su trên thế giới. Cần làm tốt công tác nghiên
cứu thị trường xuất khẩu hàng hóa: Tình hình cung cầu cao su thế giới. Làm tốt công tác
dự báo sự biến động cung cầu để có thể có cơ hội tốt để phát triển.
Đẩy mạnh việc nghiên cứu xây dựng các nhà máy chế biển thành phẩm từ cao su vì
Việt Nam chủ yếu xuất khẩu cao su ở dạng thô. Cần hoàn thiện hệ thống chế biến mủ cao
su phát triển các xưởng sản xuất tạo ra các sản phẩm phù hợp nâng cao giá trị xuất khẩu.
Tạo điều kiện thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đẻ phát triển ngành
cao su. Đặc biệt đầu tư để tiếp cận với công nghệ hiện đại, công tác quản lý tiên tiến để sản
phẩm tạo ra có đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Hiện nay Trung Quốc là nước nhập khẩu cao su nhiều nhất của Việt Nam tuy nhiên
thị trường xuất khẩu này chủ yếu là thị trường tiểu ngạch vì thế định hướng chuyển sang
buôn bán cao su chính ngạch để giảm bớt rủi ro trong thanh toán. Để thực hiện mục tiêu
này thì cần mở rộng quyền kinh doanh cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cao su,
tận dụng khả năng thích ứng nhanh cạnh tranh năng động của các doanh nghiệp. Cần đa
dạng hóa sản phẩm cần được triển khai.
Tăng cường các biện pháp hỗ trợ về tài chính, tín dụng trong xuất khẩu. Chú trọng áp
dụng các dạng trợ cấp cho phép của WTO và AFTA ( dạng trợ cấp “màu xanh lá cây”)
( Nguyễn Hữu Khải, 2004)
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
22
Đề tài nghiên cứu khoa học
Cần có sự qui hoạch cụ thể của các địa phương để khống chế sự phát triển tự phát và
tăng nhanh diện tích trồng cao su.
3. Hạt tiêu
3.1. Thành tựu
Hạt tiêu đen là mặt hàng mới có mặt trong các nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam. Sau đây là một số thành tựu đạt được của mặt hàng này sau khi gia nhập WTO.
**2010 *2009
Diện tích (hécta) 50.500 50.500

Sản lượng (tấn) 100.000 105.600
Mục têu xuất khẩu 100.000 136.500
2 tháng đầu năm 2010 2 tháng đầu năm 2009
Khối lượng xuất khẩu (tấn) 13.500 15.400
Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 42 39
Việt Nam hiện là nước xuất khẩu và sản xuất hạt tiêu đen lớn nhất thế giới, với
doanh số bán năm 2009 chiếm một nửa tổng mậu dịch tiêu toàn cầu. Nước ta còn mua hạt
tiêu từ Campuchia sau đó tái xuất khẩu.
Các tỉnh Tây Nguyên hiện chiếm 97,8% tổng sản lượng tiêu cả nước.
Thị trường xuất khẩu hạt tiêu của nước ta đứng đầu là châu Á, chiếm 42% tổng xuất
khẩu, tiếp đến là EU với 37,5%, châu Phi 10,5% và Mỹ 10%.
Theo Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam (VPA), thị trường hồ tiêu đang có nhiều thuận lợi,
nhu cầu nhập khẩu tăng mạnh và giá hạt tiêu xuất khẩu cũng tăng ở mức cao.
Riêng trong tháng 2/2010, các doanh nghiệp Việt Nam đã xuất khẩu 9.000 tấn hạt tiêu, đạt
kim ngạch 28 triệu USD, nâng sản lượng hạt tiêu xuất khẩu trong 2 tháng đầu năm lên
17.000 tấn.
Do giá xuất cao nên dù sản lượng hạt tiêu xuất khẩu chỉ tăng khoảng 10% nhưng giá trị
kim ngạch tăng ở mức cao 33% so với cùng kỳ năm 2009.
Niên vụ 2009-2010, sản lượng hạt tiêu của Việt Nam dự kiến giảm mạnh do ảnh hưởng
thiên tai (cơn bão số 9 và số 11 năm 2009 gây thiệt hại lớn cho nhiều vùng trồng hồ tiêu
với dự kiến sản lượng sẽ sụt giảm khoảng 15%).
Tuy nhiên, nhờ đầu tư chăm sóc, phục hồi, thời vụ thu hoạch hồ tiêu đã bắt đầu và dự kiến
sản lượng chỉ sụt giảm khoảng 5-7%.
Dự kiến, nguồn cung hạt tiêu của Việt Nam trong năm nay sẽ đạt hơn 100.000 tấn, tương
đương năm 2009.
Giá tiêu xuất khẩu được dự báo sẽ tiếp tục biến động theo chiều hướng tăng vì nhu cầu tiêu
thụ trên thế giới chưa có dấu hiệu giảm.
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
23
Đề tài nghiên cứu khoa học

Trong khi đó, do thời tiết và sâu bệnh, sản lượng hạt tiêu của các nước xuất khẩu lớn như
Ấn Độ, Indonesia được dự báo sẽ giảm mạnh. Hiện tại Mỹ và Đức là những thị trường
nhập khẩu hồ tiêu hàng đầu của Việt Nam.
Hiệp hội Hồ tiêu Việt Nam khuyến cáo các doanh nghiệp thu mua, chế biến xuất khẩu đẩy
mạnh việc gia tăng xuất khẩu hạt tiêu trắng nhằm nâng cao giá trị xuất khẩu (hạt tiêu trắng
có giá xuất cao hơn khoảng 30% so với hạt tiêu đen).
Trong những năm qua, sản lượng hạt tiêu trắng mới chiếm chưa đến 20% tổng sản lượng
hạt tiêu xuất khẩu của cả nước./.
Giá hạt tiêu thế giới
Loại hạt tiêu đen 31/08/2009
Chênh lệch so với
cuối tháng 7
Ấn Độ, USD/tấn (c&f) 3150 + 300 USD/tấn
MG1Asta, USD/tấn 3.200-3250 + 450 USD/tấn
Asta của Lampong , USD/tấn ( C&F New Oóc) 3150 + 450 USD/tấn
Asta của Việt Nam , USD/tấn (FOB) 3100 + 375 USD/tấn
550 GL của Việt Nam , USD/tấn (FOB) 2700 +175 USD/tấn
500 GL của Vietnam , USD/tấn (FOB) 2850 +457USD/tấn
Asta của Brazil , USD/tấn, (FOB) 2850-2900 +350 USD/tấn
Muntok trắng, USD/tấn (C&F New Oóc) 4200-4250 +100 USD/tấn
Vietnam trắng, USD/tấn (C&F New Oóc) 4200-4250 +500 USD/tấn

Sản lượng hạt tiêu thế giới năm 2009 và dự báo 2010. Đơn vị: Tấn
Nước Năm 2009 Năm 2010
(dự báo)
Thế giới 281.974 290.742
Việt Nam 95.000 90.000 - 95.000
Ấn Độ 50.000
Braxin 35.000 35.000
Indonesia 25.000

Malaysia 22.000
Sri Lanka 15.600
(Nguồn: Reuters, Business Lines)
Theo số liệu thống kê, tháng 3 năm 2010 cả nước đã xuất khẩu 14.244 tấn hạt tiêu, trị
giá 41,93 triệu USD, tăng 126,38% về lượng và 114,77% về kim ngạch so với tháng
2/2010; (tăng 24,35% về lượng và tăng 60,44% về kim ngạch so với tháng 3/2009). Tính
chung quí I/2010 xuất khẩu 28.057 tấn hạt tiêu, trị giá 84,9 triệu USD, tăng 5,09% về
lượng và tăng 30,7% về kim ngạch so cùng kỳ năm 2009.
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
24
Đề tài nghiên cứu khoa học
Quí I/2010 chỉ có 2 thị trường xuất khẩu hạt tiêu đạt trên 10 triệu USD, đó là: Hoa
Kỳ 14,3 triệu USD và Đức 12,73 triệu USD.
Kim ngạch xuất khẩu hạt tiêu quí I/2010 sang hầu hết các thị trường đều đạt kim
ngạch tăng trưởng dương so với cùng kỳ năm 2009, dẫn đầu về mức tăngtrưởng là thị
trường Australia (+277,8%); tiếp đến thị trường Ấn Độ (+259,1%); Đức (+133,4%);
Canada (+121,7%)… Ngược lại cũng còn một số thị trường bị sụt giả kim ngạch là:
Singapore (-67,99%); Tây Ban Nha (-53,82%); Ai Cập (-44,45%); Tiểu vương quốc Ả Rập
thống nhất (-40,56%); Nhật Bản (-31,51%); Italia (-10,5%); Philippines (-10,38%); Nam
Phi (-4,54%).
Đáng chú ý nhất trong tháng 3/2010 là kim ngạch xuất sang Singapore, mặc dù chỉ
đạt 0,6 triệu USD, nhưng tăng mạnh tới 1.720,6% so với tháng 2/2010. Ngoài ra, còn rất
nhiều thị trường có mức tăng mạnh kim ngạch so với tháng 2/2010 là: Thổ Nhĩ Kỳ
(+497,94%); Pakistan (+414,27%); Tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (+317,47%); Ai
Cập (+295,07%); Malaysia (+258,16%); Australia (+255,84%); Ba Lan (+254,36%); Hà
Lan (+189,51%); Ấn Độ (+178,86%); Hoa Kỳ (+147,61%); Italia (+115,49%).
Với những thành tựu trên có thể khẳng định hạt tiêu là một nông sản xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam sau khi gia nhập WTO.
3.2 Khó khăn
Bên cạnh những thành tựu đạt được thì ngành sản xuất và xuất khẩu hồ tiêu của Việt

Nam vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Sản phẩm hồ tiêu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm thô
xuất khẩu sang các nước có nền kinh tế khá phát triển họ sẽ chế biến và xuất khẩu sản
phẩm cuối cùng, chính vì thế hồ tiêu Việt Nam chưa có thương hiệu cụ thể dẫn tới giá trị
sản phẩm không cao. Theo Ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội HTVN (VPA) cũng công
nhận sản phẩm HTVN vào thị trường EU hầu hết phải qua kênh trung gian. Thị trường
phân phối trung gian là kênh phân phối giữ vị trí quan trọng nhất và có ảnh hưởng nhiều
nhất đối với các đầu cung ứng từ các nước sản xuất và xuất khẩu cũng như là các kênh
phân phối tiếp theo, đặc biệt trong việc kiểm soát giá cả. Ông Trịnh Khắc Lý, Phó Chủ tịch
kiêm Tổng thư ký VPA cho rằng, HTVN phải xuất qua trung gian bởi khâu chế biến quá
yếu kém, chất lượng không đảm bảo, tạp chất nhiều, độ ẩm thường cao hơn mức cho phép.
Những nhà buôn lớn của thế giới đã mua tiêu Việt Nam với giá rẻ, đem chế biến lại và xuất
bán cho người tiêu dùng với thương hiệu của họ.
Đạt được những thành tựu như trên tuy nhiên Hồ tiêu Việt Nam vẫn còn tồn tại
những hạn chế lớn: thương hiệu HTVN vẫn chưa có mặt trên thị trường thế giới; tiêu Việt
ĐH Kinh tế Quốc dân Khoa BĐS & KTTN
25

×