Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Thế giới quan phật giáo dưới góc nhìn của triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.38 KB, 28 trang )

TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
I. Thế giới quan Phật giáo.
Thế giới quan Phật giáo chịu ảnh hưởng của hai luận điểm, thể hiện qua 4
luận thuyết cơ bản: thuyết vô thường, thuyết vô ngã, thuyết nhân quả, thuyết
nhân duyên khởi.
1. Thuyết vô thường.
Vô thường là không thường còn, là chuyển biến thay đổi. Luật vô thường
chi phối vũ trụ, vạn vật, thân và tâm ta. Sự vật luôn luôn biến đổi không có gì
là thường trụ, bất biến. Với ngũ quan thô thiển của ta, ta lầm tưởng sự vật là
yên tĩnh, là bất động nhưng thật ra là nó luôn luôn ở thể động, nó chuyển biến
không ngừng. Sự chuyển biến ấy diễn ra dưới hai hình thức.
a) Một là Sátna( Kshana ) vô thường: là một sự chuyển biến rất nhanh,
trong một thời gian hết sức ngắn, ngắn hơn cả một nháy mắt, một hơi thở, một
niệm, một sự chuyển biến vừa khởi lên đã chấm dứt. Phật dùng danh từ Satna
để chỉ một khoảng thời gian hết sức ngắn.
b) Hai là: Nhất kỳ vô thường. Là sự chuyển biến trong từng giai đoạn. Sự
vô thường thứ nhất là trạng thái chuyển biến nhanh chóng, liên tiếp, ngắn
ngủi, thường là ta không nhận ra mà kết quả là gây ra sự vô thường thứ hai.
Nhất kỳ vô thường là trạng thái chuyển biến rõ rệt, kết thúc một trạng thái cũ,
chuyển sang một trạng thái mới. Vạn vật trong vũ trụ đều tuân theo luật:
Thành - Trụ - Hoại - Không.
Vạn vật được cấu thành, trụ một thời gian, sau đó chuyển đến diệt, thành,
hoại, không.
Các sinh vật đều tuân theo luật: Sinh, trụ, di, diệt.
Một hành tinh, một ngôi sao có thời kỳ vũ trụ kéo dài hàng triệu năm, một
cây có thể trụ hàng ngàn năm, một sinh vật có thể trụ được hàng trăm năm,
bông hoa phù dung chỉ trụ trong một ngày - sớm nở, chiều tàn. Xung quanh ta
sự vật chuyển biến không ngừng. Theo luật vô thường, không phải khi sinh ra
1
mới gọi là sinh, khi vạn vật diệt mới gọi là diệt mà từng phút, từng dây, từng
Satna, vạn vật sống để mà chết và chết để mà sống. Sống, chết tiếp diễn liên


tục với nhau bất tận như một vòng tròn.
Không những thân ta chuyển biến không ngừng mà tâm ta cũng không
ngừng chuyển biến. Như dòng nước thác, như bọt bể, trong Satna này, trong
tâm ta nổi lên một ý niệm thiện, chỉ trong Satna sau, trong tâm ta đã có thể
khơi lên một ý niệm ác. Tâm ta luôn luôn chuyển biến như thế Phật gọi là tâm
phan duyên. Trong kinh Thủ năng Nghiệm quyển một Phật gọi cái tâm phan
duyên ấy là cái tâm biết cái này, nghĩ cái khác, cái tâm vọng động do duyên
với tiền trần mà có, theo cách trần mà luôn luôn thay đổi, chuyển biến mà
không Satna nào ngừng.
Không những tâm, thân ta chuyển biến mà các hình thái xã hội theo thời
gian cũng chuyển biến: Xã hội công xã nguyên thuỷ > Xã hội chiếm hữu nô
lệ > Xã hội phong kiến > Xã hội tư bản > Xã hội XHCN. Đó là quy luật
xã hội và cũng không phù hợp với thuyết vô thường của Đạo Phật.
Thuyết vô thường là một trong những thuyết cơ bản trong giáo lý Phật, là
cơ sở của lý luận cho phương thức sống, cho triết lý sống của những con
người tu dưỡng theo giáo lý phật.
Trong thế gian có những người không biết lý vô thường của Phật, có
những nhận thức sai lầm về sự vật là thường còn, là không thay đổi, không
chuyển biến. Nhận thức sai lầm như thế phật giáo gọi là ảo giác hay huyễn
giác. Vì nhận thức thân ta là thường còn nên nảy ra ảo giác muốn kéo dài sự
sống để hưởng thụ, để thoả mãn mọi dục vọng. Khi luật vô thường tác động
đến bản thân thì sinh ra phiền não đau khổ.
Ngược lại, nếu thấu lý vô thường một cách nông cạn, cho chết là hết, đời
người ngắn ngủi, phải mau mau tận hưởng những thú vui vật chất, phải sống
gấp, sống vội. Cuộc sống như thế là sống trụy lạc, sa đọa trong vũng bùn của
ngũ dục, sống phiền não đau khổ trước sự chuyển biến của sự vật, trước sự
sinh- trụ, dị diệt, trước sự thành, trụ hoại không nó diễn ra hàng ngày.
2
2. Thuyết vô ngã.
Từ thuyết vô thường. Phật nói sang vô ngã. Vô ngã là không có cái ta.

Thực ra làm gì cũng có cái ta trường tồn, vĩnh cữu vì cái ta nó biến đổi không
ngừng, biến chuyển từng phút, từng giờ, từng Satna.
Một câu hỏi được đặt ra vậy cái ta ở giây phút nào là cái ta chân thực, cái ta
bất biến ? Cái ta mà Phật nói trong thuyết vô ngã gồm có hai phần:
Cái ta sinh tức thân.
Cái ta tâm lý tức tâm.
Theo kinh Trung Quốc Ahàm, cái ta sinh lý chỉ là kết hợp của bốn yếu tố
của bốn đại là: địa , thuỷ, hoả , phong.
∗ Địa đại là cái đặc cứng như tóc, răng, móng chân, móng tay, da , thịt,
các cơ, xương, tủy, tim gan, thận,
∗ Thủy đại là những chất lỏng như mật ở trong gan, máu, mồ hôi, bạch
huyết, nước mắt,
∗ Hoả đại là những rung động của cơ thể như hơi thở, chất hơi ở trong dạ
dầy, ở ruột.
Những thứ đó không phải là ta, ta không phải là nhưng thứ đó, những thứ
đó không thuộc về ta.
Cái mà ta gọi là cái ta sinh lý chỉ là một khoảng không gian giới hạn bởi sự
kết hợp của da thịt, cũng như cái mà ta gọi là túp lều chỉ khoảng không gian
giới hạn bởi gỗ, tranh, bùn để trát vách mà thôi.
Tứ đại ( địa, thuỷ, hoả, phong) nêu trên thoáng là của ngoại cảnh, thoáng là
của ta. Vậy thực sự nó là của ai ? Vả lại khi bốn yếu tố này rời nhau trở về
thể của nó thì không có gì ở lại để có thể gọi là cái ta được nữa. Cho nên cái
mà ra gọi là cái ta sinh lý chỉ là một giả tưởng, một nhất hợp sinh lý mà thôi.
Còn cái ta tâm lý gồm : thụ, tưởng, hành, thức. Bốn ấm này cùng với sắc
ấm che lấp trí tuệ làm cho ta không nhận thấy được cái ta chân thực cái ta
Phật tính, cái chân ngã của chúng ta. Cái chân lý gồm những nhận thức, cảm
giác, suy tưởng, là sự kết hợp của thất tỉnh: Hỷ, nộ, ai, lạc, ái , nỗ, dục.
3
Thuyết vô ngã làm cho người ta không còn ai tin là có một linh hồn vĩnh
cửu, tồn tại kiếp này sang kiếp khác, đời này qua đời khác. Sự tin có một linh

hồn dẫn dắt đến sự cúng tế linh hồn là hành động của sự mê tín.
Quan niệm có một linh hồn bất tử, một cái ta vĩnh cửu là nguồn gốc sinh ra
những tình cảm, những tư tưởng ích kỷ, những tham dục vô bờ của những kẻ
dựa vào sức mạnh phi nghĩa để làm lợi cho mình, tức là cho cái ta mà họ coi
là thường còn, bất biến. Còn đối với những người bị hà hiếp, bị bóc lột thì sự
mê tín có cái ta vĩnh cửu dẫn đến tư tưởng tiêu cực, chán đời phó mặc cho số
mệnh, hy vọng làm lại cuộc đời ở kiếp sau.
Hai thuyết vô thường, vô ngã là hai thuyết cơ bản trong giáo lý Phật. Chấp
ngã chấp có cái ta thường còn là nguồn gốc của vô minh mà vô minh là đầu
mối của luân hồi sinh tử sinh ra đau khổ cho con người. Căn cứ trên hai
thuyết vô thường và vô ngã Phật đã xây dựng cho đệ tử một phương thức
sống, một triết lý sống lấy vị tha làm lý tưởng cao cả cho cuộc sống của mình,
hay nói một cách khác một cuộc sống một người vì mọi người, mọi người vì
một người.
3. Thuyết Lý nhân duyên sinh.
Với lý nhân duyên sinh Phật muốn nói tới một định lý. Theo định lý ấy sự
vật vạn vật phát triển trên thế gian đều do các nhân duyên hội họp mà thành,
sự vật, vạn pháp sẽ kiến diệt khi nhân duyên tan rã.
Nhân là năng lực phát sinh, duyên là lực hỗ trợ cho nhân phát sinh. Như
cây lúa thì hạt lúa là nhân, nước, ánh sáng mặt trời, công cày bừa gieo trồng là
duyên. Nhân duyên đó hội họp sinh ra cây lúa. Tất cả mọi hiện tượng đều
nương nhau mà hành động. Nói nương nhau có nghĩa là sự vật tác động, kết
hợp, chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau mà thành. Đó là nhân duyên. Nói về thứ
nhân duyên trong kinh Phật có câu:
Nhược sử hữu, tắc bỉ hữu.
Nhược sử sinh, tắc bỉ sinh.
Nhược thử vô, tắc bỉ vô.
4
Nhược thử diệt, tắc bỉ diệt.
Có nghĩa là:

Cái này có thì cái kia có.
Cái này sinh thì cái kia sinh.
Cái này không thì cái kia không.
Cái này diệt, thì cái kia diệt.
Tất cả các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau,
không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối.
Sự vật chỉ “ có “ một cách giả tạo, một cách vô thường.
.Nhân duyên hội họp thì sự vật là “ có “.
.Nhân duyên tan dã thì sự vật là “ Không “.
Người thế gian không tu dưỡng tưởng lầm sự vật, vạn pháp là thực có, là
vĩnh viễn nên bám giữ vào các pháp vào sự vật ( sinh mệnh, danh vọng, tiền
tài ). Nhưng thực ra các pháp là vô thường, là chuyển biến và khi tan dã thì
người thế gian thương tiếc, đau khổ.
Thế giới vũ trụ, vạn pháp đều cấu thành bởi hệ thống nhân duyên trùng
trùng điệp điệp. Các pháp không có thực thể, chỉ vì nhân duyên hoà hợp mà
có, một cáh giả hợp mà sinh ra. Bởi thế tìm kiếm đến cùng cũng không thấy
vạn pháp có “ thủy “ và xét đến muôn đời cũng không thấy vạn pháp có “
chung “. Vạn pháp là vô thủy, cái nguyên nhân đầu tiên của các pháp hay cái
chung cùng của sự vật.
Lý nhân duyên cho chúng ta thấy sự vật hình thành là do nhân duyên hoà
hợp, sự vật là hư giả, là giả hợp không có tính tồn tại. Như vậy con người làm
chủ đời mình, làm chủ vận mệnh của mình.
Cuộc sống của con người có tươi đẹp hạnh phúc hay phiền não đau khổ là
đều do nhân duyên mà con người tạo ra. Với nhận thức như vậy, con người
tìm được một phương thức sống, một cách sống cho ra sống, sống vì hạnh
phúc của mọi người, sống an lạc, tự tại, giải thoát.
4. Thuyết nhân duyên quả báo hay thuyết nhân quả.
5
Thuyết nhân duyên quả báo gọi là thuyết nhân quả là một trong những
thuyết cơ bản của giáo lý Phật. Phật chủ trương không bao giờ tự nhiên mà

có, mà sinh ra và cũng cho rằng không một thần quyền nào hay một đấng
thiêng liêng nào tạo ra sự vật. Sự vật sinh ra là có nhân nguyên nhân. Cái
nguyên nhân một mình cũng không tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên
thì mới tạo ra quả được.
Người ta nói rằng: Trồng đậu được đậu.
Trồng dưa được dưa.
Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân sinh ra nó. Quả có thể hơn
nhân nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Nhân
gặp đủ duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên lại có thể
biến thành nhân rồi để sinh ra quả khác.
Sự vật là một chuỗi nhân quả, là một tràng nhân quả nối tiếp nhau, ảnh
hưởng lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng.
Trong nhân lại có mầm mống của quả sau này nhưng quả không nhất định
phải đúng như nhân vì duyên có thể mang lại sự biến đổi cho quả - Đó là
thuyết “Bất định pháp” trong luật nhân quả.
Sự vật là bất định, người tu hành căn cứ vào thuyết này mà tu dưỡng và
tiến tới trên con đường giải thoát về nhân. Suy rộng ra theo giáo lý Phật thì
mỗi ý nghĩ của tâm ta, mỗi hành động của thân ta, mỗi lời nói của chúng ta
cũng là những hạt nhân của chúng ta gieo hàng ngày. Những hạt nhân khi gặp
đủ duyên sẽ nảy nở thành quả.
Theo danh từ Phật học, những hạt nhân này gọi là nghiệp. Gieo nhân tức là
gây nghiệp: Ý nghiệp, thân nghiệp, khẩu nghiệp. Kết quả đền đáp những hành
động nói trên phật gọi là nghiệp báo. Thời gian giữa gieo nhân và hái quả có
thể dài ngắn khác nhau. Vì vậy có nhân quả đồng thời: Tức là nhân quả nối
liền nhau, vừa tạo nhân, quả liền phát sinh không phải đợi một thời gian sau
mới thành thục. Lại có nhân quả dị thời: Tức là nhân tạo ra đời trước, đời sau
mới kết thành quả.
6
Người nào gieo nhân, người ấy hái quả, không một hành động nào, thiện
hay ác, dù nhỏ đến đâu, dù ta khôn khéo bưng bít, giấu giếm đến mức nào

cũng không thể thoát khỏi cán cân nhân quả. Người học Phật, tu Phật chân
chính thấm nhuần thuyết nhân quả phải là người có đạo lý, không thể nào
khác được.
Với những luận thuyết cơ bản như trên đã hình thành nên thề giới quan
phật giáo. Phật quan niệm các hiện tượng trong vũ trụ luôn luôn biến chuyển
không ngừng theo quy luật nhân duyên. Một hiện tượng phát sinh không phải
là do một nhân mà do nhiều nhân và duyên. Nhân không phải tự mà có mà do
nhiều nhân duyên đã có từ trước. Như vậy một hiện tượng có liên quan đến tất
cả các hiện tượng trong vũ trụ.
Kinh Hoa Nghiêm có ghi:
Nhất tức đa.
Đa tức nhất.
Nhất tức nhất thiết.
Nhất thiết tức nhất.
Có nghĩa là:
Một tức là nhiều.
Nhiều tức là một.
Một là tất cả.
Tất cả là một.
Tóm lại thế giới quan Phật giáo là thế giới quan nhân duyên. Tất cả sự vật
có danh có tướng, có thể nhận thức được, ý niệm được. Cảm giác được hay
dùng ngôn ngữ luận bàn, được đều được Phật gọi là pháp. Các pháp đều thuộc
một giới gọi là Pháp giới. Bản tính của pháp giới là các pháp duyên khởi ra
nhau. Tính ấy là tính của pháp giới nên gọi là pháp giới tính. Do pháp giới
tính là bản tính của các pháp nên gọi là chân, vì vậy pháp giới tính còn gọi là
chân như tính.
7
Giác ngộ được chân như tính thì gọi là tự giác, nhưng thế thì chưa nhận
thức đầy đủ, sâu sắc về pháp giới tính vì vậy các nhà tu hành giác ngộ được
bản lai tự tính còn phải vận dụng pháp giới tính vào nhiều trường hợp khác

để thấy được cái dụng to lớn của pháp giới tính.
Như vậy, người tu hành chỉ khi nào công hạnh giác tha được viên mãn lúc
đó mới chứng thực được toàn thể, toàn dụng của pháp giới tính. Nói một cách
khác là chứng được toàn thể của sự vật gồm cả ba vẻ: thể, tưởng, dụng, chứng
được pháp thân.
II. Nhận thức luận Phật giáo.
1. Bản chất, đối tượng của nhận thức luận.
Bản chất của nhận thức luận Phật giáo là quá trình khai sáng trí tuệ. Còn
đối tượng của nhận thức luận là vạn vật, là mọi hiện tượng, là cả vũ trụ.
Vạn vật là vô thuỷ vô chung, không có sự vật đầu tiên và không có sự vật
cuối cùng. Mọi vật đều liên quan mật thiết đến nhau. Toàn thể dù lớn đến đâu
nếu không có quan hệ với hạt bụi thì cũng không thành lập được. Để diễn đạt
ý trên, một thiền sư đã dùng hai câu thơ:
Càn khôn tận thị mao đầu thượng.
Nhật nguyệt bao hàm giới trí trung.
Có nghĩa là:
Trời đất rút lại đầu lông nhỏ xíu.
Nhật nguyệt nằm trong hạt cải mòng.
Như vậy đạo Phật không phân biệt vật chất và tinh thần vì đó chỉ là hai
trạng thái của tâm, của năng lượng khi ở thể tiềm tàng.
Sau khi đã tìm hiểu về sự vật, hiện tượng chúng ta sẽ tìm hiểu cái tâm trong
đạo Phật để thấy được quan niệm của đạo Phật về tâm và vật.
Thông thường người ta cho rằng đạo Phật là duy tâm vì trong kinh phật có
câu ”Nhất thiết duy tâm tạo “ . Nhưng chữ “ duy tâm “ ở đây không phải là
duy tâm trong triết học Tây Phương nên ta không thể nhận định như trên. Chữ
tâm trong đạo Phật có nghĩa là một năng lượng, nó làm bản thể cho tất cả mọi
8
hiện tượng tâm lý, cho mọi hiện hành. Bản thể là cái chất, là cội gốc của vạn
vật. Khi ta phân tích, chia chẻ một vật đến một phần tử nhỏ nhiệm nhất, đến
phần cuối cùng thì phần tử ấy là bản thể mà ở đây cũng có vật có chất nên đâu

đâu cũng thấy có bản thể, vì vậy tâm cũng lại là to lớn vô biên.
Những tình cảm, ý thức phát sinh phải nương vào hiện tượng sinh lý, vật
lý. Nói nương nhau để phát sinh chứ không phải các hiện tượng sinh lý, vật lý
sinh ra các hiện tượng tâm lý.
Hiểu như vậy thì thấy rõ không phải tâm sinh vật hay vật sinh tâm. Những
hiện tượng sinh lý vật lý và những hiện tượng tâm lý ấy chỉ tương sinh tương
thành.
2. Quy trình, con đường và phương pháp nhận thức.
Sự nhận thức phát triển theo hai con đường tư trào: Hường nội và hướng
ngoại. Phật giáo thường quan tâm đến tư trào hướng nội tức là mỗi người tự
chiêm nghiệm suy nghĩ của bản thân. Có hai phương pháp để nhận thức là :
.Tiệm ngộ : là sự giác ngộ, nhận thức một các dần dần, có tính chất là “ trí
hữu sư”.
.Đốn ngộ : là sự giác ngộ bột phát, bùng nổ có tính chất là “ trí vô sư “.
Với hai phương pháp ấy sự nhận thức Phật giáo được chia làm hai gia
đoạn:
Giai đoạn một là từ tuỳ giác đến thể nhập. Nhận thức bắt đầu từ cảm giác
và phụ thuộc vào cảm giác đưa lại. Kết quả là con người biết được cái tiếp
xúc giữa thế giới khách quan và giác quan của con người và từ sự tiếp xúc
này tạo nên yếu tố” thọ “ trong ngũ uẩn. Theo nhà Phật nói chữ thọ ở đây là
sự tiếp xúc của sáu căn với sáu trần tạo nên yếu tố thọ. Căn cứ ở đây là những
khả năng nhận thức của các giác quan. Trần là loại kích thích từ thế giới bên
ngoài. Nếu kích thích tương ứng với các căn thì con người có cảm giác. Sáu
căn là : nhăn, nhỉ, tù, thiệt, thân, ý. Sáu trần là: sắc, thanh, hương, vị, xúc,
pháp. “ Thọ”, cho chúng ta nhận biết được những hiện tượng riêng lẻ, những
cái bề ngoài, ngẫu nhiên. Trong một số trường hợp khác gọi đó là kinh
9
nghiệm. Từ những tri thức cảm tính kinh nghiệm nêu trên, con người sẽ đi sâu
để nhập vào bản thể của sự vật để biết được cái bên trong, bản chất đó là tri
thức định lý.

Giai đoạn hai sự nhận thức đi từ cái tâm tại đến cái tâm siêu thể. Từ kết quả
của giai đoạn trước , con người bắt được cái tâm tính của những sự vật hữu
hình tái thế và đặc biệt là cái tâm ở trong mỗi con người và nâng lên để nắm
được cái tâm siêu thoát, cái tâm trung.
Để đạt được sự nhận thức đó thì có nhiều phương pháp song hai phương
pháp sau: Tam học và Tam huệ là chủ yếu.
Tam học là giới, định, tuệ.
. Giới: Gồm có nhứng phương tiện để thay đổi lối suy nghĩ, lối sinh hoạt
hàng ngày của con người sống theo đạo, thích hợp với đạo là luôn hướng về
thiện.
. Định: là đình chỉ mọi tư tưởng xấu, ý nghĩ xấu và còn là tập trung tư
tưởng suy nghĩ để làm mọi việc yên lành.
. Tuệ: là trí tụê sáng suốt, đã thấu được lý vô thường, vô ngã, do đó chỉ
nghĩ đến làm việc thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
. Tam huệ: là văn, tu, tư.
Văn: là nghe pháp phật, hiểu rõ ý nghĩa, quan niệm được bản tính thanh
tịnh, sáng suốt của mình, do đó mà có một lòng tin vững chắc nơi Phật pháp.
Tư : là suy nghĩ về các pháp Phật đã nghe được, học được đi đến giác ngộ
bản lai tư tính của mình.
Tu: là nương theo trí tuệ, bắt đầu trực nhận được bản tính chân như, mà tụ
tập gột rửa những thói quen mà lầm từ nhiều kiếp để lại đi đến nhập với một
pháp giới tính.
Các phương pháp trên đã phá tan các kiến chấp sai lầm chấp ngã, chấp
pháp để đi đến trung đạo và nhận rõ trung đạo là chẳng có, chẳng không. Với
nhận thức như thế, người tu hành sẽ được sống trong sự giải thoát, sinh tử
luân hồi sẽ không còn nữa.
10
III. Nhân sinh quan Phật giáo.
Từ một vũ trụ quan căn cứ trên những thuyết nhân duyên sinh, thuyết sự
vật duyên khởi đi đến nhận thức là vô thủy, vô chung, từ những thuyết vô

thường, vô ngã bây giờ chúng ta sẽ tìm hiểu về những quan niệm của Đạo
Phật về vấn đề nhân sinh quan. Ở đây chúng ta sẽ lần lượt trả lời các câu hỏi:
– Con người là gì ? Từ đâu mà sinh ra? Chết rồi đi đâu ?
Vị trí của con người trong Đạo Phật.
– Quan niệm của Phật về các vấn đề:bình đẳng, tự do, dân chủ
– Có phải cuộc sống chỉ toàn là đau khổ ? và vấn đề giải thoát trong Đạo
Phật là gì ?
Trước khi trả lời các câu hỏi trên chúng ta sẽ tìm hiểu và phân tích Tứ diệu
đế vì đây là giáo lý kinh điển của Phật giáo bao quát toàn bộ các vấn đề trên.
1. Tứ diệu đế:
Tứ diệu đế hay còn gọi là tứ chân đế hay tứ thánh đế, là bài thuyết pháp
đầu tiên của Phật sau khi thành đạo tại vườn Lộc giã cho năm từ khưu trước
kia đi theo Phật.
Tứ đế là đạo lý căn bản của Thanh Văn Thừa, đồng thời cũng là cơ sở của
các thuyết khác trong giáo lý Phật.
Tứ đế gồm có: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế.
a. Khổ đế:
Trong tứ đế, Phật đưa ra đầu tiên vấn đề khổ, rồi giảng cho ta thấy vì sao
mà khổ , phương pháp diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ.
Nói như thế có người hiểu lầm cho rằng đạo Phật chủ trương cuộc đời chỉ
toàn là khổ, và đạo Phật là đạo yếm thế. Thực ra, đạo Phật nhìn cuộc đời một
cách khách quan, không ru người ta vào một giấc mơ Niết Bàn hay cực lạc và
cũng không làm cho người ta sợ hãi, chán nản bởi những đau khổ trong cuộc
sống. Phật chỉ cho chúng ta nhận thức sự vật, cuộc đời theo chân tướng của
nó và chỉ dẫn cho chúng ta đi đến giải thoát.
11
Danh từ Dukkha của tiếng Xantít ta thường dịch là khổ là chưa thật hết
nghĩa nên mới dẫn đến những hiểu lầm trên.
Trong phép tướng duy thức có nói đến ba loại thụ: khổ thụ, lạc thụ, xả thụ.
Như vậy không phải chỉ có khổ thụ mà còn có lạc thụ. Đối với cảnh nghịch

sinh ra khổ thụ nhưng đối với cảnh thuận thì sinh ra lạc thú. Các cảnh có thể
làm cho người ta vui hoặc khổ hoặc không vui, không khổ. Đạo phật không
phủ nhận những cảm giác vui (lạc thú ) của cuộc đời mà còn phân tích ra
nhiều hình thức vui. Nhưng những cái vui ấy, cũng như những cái khổ ấy đều
bao gồm trong danh từ Dukkha, vì những cái vui, cũng như những cái khổ ấy
đều là vô thường hư giả.
Dù người tu hành chứng được những trạng thái thiền định cao siêu thì
những lạc thú siêu thoát ấy vẫn là Dukkha vì những người tu hành ấy chưa
thoát khỏi tam giới vô thường, hư giả.
Khổ thụ và lạc thụ đều là Dukkha cả, do đó chúng ta phải diệt là diệt cái
Dukkha ấy chứ không phải là tránh khổ, tìm vui như thế gian thường hiểu,
thường lầm.
Theo cách phân tích khác Phật chia cái khổ ra làm 8 loại:
1, Sinh khổ: Đã có sinh là có khổ vì đã sinh nhất định có diệt, bị luật vô
thường chi phối nên khổ.
2, Lão khổ: người ta mong muốn trẻ mãi nhưng cái già theo thời gian vẫn
cứ đến. Cái già vào mắt thì mắt bị mờ đi, cái già vào lỗ tai thì tai bị điếc, vào
da, xương tủy thì da nhăn nheo, xương tủy mệt mỏi. Cái già tiến đến đâu thì
suy yếu đến ấy làm cho người ta phiền não.
3, Bệnh Khổ: Trong cuộc sống, thân thể thường ốm đau, nhất là khi già
yếu, thân thể suy nhược, bệnh tật dễ hoành hành làm cho người ta đau khổ.
4, Tử khổ : Là cái khổ khi người ta chết. Chứng sinh do nghiệp báo chịu cái
thân nào thì gắn bó với cái thân ấy coi như cái thân duy nhất của mình thì khi
chết thì phiền não vô cùng.
12
5, Cầu bất đắc khổ: Người ta thường chạy theo những điều mình ưa thích,
mong cầu hết cái này đến cái khác. Khi chưa cầu được thì phiền não, khi cầu
được rồi thì phải lo giữ nó, nếu nó mất đi thì lại luyến tiếc.
6, Ái biệt ly khổ: nỗi khổ khi phải chia ly.
7, Oán tăng hội khổ: những điều mình chán ghét thì nó cứ tiến đến bên

mình.
8, Ngũ ấm xí thịnh khổ: ngũ ấm ấy là sắc ấm, thụ ấm, tưởng ấm, hành ấm,
thức ấm. Ngũ ấm ấy che lấp trí tuệ, phải chịu cái khổ luân hồi trong vô lượng
kiếp.
b. Tập đế:
Tập đế còn gọi là nhân đế, là những nguyên nhân tạo thành sự khổ. Những
nguyên nhân đó không phải tìm đâu xa mà ở ngay trong mỗi chúng ta.
Nguyên nhân thì có nhiều nhưng có thể tóm lại như sau:
1. Tham lam.
2. Giận dữ.
3. Si mê.
4. Kiêu mạn.
5. Nghi ngờ.
6. Thân kiến ( tưởng thân thể là thực có là trường tồn).
7. Biên kiến ( sự hiểu biết một mặt như chấp đoạn, chấp thưởng ).
8. Tà kiến ( sự hiểu biết không đúng ).
9. Kiến thử ( chấp trí hiểu biết của riêng mình là đúng).
10. Giới cấm tu ( tu hành không chính đạo ).
Ba nguyên nhân chính ( tham, sân, si) Phật còn gọi là tam độc, là nguồn
gốc của mọi sự khổ. Nguyên nhân của tam độc là do ái dục và vô minh được
thể hiện trong công thức sau:
Nghiệp
Ái dục + Vô minh ––––> Sự khổ.
13
Ái dục: là tham ái, yêu thích do cảm thụ đi đến suy đắm trước những cảnh
yêu thích, vừa lòng, chán ghét cảnh trái ý. Vì say đắm với những cảnh nên
rong ruổi theo cảnh, bám lấy cảnh hình thành nên tham vọng và ước muốn.
Vô minh: là mê lầm, không sáng suốt. Đối với những hiện tượng trụ không
nhận rõ chân tướng, thực tướng của nó là sự chuyển biến không ngừng, là vô
thường mà lại lầm tưởng các hiện tượng đó là thực có, là thường còn. Vô

minh che lấp ta không nhận thấy được chân tâm mà luôn luôn chạy theo vọng
tâm, làm ta thấy có thân, có cảnh, có ta, có người của ta và thấy quý thân ta,
không quan tâm đến người sống quanh ta.
Nghiệp là những hoạt động về thân thể, về lời nói ý nên Phật gọi là thân
nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Kết quả của hành động ấy gọi là nghiệp báo. Không phải hoạt động nào của
ta cũng gây nghiệp báo. Những việc như : đi, đứng, nhìn, ngồi, thì không
gây nghiệp báo.
Nghiệp có hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp ác.
Nghiệp thiện : là những việc có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho
mình.
Nghiệp ác: là những việc làm hại cho ngươi và đem lại quả báo xấu cho
mình.
Như vậy, Phật đặt số mệnh của con người trong chính tay họ. Tự con người
đã gây nên nỗi khổ cho mình. Do đó, Phật đưa ra lý thuyết thập nhị nhân
duyên để thấy được nguồn gốc của sự vật trong thế gian. 12 nhân duyên là sợi
dây liên tục nối tiếp con người trong vòng sinh tử luân hồi đó là:
1. Vô minh 5. Lục nhập 9. Thù
2. Hành 6. Xác 10. Hữu
3. Thức 7.Thụ 11.Sinh
4. Danh sắc. 8.Ái 12. Lão tử.
Tập đế là một chân lý thể hiện tính biểu chứng sâu sắc trong mối quan hệ
nhân quả và đã tìm tới các nguyên nhân rất đa dạng, phong phú. Các nguyên
14
nhân ấy quan hệ với nhau, cái nào cũng có thể làm nhân làm duyên cho cái
khác, như làn sóng trên mặt biển, lớp trước là lớp nhân là duyên cho lớp sau
và cứ thế tiếp diễn. Nhưng cái hạn chế của tập đế là chưa đề cập đến nguyên
nhân từ xã hội. Đặc biệt là chưa nhắc tới quan hệ giai cấp, bóc lột trong xã
hội. Luận điểm này thể hiện rõ từ trào hướng nội hướng nội trong nhận thức
luận Phật giáo.

c. Diệt đế:
Diệt đế là tích quả Niết bàn do thực hành tịnh nghiệp mà đạo đế mang lại.
Diệt đế là trừ diệt sự khổ để đi đến chỗ an lạc là chỗ kết nghiệp đã hết
không còn luân hồi sinh tử nữa.
Có tịnh nghiệp tất sinh tịnh quả. Ấy là khi diệt đế vọng niệm không còn
khởi lên, tâm hồn luôn an trụ trong cảnh vắng lặng là do cảnh giới Niết Bàn.
Niết Bàn có bốn đặc điểm: Thường - Lạc - Ngã - Tịnh.
Thường là thường còn, không biến đổi.
Lạc là an lạc, giải thoát hết phiền não, thâm tâm tự tại.
Ngã là chân ngã, chân thực, thường còn.
Tịnh là thanh tịnh, trong sạch không còn ô nhiễm.
Niết Bàn là sự chấm dứt mọi phiền não được thực hiện không phải ở một
nơi nào khác, một cõi nào khác mà thực hiện ngay trong cõi thế gian này, nhờ
sự tu hành nghiêm túc mang lại cho ta mọi trạng thái tinh thần đặc biệt: Trạng
thái an lạc, siêu thoát, tịnh diệt.
Phật dạy rằng: khi môn đệ làm cho lòng mình sạch hết tham lam, nóng giận
và si mê thì môn đệ đã đến được bến giác, tức là cảnh giới Niết Bàn. Do đó,
con người phải dày công tu dưỡng, xoá bỏ được lửa dục, lửa sân, lửa si mê để
chứng được cảnh giới Niết Bàn ngay trong cõi đời hiện tại.
d. Đạo đế:
Đạo đế là con đường, là môn pháp hướng dẫn cho chúng sinh đạt được đến
quả giải thoát, ra khỏi luân hồi sinh tử.
15
Pháp môn tu dưỡng ra khỏi luân hồi sinh tư rất nhiều, nhưng thường được
đề cao là phương pháp 37 đạo phẩm.
Phương pháp này gồm có:
1. Tứ niệm xứ: 4.
2. Tứ chính cần: 4.
3. Tứ như ý túc: 4.
4. Ngũ cân: 5.

5. Ngũ lực: 5.
6. Bát chính đạo: 8.
7. Thất giác : 7.
Trong 37 đạo phẩm, bát chính đạo là quan trọng nhất. Nó là con đường
giúp người ta thoát khỏi phiền não, đau khổ đi tới cảnh giới Niết Bàn tự tại,
an lạc. Bát chính đạo gồm có:
1. Chính ngữ : là tu nghiệp thanh tịnh, không phát ra lời nói sai trái.
2. Chính nghiệp: hành động chân chính, mang lại lợi ích cho mọi người.
3. Chính mệnh: sống bằng nghề nghiệp chân chính.
4. Chính tịnh tiến : tiến tới trên con đường đạo, không đi vào các đường tà.
5. Chính niệm: tâm trí luôn luôn nghĩ đến đạo lý vô ngã, diệt trừ những
kiến chấp mê lầm, đoạt trừ những tư tưởng, hành động bất chính.
6. Chính định : Giữ tâm vắng lặng không một vọng niệm khởi lên để trí
tuệ xuất hiện, chứng quả tu đà hoàn.
7. Chính kiến : kết quả của việc sống, tư duy con người phải có ý biến lấy
tiêu biểu là các vị Phật.
8. Chính tư duy: Sau khi có niệm khởi, con người sẽ tư duy, suy nghĩ một
cách chân chính, làm chủ được dòng tư duy.
Để đi qua tám con đường trên thì không ngoài ba nguyên tắc: giới, định,
tuệ hay còn gọi là tam học. Các nguyên tắc này có sự liên hệ mật thiết bổ
xung cho nhau.
16
1. Giới học: là cả một thiên luân lý thực hành của Đạo Phật, mục đích để
kiềm chế rồi đi đến diệt lục. Giới gồm những phương tiện để thay đổi lối suy
nghĩ, lối sinh hoạt hàng ngày của con người, hướng con người sống theo đạo,
thích hợp với đạo, tức là luôn hướng về thiện .
Phật chỉ định ra nhiều giới đạo cho người tu hành tại gia, tu xuất gia, cho
nam giới, nữ giới, cho người mới vào đạo và người tu lâu ngày. Người tu
hành phải giữ giới nghiêm túc thì mới định được. Nếu không giữ được tất con
người luôn bị vọng dộng, bị cảnh chuyển, không vào cảnh định được.

2. Định học là đình chỉ mọi tư tưởng xấu ý nghĩa xấu nguyên nhân phát
sinh những hành động xấu đi đến gây nghiệp báo xấu. Định còn là tập trung
tư tưởng, suy nghĩ làm những việc lành, từ đó nảy sinh một trạng thái an lạc,
tạo điều kiện cho tuệ phát ra.
3. Tuệ học : là trí tuệ sáng suốt của người tu hành đã diệt được dục vọng,
đã diệt được tam độc là tham, sân, si, đã thấu được lý vô thường, vô ngã do đó
chỉ nghĩ đến làm điều thiện, mưu lợi cho chúng sinh.
Với pháp tứ diệu đế Phật muốn cho chúng sinh thấy 2 cảnh giới khác nhau
là Niết Bàn và Thân Lụy: một con đường giác ngộ, an lạc và một con đường
mê lầm tội lỗi. Và cùng phương pháp tứ diệu đế, bây giờ chúng ta có thể trả
lời được các câu hỏi đã đặt ra ở trên.
2. Những quan điểm về nhân sinh quan Phật giáo.
a. Con người:
Con người là sự kết hợp của ngũ uẩn( sắc, thụ, tưởng, hành, thức) gồm hai
yếu tố chính: yếu tố sinh lý( sắc) và yếu tố tinh thần ( thụ, tưởng, hành, thức).
Yếu tố tinh thần chỉ phát huy tác dụng khi nó được gắn với một thân thể.
Sắc thân chỉ tồn tại trong một thời gian rồi bị huỷ diệt.
Như vậy, con người chỉ là một giả hợp sinh lý tuân theo quy luật: sinh, tục,
dị, diệt.Con người là do nhân duyên hoà hợp, không có một đấng tối thượng
siêu nhiên tạo ra con người cũng như con người không phải tự nhiên mà sinh
ra. Khi nhân duyên hoà hợp thì con người sinh, khi nhân duyên tan rã thì con
17
người chết. Song chết chưa phải là hết, linh hồn cũng không bất tử chuyển từ
kiếp này sang kiếp khác. Con người ở kiếp này sinh ra thì con người ở kiếp
trước diệt, nhưng con người ở kiếp sau không phải là con người ở kiếp trước
nhưng cũng không khác với con người ở kiếp trước. Con người không phải là
một thực thể trường tồn mà chỉ là một giả hợp của ngũ uẩn. Trong thời gian
ngũ uẩn kết hợp, các việc thiện, ác được thực hiện. Con người gây nghiệp và
tạo ra một động lực làm xuất hiện nghiệp báo ở kiếp sau.
Từ nhận thức trên, con người tu Phật lúc nào cũng phải cẩn thận trong một

ý nghĩ, lời nói việc làm.
b. Nhân vị trong đạo Phật.
Đạo Phật là đạo chủ trương tự do, bình đẳng, từ bi, bác ái. Ở một thời đại
cổ xưa cách chúng ta trên 25 thế kỷ Phật đã có một quan niệm hết sức tiến bộ
đối với vấn đề bình đẳng trong xã hội. Phật đã từng nói:
“ Không có đẳng cấp trong dòng máu đỏ như nhau, trong dòng nước mắt
cũng mặn như nhau. Mỗi người sinh ra không phải ai cũng mang sẵn dây
chuyền ở cổ hay dấu tica trên trán ( dấu hiệu đẳng cấp của Ấn Độ ) ”.
Và những quan niệm đó được Phật thực hiện ngay trong giáo hội của mình.
Phật thu nạp vào giáo hội của Người tất cả mọi đẳng cấp, không phân biệt
sang hèn, giàu nghèo. Những người ở tầng lớp dưới sau khi tu đắc đạo đã
được các đệ tử khác tôn trọng, cho đến các vua quan khi đến thăm hỏi cũng
phải tỏ lòng kính mến.
Không dừng lại ở sự bình đẳng giữa con người với con người mà Phật còn
đi xa hơn, nêu lên sự bình đẳng giữa các chúng sinh đều có Phật tính như
nhau và đang cùng nhau: người trước, vật sau, tiến bước trên con đường giải
thoát.
Tự do theo quan niệm của Phật là con người sống trong an lạc, giải thoát,
không có áp bức, nô lệ, cũng không bị chi phối bởi ngũ dục. Con người bị
ràng buộc bởi ngoại cảnh và một phần bởi nội tâm. Những sự áp bức, những
day dứt gây ra bởi dục vọng còn khắc nghiệt bằng vạn ngoại cảnh. Nhà lao,
18
cường quyền, tham nhũng, tàn ác còn chưa khắc nghiệt bằng cái ta ích kỷ. Từ
đó, Phật chú trọng đến giải phóng con người ra khỏi xiềng xích của dục vọng
bằng phương pháp tu hành diệt dục. Để sống tự do phật tử phải đấu tranh với
bản thân mình để diệt trừ dục vọng và đấu tranh để chống mọi sự áp bức bất
công.
Người ta gọi đạo phật là đạo từ bi, người tu hành là người giàu lòng từ bi.
Từ là hiền hoà, cho vui.
Bi là thương xót, cứu khổ.

Từ bi là đen lại an lạc, hạnh phúc cho người khác, cứu khổ, cứu nạn cho
chúng sinh, quên đi mọi ích lợi của bản thân mình. Nhưng từ bi không phải là
thủ tiêu mọi sự đấu tranh, giữ thái độ tiêu cực, thụ động trước mọi sự bất
công, áp bức, tham nhũng. Có sức mạnh hung bạo thì phải có sức mạnh của từ
bi để chống lại. Sức mạnh đó thể hiện bằng sự giáo hoá và bằng cả bạo lực,
bạo lực từ bi.
Hai chữ từ bi càng đẹp biết bao nhiêu đối với những con người thực tâm tu
luyện thì càng xấu xa bao nhiêu đối với những kẻ lợi dụng đạo để mưu cầu lợi
ích cho mình. Vấn đề giải thoát là vấn đề cơ bản trong đạo Phật vì mục đích
cuối cùng của đạo Phật là giải thoát con người khỏi cuộc sống đau khổ trong
vô minh.
Sự giải thoát không chỉ nhằm đấu tranh chống những áp bức về xã hội về
kinh tế như lịch sử Phật giáo đã chứng minh mà sự giải thoát nhằm tiêu diệt
tận gốc mọi đau khổ là tham lam và dục vọng. Việc giải phóng này là con
người phải tự lực đảm nhiệm, không ai có thể làm thay được và mỗi người
phải coi sự giải thoát là cứu cánh cuối cùng của cuộc đời.
Như vậy, Đạo Phật đã đặt con người lên một vị trí hết sức quan trọng và
cao quý. Hạnh phúc của con người là do con người xây đắp nên. Con người
thấm nhuần giáo lý Phật, con người vị tha, từ bi, hỉ, xả sẽ kiến lập một xã hội
hoà bình, an lạc, công bằng, mọi người sống vì lợi ích của nhau, của tập thể.
19
Trái lại, con người ích kỷ chỉ biết mình, hại người, con người sống tàn bạo,
độc ác thì cái gì trong tay con người cũng sẽ trở thành khí cụ sát hại và xã hội
của những con người ấy là xã hội của địa ngục, xã hội áp bức bóc lột.
20
CHƯƠNG III
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG CON
NGƯỜI VIỆT NAM.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ I sau công nguyên kết hợp với
phong tục, tập quán truyền thống dân tộc Việt Nam hình thành nên Phật giáo

Việt Nam. Trải qua một khoảng thời gian dài, Phật giáo ở Việt Nam không
ngừng phát triển, lớn mạnh và đã tạo nên một dấu ấn sâu đậm trong việc hình
thành đạo đức, nhân cách con người Việt Nam, nền văn hoá Việt Nam.
Những ảnh hưởng tích cực của Phật giáo vẫn đang được con người Việt Nam
phát huy để phục vụ cuộc sống. Song bên cạnh đó, Phật giáo cũng có những
ảnh hưởng tiêu cực. Trong chương này chúng ta sẽ đi sâu phân tích các vấn đề
trên.
I. ĐẠO PHẬT VỚI VIỆC HÌNH THÀNH NHÂN CÁCH CON NGƯỜI VIỆT
NAM.
Phật giáo là một tôn giáo, như các tôn giáo khác, Phật giáo cũng gồm có
giáo lý và hoạt động tín ngưỡng. Giáo lý là một hệ thống các quan điểm về
thế giới và con người, về cách thức tu luyện và hoạt động tín ngưỡng, là
những hành vi, những nghi lễ cần phải thực hiện để đạt tới ước nguyện. Cả
hai đều có ý nghĩa đối với việc hình thành nhân cách của các tín đồ.
Hơn lúc nào hết, trong mấy chục năm qua người Phật từ Việt Nam hiện nay
rất chăm lo đến việc thực hiện các nghi lễ của đạo mình. Họ chăm chú lên
chùa trong những ngày sóc, vọng; họ trân trọng và thành kính trong lúc thực
hành các nghi lễ; họ siêng năng trong việc thiền định, giữ giới, làm thiện. Mặt
khác, nhà chùa luôn sẵn sàng thực hiện các yêu cầu của họ như giải oan, cầu
siêu. Tất cả những điều đó vừa củng cố niềm tin vào giáo lý, vừa quy định tư
duy và hành động của họ, tạo cơ sở để hình thành những nhân cách riêng biệt.
21
Con người Phật giáo nhìn sự vật trong mối quan hệ nhân quả, xem cái gì
cũng là kết quả của một cái trước và là nguyên nhân của cái sau. Mỗi khi gặp
một sự việc hệ trọng có liên quan đến bản thân hay người nhà, họ đều nghĩ
đến nguyên nhân để tìm cách khắc phục. Học còn nhìn thế giới, xã hội con
người ở trong dòng vận động không ngừng, ở đó không có cái gì là tồn tại
mãi, cái gì cũng đang chuyển biến từ cái này sang cái khác. Khi người thân
trong gia đình lão già, yếu đau, chết chóc, họ đều xem đó là điều không thể
tránh khỏi và lấy đấy làm điều an ủi. Lý thuyết nhân duyên sinh, vô thường,

vô ngã của nhà Phật đã chi phối ý nghĩ và hành động của họ.
Nhân cách Phật giáo đã góp phần làm nên nhân cách của con người Việt
Nam ngày nay. Nhân cách đó có tác dụng hai mặt. Mặt tích cực là chấp nhận
sự biến đổi của thế giới và con người, sống có nền nếp, trong sạch, giản dị,
quan tâm đến nỗi khổ của người khác, thương người, vị tha, cứu giúp người
hoạn nạn, hành động thì lấy tự giác làm đầu Mặt tiêu cực là nhìn đời một
cách bi quan, có pha trộn chất hư vô chủ nghĩa, nặng về tin tưởng ở quyền
năng và phép màu nhiệm của một vị siêu nhiên mà nhẹ về tin tưởng năng lực
hoạt động của con người, nếp sống thì khổ hạnh và không tránh khỏi nương
theo những nghi lễ thần bí. Đặc biệt là có hiện tượng mê tín dị đoan như: Lên
đồng, đốt vàng mã, những đồ dùng bằng giấy. Những tư tưởng mê lầm đó vừa
phung phí tiền bạc, thời gian lại làm xuất hiện trong xã hội những loại người
chỉ dựa vào những nghề nghiệp ấy mà kiếm sống gây ra một sự bất công
trong xã hội.
Tuy nhiên, nhân cách con người Phật giáo có những điều phù hợp với xã
hội hiện nay. Nhưng những điều đó chỉ giới hạn trong những trường hợp nhất
định và chúng ta phải phát huy những mặt đó. Vượt qua những giới hạn đó,
nó sẽ có những mâu thuẫn với giáo lý và trở nên lạc lõng, mất hiệu quả. Vậy
con người am hiểu đạo lý, mến đạo, mộ đạo không phải chỉ là con người tu
hành một cách cần mẫn mà phải có cả phần trí tuệ để biết vận dụng giáo lý
22
vào cuộc sống một cách hữu ích. Hiểu được và làm được như thế, con người
sẽ thấy đạo đức Phật đẹp đẽ và cao thượng biết bao.
II. ĐẠO PHẬT ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT TRIỂN NỀN VĂN HOÁ VIỆT NAM.
Nhìn vào đời sống văn hoá, tinh thần của xã hội Việt Nam trong những
năm qua, ta thấy hiện tượng Phật giáo đang được phục hồi và phát triển. Bên
cạnh sự phát triển ngày một lớn mạnh của kiến trúc hiện đại, Việt Nam vẫn
phục hồi kiến trúc cổ xưa qua việc tu sửa lại những đền chùa, miếu mạo,
những danh lam thắng cảnh. Đó là những nơi mà dấu ấn của đạo phật thể hiện
rõ nhất.

Ở thời nhà Lý, nghệ thuật kiến trúc đã đạt tới đỉnh cao với những công
trình mang tính quy mô to lớn, vượt hẳn thời trước và cả những thời sau đó.
Như nền chùa Quế Giạm ( Quế Võ- Hà Bắc) trải rộng trên một diện tích với
những vết tích còn lại gồm ba cấp trải rộng trên một diện tích gần 120 mét,
rộng 70 mét. Các ngôi tháp đời lý gồm nhiều tầng, cao chót vót: Tháp Bảo -
thiên cao vài mươi trượng ( khoảng trên 60 mét) gồm 12 tầng, tháp Sùng-
thiện-diên- linh ( chùa Đọi, Duy Tiên, Nam Hà) cao 13 tầng, tượng Phật Di-
lặc chùa Quỳnh Lâm( Đông Chiều, Quảng Ninh) cao 6 trượng, khoảng 20 m.
Chùa Một Cột là một sách tạo về nghệ thuật, tượng trưng cho 1 toà sen nở
trên mặt nước. Những kiến trúc đó thường hoà hợp với cảnh trí thiên nhiên
chung quanh tạo nên một khung cảnh kiến trúc hài hoà với ngoại cảnh.
Nghệ thuật kiến trúc của đời Lý lại được đời Trần kế tục truyền thống và
phát triển mang tính chất phóng khoáng, khoẻ và hiện thực hơn. Tháp Phổ
Minh, Bình Sơn là những công trình kiến trúc có giá trị ở đời Trần, Tháp
Bình Sơn cao 11 tầng, có bố cục chặt chẽ cân xứng.
Sang đời nhà Nguyễn nghệ thuật kiến trúc có chiều hướng ngày càng sa
sút, tuy nhiên cũng có những sáng tạo nhất định như Văn Miếu ( Hà Nội) và
một số đình, chùa ở các làng. Đỉnh cao của kiến trúc nhà Nguyễn là chùa Tây
Phương( Thạch Thất, Hà Tây) xây dựng thành ba lớp là lối kiến trúc phổ biến
của các chùa trong nam. Chùa Tây Phương cũng là nơi tập trung nhiều pho
23
tượng có giá trị, trong đó nổi tiếng nhất là chùa Tuyết Sơn và mười tám vị La
Hán. Các bức tượng lấy đề tài trong sự tích đạo Phật nhưng vẫn thế hiện
những con người Việt Nam Hiện thực và gợi cảm.
Ngày nay, những nghệ thuật, kiến trúc đó vẫn còn tồn tại và được trùng tu,
sửa sang để làm nơi du lịch của khách thập phương và nơi lễ bái của nhân dân
trong vùng. Những công trình đó tuy mang đậm dấu ấn Phật giáo nhưng vẫn
là sáng tạo nghệ thuật dân gian phản ánh đời sống tinh thần của con người
Việt Nam xưa.
III. ĐẠO PHẬT VỚI CHIẾN TRANH VÀ HOÀ BÌNH Ở VIỆT NAM.

– Đạo Phật chủ trương từ, bi, hỷ, xả. Xã hội loài người thực hiện được
bốn chữ từ, bi, hỷ, xả trong cuộc sống hàng ngày là một xã hội an lạc,
hạnh phúc.
– Đạo Phật chủ trương một cuộc sống vị tha, một cuộc sống hoà hợp, loại
trừ mọi oán thù. Lịch sử Phật giáo chứng minh, trong suốt 2500 năm truyền
bá trong khắp cõi Á Đông. Đạo Phật không làm rơ một giọt máu nào.
– Trong giáo lý Phật, ở phần giới luật, giới thứ nhất là giới sát: với giới
luật này, chúng ta càng thấy rõ đạo Phật chủ trương ôn hoà, hoà bình và hoà
hợp giữa các dân tộc, không muốn cho chúng sinh nói chung, loài người nói
riêng tàn sát lẫn nhau. Nhưng ở đây chúng ta phải hiểu giới sát với đúng tinh
thần trong giáo Phật.
Giới sát có nghĩa là giới bất tàn sát.
Tàn sát có nghĩa là giết hại chúng sinh một cách hung ác, tàn bạo. Giáo lý
Phật căn cứ vào tâm ý để phân biệt thiện ác mà không căn cứ vào hành động.
Nói thế có nghĩa là một hành động chỉ được coi là thiện, ác khi căn cứ vào
hành động ấy mà mưu đồ làm hại cho người khác hay cứu giúp người khác.
Trong kinh có câu: “ Nhất niệm khởi, thiện ác dĩ nhân. Muốn cho tâm niệm
mỗi khi khởi lên là một tâm niệm thiện thì Phật dạy đệ tử luôn phải giữ tâm
trong chính niệm “.
24
Như vậy, chúng ta phải hiểu giới sát đúng với thần trong giáo lý Phật và áp
dụng cho đúng. Nếu ta giết người với mục đích để diệt trừ quân xâm lăng
hung ác để bảo vệ dân nước thì việc làm đó là việc thiện vì hành động của ta
xuất phát từ một ý niệm thiện. Chiến tranh giải phóng dân tộc của các nước
chống xâm lược để mang lại hoà bình, hạnh phúc cho nhân dân, mang lại độc
lập, tự do cho dân tộc là một cuộc phóng sinh vĩ đại, là một việc thiện, một
việc chính nghĩa.
Trái lại, nếu chúng ta giết người để thỏa lòng tham ác, để mưu lợi ích kỷ
cho bản thân ta thì việc chém giết ấy là một việc ác, hành động ấy xuất phát
từ một ý niệm ác.

Chiến tranh xâm lược do đế quốc tiến hành chống các nước yếu hơn, phá
hoại độc lập, hoà bình, an ninh của các dân tộc, hủy diệt môi trường sống là
một tội ác. Vấn đề căn cứ vào tâm, niệm để phân biệt thiện, ác là rất quan
trọng. Lịch sử Việt Nam đã chứng minh những điều nói trên bằng các gương
người thực việc thực.
Dưới triều Lý và Trần, giặc Nguyên kéo đại quân gồm 30 vạn rồi 50 vạn
quân sang xâm lược nước ta tiến hành một cuộc chiến tranh đại dã man. Để
chống quân xâm lược, Lý Thái Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông,
những ông vua rất sùng đạo, yêu nước này lại trở về sống tu hành ăn chay
niệm Phật.
Trong những năm gần đây, dân tộc Việt Nam đã liên tiếp tiến hành hai
cuộc chiến tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Thấm nhuần giáo lý
Phật nói chung và luật giới sát nói riêng, Phật tử xuất gia ở 2 miền Nam - Bắc
đã tham gia trực tiếp chiến đấu hoặc phục vụ chiến đấu chống giặc một cách
anh dũng. Các đệ tử Phật đã nhận thức được đâu là chiến tranh xâm lược, đâu
là chiến tranh vệ quốc và đã kiên quyết đứng về phía nhân dân. Đó chính là
một việc thiện, một cuộc phóng sinh vĩ đại.
IV. ĐẠO PHẬT VỚI VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ.
25

×