Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

nghiên cứu sự ảnh hưởng của loại thuốc bảo quản và thời gian ủ đến độ sâu thấm thuốc đối với gỗ bạch đàn trắng bằng phương pháp băng đa 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (293.66 KB, 28 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ

Gỗ là một loại nguyên liệu quý, nhưng do ta thường xuyên tiếp xúc với nó
nên cảm thấy bình thường và từ đó đã thiếu quan tâm sử dụng một cách hợp lý.
Gỗ được sử dụng với nhiều mục đích khác nhau nh: xây dựng, giao thông vận
tải, kiến trúc, thể thao, âm nhạc… từ khi chào đời đã tiếp xúc với gỗ và đến khi từ
giã cõi trần còng mang nã theo. Cuộc sống không thể thiếu gỗ còng nhchất lượng
cuộc sống sẽ không đảm bảo nếu thiếu rừng. Nhưng một thực tế đã và đang còn
tiếp tục xẩy ra là sức sản xuất của rừng tự nhiên không đáp ứng được nhu cầu sử
dụng của con người nên hiện tượng nghèo rừng, mất rừng xẩy ra ở nhiều nơi.
Đã đến lúc xã hội phải đánh giá cho đúng vai trò của gỗ và công nghiệp chế
biến gỗ đặc biệt là vai trò của chuyên nghành bảo quản lâm sản, phải tiết kiệm và
hợp lý hoá việc sử dụng nguồn tài nguyên vô cùng quý giá này của rừng. Chính vì
vậy trong những năm gần đây đảng và chính phủ đã có chủ trương phủ xanh đất
trống đồi trọc, phát triển hơn nữa nghành chế biến lâm sản cụ thể là dự án trồng 5
triệu ha rừng và sản xuất một triệu mét khối ván nhân tạo vào năm 2010.
Gạch đàn trắng là mét trong những loài gỗ rừng trồng tiêu biểu có năng suất
cao, thích nghi tốt với điều kiện khí hậu nước ta nhưng nhược điểm chung với gỗ
rừng trồng là có độ bền tự nhiên kém, rất dễ bị sâu nấm phá hoại. Vì vậy việc
nghiên cứu và bảo quản nhằm nâng cao khả năng chống chịu với môi trường cho
gỗ rừng trồng là hết sức quan trọng và cấp thiết, nó mở ra cho gỗ rừng trồng phạm
vi sử dụng rộng rãi và có độ bền tốt hơn.
Được sự giúp đỡ của cô giáo Th. S Đỗ Thị Ngọc Bích, các thầy cô giáo trong
khoa Chế Biến Lâm Sản trường Đại Học Lâm nghiệp tôi được phân công tiến hành
đề tài:
“Nghiên cứu sự ảnh hưởng của loại thuốc bảo quản và thời gian ủ đến độ
sâu thấm thuốc đối với gỗ bạch đàn trắng bằng phương pháp băng đa”



PHẦN 1



TỔNG QUAN

1.1. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ BẢO QUẢN

1.1.1. Trên thế giới

Gỗ được sử lý bảo quản ngoài việc kéo dài thời gian sử dụng nã còn đảm bảo
an toàn cho các sản phẩm và công trình có sử dụng gỗ. Đến năm 1747 Emmesson
đã đề xuất dùng thuốc dầu để bảo quản gỗ. Creozote là một loại thuốc dầu được sử
dụng rộng rãi nhất và hiệu quả nhất đối với việc bảo quản gỗ tà vẹt, gỗ cột điện.
Người phát minh đầu tiên dùng creozote để tẩm gỗ là John Bechell năm 1838.
Cách đây hơn 300 năm, các sản phẩm hoá công nghiệp đã được ứng dụng trong
việc bảo quản gỗ. Người ta đã sử dụng hỗn hợp các loại muối nh sodium chloride
và sodium sulphat. Đến giữa thế kỷ 19 hàng loạt những hoá chất dùng cho bảo
quản gỗ ra đời. Năm 1970 nhà khoa học Johe Pringle đã đưa ra mét sè thuốc bảo
quản dạng muối và hoàn thiện hơn là Docter Macbride đã liệt kê các loại thuốc này
vào năm 1810. Đến năm 1882 có 5 công nghệ bảo quản mới ra đời cùng với việc
sử dụng những loại thuốc bảo quản nh clorua thuỷ ngân (1805), clorua kẽm
(1815), sulphat đồng (1837). Mét công nghệ bảo quản gỗ nổi tiếng và có kết quả
đầu tiên trong việc trống vi sinh vật hà phá hại gỗ dưới biển lrayaning ở anh
(1863).
Ở thế kỷ thứ 19, Kian đã tẩm gỗ trong dung dịch 1% HgCl
2
trong thùng xây
bằng gạch, còn Bunet (1838) thì tẩm gỗ trong dung dịch 2% ZnCl
2
trong thùng tẩm
bằng gỗ, Bryan (1830) đã miêu tả sự thấm thuốc creosote ở mét sè loạl gỗ khác
nhau. Bryan là người đầu tiên được cấp bằng sáng chế ra phương pháp tẩm chân

không áp lực (1831). Phương pháp này gọi là phương pháp tế bào đầy, nã mang lạl
hiệu quả cao của việc ngâm tẩm trong thời gian ngắn.
Thời kỳ này các tác giả đã nghiên cứu thực nghiệm những vấn đề về sức thấm
thuốc theo phương pháp khuyếch tán, đề tài mà chúng tôi đang nghiên cứu tiếp.
Nghiên cứu về tính thẩm thấu của 100 loại gỗ, Smith và Lee (1958) so sánh,
giữu hai laọi gỗ cây lá rộng và cây lá kim , cây lá rộng với cây lá rộng, độ thẩm
thấu có sự khác nhau.

Còng Smith và Lee (1985), đã chú ý đến sù thay đổi thẩm thấu của loài gỗ
tếch, thấy sự chênh lệch giữa giá trị lớn nhất và giá trị nhỏ nhất của nó đạt tới 3000
lần. Đối với thông đỏ Châu Âu, độ thẩm thấu của loài này chênh lệch nhau chỉ có
39 lần[33].
Siau (1984), còng nghiên cứu tính thẩm thấu trên cây thông Mỹ, mọc ở vùng
núi, độ thẩm thấu là thấp nhất (chỉ bằng 5, 4.10
- 3
darsi), còn cây mọc ở vùng ven
biển Thái Bình Dương, độ thẩm thấu vào loại trung bình (khoảng10
- 2
darsi). Điều
đó nói lên rằng gỗ cây cùng một loài có nguồn gốc xuất xứ khác nhau còng có độ
thẩm thấu khác nhau
Vinden (1984), xác định hệ số khuyếch tán đồng (CuSO
4
) đối với thông đỏ
Châu Âu. Ở thí nghiệm này tác giả đã dùng miếng gỗ đã được ngâm nước đến
trạng thái bão hoà (ruột tế bào đã chứa đầy nước), lúc này hệ số khuyếch tán là 8,
884 so với 0,599. Tác giả kết luận rằng, quá trình khuyếch tán chủ yếu xẩy ra ở các
mao mạch trong tế bào rỗng. Hàm lượng nước trong gỗ cao thì tốc độ khuyếch tán
tăng.
Tamblyn (1985), tại australia, tác giả dùng gỗ tẩm cây lá rộng rừng nhiệt đới

với nhiệt độ là 90
0
C, ngâm trong dung dịch 30% NaBO
4
. 5H
2
O 16 giờ đạt được độ
sâu thấm thuốc cần thiết là 25 mm để phòng ngừa sinh vật hại gỗ

1.1.2. ỞViệt Nam

Tõ xa sưa ông cha ta đã biết bảo quản gỗ một cách độc đáo đó là ngâm gỗ
xuống bùn ao, các dòng chảy nước ngọt hoặc hun khói, phủ hắc Ýn với các sản
phẩm gỗ đã chế biến. Các phương pháp này đã đem lại hiệu quả nhất định cho các
công trình xây dựng hay đồ gỗ sử dụng trong gia đình và nó còn ảnh hưởng đến tận
bây giờ ở các vùng nông thôn Việt Nam. Tuy nhiên các phương pháp bảo quản
truyền thống này cũng có mét sè nhược điểm nh thời gian sử lý tương đối lâu, hiệu
quả đối với mét sè côn trùng, nấm mốc chưa triệt để.
Ngày nay do tiến bộ của các ngành khoa học kỹ thuật nh là hoá học, sinh học
đã phát triển nhanh chóng công nghệ bảo quản lâm sản bằng hoá chất có những ưu
thế rõ rệt. Rút ngắn thời gian bảo quản, nâng cao khả năng chống chịu môi trường
cho gỗ, đã đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn sản xuất.
Mét sè tài liệu đã nghiên cứu trong lĩnh vực bảo quản lâm sản ở nước ta nh:

Nguyễn Thế Viễn và các cộng tác viên, xác định sức thấm thuốc của mét số loại
gỗ xẻ có kích thước khác nhau dùng trong xây dựng với thuốc donalit ULL bằng
phương pháp ngâm thường, báo cáo khoa học viện lâm nghiệp rừng 1996.
Nguyễn Xuân Khu - Đàm Bính, lượng thuốc thấm khi thay đổi nồng độ dung
dịch tẩm theo phương pháp ngâm thường và việc xác lập phương trình tương quan,
mét sè kết quả nghiên cứu ứng dụng khoa học kỹ thuật viện công nghiệp rừng, nhà

xuất bản lâm nghiệp 1985.
Nguyễn Xuân Khu, Mét sè dẫn liệu về sức thấm thuốc của 10 loại gỗ vùng
thanh sơn vĩnh phú, báo cáo khoa học 1982-1993, viện công nghiệp rừng.
Nguyễn Văn Thống, Kiểm tra tác dụng chống nấm gây mục gỗ của các loại
thuốc celcure, Ascuteto - U và pentacholorphenol, mét sè kết quả nghiên cứu ứng
dụng khoa học kỹ thuật viện công nghiệp rừng, nhà xuất bản nông nghiệp 1985.
Lê Văn Lâm, Thành phần của xén tóc (ceram bycidae, coleoptera) hại gỗ ở bắc
thái, đặc điểm sinh học sinh thái mét sè loài chủ yếu hại gỗ và biện pháp phòng trừ,
luận án PTS viện khoa học lâm nghiệp 1996.
Nguyễn Trí Thanh, Kết quả nghiên cứu mét số loại thuốc muối để bảo quản gỗ
(1982-1983).

Những năm gần đây việc nghiên cứu bảo quản nói chung và bảo quản các loại
gỗ rừng trồng nói riêng đã được giáo viên và sinh viên khoa chế biến lâm sản -
Trường Đại Học Lâm Nghiệp tiến hành nghiên cứu nh:
Đỗ Thị Ngọc Bích (1999), thuốc bảo quản CCA và việc sử dụng các loại thuốc
này đối với gỗ nhiệt đới (dịch tõ wood preservation of tember in the tropies) [6}.
Vò Hà Phương (2001), nghiên cứu sự ảnh hưởng của độ Èm đến độ sâu thấm
thuốc XM5 của gỗ keo lá tràm (Acacia auriculi formics cumn) bằng phương pháp
ngâm thường.[3]
Hoàng Tùng Lâm (2001), xác định độ sâu thấm thuốc XM5 của gỗ keo trắng
bằng phương pháp ngâm thường.[4]
Ngô Minh Khang (2001),xác định hiệu lực mét số loại thuốc bảo quản ngăn
mối xâm nhập công trình xây dựng bằng nền móng.
Trần Thị Dương (2002), nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian ngâm tới độ sâu
thấm thuốc XM - 5B bằng phương pháp ngâm thường.[5]

Lê Hồng Kiên (2002), nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ dung dịch XM - 5B
đến độ sâu thấm thuốc đối với gỗ Bạch đàn trắng bằng phương pháp khuyết tán.[6]
Hoàng Minh Huấn (2002), xác định ảnh hưởng của độ Èm gỗ bạch đàn trắng

đến chiều sâu thấm thuốc XM - 5B bằng phương pháp băng đa.[7]
Đối với gỗ bạch đàn trắng có tác giả Nguyễn Quý Nam [8] nghiên cưu về đặc
điểm cấu tạo tính chất cơ lý, định hướng sử dụng chóng. Để mở rộngthêm phạm vi
sử dụng của gỗ bạch đàn trắng và nhằm phục vụ đồng bào các vùng nông thôn
miền nói trong các công trình công cộng, các đề tài bảo quản gỗ lần lượt được ra
đời đặc biệt với phương pháp băng đa rất được ưa chuộng.

1.2. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI.

Mục tiêu đề tài là bảo quản gỗ rừng trồng để phục vụ các vùng nông thôn và
miền núi. Đề tài trọng tâm nghiên cứu giải quyết các vấn đề sau đây:

1- Nghiên cứu mối quan hệ giữa độ sâu thấm thuốc với thời gian ủ, của gỗ bạch
đàn trắng khi dùng phương pháp băng đa.
2- Nghiên cứu mối quan hệ giữa độ sâu thấm thuốc của các loại thuốc XM-5B;
BB; BB - NaF với thời gian ủ của gỗ bạch đàn trắng bằng phương pháp băng đa.

1. 3 NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

Để đạt được mục tiêu trên tôi tiến hành nghiên cứu những nội dung cụ thể
sau
1- Xác định được chiều sâu thấm thuốc của gỗ bạch đàn trắng ở các cấp thời gian
ủ.
2- Xác định được mối tương quan giữa thời gian ủ với chiều sâu thấm thuốc của gỗ
bạch đàn trắng trong phương pháp băng đa.
3- Xác định được chiều sâu thấm thuốc của gỗ bạch trắng ở mỗi loại thuốc.
4- Xác định được mối tương quan giữa mỗi loại thuốc với mỗi chiều sâu thấm
thuốc của gỗ bạch đàn trắng bằng phương pháp băng đa.

1. 4 PHẠM VI NGHIÊN CỨU.



Chiều sâu thấm thuốc trong phương pháp băng đa phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố nh: nguyên liệu, chế độ tẩm, độ Èm môi trường, loại thuốc, nồng độ dung
dịch và mét sè yếu tố khác.
Các yếu tố thuộc về nguyên liệu:
Loại gỗ;
Độ Èm gỗ;
Tuổi cây.
Các yếu tố thuộc về thuốc bảo quản:
Loại thuốc;
Nồng độ thuốc;
Điều kiện nhiệt độ của thuốc.
Các yếu tố thuộc về phương pháp tẩm:
Thời gian ủ;
Hướng thấm thuốc.
Vấn đề cơ bản ảnh hưởng đến chiều sâu thấm thuốc của gỗ trong đề tài
nghiên cứu đó là loại thuốc và thời gian ủ cho thuốc tiếp tục khuếch tán vào sâu
trong gỗ. Trên cơ sở đó và để đạt được mục tiêu của đề tài thì những vấn đề trong
phạm vi giới hạn mà tôi tiến hành nghiên cứu là:
Loại gỗ: Bạch đàn trắng (Eucaliptus camaldulensis)
Độ Èm gỗ: độ Èm gỗ ngay sau khi chặt hạ.
Phương pháp băng đa.
Tuổi cây 8 - 9 tuổi.
Thời gian ủ thay đổi tõ 4-8-12 tuần ứng với 9 xeri thí
nghiệm.
Loại thuốc:
1. Hỗn hợp muối Borax và axit Boric
(BB). Hçn hîp muèi Borax vµ axit Boric
(BB).

2. Thuốc muối XM-5B. Thuèc muèi XM-
5B.
3. Hỗn hợp thuốc muối BB và NaF. Hçn
hîp thuèc muèi BB vµ NaF.
Điều kiện thuốc nhiệt độ phòng (20 3)
0
C.
Thuốc ở dạng cao.










PHẦN 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN
2. 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN LIỆU GỖ

2. 1. 1 Cơ sở lý luận về gỗ.

Gỗ là loại nguyên liệu được con người biết đến từ lâu đời và được sử dụng
rộng rãi nhất. Chúng được sử dụng trong nhiều lĩnh vực nh: công nghiệp, nông
nghiệp, giao thông vận tải kiến trúc, xây dựng…v…v

Cấu tạo gỗ


C Êu tạo gỗ là yếu tố quan trọng là cơ sở để giải thích mọi hiện tượng trong
quá trình gia công chế biến, cũng như trong bảo quản gỗ. Có rất nhiều thành phần
cấu tạo gỗ, tuy nhiên xét về mặt bảo quản thì có ba thành phần chủ yếu và rất quan
trọng đó là quản bào, mạch gỗ và tia gỗ. Ba thành phần này là con đường dẫn dung
dịch từ ngoài vào trong gỗ[2,9].
Thành phần hoá học gỗ.

Thành phần hoá học gỗ rất phức tạp, mô gỗ gồm nhiều cấu tử hoá học phân
bố không đều trong các bộ phận của cây. Các thành phần này khác nhau giữa các
loài [10]. Nã là một thể hỗn hợp rất phức tạp của các chất phân tử Polysacarit gồm
có các nhóm cacbonin và nhân ben zen tạo thành [2,10,11]. trong gỗ các tính chất
chủ yếu gồm có hai nhóm:

Nhóm các chất hữu cơ: Chiếm 99-99.7% thể tích của cây, bao gồm các chất
như xenlulo, hemixenlulo, linnhin. Đây là ba thành phần chính cấu tạo nên vách tế
bào. Ngoài ra còn có mét sè chất như: chất dầu, chất màu, chất chát, tinh bột,
đường, … các chất này tồn tại trong ruột tế bào.


Nhóm các chất vô cơ: Chiếm 0, 3 - 1% khi đốt cháy hoàn toàn các chất này
biến thành tro. Các chất vô cơ bao gồm: K, Na, Ca, Mg…
Để hạn chế sự gây hại của côn trùng, nấm, mốc cần loại bỏ các chất lạ thức ăn
của chúng bằng cách ngâm vào trong nước để các chất đường bột tan vào trong
nước. Tuy nhiên, biện pháp này khó thực hiện vì vậy mà người ta sử dụng các biện
pháp bảo quản hoá chất nhằm biến gỗ không phải là thức ăn cho các sinh vật hại
gỗ.
Tính chất của gỗ.

Gỗ có rất nhiều các tính chất, song trong công nghệ bảo quản gỗ thì có hai

tính chất rất được coi trọng.

Tính chất hút nước của gỗ:Là năng lực hút lấy nước vào trong gỗ khi ngâm
nã trong nước. Độ hút nước, thời gian hút nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Khối
lượng thể tích, vị trí, chiều thớ, kích thước, nhiệt độ nước, độ Èm ban đầu… Trong
đó yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất là khối lượng thể tích, Khối lượng thể tích càng
lớn thì khả năng hút nước càng chậm. Gỗ lõi hút nước chậm hơn gỗ giác, mặt cắt
xuyên tâm mặt cắt tiếp tuyến hút nươc rất chậm. Diện tích mặt cắt ngang càng lớn
thì tốc độ hút nước càng nhanh, nhiệt độ cao gỗ hút nước nhanh nhưng không
nhiều [2,9].
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến sức hút của gỗ là vấn đề có ý nghĩa
thực tế trong kỹ thuật ngâm tẩm gỗ bằng hoá chất dưới điều kiện áp xuất thường.

Tính chất thấu nước của gỗ: Tính chất hút nước hay của gỗ là sức thẩm
thấu của nước và các dịch thể khác nhau vào gỗ nhờ áp lực bên ngoài. Người ta
thường dùng tính chất này trong ngâm tẩm, quét sơn, nhuộm màu tráng keo, mức
độ thấm sâu của nước và các dịch thể tuỳ theo áp lực mạnh hay yếu. Thời gian dài
hay ngắn, nhiệt độ cao hay thấp. Tính chất của dịch thể, loại gỗ, gỗ giác hay gỗ lõi.
Tia gỗ càng dày càng lớn thì chiều xuyên tâm thấu nước mạnh hơn chiều tiếp tuyến
[2,9].
Lợi dụng tính chất này của gỗ mà người ta tiến hành bảo quản gỗ bằng
phương pháp tẩm áp lực làm cho thuốc bảo quản thấm sâu vào trong gỗ nhằm hạn
chế và tiêu diệt sự xâm nhập của các loài sinh vật hại gỗ.


2.1.2. Cơ sở lý luận về gỗ bạch đàn trắng.

Theo W. Fblalel bạch đàn là mét chi thực vật lớn. Trên thế giới có khoảng 500
loài và 138 thứ được trồng trên 90 nước với vùng phân bố rộng, phân bố tập trung
ở Asutralia, Malayxia. Bạch đàn được trồng ở nơi có khí hậu phổ biến ở nơi có khí

hậu nhiệt đới [30]. Đây là loại cây phù hợp với điều kiện nóng Èm, mưa nhiều
nhưng lại có khả năng chịu hạn , chịu rét kém có khả năng tăng trưởng nhanh.
Theo thống kê năm 90 trên thế giới có hơn bốn triệu ha rừng trồng bạch đàn
với sản lượng khai thác hàng năm khoảng 60 triệu gỗ [12][28][30]. Gỗ bạch đàn
đã được nhiều nước trên thế giới sử dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau. Ở các
nước Austrralia, Braxin, và Nam Phi, bạch đàn là nguyên liệu cho nghành công
nghiệp sản xuất bột giấy, sợi viseo. Ở nhiều nước sử dụng bạch đàn trong xây dựng
[31].
2. 1. 2. 1 Đặc điểm sinh thái của gỗ bạch đàn trắng.

Gỗ bạch đàn trắng (Eucaliptus camaldulensis Denh) thuộc họ sim, là loài cây
bản địa ở Australia. Ngày nay nã được trồng phổ biến ở các nưới có khí hậu nhiệt
đới [12],[31]. Nã du nhập vào việt nam tõ những năm 70, đây là loài cây thích nghi
với điều kiện nóng Èm, mưa nhiều không có khả năng chịu hạn, chịu rét có tốc độ
tăng trưởng nhanh. Chiều cao tăng trưởng hàng năm là 2, 5 m, đường kính tăng
trưởng hàng năm là 2 - 3 cm, sản lượng tăng trưởng trung bình hàng năm là 18-
20, /năm. Bạch đàn sống trong điều kiện nhiệt độ từ lạnh đến nóng:
Nhiệt độ tháng nóng nhất (27 - 40)
0
C;
Nhiệt độ tháng lạnh nhất tõ (3 - 5)
0
C;
Lượng mưa bình quân tõ (250 - 600) mm.
Rất phù hợp với điều kiện khí hậu nước ta.
Bạch đàn trắng dễ sinh trưởng trong điều kiện đất đai nghèo kiệt, nên được
coi là cây gỗ rừng trồng mọc nhanh, chống xói mòn, phủ xanh đất trống đồi núi
trọc.
Bạch đàn trắng là loại cây gỗ lớn, thân thẳng, tán thưa phân cành cao. Có vỏ
nhẵn màu tro sau bong ra thành từng mảng, lớp vỏ mới lộ ra có màu xám xanh

hoặc ánh bạc. Cành non màu tím hồng mảnh và hơi rủ.

sâu thấm thuốc cần thiết. Các loại thuốc có thành phần gốc đồng có hiệu quả
với hà hơn cả.

2.3. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ THUỐC BẢO QUẢN

2. 3. 1 Thuốc bảo quản

Thuốc bảo quản là những chế phẩm có nguồn gốc từ hoá học, sinh học có tác
động trực tiếp hoặc gián tiếp vào lâm sản nhằm tiêu diệt, ngăn ngừa, sự phá hoại
của các tác nhân sinh vật gây hại lâm sản như: nấm, côn trùng, hà biển… hoặc các
tác nhân vô sinh như lửa, nước… chúng có khả năng khuyếch tán và ổn định trong
gỗ và lâm sản [15].
Hiện nay thuốc bảo quản lâm sản có nhiều tên nhiều loại khác nhau nhưng các
chất cơ bản tạo nên chúng thì không nhiều. Muốn đạt được hiệu quả cao thì thuốc
bảo quản cần có mét sè yêu cầu sau:[10]
Phải có độ độc cao đối với sinh vật hại lâm sản, nhưng không gây hại cho
người và gia súc.
Ýt gây ô nhiễm môi trường.
Dễ thấm vào gỗ và lâm sản, dễ sử dụng.
Có tính ổn định trong gỗ và lâm sản.
Không làm giảm tính chất cơ lý của lâm sản.
Không ăn mòn kim loại.
Rẻ tiền, phải có sẵn trong thị trường đặc biệt là thị trường trong nước.
Dễ kiểm tra bằng chất chỉ thị màu hoặc có màu đặc trưng dễ áp dụng.
Không làm tăng tính chất cháy của vật liệu tẩm.
Không ảnh hưởng đến màu sắc và trang sức bề mặt của bề mặt tẩm.
Trong thực tế không có loại thuốc bảo quản lâm sản nào (Kể cả thuốc đã được
tiêu chuẩn hoá) có thể đáp ứng được yêu cầu trên. Tuy nhiên vẫn có nhiều chế

phẩm hoá học, sinh học được dùng làm thuốc bảo quản là vì các chế phẩm Êy đã
đạt được mét sè yêu cầu quan trọng và phù hợp với môi trường sử dụng của lâm
sản.
Muốn sử dụng thuốc sao cho có hiệu quả phải căn cứ vào nhiều yếu tố. Ngoài
tính năng sử dụng chính của mỗi loại thuốc phải biết sử dụng chóng sao cho phù
hợp với từng đối tượng phá hoại của môi trường.

Do là dạng thuốc hoà tan trong nước thường dễ bị rửa trôi. Dễ bị các loại hoá
chất khác tác dụng làm mất hiệu lực với sinh vật hại gỗ và lâm sản. Có tính ăn mòn
kim loại, Ýt nhiều ảnh hưởng đến môi trường. Để khắc phục nhược điểm, người ta
thường phản ứng tạo phức thuốc bảo quản với mét sè hỗn hợp khác để biến tính
thuốc, không làm giảm hiệu lực với thuốc và chống rửa trôi.
Xuất phát tử ưu nhược điểm nói trên, trong thực tế cần căn cứ vào mục
đích sử dụng gỗ mà dùng thuốc cho phù hợp. Với những đặc điểm và cấu tạo của
gỗ bạch đàn trắng dùng trong đề tài và gỗ sau khi tẩm dùng cho đồ mộc cột kèo…
Trên cơ sở như vậy dùng trong đề tài tôi dùng hỗn hợp thuốc boron, XM5, NaF-
BB. Sau đây là một vài tính chất của các loại thuốc:



HỖN HỢP THUỐC BORON.

Thuốc bảo quản boron là hỗn hợp các thành phần hoá học axit boric (H BO
) với muối borax (Na B O . 10H O) loại thuốc này được chế tạo đầu tiên ở Anh
(Newzealand) vào năm 1950. Đặc điểm chính của Boron có độc đối với côn trùng
và nấm phá hại gỗ đặc biệt là chống mọt có hiệu quả. Boron được phân vào nhóm
không cố định trong gỗ (Dễ bị rửa trôi) sự thành công của boron là ở chỗ[6,18].
Có thể xử lý ngâm tẩm gỗ xẻ, gỗ dùng trong công trình xây dựng và gỗ tàu
thuyền.
Có thế áp dụng phương pháp sử lý theo nhiều cách khác

nhau, phun, nhóng, quét, ngâm, áp lực. Đặc biệt hiệu quả đối
với phương pháp xử lý kết hợp nhúng nhiều lần và dự trữ
khuyết tán.
Các phương pháp áp dụng đơn giản.
Ýt độc đối với người và gia súc.
Giá cả thấp được nhiều người chấp nhận.
Đặc biệt có khả năng phòng cháy chứa cháy cho gỗ.
Năm 1960 Boron được truyền bá rộng rãi cho đến tận ngày nay [8]. Muối
borax và axit boric là những chất vô cơ dễ tìm, dễ hoà tan trong nước. Khi sử dụng
rất thuận lợi, việc đưa hỗn hợp thuốc bảo quản lên bề mặt gỗ, dung dịch có độ PH
(PH=7,2). Mét sè tính chất vật lý của chúng như sau:

SiF
6
H
2
+ 2NaCl = SiF
6
Na
2
+ 2CO
3
Na
2
+ 2HCl
SiF
6
Na
2
+ 2CO

3
Na
2
=6NaF6 + SiO
2
+ 2CO
2
Ýt tan trong nước, trong nước lạnh khoảng 4.28%; Trong nước sôi khoảng
4.96%. Do đó trong công nghiệp nó thường được sử dụng dưới dạng hỗn hợp và
được chế tạo sẵn.
Dung dịchNaF có tính ăn mòn kim loại, khi nồng độ tăng thì tính ăn mòn kim
loại cũng tăng. Khi tẩm gỗ có đóng đinh, bu lông nẹp sắt, người ta thường pha vào
dung dịch NaF khoảng 2% Dinitrophenolatnatri hoặc cácbonat amom.
Trị số pH ở nồng độ 2 - 4 % thường khoảng 7. 2-7. 4 dung dịch rất ổn định
trong không khí.
Dễ bị rửa trôi khỏi gỗ, tuy tốc độ rửa trôi có kém hơn clorua kẽm nhưng lại
nhanh hơn triolit. Tác dụng hạn chế hoặc phòng chống ở chỗ chất khó tan mà vẫn
có độ độc cao.
NaF là thành phần chính của nhiều loại hỗn hợp. Trong các thuốc hỗn hợp có
chứa Bicromatnatri hoặc Bicromat kali với sự hỗ trợ của gỗ NaF sẽ có tác dụng đối
với các thành phần này để tạo thành phức chất theo phương trình sau:
12NaF + Cr
2
O
7
Na
2
+ 4H
2
O = 2Na

3
F
6
Cr+8NaOH+3O.

NaF là một loại thuốc bảo quản được dùng rất sớm và khá phổ biến ở nhiều
thuốc hỗn hợp tan trong nước có sù tham gia của NaF và chiếm tỷ lệ quan trọng
trong các thuốc Êy. Đặc biệt NaF là thành phần của nhiều hỗn hợp thuốc cao.
Nếu dùng NaF thuần tuý thì chỉ có thể tẩm cho các vật liệu dùng dưới mái
che. Nhưng cần lưu ý rằng khi vật liệu tẩm NaF tiếp xúc với vôi, thạch cao sẽ giảm
hiệu lực trống nấm.
Trong đề tài này tôi dùng hỗn hợp thuốc NaF - BB ở dạng cao với tỷ lệ:
Na
2
B
4
O
7
. 10H
2
O: 40%.
H
3
BO
3
: 40%.
NaF: 20%.
Khi kết hợp các thành phần này với nhau tạo thành hỗn hợp thuốc bảot quản
rất tốt có khả năng chống mối, mọt, côn trùng, có khả năng hạn chế sự rửa trôi.



T rong cả hai giai đoạn có thể nói áp suất thẩm thấu là nguyên nhân gây ra sù
khuyếch tán, điều này rất tiện lợi cho việc thiết lập các biểu thức định lượngvề
khuyếch tán. Cụ thể ta xét hai trường hợp: khuyếch tán ổn định với gradien nồng
độ không đổi và khuyếch tán không ổn định với građien nồng đô thay đổi.
Năm 1855, Fick đã tìm ra định luật thứ nhất (Fick 1) về khuyếch tán:

Trong đó:
dm: lượng chất khuyếch tán qua diện tích S sau khoảng
thời gian dt;
D : hệ số khuyếch tán;
dc/dx: Građien nồng độ theo phương x.
Dấu trừ đưa vào để triệt tiêu dấu âm của građien nồng độ.
Hệ số khuyếch tán D phụ thuộc vào tính chất của các hạt khuyếch tán, nồng độ
dung dịch ở mức độ nào đấy, đặc biệt trong những trường hợp nồng độ cao và dung
dịch không phải là lý tưởng. Để tính gần đúng hệ số khuyếch tán trong dung dịch
loãng có thể dùng công thức:

, m
2
/ s
Trong đó:
M: khối lượng mol;
: Thể tích mol của chất khuyếch tán, cm
3
/mol;
T: Nhiệt độ,
0
K;
: Độ nhớt của dung môi, N. s/m

2
;
: Thông số tính đến liên kết phân tử trong dung môi,
đối với nước =2.6;
Hệ số khuyếch tán đối với chất lỏng khoảng 0, 4.10
- 9
-5. 10
-
9
m
2
/s.
Nếu gọi hệ số khuyếch tán (i) là lượng chất khuyếch tán qua
mét đơn vị diện tích sau mét đơn vị thời gian, thì trong trường
hợp khuyếch tán ổn định (các hạt khuyếch tán chuyển động với
vận tốc không đổi) ta có biểu thức sau:
Vì vậy:

Khi građien nồng độ biến đổi thì ta có trường hợp khuyếch tán không ổn định.
Nồng độ dung dịch là hàm số của toạ độ và thời gian. Mật độ dòng khuyếch tán vì
vậy còng thay đổi theo biểu thức:
Tõ định luật Fick 1:
Ta được :
Điều kiện sự khuyếch tán ổn định là hay .
Nếu xét sự khuyếch tán theo cả ba phương x, y, z ta có:

đây là biểu thức toán học của định luật thứ hai của Fick về sự khuyếch tán.

Ưu điểm của phương pháp khuyếch tán (băng đa)


Bảoquản gỗ tươi bằng phương pháp băng đa là một phương pháp bảo quản đơn
giản, dễ thực hiện.
Trong quá trình vận chuyển gỗ không cần phải giữ kỹ vỏ như các phương pháp
khác.
Với phương pháp băng đa ta có thể tẩm ở bất cứ nơi nào nhằm có lợi cho việc
vận chuyển và sử dụng.
Hiệu quả bảo quản cao nhờ có việc sử dụng các yếu tố làm thay đổi độ nhớt của
dung dịch thuốc bảo quản. Phương pháp này phù hợp cho việc sử dụng gỗ có khối
lượng thể tích thấp tiếp xúc hoặc không tiếp xúc với nền đất. Đặc biệt nó phù hợp
cho việc bảo quản gỗ rừng trồng ở các vùng nhiệt đới. Đồng thời phương pháp này
cũng được đánh giá có hiệu quả cao khi tẩm các loại gỗ khó tẩm và phù hợp cho
việc bảo quản gỗ ở vùng nông thôn.
Nhược điểm của phương pháp tẩm băng đa [1]:

Yêu cầu gỗ phải tươi hoặc có độ Èm lớn vì phương pháp này dựa vào đặc
tính tự nhiên của gỗ, khi gỗ còn tươi độ Èm cao tế bào gỗ còn khả năng dẫn nước
và phân phối dinh dưỡng thì trong quá trình tẩm thuốc sẽ dễ dàng thấm sâu vào
trong gỗ.

Gỗ bạch đàn trắng sinh trưởng tại khu vực núi Trầm thôn Long Châu - Xã
Phụng Châu- Huyện Chương Mỹ - Tỉnh Hà Tây.
Độ tuổi cây là 9 tuổi, đường kính tõ 15 - 20 cm độ dài tõ 10 - 20 m.
3. 2. 2 Thuốc bảo quản dùng trong đề tài [8,9].

Để đánh giá được các loại thuốc trong đề tài này tôi thí nghiệm với ba loại
thuốc sau:
Hỗn hợp thuốc Neobo (BB) có công thức [(Na
2
B
4

O
7
. 10H
2
O) và axit Boric
(H
3
PO
3
)] tỷ lệ pha như sau:
H
3
PO
3
: Na
2
B
4
O
7
. 10H
2
O = 1.00:1.18.
Hỗn hợp thuốc NaF - BB với tỷ lệ hỗn hợp như sau:
H PO : Na
2
B
4
O
7

. 10H
2
O: NaF = 4:4:1.
Thuốc XM - 5B (CuSO
4
. 5H
2
O và K
2
Cr
2
O
7
) với tỷ lệ như sau:
CuSO
4
. 5H
2
O: K
2
Cr
2
O
7
= 1:1.
⇒ Tất cả các loại thuốc trên tỷ lệ đều được phòng bảo quản lâm sản thuộc
Viện Khoa Học Lâm Nghiệp Việt Nam thí nghiệm. Thuốc này đáp ứng được yêu
cầu đối với thuốc dạng cao. Thuốc hoà tan và khuyếch tán được vào gỗ tươi đảm
bảo khả năng chống rửa trôi. Khi ngấm vào trong gỗ thuốc sẽ tạo dạng phức bám
vào gỗ. Để tạo ra thuốc cao ta chọn chất đệm là bột sắn (khoai mỡ) đáp ứng được

yêu cầu là: Đảm bảo khả năng kết dính các tinh thể thuốc và khi quét thuốc lên gỗ
có độ Èm cao (80-88)% có thể hoà tan và khuyếch tán vào gỗ.

3.3. Phương pháp pha chế thuốc cao.

Thuốc bảo quản dạng cao bao gồm các thành phần chính là:
Chất kết dính: Dạng bột sắn;
Thuốc bảo quản.

Bước 1: Tạo chất kết dính.

Tỷ lệ bột sắn và nước là 15: 85 nghĩa là cứ 150g bột sắn hoà tan vào trong
850g nước.
Hỗn hợp được đun dưới nhiệt độ 70 - 80
0
C, vừa đun vừa khuấy đều tay.

 Pha cao trước khi quét Ýt nhất hai giờ nhưng không sớm quá trước 10 h.
 Quét cao lên mặt khúc gỗ bằng chổi mềm một lượt sao cho thuốc phủ kín toàn
bộ khúc gỗ (trừ hai đầu).
 Dùng giấy nilon quấn kín khúc gỗ và cứ 9 khóc này cùng một loại thuốc tạo
thành mét series cho vào một túi bóng để ủ.
 Dùng giấy nilon… phủ kín đống gỗ để không cho gió lùa vào đống gỗ và để
hạn chế độ khô của thuốc và của gỗ.
Sau khi ủ đủ thời gian quy định ta tiến hành cắt mẫu và xác định độ sâu thấm
thuốc.








3.9. Xử lý số liệu
Các chỉ số thống kê để xử lý kết quả thí ngiệm .
: số trung bình mẫu.
S: Sai tiêu chuẩn.
G
d
: Giới hạn dưới của khoảng ước lượng.
G
tr
: giới hạn trên của khoảng ước lượng.
: Sai số của trung bình mẫu.
Min: Trị số quan sát nhỏ nhất.
Max: Trị số quan sát lớn nhất.
: Sai số cực hạn của khoảng ước lượng.
P%: Sai số tương đối trung bình của số trung bình mẫu.
chúng tôi tiến hành sử lý số liệu theo phương pháp thống kê toán học thông
thường cùng với sự trợ giúp của máy vi tính và phần mềm excel









Y là chiều sâu thấm thuốc (mm);

X là Thời gian ủ (tuần).
Hệ số tương quan: r = 0. 97














HÌNH 4. 2 ĐỒ THỊ TƯƠNG QUAN GIỮA THỜI GIAN Ủ VÀ ĐỘ SÂU
THẤM THUỐC CỦA THUỐC BẢO QUẢN BB

4. 2. 3 THUỐC BB - NAF
Bảng 4. 4 Chế độ tẩm và chiều sâu thấm thuốc của thuốc BB-NaF.






Xeri
Nồng độ
(%)

Nhiệt độ (
C)
Thời gian ủ
(tuần)
Các thang
ĐSTT
Trị số
ĐSTT
P (%)
1 20
20 3
4
Min
Max
TB
27. 08
32. 06
29. 41
1. 923
2 20
20 3
8
Min
Max
28. 05
37. 70
1. 896




TB 33. 74

3 20
20 3
12
Min
Max
TB
32. 34
46. 96
35. 51
1. 866

Kết quả trên cho thấy thời gian ủ tỷ lệ thuận với chiều sâu thấm thuốc. Từ đó ta xác
lập phương trình tương quan, hệ số tương quan và vẽ đồ thị cho sù tưong quan giữa
thời gian ủ và chiều sâu thấm thuốc.
Ta có phương trình tương quan sau:
Y= 26. 738+0. 886X
Trong đó:
X là thời gian ủ, tuần;
Y là chiều sâu thấm thuốc, mm.
Hệ số tương quan: r = 0. 972























HÌNH 4. 3 ĐỒ THỊ TƯƠNG QUAN GIỮA THỜI GIAN Ủ VÀ ĐỘ SÂU THẤM THUỐC
CỦA THUỐC BẢO QUẢN BB - NA


4. 2. 4 KẾT QUẢ ĐSTT, XM-5B, BB, BB - NAF Ở CÁC CẤP THỜI
GIAN Ủ CỦA GỖ BẠCH ĐÀN TRẮNG.

Tõ kết quả bảng 4.2; 4.3; 4. 4 ta thấy độ sâu thấm thuốc của gỗ thí nghiệm
phụ thụôc vào từng loại thuốc bảo quản. Để có thể nhận biết rõ hơn sự chênh lệch
này chúng ta có biểu đồ sau:


Thời gian ủ/ Loại thuốc 4 8 12
XM - 5B 6. 71 8. 64 9. 6
BB 26. 73 29. 19 32. 99
NaF - BB 29. 41 33. 74 35. 51





















HÌNH 4. 3 ĐỒ THỊ MỐI TƯƠNG QUAN GIỮA THỜI GIAN Ủ VÀ ĐỘ SÂU THẤM
THUỐC CỦA CÁC LOẠI THUỐC XM-5B; BB; BB-NAF.


4.4. NHẬN XÉT VÀ THẢO LUẬN VỀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

4.4.1. Nhận xét và thảo luận về kết quả xác định độ Èm ban
đầu của gỗ thí nghiệm.

Tõ kết quả ở bảng 4.1, độ Èm ban đầu của gỗ Wđ = 101. 54 > 100% là cao.

Độ Èm cao rất thuận lợi cho quá trình ngâm tẩm bằng phương pháp khuyếch tán.
Theo luận văn tốt nghiệp của Vũ Hà Phương (2000), Hoàng Tùng Lâm (2001) và
đặc biệt là của Hoàng Minh Huấn (2002) ta thấy Èm độ gỗ có tác động rất lớn đến
khả năng thấm thuốc của gỗ. Điều đó có thể giải thích rằng, ở mức độ Èm gỗ cao
hơn điểm bão hoà thớ gỗ, thuốc thấm vào gỗ chủ yếu theo nguyên lý khuyếch tán.
Sự chênh lệch nồng độ giữa môi trường dung dịch thuốc và nước trong gỗ càng lớn
thì khả năng khuyếch tán càng tăng. Khi đó nước là trung gian dẫn truyền thuốc
bảo quản vào trong gỗ. Các phân tử thuốc dịch chuyển từ môi trường dung dịch
vào gỗ. Một phần các phân tử nước ở trong gỗ lại dịch chuyển ngược trở ra môi
trường dung dịch thuốc nhằm trung hoà nồng độ dung dịch. Khi độ Èm gỗ cao hơn
mức bão hà thớ gỗ, tức trong khoang rỗng của tế bào bắt đầu chứa nước tự do. Nếu
Èm tự do chưa đủ lớn để lấp đầy hệ thống mao mạch thì chuyển động của chất
lỏng không vượt qua các túi khí kín được tạo ra trong mao mạch (hiệu ứng Jamen).
Do vậy, lượng thuốc thấm vào trong gỗ không sâu và không nhiều. Nhưng khi
nước trong gỗ đủ lớn để lấp đầy các khoảng trống trong tế bào gỗ, thì khả năng
thấm thuốc của gỗ tăng lên rất nhiều so với khả năng thấm thuốc khi gỗ ở độ Èm
dưới mức độ Èm bào hoà thớ gỗ. Điều đó một lần nữa làm sáng tỏ lý thuyết
khuyếch tán của thuốc bảo quản khi ngâm tẩm gỗ bạch đàn trắng, độ sâu thấm
thuốc ở gỗ có độ Èm > 100% T. S Lê Duy Phương đã nghiên cứu với gỗ keo lai,
độ sâu thấm thuốc ở gỗ có độ Èm 95% bao giờ còng cao hơn ở gỗ có độ Èm 80%
và 65%.[26]







Hình 4. 4 Đồ thị biểu diễn Mối quan hệ giữa độ Èm và độ sâu thấm thuốc [10].


4. 4. 2 Nhận xét và thảo luận về kết quả xác định độ sâuthấm
thuốc của gỗ thí nghiệm

Độ sâu thấm thuốc của gỗ bạch đàn trắng tăng lên khi thời gian ủ tăng, ở thời
gian ủ 4 tuần độ sâu thấm thuốc là thấp nhất và ở thời gian ủ 12 tuần độ sâu thấm
thuốc là cao nhất. Hay độ sâu thấm thuốc tỷ lệ thuận với thời gian ủ. Nhưng mức
độ tăng chiều sâu thấm thuốc không đều nhau, ở giai đoạn đầu tăng nhanh càng
kéo dài thời gian ủ ĐSTT tăng càng chậm dần. Điều này có thể giải thích như sau:
Trong vách tế bào, Xenluloza là thành phần cơ bản Trong mạch phân tử xenluloza,
mỗi một gốc đường gluco có ba nhóm OH tự do ở các vị trí 2, 4, 6. Các nhóm OH
này có thể tạo ra rất nhiều liên kết hoá học với các ion mang điện tích dương và có
xu hướng đẩy các ion mang điện tích âm. Khi hoá chất bảo quản hoà tan trong
dung môi nước cũng sẽ phân ly thành các ion mang điện tích. Các ion này liên kết
với gốc OH của phân tử xenluloza tạo thành hiện tượng ‘nhị điện’. Hiện tượng này
sẽ dẫn đến mét số phần tử của thuốc cố định vào vách tế bào, làm cho nồng độ ion
tham gia

khuyếch tán giảm xuống. Dẫn đến độ sâu thấm thuốc của gỗ bạch đàn trắng thời
gian ủ 8 tuần tăng nhiều hơn độ sâu thấm thuốc khi ủ 12 tuần. Tốc độ tăng này đến
một mức độ nào đó sẽ không tăng nữa.

Cấu tạo gỗ là nguyên nhân làm cho độ sâu thấm thuốc tăng như vậy vì trong công
nghệ bảo quản gỗ cấu tạo gỗ được thể hiện ở 03 thành phần đó là tia gỗ, mạch gỗ,
mao mạch. Nếu kích thước và mật độ của các thành phần này mà lớn thì độ sâu
thấm thuốc tăng và ngược lại. Cho nên ở đây bạch đàn trắng có cấu tạo lỗ mạch
tương đối lớn xếp phân tán với số lượng lớn, tia gỗ có kích thước trung bình. Đây
là những yếu tố làm thuốc thấm sâu vào trong gỗ, gỗ giác có mật độ và kích thước
lớn hơn gỗ lõi. Điều này làm cho gỗ giác có độ sâu thấm thuốc cao hơn gỗ lõi.
Ngoài ra độ Èm ban đầu rất cao, khối lượng của gỗ là trung bình làm thúc đẩy quá
trình thấm thuốc vào trong gỗ sâu hơn.


Độ sâu thấm thuốc còn tuỳ thuộc vào từng loại thuốc bảo quản. Ở đây thuốc
XM 5B có độ sâu thấm thuốc là thấp nhất, sau đó đến BB và ĐSTT lớn nhất là BB
- NaF . Sù chênh lệch nhau về độ sâu thấm thuốc như vậy có thể giải thích như
sau:
Các thành phần có trong thuốc bảo quản, phân tử lượng của các thuốc khác
nhau thì độ sâu thấm thuốc khác nhau (Cu = 64 trong khi đó B=10.82).
khi các loại thuốc này thấm vào trong gỗ thuốc sẽ tạo dạng phức bám vào gỗ.
Có thể khi thuốc thấm vào gỗ các phản ứng sẩy ra, phản ứng của thuốc XM - 5B
với các thành phần trong gỗ tạo phức nhanh hơn thuốc BB, BB-NaF, làm bịt đường
dẫn nên thuốc không thể vào sâu trong gỗ.
Phương trình tạo phức sẩy ra như sau:
8CuSO
4
+ Na
2
Cr
2
O
7
+ 2CrO
3
+ 9H
2
O =
2Cu[Cr
2
(SO
4
)

4
] H
2
O + 2NaOH + 6Cu(OH)
2
+ 6O
2
Mặt khác khi hỗn hợp Boron kết hợp với NaF (thuốc có khả năng hoà tan rất
tốt) làm tăng độ hoà tan của hỗn hợp BB-NaF. Tạo thành hỗn hợp thuốc đồng nhất
nên các phân tử thuốc dễ dàng thấm sâu vào trong gỗ.
Điều đó chính tỏ rằng thuốc bảo quản có mặt của Boron là rất tốt.

Quá trình khuyếch tán còn chịu ảnh hưởng của phản ứng giữa các ion điện
tích và vách tế bào. Thuốc bảo quản do những điện tử có hoá trị một cấu thành tác
động vào vách tế bào Ýt hơn so với thuốc bảo quản do những ion có

hoá trị cao. Vì vậy thuốc bảo quản có hoá trị cao thì sự khuyếch tán càng giảm.
Điều đó cho chúng ta thấy thuốc bảo quản có chứa Cr
6+
khả năng khuyếch tán kém
hơn thuốc bảo quản có chứa B
3+
; đây là mét trong những nguyên nhân làm cho
ĐSTT của mỗi loạl thuốc khác nhau.
Trong vách tế bào Xenluloza là thành phần cơ bản của vách tế bào gỗ. Trong mạch
phân tử xenluloza, mỗi một gốc đường gluco có ba nhóm OH tự do ở các vị trí 2,
4, 6. Các nhóm OH này có thể tạo ra rất nhiều liên kết hoá học với các ion mang
điện tích dương và có xu hướng đẩy các ion mang điện tích âm. Khi hoá chất bảo
quản hoà tan trong dung môi nước cũng sẽ phân ly thành các ion mang điện tích.
Các ion này liên kết với gốc OH của phân tử xenluloza tạo thành hiện tượng ‘nhị

điện’. Hiện tượng này sẽ dẫn đến mét số phần tử của thuốc cố định vào vách tế
bào, làm cho nồng độ ion tham gia khuyếch tán giảm xuống. Nên độ sâu thấm
thuốc của gỗ bạch đàn trắng thời gian ủ 8 tuần tăng nhiều hơn độ sâu thấm thuốc
khi ủ 12 tuần. Tốc độ tăng này đến một mức độ nào đó sẽ không tăng nữa.



























×