Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Luân văn tốt nghiệp: Phân tích tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (602.81 KB, 98 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC i
LỜI CAM ĐOAN iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT vi
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU, HÌNH vii
TÓM TẮT LUẬN VĂN ix
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI
HƯU TRÍ 3
1.1. Chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội 3
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm xã hội và chế độ hưu trí 3
1.1.2. Vai trò của chế độ hưu trí 7
1.2. Nội dung cơ bản của chế độ hưu trí 9
1.2.1. Mục đích của chế độ hưu trí 9
1.2.2. Đối tượng tham gia và thụ hưởng của chế độ hưu trí 10
1.2.3. Điều kiện hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hưu trí 10
1.2.4. Mức hưởng và thời gian hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hưu trí 12
1.3. Quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí 13
1.3.1. Đặc điểm quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí 13
i
1.3.2. Nguồn hình thành và sử dụng quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí 14
1.4. Tình hình thực hiện chế độ hưu trí ở một số nước trên thế giới và bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam 19
1.4.1. Tình hình thực hiện chế độ hưu trí ở một số nước 19
1.4.1.1. Thái Lan 19
1.4.1.2. Trung Quốc 21
1.4.1.3. Hoa Kỳ 23
1.4.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 27
1.4.2.1. Hoàn thiện hệ thống hưu trí cơ bản, hướng tới xây dựng hệ thống hưu
trí đa trụ cột 27


1.4.2.2. Thực hiện bảo hiểm hưu trí đối với người lao động ở nông thôn 28
1.4.2.3. Đa dạng hóa dịch vụ bảo hiểm xã hội hưu trí 29
1.4.2.4. Hiện đại hóa quản lý bảo hiểm xã hội 30
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ BẢO HIỂM HƯU TRÍ BẮT BUỘC Ở
VIỆT NAM 31
2.1. Chính sách Bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam 31
2.1.1. Khái quát về chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt Nam 31
2.1.1.1. Đối tượng áp dụng 31
2.1.1.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc 33
2.1.1.3. Quỹ bảo hiểm xã hội 34
2.1.2. Chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam 36
ii
2.1.2.1. Đối tượng tham gia chế độ hưu trí 36
2.1.2.2. Mức đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc 36
2.1.2.3. Điều kiện hưởng chế độ hưu trí 36
2.1.2.4. Mức hưởng chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc 38
2.2. Phân tích thực trạng triển khai chế độ hưu trí bắt buộc ở Việt Nam 40
2.2.1. Đối tượng tham gia và thụ hưởng chế dộ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc 40
2.2.2. Tình hình thu quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc 46
2.2.3. Tình hình chi quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc 49
2.2.4. Cân đối thu - chi quỹ hưu trí bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam 53
2.3. Đánh giá về tình hình thực hiện chế độ hưu trí ở Việt Nam (2006 - 2011) 55
2.3.1. Kết quả đạt được 55
2.3.2. Những vấn đề còn hạn chế và nguyên nhân 57
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT VỀ TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ BẢO
HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ BẮT BUỘC Ở VIỆT NAM 62
3.1. Định hướng phát triển bảo hiểm xã hội và chế độ hưu trí đến năm 2020 62
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội 63
3.1.2. Mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội 64
3.1.3. Tăng tuổi nghỉ hưu trung bình 65

3.2. Một số ý kiến đề xuất để hoàn thiện chế độ bảo hiểm hưu trí 66
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc làm
cơ sở cho việc thực hiện tốt chế độ này 67
iii
3.2.2. Quản lý chặt chẽ đối tượng đang nghỉ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí
bắt buộc 68
3.2.3. Hoàn thiện cơ chế thu - chi bảo hiểm xã hội 70
3.3.4. Tăng cường kiểm tra giám sát đối với người sử dụng lao động 71
3.3.5. Tăng cường công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội đến các tầng lớp
nhân dân 71
3.3.6. Giải quyết triệt để tình trạng nợ đọng 72
3.2.7. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội
73
PHẦN KẾT LUẬN 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 76
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
LỜI CAM ĐOAN
Họ và tên tác giả : Nguyễn Hữu Thọ
Sinh ngày : 08/04/1987
Mã học viên : CH190216
Đề tài Luận văn : Phân tích tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội
hưu trí bắt buộc ở Việt Nam
Luận văn trên là kết quả nghiên cứu độc lập của riêng tôi, trên cơ sở phân
tích đánh giá tình hình từ cơ sở số liệu được sự cho phép của Bảo hiểm xã hội Việt
iv
Nam và Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Các nội dung được trích dẫn trong
luận văn có nguồn gốc rõ ràng và có chú thích cụ thể.
Nếu vi phạm lời cam đoan này, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm theo quy
định của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội./.

Hà Nội, ngày tháng 12 năm 2012
Học viên
Nguyễn Hữu Thọ
v
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Stt Viết tắt Viết đầy đủ
1 BHXH Bảo hiểm xã hội
2 BNN Bệnh nghề nghiệp
3 DN FDI Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
4 DNNN Doanh nghiệp nhà nước
5 DN NQD Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
6 ĐTCQ Đoàn thể, chính quyền
7 HCSN Hành chính sự nghiệp
8 HĐLĐ Hợp đồng lao động
9 HTTT Hưu trí, tử tuất
10 LLVT Lực lượng vũ trang
11 NLĐ Người lao động
12 NSDLĐ Người sử dụng lao động
13 TNLĐ Tai nạn lao động
vi
DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU, HÌNH
Danh mục Bảng
Bảng Trang
Bảng 1.1. Tình hình thực hiện các chế độ BHXH ở các nước trên thế giới 4
Bảng 1.2. Điều kiện quy định trợ cấp hưu trí ở một số nước trên thế giới 11
Bảng 1.3. Mức đóng BHXH của các quốc gia thuộc khối OECD (1999) 17
Bảng 1.4. Hệ thống hưu trí ở Thái Lan 20
Bảng 1.5. Hệ thống bảo hiễm xã hội tại Mỹ 24
Bảng 2.1. Mức đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam 34
Bảng 2.2. Mức đóng vào Quỹ hưu trí và tử tuất 36

Bảng 2.3. Số đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc ở Việt Nam
(2006 - 2011)
40
Bảng 2.4. Số lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo thành
phần kinh tế (2006 - 2011)
42
Bảng 2.5. Tình hình thu quỹ bảo hiểm xã hội và Quỹ hưu trí và tử tuất ở
Việt Nam (2006 - 2011)
44
Bảng 2.6. Tình hình nợ đọng của các đơn vị sử dụng lao động (2006 -
2011)
46
Bảng 2.7. Số người hưởng lương hưu (2006 - 2011) 47
Bảng 2.8. Số người hưởng trợ cấp chế độ hưu trí từ NSNN và từ quỹ
BHXH ở Việt Nam (2006 - 2011)
48
Bảng 2.9. Quy mô chi trả chế độ hưu trí (2006 - 2011) 50
Bảng 2.10. Tình hình chi trả lương hưu cho các đối tượng hưởng lương
hưu hàng tháng, một lần và BHXH một lần ở Việt Nam (2006 - 2010)
50
Bảng 2.11: Lương hưu bình quân của NLĐ được chi trả từ quỹ BHXH. 51
Bảng 2.12: Cân đối thu chi quỹ hưu trí và tử tuất 2007 - 2011 53
vii
Danh mục hình
Hình Trang
Hình 1.1. Tỷ lệ tham gia các quỹ hưu trí công ty 26
Hình 2.1: Tỷ lệ số người đóng bảo hiểm xã hội trên một người hưởng
lương hưu giai đoạn 1996 - 2011
52
Hình 2.2. Cân đối thu - chi quỹ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc 54

viii
TÓM TẮT LUẬN VĂN
LỜI MỞ ĐẦU
BHXH là một chính sách lớn trong hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia,
mang trong nó là bản chất nhân văn sâu sắc vì cuộc sống an lành hạnh phúc của mỗi
thành viên trong xã hội. Các chế độ BHXH đều nhằm mục đích đảm bảo đời sống
cho người lao động khi họ tạm tạm thời hoặc vĩnh viễn mất nguồn thu nhập. Số
lượng và nội dung các chế độ BHXH được xây dựng và thực hiện phụ thuộc vào
mục tiêu, quy định và tình hình thực tế của mỗi nước.
Trong hệ thống các chế độ BHXH thì chế độ hưu trí được coi là chế độ quan
trọng nhất vì nó nhằm bảo đảm quyền lợi cho người lao động khi hết tuổi tuổi lao
động. Có thể nói rằng gần 100% người lao động của các nước đều có nhu cầu tham
gia bảo hiểm hưu trí. Vì thế nó được hầu hết các quốc gia áp dụng từ rất sớm.
Ở Việt Nam, chế độ hưu trí đã được Đảng và Nhà nước quan tâm và coi trọng
từ lâu, nó không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà còn có ý nghĩa chính trị xã hội sâu
sắc. Qua hơn 50 năm thực hiện, chế độ hưu trí đã được sửa đổi nhiều lần và ngày
càng hoàn thiện phù hợp với tình hình đất nước. Chế độ hưu trí cùng với các chế độ
khác trong hệ thống các chế độ BHXH đã góp phần quan trọng trong việc ổn định đời
sống của người lao động giúp họ yên tâm làm việc tạo thu nhập cho bản thân, gia
đình và xã hội, từ đó đảm bảo cho an sinh xã hội, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của
đất nước. Theo xu hướng già hóa dân số thì ở nước ta hiện nay số người cao tuổi nói
chung và người lao động trong độ tuổi nghỉ hưu nói riêng ngày càng tăng, vì thế yêu
cầu đặt ra là tổ chức thực hiện chế độ trợ cấp hưu trí như thế nào để đạt hiệu quả cao
nhất, đồng thời phù hợp với điều kiện đất nước trong thời kỳ đổi mới.
Là học viên cao học Khóa 19 của Trường Đại học Kinh tế quốc dân, chuyên
ngành kinh tế bảo hiểm, nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề trên cùng với quá
ix
trình công tác tại Vụ Bảo hiểm xã hội, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, học
viên quyết định đề tài để nghiên cứu. Nội dung chủ yếu của đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí

Chương 2: Tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở
Việt Nam.
Chương 3: Một số ý kiến đề xuất về tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm xã
hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam.
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí
Chương này tóm lược sự ra đời và phát triển của BHXH trên thế giới cũng
như chế độ BHXH hưu trí bắt buộc ở Việt Nam, nội dung cơ bản của chế độ hưu trí
và một số kinh nghiệm quốc tế, bài học đối với Việt Nam.
BHXH xuất hiện đầu tiên ở Đức. BHXH hiện đại được thực hiện trên cơ sở
mô hình BHXH của Đức và đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nước Mỹ Latin,
rồi đến Bắc Mỹ và Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế
giới thứ hai, BHXH đã được phổ biến sang các nước vừa giành được độc lập ở
Châu á, Châu Phi và vùng Caribê, tuỳ theo điều kiện KTXH của mỗi nước. Đến
nay, BHXH đã phát triển không ngừng và rất đa dạng mang những đặc trưng của
từng nước hoặc từng khu vực.
Ở Việt Nam, BHXH xuất hiện vào những năm 1930, bảo vệ cho các đối
tượng làm việc trong chính quyền thực dân Pháp, do chính phủ thực dân chu cấp.
Tới những năm 1995, căn cứ vào việc thể chế hoá các chủ trương, quan điểm
của Đảng và Nhà nước được ghi nhận trong các văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng,
các quy định của Bộ luật Lao động liên quan tới BHXH, Chính phủ, Bộ Lao động-
Thương binh và Xã hội và liên Bộ ban hành nhiều Nghị định, Quyết định, Thông tư
hướng dẫn thực hiện chính sách chế độ BHXH. Trong đó, có 2 văn bản pháp luật
chủ đạo là Nghị định số 12/CP ngày 26/01/1995 của Chính phủ về việc ban hành
x
Ngày 29/6/2006, tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XI đã thông qua Luật Bảo
hiểm xã hội, đánh dấu một bước tiến quan trọng trong thể chế hóa các quy định,
hoàn thiện và cụ thể hóa các quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, nâng cao
tính hiệu quả trong thực thi chế độ, chính sách về BHXH. Với việc ban hành và
thực thi chính sách BHXH theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội thì hệ thống chế
độ, chính sách về BHXH đối với cán bộ, công chức, viên chức Nhà nước và những

NLĐ ăn lương được hoàn thiện. Bên cạnh đó, Luật Bảo hiểm xã hội đã bổ sung 2
loại hình bảo hiểm mới, BHXH tự nguyện áp dụng từ ngày 01/01/2008 và bảo hiểm
thất nghiệp áp dụng từ ngày 01/01/2009.
Chế độ BHXH hưu trí bắt buộc ra đời cùng với sự ra đời của BHXH ở Việt
Nam, đóng góp một vai trò to lớn trong đời sống kinh tế xã hội, đối với người lao
động, người sử dụng lao động và đối với an sinh xã hội.
Chế độ hưu trí có liên quan đến NLĐ kể từ lúc tham gia BHXH đến lúc họ
về hưu và qua đời, phần đóng và phần hưởng của chế độ này cũng chiếm tỷ lệ cao
trong toàn bộ phần đóng hưởng của hệ thống chế độ BHXH. Chính vì thế chế độ
này luôn được sự quan tâm đặc biệt và hầu như được tất cả các nước trên thế giới
xây dựng và thực hiện.
Mục đích của chế độ hưu trí là:
- Cung cấp một khoản tiền thay thế cho thu nhập của NLĐ khi họ mất thu
nhập do hết tuổi lao động.
- Thể hiện sự quan tâm của Nhà nước, của NSDLĐ đối với NLĐ không chỉ
trong lúc họ còn tham gia lao động mà ngay cả khi họ đã già yếu không còn khả
năng lao động. Sự quan tâm này thể hiện sự gắn kết chặt chẽ trong xã hội.
- Giúp NLĐ chủ động đảm bảo cuộc sống khi về già bằng chính khoản tiền
tích lũy của mình. Giảm bớt gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Theo Điều 27 Công ước 102 của ILO thì đối tượng tham gia chế độ hưu trí
trong một quốc gia tối thiểu phải bằng 50% tổng số người làm công ăn lương hoặc
xi
20% dân số hoạt động kinh tế. Đối chiếu với các chỉ tiêu thống kê về lao động của
Việt Nam thì tiêu chuẩn tối thiểu về số đối tượng tham gia phải bằng 50% lao động
làm việc trong khu vực kết cấu hoặc 20% lực lượng lao động.
Điều kiện hưởng trợ cấp hưu trí tùy thuộc vào các cơ sở sinh học, là tuổi
thọ, thể lực, giới tính của NLĐ. Ở mỗi quốc gia, tùy vào điều kiện riêng của mình
mà quy định những điều kiện hưởng, khác nhau. Có những nước quy định tuổi nghỉ
hưu, của cả nam và nữ như nhau, có những nước lại khác nhau: thường là nữ có tuổi
nghỉ hưu sớm hơn, có một số nước quy định tuổi nghỉ hưu sớm, có những nước,

quy định tuổi nghỉ hưu muộn.
BHXH hưu trí định kỳ được áp dụng đối với NLĐ, đã có thâm niên tham gia
BHXH (hoặc thâm niên công tác) là 30 năm và ít nhất là 15 năm. Mức hưởng bảo
hiểm hưu trí, được quy định theo một tỷ lệ nhất định so với thu nhập trước đó, của
NLĐ và tối thiểu là 40%. Các trường hợp có thời gian tham gia BHXH hoặc thời
gian lao động thực tế ngắn sẽ bị giảm mức trợ cấp. Mức giảm cũng phụ thuộc vào
thâm niên đó.
Quan nghiên cứu kinh nghiệm hệ thống hưu trí các nước Thái Lan, Trung
Quốc, Hoa Kỳ, Luận văn cũng đã rút ra được một số bài học đối với Việt Nam:
- Hoàn thiện hệ thống hưu trí cơ bản, hướng tới xây dựng hệ thống hưu trí đa
trụ cột
Kinh nghiệm các nước cho thấy việc thiết kế hệ thống hưu trí đa trụ cột là
cần thiết. Ngân hàng thế giới vào năm 1998 đã khuyến nghị hệ thống hưu trí ba trụ
cột và mới đây đã kiến nghị hệ thống hưu trí 5 trụ cột. Việc nghiên cứu kinh nghiệm
quốc tế và cơ sở lý luận của việc thiết kế hệ thống hưu trí của Ngân hàng thế giới là
hết sức hữu ích cho Việt Nam.
- Thực hiện bảo hiểm hưu trí đối với người lao động ở nông thôn
Chính sách BHXH ở Việt Nam có những điểm tương đồng có thể học tập
kinh nghiệm của Trung Quốc bằng cách thiết kế một cơ chế linh hoạt giữa BHXH
xii
hưu trí bắt buộc và BHXH hưu trí tự nguyện. Có cơ chế hỗ trợ, khuyến khích người
nông dân tham gia vào hệ thống, từng bước mở rộng đối tượng của chế độ hưu trí.
Trước kia, từ năm 1999 đến năm 2009, Việt Nam đã thí điểm mô hình
BHXH nông dân ở Nghệ An đạt được thành tựu đáng kể về khía cạnh đối tượng
tham gia. Tuy mô hình đã khép lại nhưng những kinh nghiệm thực tế đó là một bài
học sâu sắc để có thể tìm ra những bước đi phù hợp hơn trong thời gian tới.
- Đa dạng hóa dịch vụ bảo hiểm xã hội hưu trí
Bảo hiểm xã hội nói chung, chế độ hưu trí nói riêng ở Việt Nam đang được
coi là một dịch vụ công phi lợi nhuận do nhà nước thực hiện (thông quan Bảo hiểm
xa hội Việt Nam). Tuy nhiên, có một số hạn chế đã được thừa nhận trong thực tế

trong nỗ lực đổi mới phương thức cung cấp dịch vụ này, cơ chế hành chính vẫn còn
dư âm ảnh hưởng tới thái độ, tác phong của mỗi cơ quan BHXH và mỗi cán bộ làm
công tác BHXH.
- Hiện đại hóa quản lý bảo hiểm xã hội
Các nước phát triển thường tận dụng triệt để ưu điểm của hệ thống công
nghệ hiện đại vào cách thức quản lý, vận hành các mô hình dịch vụ công. Xây dựng
được một hệ thống công nghệ thông tin cả phần cứng và phần mềm hiện đại, liên
thông từ trung ương tới địa phương, từ cơ quan quản lý nhà nước tới cơ quan tổ
chức thực hiện cũng như với NSDLĐ và NLĐ giúp tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu
quả và chất lượng cung ứng dịch vụ hưu trí.
Số thu BHXH cũng tăng dần qua từng năm. Từ khi Luật Bảo hiểm xã hội có
hiệu lực năm 2007 thì số thu tăng lên một cách đáng kể (trung bình 28%). Có được
kết quả này là do số đối tượng tham gia tăng lên, thêm vào đó là do chính sách điều
chỉnh tiền lương tối thiểu của nhà nước từ 350 nghìn đồng/người/tháng năm 2006
lên 830 nghìn đồng/người/tháng năm 2010. Đặc biệt, năm 2010 tổng số thu BHXH
tăng lên khá nhiều, tăng 29,1% (tương ứng 11.137 tỷ đồng) so với năm 2009, do tỷ
lệ đóng BHXH tăng lên 2% năm 2010.
xiii
Tỷ trọng quỹ hưu trí bắt buộc trong tổng quỹ BHXH ngày càng gia tăng, cụ
thể: số thu năm 2006 là 14.719 tỷ đồng chiếm 79,1% trong tổng số thu quỹ BHXH,
số thu năm 2007 là 19.059 tỷ đồng chiếm 79,5% trong tổng số thu quỹ BHXH, năm
2008 là 24.802 tỷ đồng chiếm 80,5% trong tổng số thu quỹ BHXH. Năm 2008 nên
mặc dù số thu quỹ hưu trí có tăng lên 29.609 tỷ đồng nhưng tỷ trọng trong tổng số
thu bị giảm xuống còn 77,4% trong năm 2009. Năm 2010 số thu quỹ BHXH hưu trí
tăng lên đáng kể là 40.208 tỷ đồng (tăng 10.599 tỷ đồng so với năm2009) chiếm
81,4% trong tổng số thu quỹ BHXH. Điều này cho thấy sự nhận thức của người lao
động về lợi ích của BHXH đã ngày càng lan rộng.
Bên cạnh tín hiện đáng mừng về việc gia tăng tỷ trọng và số tuyệt đối của
quỹ hưu trí, thì tình trạng nợ đọng BHXH với tỷ lệ lớn ảnh hưởng đến số thu
BHXH.

Chương 2: Tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt
Nam.
Chương II Luận văn tập trung đánh giá chính sách BHXH hưu trí bắt buộc ở
Việt Nam, kết quả thực hiện từ năm 2006 đến năm 2011 và một số đánh giá cơ bản,
chỉ ra một số hạn chế và nguyên nhân của nó.
* Về chế độ BHXH hưu trí bắt buộc ở Việt Nam:
Người lao động tham gia chế độ hưu trí chính là người lao động tham gia
BHXH bắt buộc, là công dân Việt Nam, bao gồm: (i) Người làm việc theo hợp đồng
lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3 tháng trở
lên; (ii) Cán bộ, công chức, viên chức, người làm việc trong lực lượng vũ trang và
(iii) Người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó đã đóng BHXH bắt buộc.
Tính đến thời điểm năm 2011, mỗi NLĐ tham gia đóng 7% mức tiền lương,
tiền công hàng tháng vào Quỹ hưu trí và tử tuất, NSDLĐ đóng cho người lao động
13%. Khi hết tuổi lao động, có trên 20 năm đóng góp, người lao động được hưởng
xiv
lương hưu hàng tháng. Mức lương hưu tối đa nhận được bằng 75% mức bình quân
tiền lương, tiền công tháng đóng BHXH.
* Về tình hình triển khai thực hiện từ năm 2006 đến năm 2011:
Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc tăng dần qua từng năm, từ 6,88 triệu
người năm 2006 lên 10,1 triệu người năm 2011, tương ứng 46,52% và số đơn vị sử
dụng lao động cũng tăng dần, từ 127.991 đơn vị lên 218.408 đơn vị, tương ứng
70,64%. Mốc thời điểm khi Luật BHXH có hiệu lực năm 2007 thì số đối tượng
tham gia tăng lên đáng kể, từ 6.88 triệu người năm 2006 lên 8,34 triệu người năm
2007, tăng 21,25%. Khối HCSN, Đảng, Đoàn, LLVT và khối DN NQD là hai thành
phần có số lao động tham gia BHXH chiếm đa số, cụ thể khối HCSN chiếm tỷ trọng
trung bình khoảng 37%, khối DN NQD chiếm tỷ trọng trọng trung bình 23%.
Cùng với sự tăng lên của số lượng đối tượng tham gia BHXH thì số đối
tượng hưởng chế độ hưu trí cũng tăng lên, đặc biệt là trong xu thế già hóa dân số
như hiện nay. Từ khi thực hiện Luật Bảo hiểm xã hội, đối tượng hưởng lương hưu
tăng đều trong giai đoạn 2007 - 2011, từ 84.860 người năm 2006 tăng lên 112.256

người năm 2011 (tương ứng tăng 32,51%). Điều này thể hiện ngày càng có nhiều
người cao tuổi nhận được lương hưu hàng tháng từ Quỹ bảo hiểm xã hội. Tuy
nhiên, đây cũng là một áp lực đối với Quỹ.
Ở một khía cạnh khác, trong 6 năm qua, hàng năm có tới khoảng 400 nghìn
người nghỉ việc hưởng chế độ BHXH một lần, tức là rời khỏi hệ thống BHXH hưu
trí bắt buộc. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng tới nỗ lực mở rộng đối tượng tham
gia và kỳ vọng nhận được lương hưu của nhiều người lao động trong tương lai cũng
như nếu nhận được mức lương hưu sẽ giảm đáng kể. Cần thiết phải có những nhận
định và giải pháp thích hợp để ngăn chặn xu hướng này, điều này sẽ được làm rõ ở
những phần sau.
Số liệu thống kê bảng trên cho thấy, mức lương hưu hàng tháng của người
nghỉ hưu trong giai đoạn từ năm 2007 đến năm 2011 có mức tăng bình quân khoảng
16,0% năm. Mức lương hưu bình quân năm 2011 bằng khoảng 2,5 lần mức lương
xv
tối thiểu chung. Mức lương hưu này được nhiều nghiên cứu đánh giá là thấp so với
tình hình giá cả thực tế và nhu cầu của người nghỉ hưu. Phân tích này có mâu thuẫn
với phân tích ở phần 2.2.1. cho rằng tỉ lệ thay thế thu nhập của hệ thống hưu trí ở
Việt Nam là cao so với các nước. Mâu thuẫn này có thể được lý giải bởi nguyên
nhân là NLĐ và NSDLĐ đang không đóng BHXH theo đúng mức tiền lương, tiền
công thực tế mà họ nhận được. Còn hiện tượng một doanh nghiệp có 3 đến 4 bảng
lương để làm việc với các cơ quan khác nhau.
Số người đóng BHXH cho một người hưởng lương hưu ngày càng giảm, nếu
như năm 1996 có 217 người đóng BHXH cho 1 người hưởng lương hưu, con số này
giảm xuống còn 34 người vào năm 2000, 19 người vào năm 2004, 14 người vào
năm 2007, 11 người vào năm 2009 và đến năm 2011 chỉ có 9,9 người đóng BHXH
cho 1 người hưởng lương hưu.
Tính đến cuối năm 2011, tổng số kết dư quỹ hưu trí và tử tuất là 137.279 tỷ
đồng. Tuy nhiên, theo dự báo của BHXH Việt Nam cho thấy: Năm 2023 số thu
bằng số chi, từ năm 2024 trở đi để đảm bảo chi chế độ hưu trí, tử tuất, ngoài số thu
trong năm phải trích thêm từ số dư của quỹ. Năm 2037, nếu không có chính sách

hoặc biện pháp tăng thu hoặc giảm chi thì số thu BHXH trong năm và số tồn tích
bắt đầu không đảm bảo khả năng chi trả, các năm sau đó số chi lớn hơn rất nhiều so
với số thu trong năm.
* Một số hạn chế và nguyên nhân:
- Hạn chế về chính sách bảo hiểm hưu trí
Theo quy định của Bộ luật Lao động và Luật bảo hiểm xã hội hiện hành thì
tuổi nghỉ hưu đối với nam là 60 tuổi, nữ là 55 tuổi còn đối với một số trường hợp
khác thì mức quy định là thấp hơn từ 5 đến 10 tuổi trong khi đó tuổi thọ trung bình
của nước ta hiện nay là trên 73 tuổi, so với độ tuổi này thì tuổi nghỉ hưu là thấp.
Điều này khiến lương hưu được hưởng sẽ không cao do thời gian đóng chưa dài,
hơn nữa việc này sẽ tạo sức ép lên vấn đề chi trả của quỹ BHXH.
- Hạn chế về quy định thời gian đóng
xvi
Luật Bảo hiểm xã hội sau này đã quy định lao động nữ chỉ cần 25 năm đóng
BHXH cũng có thể được hưởng tỷ lệ tối đa là 75% vì cứ thêm 1 năm kể từ năm thứ
16 trở đi được tính thêm 3%. Quy định này đã tạo điều kiện cho nhiều lao động nữ
có thể hưởng tỷ lệ hưởng tối đa khi nghỉ hưu nhưng nó lại tạo ra sự bất bình đẳng
mới giữa hai nhóm lao động nam và nữ có cùng số năm đóng BHXH, tuy nhiên về
mặt thời gian đóng vẫn còn bất cập giữa khu vực trong nước và khu vực dân doanh,
FDI. Khi nhiều hiệp hội doanh nghiệp vẫn chỉ ra rằng nhà nước có xu hướng thiên
vị hơn đối với đối tượng người lao động làm việc trong khối doanh nghiệp nhà nước
trước đây, như vậy là chưa phù hợp với nguyên tắc quan trọng của chế độ bảo hiểm
xã hội là nguyên tắc đóng, hưởng.
- Hạn chế về chính sách bảo hiểm xã hội một lần
Theo quy định tại Điều 55 Luật Bảo hiểm xã hội, tại điều các điều kiện
hưởng BHXH một lần gồm:
+ Đủ tuổi hưởng lương hưu theo quy định mà chưa đủ hai mươi năm đóng
bảo hiểm xã hội;
+ Suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên mà chưa đủ hai mươi năm
đóng bảo hiểm xã hội;

+ Sau một năm nghỉ việc nếu không tiếp tục đóng bảo hiểm xã hội và có yêu
cầu nhận bảo hiểm xã hội một lần mà chưa đủ hai mươi năm đóng bảo hiểm xã hội;
+ Ra nước ngoài để định cư.
Ta có thể thấy đối với những đối tượng thuộc điều kiện thứ 2 và thứ 3, nếu
không thuộc diện hưởng lương hưu hàng tháng thì sẽ tạo gánh nặng cho Nhà nước
và xã hội. Bên cạnh đó thì có một số đối tượng đủ điều kiện hưởng chế độ hưu trí
nhưng do điều kiện hoàn cảnh gia đình hoặc mắc những bệnh hiểm nghèo cần một
khoản tiền lớn để chữa trị nên có nguyện vọng xin hưởng trợ cấp BHXH một lần thì
lại không được giải quyết.
- Một số hạn chế khác
xvii
Hạn chế về công tác tổ chức thực hiện chế độ bảo hiểm hưu trí. Việc xác định
đơn vị có sử dụng lao động phải tham gia BHXH giữa các tỉnh là không thống nhất,
có tỉnh dựa vào số liệu của do Sở kế hoạch - đầu tư cung cấp rồi tiến hành rà soát;
tỉnh thì dựa vào số liệu do ngành thuế cung cấp; có tỉnh lại trên cơ sở số liệu thống
kê chung; một số tỉnh thì tổ chức phối hợp rà soát, điều tra… nhưng nhìn chung và
hầu hết vẫn thụ động, chủ yếu dựa vào việc các đơn vị đến đăng ký là chính.
* Nguyên nhân
Những hạn chế mà tác giả đã chi ra bên trên do nhiều nguyên nhân, tuy nhiên
có thể tóm gọn lại một số nguyên nhân cơ bản sau:
- Nguyên nhân từ công tác tuyên truyền, giáo dục, phối hợp giữa các cơ quan
chức năng nắm số lao động phải tham gia BHXH chưa tốt, chủ doanh nghiệp cố
tình không chấp hành đúng luật, né tránh trách nhiệm phải đóng BHXH.
- Nguyên nhân do trình độ hiểu biết pháp luật thấp, nhận thức chưa đầy đủ về
nghĩa vụ và quyền lợi phải tham gia BHXH của NLĐ, trong khi đó nhu cầu việc làm
lại rất bức xúc nên hầu hết NLĐ chỉ nghĩ trước mắt về tiền lương, tiền thưởng mà
không quan tâm đến các quyền lợi khác về BHXH, BHYT Đồng thời việc quan tâm
bảo đảm quyền lợi chính đáng, hợp pháp cho NLĐ ở hầu hết các doanh nghiệp tại các
địa phương chưa cao; vai trò của tổ chức công đoàn tại những doanh nghiệp có tổ
chức công đoàn chưa được phát huy, đó là chưa kể đến số lượng rất lớn các doanh

nghiệp chưa có tổ chức công đoàn.
- Nguyên nhân hạn chế từ mặt chính chưa thật sự hấp dẫn khuyến khích
NLĐ tham gia BHXH (một số quy định trong việc giải quyết chế độ, chính sách còn
có sự bất cập, thủ tục giấy tờ còn phiền hà ).
- Nguyên nhân tình trạng nợ đóng, trốn đóng bảo hiểm xã hội: do cơ quan
BHXH tỉnh không quản lý được toàn bộ số lao động phải tham gia BHXH bắt buộc
trên địa bàn nên không thể dự báo được nguồn thu dẫn đến tình trạng thất thu, nợ
đọng còn phổ biến.
xviii
- Bên cạnh đó, công tác thanh tra, phối hợp để kiểm tra liên ngành tại các đơn vị
sử dụng lao động còn hạn chế, nhiều doanh nghiệp (có cả doanh nghiệp Nhà nước) vi
phạm pháp luật về lao động, khai giảm quỹ lương để trốn nộp BHXH nhưng không bị xử
lý.
Chương 3: Một số ý kiến đề xuất về tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội
hưu trí bắt buộc ở Việt Nam.
Trong Chương 3, tác giả phân tích xu hướng phát triển BHXH nói chung và
BHXH hưu trí bắt buộc nói riêng đến năm 2020 và đưa ra một số đề xuất nhằm thực
hiện tốt hơn chế độ BHXH hưu trí bắt buộc.
* Xu hướng phát triển BHXH giai đoạn đến 2020 đã được đặt ra trong Đề án
Cải cách BHXH giai đoạn 2012- 2020 và Đề án một số vấn đề về ASXH giai đoạn
2012- 2020. Theo đó các mục tiêu chung được đặt ra đối với hệ thống BHXH ở Việt
Nam là: Xây dựng hệ thống BHXH bền vững phù hợp với nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo hài hoà lợi ích của các bên tham gia BHXH
thuộc mọi thành phần kinh tế; bảo đảm cân đối thu chi quỹ BHXH; đáp ứng yêu cầu
đổi mới và xu thế hội nhập kinh tế của đất nước. Mở rộng đối tượng tham gia
BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp. Hoàn thiện và tổ chức
thực hiện tốt các chế độ, chính sách BHXH. Từng bước nâng dần mức lương hưu
phù hợp với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước; tiến tới một bộ phận người
về hưu ngoài mức lương hưu cơ bản còn có lương hưu bổ sung.
* Một số đề xuất:

- Tiếp tục hoàn thiện chế độ, chính sách bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc làm
cơ sở cho việc thực hiện tốt chế độ này
Quốc hội đã có Nghị quyết về chương trình xây dựng luật, pháp lệnh nhiệm
kỳ Khóa 13 (2011 - 2016) trong đó có Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
xix
Bảo hiểm xã hội. Đây là một thuận lợi cơ bản để Nhà nước tiếp tục hoàn thiện chế
độ, chính sách BHXH hưu trí bắt buộc.
- Quản lý chặt chẽ đối tượng đang nghỉ hưởng chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí
bắt buộc
Thực tế thực hiện chế độ BHXH hưu trí bắt buộc cho thấy hiện nay có hơn 2
triệu người đang nghỉ hưởng lương hưu nhưng hồ sơ, cơ sở dữ liệu về nhóm đối
tượng này hiện được quản lý rất thủ công, mất nhiều thời gian mà không hiệu quả.
Theo báo cáo nhanh của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội và Bảo hiểm
xã hội Việt Nam trong quá trình thanh tra, kiểm tra tại một số địa phương phát hiện
ra những đối tượng đang nghỉ hưởng lương hưu hàng tháng bị chết nhưng không có
báo cáo, cơ quan BHXH vẫn tiếp tục trả lương hưu trong khoảng thời gian dài sau
đó gây thất thoát lớn cho Quỹ hưu trí và tử tuất cũng như Ngân sách nhà nước (đối
với nhóm đối tượng nghỉ hưu trước năm 1995.
- Hoàn thiện cơ chế thu - chi bảo hiểm xã hội
Nội dung chủ yếu của công tác thu chi BHXH,Việt Nam hiện nay là vấn đề
hoàn thiện mức thu, chống nợ đọng phí và hoàn thiện, cơ chế quản lý chi BHXH.
Trong tình trạng mà quỹ BHXH vẫn luôn dư thừa, nếu, chúng ta chỉ nhìn vào con số
thuần tuý, bỏ qua việc xây dựng chương trình dự báo, tính toán, nhìn vào tình hình
quỹ trong tương lai thì việc hoạch định và điều chỉnh chính sách trở lên khó khăn
hơn rất nhiều.
- Tăng cường kiểm tra giám sát đối với người sử dụng lao động
Như đã phân tích ở Chương 2, những hạn chế trong việc thực hiện chế độ
hưu trí có nguyên nhân không nhỏ từ việc không tuân thủ quy định về BHXH của
NSDLĐ như việc trốn đóng, nợ đóng dẫn đến tình trạng NLĐ đủ điều kiện về hưu
không được giải quyết chế độ hay tình trạng trục lợi, giả mạo hồ sơ.

Theo báo cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thì số đợt thanh tra,
kiểm tra hàng năm về lĩnh vực BHXH là rất hạn chế. Đội ngũ thanh tra chuyên
xx
ngành về BHXH ở trung ương mỏng. Không có đội ngũ thanh tra chuyên ngành về
BHXH ở địa phương. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa được quan tâm đúng mức
dẫn đến quyền lợi hưu trí của NLĐ không được bảo đảm đầy đủ.
- Tăng cường công tác tuyên truyền về bảo hiểm xã hội đến các tầng lớp
nhân dân
Là đơn vị tổ chức thực hiện chính sách Bảo hiểm xã hội, các cơ quan BHXH
sẽ thay mặt Đảng và Nhà nước phổ biến các chính sách liên quan đến BHXH đến
người dân. Công tác truyền thông trong BHXH là một công tác rất quan trọng trong
thực hiện BHXH. Tuyên truyền để giúp người dân nói chung và người lao động nói
riêng hiểu biết về mục đích mà BHXH hướng tới, qua đó thấy được quyền lợi, lợi
ích của mình. Nhận thức được điều này sẽ làm cho đối tượng tham gia BHXH tự ý
thức trong việc tuân thủ về đóng góp BHXH, giúp mở rộng đối tượng tham gia. Mở
rộng đối tượng tham gia có ý nghĩa quan trọng trong việc cân đối quỹ BHXH trong
thời gian tới. Hiện nay ngành BHXH nói chung còn chưa dành sự quan tâm tới hoạt
động này.
- Giải quyết triệt để tình trạng nợ đọng
Tình trạng trốn đóng, nợ đóng BHXH diễn ra thường xuyên do nhiều nguyên
nhân khác nhau như nhận thức của NSDLĐ, NLĐ còn hạn chế hoặc NSDLĐ cố
tình chiếm dụng vốn từ quỹ BHXH; cơ chế, chế tài xử phạt còn chưa nghiêm.
Trong thời gian tới, cần thiết phải thực hiện nghiêm minh các chế tài xử phạt,
đồng thời kiến nghị bổ sung quy định trong Bộ Luật Hình sự về hành vi của cá nhân
NSDLĐ khi vi phạm pháp luật BHXH (trốn đóng hoặc nợ đóng BHXH dẫn tới
không có khả năng đóng BHXH với số tiền lớn; trích tiền đóng BHXH của NLĐ
nhưng không nộp cho cơ quan BHXH, ).
- Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội
Ở Việt Nam hiện nay, những người được đào tạo, chuyên sâu về BHXH
chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số cán bộ của ngành. Nhu cầu,nguồn nhân lực để thực

xxi
hiện chính sách BHXH của nước ta vẫn còn yếu về chất lượng và thiếu về số lượng.
Đây là một thực tế và đồng thời cũng là bất cập lớn nhất khi, tổ chức thực hiện
chính sách BHXH ở nước ta. Một vấn đề lớn đặt ra là phải đào tạo và đào tạo lại,
nguồn nhân lực cho ngành BHXH. Đây là nhu cầu cấp thiết, vừa là trước mắt,
vừa,là chiến lược lâu dài đối với toàn ngành mà chúng ta phải nhận thức được trong
bối,cảnh chung hiện nay.
KẾT LUẬN
Chế độ BHXH hưu trí bắt buộc ở Việt Nam đã thực sự đi vào đời sống ngừoi
lao động. Hiện có trên 10 triệu người đang tham gia đóng góp vào hệ thống và hơn
2 triệu người đang hưởng lương hưu hàng tháng, với mức lương bình quân khoảng
2,6 triệu đồng/ tháng.
Qua một thời gian nghiên cứu, tác giả cho rằng chế độ BHXH hưu trí bắt
buộc ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu cơ bản. Chính sách được luật hóa, có
cơ quan tổ chức thực hiện trực thuộc Chính phủ với hơn 2 vạn nhân sự. Đây là điều
kiện thuận lợi để tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện hơn nữa chế độ, chính sách cũng
như việc thực hiện chế độ BHXH trí bắt buộc trong thời gian tới.
Tác giả hi vọng các nghiên cứu, phát hiện và đề xuất trong Luận văn sẽ góp
một phần nào đó để thực hiện tốt hơn nữa một chế độ, chính sách rất nhân văn của
Đảng và Nhà nước. Trong quá trình học tập và công tác tiếp theo, tác giả sẽ tiếp tục
tìm tòi cả lý luận và thực tiễn để hoàn thiện tốt hơn Luận văn của mình.
xxii
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ở Việt Nam, BHXH là một chính sách xã hội lớn, là trụ cột trong hệ thống
các chính sách an sinh xã hội của Đảng và Nhà nước. Chế độ hưu trí là một trong
những chế độ quan trọng nhất được hình thành ngày từ khi BHXH ra đời. Qua thời
gian, chế độ hưu trí không ngừng được sửa đổi, bổ sung theo hướng hoàn thiện, đặc
biệt là sau khi Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội ban hành ngày 29 tháng 6 năm
2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007. Chính sách này đã góp

phần bảo đảm nguồn thu nhập hỗ trợ cho cuộc sống của NLĐ khi không còn khả
năng lao động, góp phần bảo đảm an sinh xã hội.
Tuy nhiên, thực tế sau hơn 5 năm triển khai thực hiện chế độ hưu trí theo
quy định của Luật Bảo hiểm xã hội, thực tiễn đã phản ánh một số vấn đề cả về nội
dung chính sách và việc tổ chức triển khai thực hiện cần được nghiên cứu, như: mô
hình quản lý, phương thức đóng bảo hiểm xã hội, tính hưởng chế độ hưu trí, độ tuổi
nghỉ hưu ngoài ra mức độ bao phủ của bảo hiểm xã hội nói chung và chế độ hưu
trí nói riêng còn thấp. Theo mục tiêu được Bảo hiểm xã hội Việt Nam đề ra là phấn
đấu đến năm 2020 sẽ có 50% người dân Việt Nam có BHXH hưu trí, tuy nhiên để
thực hiện được mục tiêu này là không dễ…Từ những lý do nêu trên, đặt ra vấn đề
cần thiết phải có những Phân tích tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí
bắt buộc ở Việt Nam, chỉ rõ những vấn đề đã làm tốt, những hạn chế, nguyên nhân
của nó, để từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm từng bước hoàn thiện góp
phần thực hiện an sinh xã hội và phù hợp với khát khao, nguyện vọng của đông đảo
người dân. Do đó, học viên đã mạnh dạn chọn đề tài “Phân tích tình hình thực hiện
chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Thứ nhất, hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về chế độ hưu trí.
Thứ hai, Phân tích tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt
buộc ở Việt Nam, phản ánh những kết quả đạt được, đồng thời chỉ rõ những vấn đề
còn hạn chế và nguyên nhân của nó.
1
Thứ ba, đề xuất những giải pháp, kiến nghị để nhằm hoàn hiện công tác thực
hiện chế độ hưu trí bắt buộc ở nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu: Tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt
buộc trên phạm vi cả nước.
- Đối tượng nghiên cứu: chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc (không
nghiên cứu chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí tự nguyện).
* Trong phạm vi Luận văn, thuật ngữ “chế độ hưu trí” được hiểu là “chế độ

bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc”.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tác giả
sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng trong xử lý thông
tin sơ cấp và thứ cấp.
- Nguồn thông tin: thông tin thứ cấp từ các báo cáo của cơ quan Bảo hiểm xã
hội Việt Nam.
Thông tin sơ cấp thu thập được từ nhưng phản ánh của doanh nghiệp, NLĐ,
trong quá trình tác giả tiếp xúc khi công tác tại tại Vụ Bảo hiểm xã hội, Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội.
5. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục bố cục đề tài gồm 3 phần:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí;
Chương 2: Tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí bắt buộc ở
Việt Nam;
Chương 3: Một số ý kiến đề xuất về tình hình thực hiện chế độ bảo hiểm xã
hội hưu trí bắt buộc ở Việt Nam;
2
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHẾ
ĐỘ BẢO HIỂM XÃ HỘI HƯU TRÍ
1.1. Chế độ hưu trí trong hệ thống các chế độ bảo hiểm xã hội
1.1.1. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm xã hội và chế độ hưu trí
BHXH ra đời vào những năm giữa thế kỉ XIX, khi nền công nghiệp và kinh
tế hàng hoá bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước châu Âu. Quá trình công nghiệp
hoá làm cho nhiều người nông thôn phải bỏ ruộng vườn hoặc không còn ruộng
vườn, phải ra đô thị, ra các vùng công nghiệp để kiếm sống, chấp nhận từ bỏ “lá
chắn” truyền thống ở thôn quê. Vì vậy, đội ngũ người làm công ăn lương tăng lên,
cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại. Sự
hẫng hụt về tiền lương trong các trường hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất việc

làm và đặc biệt khi về già không còn khả năng lao động đã trở thành mối đe doạ
đối với cuộc sống bình thường của những người không có nguồn thu nhập nào khác
ngoài tiền lương. Sự bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày
đã buộc những người làm công ăn lương tìm cách khắc phục bằng những hành động
tương thân, tương ái (lập các quỹ tương tế, các hội đoàn ); đồng thời, đòi hỏi giới
chủ phải trợ giúp để bảo đảm cuộc sống cho họ. Ban đầu người chủ chỉ cam kết trả
tiền công cho NLĐ, nhưng do ốm đau, TNLĐ xảy ra với tần suất gia tăng, cho nên
NLĐ đấu tranh, buộc người chủ ngoài tiền công, phải cam kết trả cho NLĐ một
khoản chi phí nhất định để trang trải những rủi ro trên. Tuy nhiên, trong thực tế
không phải bao giờ các cam kết của giới chủ cũng được thực hiện đầy đủ, đảm bảo
các quyền lợi cho NLĐ khi rủi ro xảy ra. Vì thế, giới thợ đã liên kết vớí nhau đấu
tranh buộc giới chủ phải thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này đã tác động đến
nhiều mặt của đời sống xã hội, dẫn đến một giải pháp khắc phục có hiệu quả hơn,
đó là việc hình thành một quỹ dự trữ. Quỹ này được hình thành do sự đóng góp của
cả giới chủ và giới thợ và khi NLĐ gặp phải rủi ro thì các chi phí được trích ra từ
quỹ một cách chủ động, không phụ thuộc vào ý muốn của giới chủ.
3

×